You are on page 1of 12

BỘ TƯ PHÁP

HỌC VIỆN TƯ PHÁP


KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
---o0o---

BẢN THU HOẠCH DIỄN ÁN

HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS SỐ 07
VỤ ÁN TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN
Diễn án lần: 01
Ngày diễn: 16/02/2022

Họ và tên : NGUYỄN KIỀU TRANG


Ngày sinh : 30/03/1999
Số báo danh : 236
Lớp Luật sư : 23.2B
Diễn án : Vai Hội thẩm nhân dân 1

Hà Nội, ngày 16 tháng 02 năm 2022


HỒ SƠ TÌNH HUỐNG 07
VỤ ÁN TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN

Bài thu hoạch được viết trên quan điểm là Luật sư tham gia bảo vệ cho phía
Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Hảo trong vụ án “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài
sản”.

I. NỘI DUNG VỤ ÁN
1.1. Tư cách đương sự
1.1.1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hảo, sinh năm 1978
Địa chỉ: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
1.1.2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nguyệt, sinh năm 1976
Địa chỉ: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương.
1.1.3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
(i) Bà Nguyễn Thị Thoa (Sinh năm 1944) và ông Nguyễn Văn Cang (Sinh năm
1933) là bố mẹ ruột của anh Nguyễn Văn Nguyệt, cùng trú tại: Khu dân cư số
02, thôn Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
(ii) Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương, địa chỉ tại số 106 Trần Hưng Đạo, TP
Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Tiến
Phụng - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương.
1.1.4. Người làm chứng:
(i) Ông Nguyễn Văn Bích - Cán bộ Địa chính xã Thượng Đạt;
(ii) Ông Đỗ Văn Tư - Cán bộ Tư pháp xã Thượng Đạt;
(iii) Ông Nguyễn Văn Quyết – Anh trai Bị đơn.
1.2. Tóm tắt nội dung vụ án
Chị Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn ngày
26/3/1999 tại UBND xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương theo Giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn vào sổ đăng ký số 09 ngày 26/03/1999. Anh chị có hai
con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 04/01/2000 và cháu Nguyễn Đức Anh
sinh ngày 13/6/2007.
Từ năm 1999, anh Nguyệt và chị Hảo sinh sống trên thửa đất số 496, tờ bản đồ
số 01, diện tích 216m2, địa chỉ tại xã Thương Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
đã được UBND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 31/12/2005, đứng tên ông Nguyễn Văn Nguyệt, bà Nguyễn Thị Hảo (Sau
đây gọi tắt là “thửa đất số 496”). Trong quá trình chung sống, hai người phát sinh mâu

