You are on page 1of 14

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


**********

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN

Môn : Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hành chính


Mã hồ sơ : LS.HC 15
Diễn lần : 01
Ngày diễn : 31/07/2021

Họ và tên : LÊ MINH ĐỨC


Lớp : Luật sư 24.2G
Số báo danh : 286

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 04 năm 2023

1
A. PHẦN CHUẨN BỊ Ở NHÀ
I. TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ VIỆC

Ngày 10/5/2016, Các ông bà Tào Thị Mão, bà Tào Thị Tỵ, bà Tào Thị Thơm, bà
Tào Thị Nhịn và ông Tào Minh Dũng (gọi tắt là “chị em bà Tào Thị Mão”) đã có đơn
khởi kiện gửi Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa về vụ việc như sau:
Bố mẹ là ông Tào Văn Sung (mất năm 1959) và bà Nguyễn Thị Mùi (mất năm
1994), có 07 người con (3 trai và 4 gái) gồm: ông Tào Minh Hùng, bà Tào Thị Mão, bà
Tào Thị Tỵ, bà Tào Thị Thơm, bà Tào Thị Nhịn, bà Tào Minh Nhường (mất năm 2014)
và ông Tào Minh Dũng.
Trước năm 1960, gia đình ông Sung, bà Mùi sinh sống trên đất thổ cư cũ ngoài xóm
đê, sát Quốc lộ 1A, gần cầu Tào Xuyên, xã Hoằng Lý, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh
Hóa.
Năm 1960, chính quyền địa phương vận động gia đình bà Mùi từ ngoài đê vào trong
xóm thuộc thôn Thạnh Phú, xã Hoàng Lý, giáp đình thờ làng Thượng để ở và thửa đất đó
tồn tại đến nay.
Đến năm 1994, bà Mùi chết không để lại di chúc. Tài sản để lại là 04 gian nhà cấp 4
xây tường 20 gạch đỏ, cột, kèo, mi, mè bằng gỗ, lợp ngói âm dương (ngói vẩy), có nhà
bếp, công trình phụ, bể nước, sân phơi, quy hoạch khu vực chăn nuôi gia súc, gia cầm,
thành khuôn viên khép kín, ăn ở ổn định, không tranh chấp với ai. Các con của bà Mùi
thống nhất không chia di sản thừa kế mà để sử dụng chung, ông Hùng và ông Dũng là
con trai chưa có nhà đất ở riêng nên cùng nhau sinh sống và ông Hùng là con trai cả đảm
nhiệm việc thờ cúng tổ tiên cha mẹ, không được bán, không được chia cho các con và
cũng không được tặng, cho, cầm cố, thế chấp vay vốn ngân hàng (các anh em thỏa thuận
miệng, không lập thành văn bản).
Năm 1996, Nhà nước tổng kiểm kê lại quỹ đất để cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và trên bản đồ đo vẽ và sổ mục kê lúc đó ghi tên người sử dụng là Tào Văn
Hùng, tại thửa 843a, tờ bản đồ số 05, diện tích 186m2, Bản đồ đo vẽ năm 1996.
Ngày 25/4/2007 ông Tào Minh Hùng có đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ngày 31/12/2007 UBND huyện Hoằng Hóa cấp GCNQSD đất số AL 214324
cho ông Tào Minh Hùng, bà Hoàng Thị Sen. Đến tháng 3/2015, Ông Tào Minh Hùng
chia mảnh đất trên và tiến hành xây nhà cho 02 con gái, vứt bỏ bàn thờ gia tiên ra đường,
không cho con cháu đến thắp hương, cúng giỗ. Cũng thông qua đó mà những người con
còn lại mới biết mảnh đất do bố mẹ để lại đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho vợ chồng ông Hùng vào năm 2007.
Ngày 16/06/2015, Chị em bà Tào Thị Mão làm đơn gửi Chủ tịch UBND xã Hoằng
Lý can thiệp và tổ chức hòa giải. Lý do là vì ông Tào Minh Hùng không đồng ý để lại
diện tích đất còn lại phía sau nhà (khoảng 60-70m2) để làm bàn thờ cho cha mẹ, ông bà,