1
thuẫn và ly thân từ cuối năm 2014 đến nay. Hiện nay, cháu Nhi đang ở với chị Hảo,
cháu Đức Anh ở với anh Nguyệt. Ngày 02/01/2016, chị Hảo gửi đơn khởi kiện tới
TAND thành phố Hải Dương với nội dung sau:
- Yêu cầu ly hôn với anh Nguyệt;
- Yêu cầu được nuôi 02 con chung là cháu Nhi và cháu Đức Anh, không đề nghị
cấp dưỡng;
- Yêu cầu chia đôi tài sản chung là thửa đất số 496 và không yêu cầu chia tài sản
trên đất.
Anh Nguyệt đồng ý với yêu cầu ly hôn nhưng không đồng ý đối với yêu cầu về
quyền nuôi con và chia tài sản chung của chị Hảo. Về quyền nuôi con, anh Nguyệt đề
nghị được nuôi cháu Đức Anh, chị Hảo nuôi cháu Nhi. Về vấn đề chia tài sản chung,
anh Nguyệt cho rằng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496 không phải là tài sản
chung của vợ chồng do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị UBND cấp sai. Thực tế
nguồn gốc đất thuộc sở hữu của bố mẹ anh – bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn
Cang, do hai ông bà và anh em của anh Nguyệt đã đóng góp tiền mua của UBND xã
Thượng Đạt năm 1994. Vì vậy anh đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo để cấp lại cho bố mẹ mình và yêu cầu chia tài
sản chung là tài sản trên đất, mỗi bên được hưởng một nửa.
1.3. Các vấn đề tố tụng
1.3.1. Quan hệ tranh chấp:
Quan hệ tranh chấp của vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn (Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
(Sau đây gọi tắt là “BLTTDS 2015”).
1.3.2. Điều kiện khởi kiện vụ án:
(i) Chủ thể: Chị Nguyễn Thị Hảo đáp ứng đầy đủ các điều kiện về quyền khởi
kiện theo quy định của pháp luật.
(ii) Thẩm quyền giải quyết:
- Thẩm quyền Tòa án theo vụ việc: Vụ án thuộc thẩm quyền xử lý của Tòa án
theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS 2015 vì quan hệ pháp luật tranh
chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;
- Thẩm quyền theo cấp Tòa án: Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS 2015;
- Thẩm quyền Tòa án theo lãnh thổ: Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1
Điều 39 BLTTDS 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì Tòa án nơi
2
bị đơn cư trú là Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án trên. Tại thời điểm
Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện, Bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt đang cư trú
tại thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Như vậy, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án trên là Tòa án nhân dân
thành phố Hải Dương.
(iii) Về thời hiệu khởi kiện: Căn cứ theo quy định tại Chương IV về Chấm dứt
hôn nhân của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và BLTTDS 2015 không quy
định về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản.
Như vậy, vụ án này không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
II. KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
3.1. Hỏi Nguyên đơn – Chị Nguyễn Thị Hảo
3.1.1. Về yêu cầu ly hôn
(i) Anh chị xảy ra mâu thuẫn tại thời điểm nào?
(ii) Anh chị có thường xuyên phát sinh mâu thuẫn không, nguyên nhân xảy ra mâu
thuẫn?
(iii) Trong những lần phát sinh mâu thuẫn, anh Nguyệt có hành vi như thế nào? Tại
sao khi cãi nhau, chị phải bỏ về nhà mẹ đẻ?
(iv) Việc Nguyệt thường xuyên đi chơi, đánh đập, chửi mắng vợ con có ai biết
không? Có để lại hậu quả gì nghiêm trọng không?
3.1.2. Về yêu cầu nuôi con chung
(i) Anh chị ly thân từ thời điểm nào? Sau khi ly thân, anh Nguyệt có thường xuyên
quan tâm hỏi han, đến thăm cháu Nhi hay không?
(ii) Chị cho biết chị đang làm nghề gì? Thu nhập hàng tháng của chị bao nhiêu?
(iii) Thời gian làm việc của chị như thế nào?
(iv) Ngoài thu nhập từ công việc trên, chi có thu nhập khác không?
(v) Với mức thu nhập trên, chị có thể nuôi được cả hai con mà không cần trợ cấp
của anh Nguyệt không?
(vi) Trong những khoảng thời gian chị đi làm việc, có ai chăm sóc cháu không?
(vii) Trong quá trình hai người sống chung, anh Nguyệt đối xử như thế nào với hai
con? Anh Nguyệt có quan tâm, hỗ trợ các con trong việc học không?
(viii) Chị và cháu Nhi có thường xuyên tới thăm cháu Đức Anh hay không?
(ix) Anh Nguyệt có phản ứng hay có hành vi cản trở khi chị tới thăm cháu Đức Anh
không? Hành vi của anh Nguyệt có ai chứng kiến không?
3.1.3. Về yêu cầu chia tài sản
(i) Vợ chồng anh chị xây dựng nhà trên thửa đất số 496 từ năm bao nhiêu?
3
(ii) Từ thời điểm sinh sống đến nay, đất và nhà có tranh chấp với ai không?
(iii) Khi biết GCNQSDĐ đối với thửa đất số 496 mang tên mình và anh Nguyệt, chị
có thông báo cho gia đình anh Nguyệt biết không? Vì sao chị không thông báo?
(iv) Người nhà anh Nguyệt biết GCN được cấp từ bao giờ? Họ có ý kiến hay phải
đối không?
3.2. Hỏi Bị đơn – Anh Nguyễn Văn Nguyệt
3.2.1. Về yêu cầu ly hôn
(i) Mâu thuẫn của anh chị phát sinh từ thời điểm nào? Nguyên nhân xảy ra mâu
thuẫn là gì?
(ii) Anh có hay đi chơi và uống rượu với bạn bè hay không?
(iii) Trong những lần phát sinh mâu thuẫn, hai anh chị có xảy ra xô xát không?
(iv) Anh nói rằng chị Hảo hay ghen tuông, còn cho người nhà đập phá nhà cửa, thuê
người hành hung anh, vậy anh có bằng chứng gì chứng minh cho việc này
không?
(v) Theo lời của mẹ anh là bà Thoa, trong quá trình chung sống, mỗi khi có mẫu
thuẫn, anh đuổi chị Hảo ra khỏi nhà có đúng không?
(vi) Trong thời gian sinh sống chung với anh, chị Hảo có chu toàn, chịu khó làm ăn,
chăm sóc các con, vun vén cho gia đình không?
3.2.2. Về yêu cầu nuôi con chung
(i) Hiện nay anh đang làm công việc gì? Mức thu nhập bình quân mỗi tháng của
anh là bao nhiêu? Công việc này có ổn định không?
(ii) Thời gian làm việc của anh như thế nào?
(iii) Anh có thường xuyên tới thăm, hỏi hạn cháu Nhi sau khi cháu về sống với mẹ không?
(iv) Anh có thường xuyên theo sát và giúp đỡ cháu Đức Anh trong việc học hay
không?
(v) Thời gian cháu Đức Anh ở với anh, chị Hảo và cháu Nhi có thường xuyên tới
thăm cháu Đức Anh hay không?
(vi) Tại sao trong các biên bản lấy lời khai, anh lại nói rằng chị Hảo không cho cháu
Nhi đi học? Anh có chứng cứ chứng minh việc này không?
(vii) Cán bộ tư pháp xã có trình bày trong biên bản lấy lời khai rằng anh có hành vi
ngăn cản, không cho chị Hảo gặp cháu Đức Anh và đánh đập cháu mỗi lần cháu
gặp mẹ, anh nghĩ sao về việc này?
3.2.3. Về yêu cầu chia tài sản chung
(i) Anh hãy trình bày về nguồn gốc của thửa đất số 496.
(ii) Tại cuộc họp gia đình trước khi anh và chị Hảo xây nhà có những ai tham gia?
4
Trong đó có vợ anh không?
(iii) Tại cuộc họp gia đình, quyết định của gia đình đối với thửa đất số 496 là gì?
(iv) Có văn bản, tài liệu gì để thể hiện quyết định của những người sở hữu thửa đất
số 496 tại cuộc họp gia đình đó không?
(v) Anh có làm đơn yêu cầu UBND xã Thượng Đạt cấp GCNQSDĐ cho anh và chị
Hảo không?
(vi) Vì sao anh không làm đơn yêu cầu, đến khi anh lên nhận GCNQSDĐ, anh lại
vẫn ký nhận mà không hề có ý kiến gì với cán bộ, cũng như không yêu cầu huỷ
GCNQSDĐ tại thời điểm đó?
(vii) Việc vợ chồng anh được cấp GCNQSDĐ, bố mẹ và các anh em gia đình anh có
biết hay không? Biết từ thời điểm nào?
(viii) Vì sao anh không thông báo cho gia đình biết việc anh được cấp GCNQSDĐ?
(ix) Anh thế chấp quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496 mấy lần? Khi anh quyết
định thế chấp quyền sử dụng đất đó, anh có thông báo cho gia đình mình biết
không?
(x) Vì sao anh lại không thông báo cho gia đình biết khi anh thế chấp quyền sử dụng
đất?
3.3. Hỏi Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Bà Nguyễn Thị Thoa
(i) Thừa đất số 496 do ai mua, số tiền để mua thửa đất đó được góp từ những nguồn
nào?
(ii) Tại cuộc họp gia đình, quyết định của gia đình đối với thửa đất số 496 là gì?
(iii) Có văn bản, tài liệu gì để thể hiện quyết định của những người sở hữu thửa đất
số 496 tại cuộc họp gia đình đó không?
(iv) Khi anh Nguyệt chị Hảo được cấp GCNQSDĐ năm 2005, anh Nguyệt có cho
bà biết không?
(v) Đến khi nào thì bà biết việc anh Nguyệt chị Hảo được cấp GCNQSDĐ?
(vi) Khi biết việc anh Nguyệt chị Hảo được cấp GCNQSDĐ, bà có phản đối gì
không? Vì sao bà không phản đối?
3.4. Hỏi Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – Ông Vũ Tiến Phụng (Người
đại diện theo pháp luật của UBND thành phố Hải Dương)
(i) Giai đoạn 1991 - 1996, UBND xã Thượng Đạt bán đất trong đó có hộ gia đình
bà Thoa hay không?
(ii) Đại diện UBND hãy cho biết quy trình cấp GCNQSDĐ cho 30 hộ gia đình tại
xã Thượng Đạt năm 2005. Quy trình đó thực hiện có đúng hay không?