1
tổ tiên. Tuy nhiên hòa giải không thành do Ông Tào Minh Hùng cho rằng anh đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 12/07/2015, Chị em bà Tào Thị Mão làm đơn khiếu nại gửi Chủ tịch UBND
xã Hoằng Lý. Chủ tịch UBND xã Hoằng Lý giải quyết khiếu nại bằng Công văn số
25/UBND-ĐCXD và Công văn số 28/ UBND-ĐCXD
Không đồng ý với việc việc giải quyết khiếu nại của UBND xã Hoằng Lý, Chị em
bà Tào Thị Mão đã làm đơn khiếu nại lần 1 lên UBND TP Thanh Hóa và được Chủ tịch
UBND TP Thanh Hóa ra quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND ngày
14/10/2015 với nội dung: “Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban
nhân dân huyện Hoằng Hóa đã cấp cho ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen ngày
31/12/2007”.
Không đồng ý với quyết định 9050/QĐ-UBND trên, Chị em bà Tào Thị Mão đã làm
đơn khiếu nại lần 2 lên UBND tỉnh Thanh Hóa và được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa
ra quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ-UBND ngày 22/2/2016 về việc giữ nguyên
quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND TP Thanh
Hóa.
Không đồng ý với các Quyết định giải quyết khiếu nại nói trên, Chị em bà Tào Thị
Mão đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đề nghị:
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ-UBND ngày 22/02/2016 của Chủ
tịch UBND tỉnh Thanh Hóa;
- Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ
tịch UBND thành phố TH, tỉnh Thanh Hóa;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL214324 ngày 31/12/2007 do UBND
huyện HH đã cấp cho ông Tào Minh Hùng.
Ngày 23/05/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định về việc thụ lý vụ
án số 06/TB-TLVA. Cho đến ngày 12/06/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ra
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2018/QĐXXST-HC.

II. ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN KHỞI KIỆN


Yêu cầu hủy quyết định hành chính về giải quyết cấp Giấy chứng nhận
Vụ án
quyền sử dụng đất
Đương sự 1. Người khởi kiện:
- Ông Bùi Quang Hải – Sinh năm: 1971;
- Bà Đặng Thị Kim - Sinh năm: 1981;
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Trần Quốc Chinh.
 Căn cứ khoản 8 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì ông Bùi
Quang Hải, bà Đặng Thị Kim là người có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm, chịu tác động trực tiếp bởi Văn bản số 504/UBND-TNMT đề

2
ngày 30/07/2019 của Chủ tịch UBND thành phố A và Văn bản số
1126/UBND-TNMT đề ngày 18/03/2019 của Chủ tịch UBND thành phố A
về việc giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 156,7
m2 thuộc thửa 351 và 164 tờ bản đồ số 9 (năm 2000) cho ông bà Hải. Do
đó, các ông bà trên có quyền khởi kiện và là chủ thể khởi kiện trong vụ án
này
2. Người bị kiện:
- UBND thành phố A
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Lập Hy – Chủ tịch
UBND thành phố A
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế Khang -Chuyên
viên phòng Tài nguyên và Môi trường;
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- UBND xã Hoằng Lý.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch
UBND xã Hoằng Lý;
- Ông Tào Minh Hùng – Sinh năm 1937.

Các quyết định hành chính bị khởi kiện:


1. Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND của UBND
thành phố Thanh Hóa ngày 14/10/2015;
2. Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ-UBND của UBND tỉnh
Thanh Hóa ngày 22/02/2016;
3. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 do UBND
Đối tượng huyện Hoằng Hóa cấp cho ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị
khởi kiện Sen ngày 31/12/2007;
 Các quyết định nêu trên là các quyết định hành chính của các cơ
quan có thẩm quyền trong công tác quản lý về đất đai, có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị em bà Tào Thị Mão, thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án => Do đó, việc xác định các Quyết
định trên là Quyết định hành chính bị kiện là đúng quy định pháp luật
(Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015)
Thẩm Theo nội dung vụ án thì UBND huyện Hoằng Hóa đã cấp Giấy chứng
quyền nhận quyền sử dụng đất số AL 214324 cho ông Tào Minh Hùng. Không
của Tòa đồng ý với việc cấp Giấy chứng nhận trên nên người khởi kiện đã khởi
án kiện ra Tòa án. Xét đây là quyết định hành chính, hành vi hành chính của
UBND cấp huyện. Căn cứ theo Khoản 1 Điều 30, Khoản 4 Điều 32 Luật
3
Tố tụng hành chính 2015 thì vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh. => Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa có thẩm
quyền giải quyết vụ án
Căn cứ Điểm a khoản 2 điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 quy
định:
“3. Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật
đến cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời
hiệu khởi kiện được quy định như sau:
a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;”
Ngày 14/10/2015, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thanh Hóa
ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND.
Ngày 22/02/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã ban
hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ-UBND
Căn cứ theo Đơn khởi kiện của các ông/bà Tào Thị Mão, Bà Tào Thị
Tỵ, bà Tào Thị Thơm, bà Tào Thị Nhịn và ông Tào Minh Dũng đề ngày
10/05/2016 vẫn nằm trong thời hạn 01 năm kể từ ngày giải quyết khiếu nại
lần 2 (22/02/2016).
Thời hiệu Ngoài ra, theo Đơn khởi kiện (Bút lục 1), ngày 16/6/2015, chị em bà
khởi kiện Tào Thị Mão có gửi đơn yêu cầu UBND xã Hoằng Lý hòa giải. Như vậy,
có căn cứ xác định vào 16/6/2015, những người khởi kiện mới biết chuyện
ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nên thực hiện quyền khiếu nại. Do vậy, trong thời gian
giải quyết khiếu nại ở các cấp, chị em bà Tào Thị Mão chưa khởi kiện đến
tòa án. Đến ngày 10/5/2016, sau khi nhận được quyết định giải quyết
khiếu nại thì những người khởi kiện mới gửi đơn khởi kiện đến Tòa án
Nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Do đó, vẫn còn thời hiệu khởi kiện đối với Quyết định giải quyết
khiếu nại số 9050/QĐ-UBND và Quyết định giải quyết khiếu nại số
9050/QĐ-UBND và Giấy chứng nhận quyền sử đất số AL214324.
Lưu ý: Trên thực tế, đối với vụ án này thì việc xác định thời hiệu
phải áp dụng theo quy định tại Luật tố tụng hành chính 2010 (căn cứ theo
quy định tại Điều 2 Nghị quyết 104/2015/QH13 quy định: “Các vụ án
hành chính phát sinh trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì áp dụng thời
hiệu quy định tại Điều 104 của Luật tố tụng hành chính số
64/2010/QH12”. Dựa trên quy định tại Luật tố tụng hành chính 2010 và
đánh giá trong vụ án này thì vụ án vẫn còn thời hiệu khởi kiện.

4
III. KẾ HOẠCH HỎI
1. Mục đích hỏi:
- Xác định hồ sơ xin cấp, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Hùng có đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật hay không?
- Xác định nguồn gốc diện tích đất là từ đâu?
- Xác định chữ ký tại Biên bản kiểm tra hiện trạng thửa đất ngày 11/10/2007, đơn
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/10/2007, Phiếu lấy ý kiến của khu
dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất ngày 05/10/2007 là do ai ký?
2. Kế hoạch hỏi cụ thể:
2.1. Hỏi UBND huyện Hoằng Hóa (Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình
Tuy - Phó Chủ tịch Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa)
- Ông hãy cho biết để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thời điểm năm
2007 thì cần đáp ứng những điều kiện gì? Quy định tại văn bản nào? Đối với trường hợp
của Ông Tào Minh Hùng thì có đáp ứng đủ các điều kiện đó không?
- Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như thế
nào? Tại văn bản nào?
- Việc cấp giấy chứng nhận cho Ông Tào Minh Hùng có tuân thủ trình tự, thủ tục theo
quy định pháp luật mà ông vừa nêu hay không?
- Tại thời điểm xét đơn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có phát sinh tranh
chấp nào xảy ra hay không?
- Ông có ý kiến gì về việc phía người khởi kiện cho rằng mảnh đất mà Ông Tào Minh
Hùng được cấp Giấy chứng nhận là di sản của bà Nguyễn Thị Mùi để lại?
2.2. Hỏi Chủ tịch UBND TP Thanh Hóa
- Ông hãy cho biết việc giải quyết khiếu nại của Bà Tào Thị Mão và những người
khác bằng các Quyết định giải quyết khiếu nại số 9050/QĐ-UBND 14/10/2015 và Quyết
định giải quyết khiếu nại số 619/QĐ-UBND ngày 22/02/2016 có đúng thẩm quyền hay
không? Ông đã xử lý Đơn khiếu nại của phía người khởi kiện như thế nào?
- Cơ sở pháp lý nào để Ông giải quyết khiếu nại và ra quyết định giải quyết khiếu nại
cho phía người khởi kiện?
2.3. Hỏi UBND xã Hoằng Lý (Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Mạnh
Hùng – Chủ tịch UBND xã Hoằng Lý)
- Tại thời điểm kiểm kê năm 1996, thì hồ sơ ghi nhận những ai sinh sống trên thửa
đất này?
- Tại sao khi xác minh nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, UBND xã Hoằng Lý
không lấy ý kiến của ông Dũng – thành viên đang sống ở hộ tại thời điểm sử dụng đất?