5
(iii) Năm 2001, trong số các hộ đề nghị cấp GCNQSDĐ có đơn đề nghị của anh
Nguyệt không?
3.5. Hỏi Người làm chứng – Ông Nguyễn Văn Bích (Cán bộ Địa chính xã Thượng
Đạt)
(i) Sau khi vợ chồng chị Hảo được cấp GCNQSDĐ, UBND xã có nhận được bất
kỳ thư khiếu nại nào từ việc cấp không?
(ii) Trong suốt quá trình sinh sống trên thửa đất, vợ chồng chị Hảo có tranh chấp gì
không? Có biến động gì về đất không?

III. BÀI LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO
NGUYÊN ĐƠN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hải Dương, ngày 08 tháng 8 năm 2017

Kính thưa Hội đồng xét xử!


Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, gặp gỡ, lắng nghe ý kiến đại diện các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan và qua cuộc thẩm vấn công khai tại phiên tòa ngày hôm
nay, tôi xin đưa ra quan điểm và kiến nghị đối với vụ án này như sau:
1. Về yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn:
Chị Hảo và anh Nguyệt kết hôn trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp tại UBND xã
Thượng Đạt theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/03/1999. Sau một thời gian chung
sống hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Anh Nguyệt ít quan tâm đến vợ con, đi chơi
về thường xuyên có hành vi chửi bới, đánh đập chị Hảo và các con. Hai vợ chồng anh
chị đã không còn sống chung từ tháng 12 năm 2014 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ
chồng không còn, quan hệ hôn nhân lâm vào tình cảnh trầm trọng, mục đích hôn nhân
không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Đồng thời, tại biên bản hòa giải
lần cuối cùng ngày 12/7/2016 (Bút lục 175) cũng như việc xét hỏi tại phiên tòa hôm
nay, anh Nguyệt đều đồng ý ly hôn với chị Hảo.

6
Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình 2014, đề nghị Tòa
án chấp nhận yêu cầu ly hôn của thân chủ tôi.
2. Về yêu cầu nuôi 2 con của nguyên đơn:
Chị Hảo và anh Nguyệt có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày
04/1/2000 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/6/2007.
Do cháu Nhi đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, để
cháu tự quyết định về việc sinh sống với ai.
Đối với cháu Đức Anh, thân chủ tôi có đầy đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi
dưỡng cháu như sau:
- Điều kiện về kinh tế: Hiện tại chị Hảo là công nhân tại Công ty Trấn An, đường
Ngô Quyền, Thành phố Hải Dương. Công việc ổn định với mức thu nhập bình quân là
5- 6 triệu đồng/tháng. Chị còn làm thêm bên ngoài, kiếm thêm thu nhập, cụ thể là bán
hàng online. Ngoài ra, mẹ của chị Hảo cũng hỗ trợ cho chị về tài chính khi cần thiết.
Ngược lại, Anh Nguyệt chỉ là lao động tự do, không có công việc ổn định như chị
Hảo. Vì vậy tôi khẳng định, chị Hảo có đủ điều kiện để nuôi dưỡng và chăm sóc cháu
Đức Anh, không cần cấp dưỡng của anh Nguyệt.
- Điều kiện về nơi ở: Chị Hảo đang sống tại nhà mẹ đẻ. Đây là nơi ở ổn định và
lâu dài. Vì lý do đó mà chị Hảo chỉ yêu cầu Tòa án chia phần quyền sử dụng đất 496
mà không yêu cầu chia tài sản trên đất. Mẹ chị Hảo thường xuyên giúp đỡ chị chăm
sóc và quan tâm các cháu, hỗ trợ chị Hảo khi chị không có nhà. Về phía anh Nguyệt,
anh đang ở một mình nên trong thời gian không có ở nhà, không có ai quản lý, chăm
sóc cháu.
- Về mặt tình cảm: Chị luôn quan tâm, trao đổi với các con, hỗ trợ cháu trong
việc học tập trên lớp nên các cháu vô cùng yêu quý chị Hảo. Ngay cả khi không còn
sống chung với nhau, chị vẫn thường xuyên đến thăm con dù bị anh Nguyệt cản trở.
Đồng thời, chị Hảo cũng là người tần tảo, chu toàn biết chăm lo cho gia đình, điều này
đã được gia đình nhà anh Nguyệt công nhận tại các biên bản lấy lời khai của anh
Quyết ngày 21/3/2016 (Bút lục số 82) và anh Chuyển (Bút lục số 86).
Trái lại, anh Nguyệt thường xuyên đi uống rượu say, dùng vũ lực và có lời lẽ
xúc phạm vợ con. Khi còn sống chung, mỗi lần mâu thuẫn, anh Nguyệt đều đuổi chị
Hảo ra khỏi nhà, điều này đã được bà Thoa xác nhận tại Biên bản lấy lời khai ngày
6/5/2016 (Bút lục số 92). Khi không còn sống chung anh Nguyệt cũng ít khi tới thăm
cháu Nhi, cấm cháu Đức Anh gặp mẹ. Điều này chính quyền và hàng xóm láng giềng
đều biết. Cụ thể, ông Đỗ Văn Tứ, cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt cũng đã xác nhận

7
trong biên bản lấy lời khai ngày 9/3/2016 (Bút lục số 73). Việc sống cùng với anh
Nguyệt sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển lâu dài của cháu Đức Anh.
- Về nguyện vọng của các con: Cháu Nhi và cháu Đức Anh đều đã có đơn đề
nghị được sống với mẹ. Ngoài ra, cháu Đức anh cũng thể hiện nguyện vọng được ở
với mẹ tại biên bản lấy lời khai ngày 05/7/2016 (Bút lục số 166) có sự chứng kiến của
bà Nguyễn Thị Thoa là bà nội của cháu
Với những lý do trên, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 81
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giao cháu Đức Anh cho chị Hảo nuôi dưỡng,
chăm sóc.
3. Về yêu cầu chia tài sản chung
Trước hết, về việc xác định tài sản chung của vợ chồng, tôi xin xác định tài sản
chung của vợ chồng bao gồm:
(i) 01 ngôi nhà 18m2 lợp ngói, 1 gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10m2, 1 giếng
khơi, 1 bể xây gạch xi măng khoảng 1,6m 3 trên thửa đất nêu trên. Tại các biên bản hòa
giải, bản tự khai cũng như phần hỏi đáp tại phiên tòa, hai bên đương sự và những
người có quyền lợi liên quan đều thống nhất và đưa được ra những căn cứ khẳng định
đây là tài sản chung của vợ chồng, do anh Nguyệt, chị Hảo cùng nhau đóng góp gây
dựng.
(ii) Thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 có địa chỉ tại xã Thượng Đạt,
huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Bên nguyên đơn khẳng định thửa đất này là tài sản
chung của vợ chồng anh Nguyệt, và đề nghị chia đôi thửa đất này vì:
Thứ nhất, về nguồn gốc của thửa đất, chúng tôi công nhận thửa đất là của vợ
chồng bà Thoa và do gia đình bà Thoa, cụ thể là anh Nguyễn Văn Quyết, anh Nguyễn
Văn chuyển và bà Nguyễn Thị Thoa đóng góp mua vào năm 1991 khi UBND xã
Thượng Đạt bán đất ở thu tiền trái thẩm quyền lấy tiền xây dựng trụ sở UBND xã và
trường Mầm Non cho 30 (ba mươi) hộ trong đó có hộ của bà Thoa. Mặc dù có sự mâu
thuẫn trong biên bản lấy lời khai của phía gia đình bị đơn nhưng nguồn gốc của thửa
đất đã được UBND xã Thượng Đạt xác định rõ trong Biên bản xét duyệt nguồn gốc sử
dụng đất ngày 08/6/2016 (Bút lục số 147).
Thứ hai, về việc tặng cho thửa đất của bà Thoa cho anh Nguyệt và chị Hảo:
Chúng tôi khẳng định trong cuộc họp gia đình anh Nguyệt với sự có mặt của chị Hảo,
đã quyết định tặng cho anh Nguyệt và chị Hảo thửa đất số 496 vì lý do như sau:
- Mặc dù không có tài liệu, văn bản nào chứng minh quyết định tặng cho quyền
sử dụng đất của bà Thoa cho vợ chồng anh Nguyệt, tuy nhiên theo lời khai của các

8
đương sự về diễn biến vụ việc, có thể thấy rằng anh Nguyệt và gia đình mình đã công
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 496 là của vợ chồng anh Nguyệt, cụ thể:
 Theo lời khai của anh Nguyệt, thửa đất là của bà Thoa, không phải của anh,
cũng không phải là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, khi ký nhận GCNQSDĐ
đứng tên anh và chị Hảo, anh không hề có ý kiến hay yêu cầu khiếu nại nào tới UBND
để thực hiện thủ tục đính chính và cũng không hề thông báo cho gia đình anh biết việc
này. Tiếp đó, anh có mang thửa đất đi thế chấp tại ngân hàng mà không hề cho gia
đình.
 Chỉ khi anh Nguyễn Văn Chuyển nhờ vay thế chấp QSDĐ, gia đình anh Nguyệt
mới biết GCNQSDĐ đối với thửa đất 496 đã được cấp cho vợ chồng anh Nguyệt. Tuy
nhiên, theo biên bản lấy lời khai của bà Thoa ngày 06/5/2016 (Bút lục số 94, 95) và
các biên bản lấy lời khai của các thành viên trong gia đình, khi biết được chuyện này,
không một ai có ý kiến hay phản đối gì cho đến tận bây giờ.
- Ngoài ra, gia đình anh Nguyệt có lời khai mâu thuẫn trong các biên bản lấy lời
khai về cuộc họp này, cụ thể:
 Tại Bút lục số 18, anh Nguyệt khai bà Thoa không tuyên bố cho 2 vợ chồng
thửa đất mà chỉ cho ở nhờ.
 Tại Bút lục số 81-82, anh Quyết khẳng định thửa đất số 496 là gia đình cho anh
Nguyệt, nhưng khi anh Nguyệt ra ở riêng không tuyên bố là cho riêng, nếu ly hôn thì
đất là tài sản riêng của anh Nguyệt.
 Tại Bút lục số 84, anh Cương lại khai rằng gia đình không có quyết định cho vợ
chồng anh Nguyệt chị Hảo đất.
 Tại Bút lục số 84-85, anh Chuyển lại xác định rằng thửa đất trên là gia đình anh
cho anh Nguyệt, không cho chị Nguyệt, nếu vợ chồng ly hôn thì đất này là của riêng
anh Nguyệt.
 Tại Bút lục số 92-93, bà Thoa lại khai rằng gia đình bà chỉ cho vợ chồng anh
Nguyệt chị Hảo ở trên đất chứ không cho hẳn vì đất là đất của bà.
Thứ ba, phía Nguyên đơn đề nghị áp dụng Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 có nội dung
khái quát như sau để giải quyết vụ án: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người
con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích
đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người
khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà,
đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng

9
nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền
sử dụng đất”.
Trong tranh chấp này, bà Thoa đã cho phép vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo xây
dựng nhà ở trên thửa đất số 496, khi vợ chồng xây dựng thì cha mẹ và những thành
viên trong gia đình không ai có ý kiến phản đối, anh Nguyệt chị Hảo đã sử dụng nhà,
đất liên tục, công khai, ổn định và đã được cấp GCNQSDĐ, vì vậy có thể xác định
rằng vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo đã được bà Thoa tặng cho quyền sử dụng đất.
Thứ tư, tại phiên tòa ngày hôm nay và Biên bản hòa giải ngày 17/6/2016 (Bút
lục số 151) đại diện UBND thành phố Hải Dương đã trình bày rõ quá trình cấp
GCNQSDĐ và khẳng định việc cấp GCNQSDĐ cho anh Nguyệt, chị Hảo là đúng theo
quy định của pháp luật đất đai.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015, thời hiệu
khởi kiện quyết định hành chính là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết
định hành chính. Do vậy, chúng tôi cũng không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn
và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về việc không công
nhận thửa đất số 496 là tài sản chung của anh Nguyệt, chị Hảo và yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp lại cho ông Cang và bà Thoa.
Từ những phân tích trên, tôi kính đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng:
Khoản 1 Điều 56, Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Án lệ
03/2016/AL do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng
4 năm 2016 và Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 để chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn về việc ly hôn với bị đơn, giao quyền nuôi hai con cho nguyên
đơn; chia đôi thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2 và từ chối yêu cầu huỷ
GCN quyền sử dụng đất của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà
Thoa.
Trên đây là những quan điểm của tôi về việc giải quyết vụ án, kính đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét trước khi nghị án, đưa ra quyết định phù hợp với quy định của pháp
luật.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
LUẬT SƯ

10
______________________
NGUYỄN KIỀU TRANG

11

You might also like