5
- Ông có ý kiến gì về việc phía người khởi kiện cho rằng mảnh đất mà Ông Tào Minh
Hùng được cấp Giấy chứng nhận là di sản của bà Nguyễn Thị Mùi để lại?
- Đối với ý kiến về việc bà Tào Thị Mão và các ông bà khác cho rằng “Phiếu lấy ý
kiến khu dân cư được UBND xã Hoằng Lý làm khống trong năm 2015 nhưng đề năm
2007, thì ông có ý kiến gì?
- Ông có ý kiến gì về việc Kết luận giám định số 1280/KLGĐ-PC54 ngày
28/05/2017 kết luận chữ ký và chữ viết của Ông Tào Minh Hùng trên các hồ sơ tài liệu
trong đó có Phiếu lấy ý kiến khu dân cư không cùng một người viết ra?
- UBND xã Hoằng Lý có thực hiện việc niêm yết công khai danh sách các trường
hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở
Ủy ban hay không?
2.4. Hỏi người có quyền, nghĩa vụ liên quan – Ông Tào Minh Hùng
- Ông bắt đầu sinh sống trên mảnh đất này từ thời điểm nào? Hãy trình bày chi tiết
thời gian sinh sống của ông tại đây, cùng với những ai?
- Việc Ông làm đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì những Ông/Bà
còn lại (em của Ông) có biết không?
- Tại sao ông lại làm 2 đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
25/04/2007 và 30/10/2007?
- Ai là người kê khai sổ mục kê năm 1996?
- Tại sao ông lại không kê khai gia đình ông Dũng trong khi thời điểm kê khai gia
đình ông Dũng vẫn còn đang sinh sống trên thửa đất?
- Khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận, ông có giấy tờ xác nhận là chủ sở hữu thửa
đất hay giấy tờ gì khác liên quan không? Nếu có, từ đâu mà có?
- Ông có ý kiến gì về việc Kết luận giám định số 1280/KLGĐ-PC54 ngày 28/05/2017
kết luận chữ ký và chữ viết của Ông trên các hồ sơ tài liệu là không cùng một người viết
ra?
- Ông có ý kiến gì về việc bà Tào Thị Mão và các ông, bà còn lại cho rằng thửa đất
ông được cấp Giấy chứng nhận là di sản của mẹ ông là bà Nguyễn Thị Mùi để lại?
2.5. Hỏi người khởi kiện (Người đại diện theo ủy quyền – Ông Nguyễn Ngọc Uyên)
- Phía người khởi kiện có biết việc Ông Tào Minh Hùng làm thủ tục cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho thử đất này hay không? Đến khi nào và căn cứ vào đâu phía
người khởi kiện mới biết?
- Người khởi kiện có biết việc UBND xã Hoằng Lý đã tiến hành thủ tục niêm yết
công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trong một khoảng thời gian hay không? Tại sao?

6
- Dựa vào đâu người khởi kiện cho rằng, thửa đất này là di sản của bà Nguyễn Thị
Mùi để lại?

IV. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN


Kính thưa Hội đồng xét xử (“HĐXX”),
Thưa vị đại diện Viện Kiểm sát (“VKSND”),
Thưa các vị Luật sư đồng nghiệp, cùng toàn thể mọi người có mặt tại phiên toà ngày
hôm nay.
Tôi là Huỳnh Anh Tú, là Luật sư đến từ Công ty Luật TNHH A&A, thuộc Đoàn
Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Hôm nay, theo yêu cầu của người khởi kiện và được sự
cho phép của Tòa án, tôi tham gia phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện gồm các ông bà Tào Thị Mão, Tào Thị
Tỵ, Tào Thị Thơm, Tào Thị Nhịn, Tào Minh Dũng trong vụ kiện hành chính thụ lý số
06/2016/TLST-HC ngày 23/5/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Kính thưa HĐXX, về nội dung của vụ án đã được đại diện người khởi kiện, đại diện
người bị kiện và người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong phiên tòa hôm nay trình bày
trước đó, nên Tôi xin phép không lặp lại nội dung vụ việc, tránh gây lãng phí thời gian
của phiên tòa. Qua nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án cũng như thông qua phần hỏi tại phiên
toà ngày hôm nay, với tư cách là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi
kiện, Tôi xin trình bày một số ý kiến, quan điểm để làm rõ tình tiết vụ án nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của tôi, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc xác định nguồn gốc thửa đất số 843a, tờ bản đồ số 05, địa chỉ:
xóm 4 – xã Hoằng Lý – huyện Hoằng Hóa – tỉnh Thanh Hóa là của ông Tào Minh
Hùng là không có cơ sở mà đáng lý ra phải là của bà Nguyễn Thị Mùi và di sản thừa
kế của bà để lại khi chết, bởi lẽ:
Qua những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của những người tham
gia tố tụng đều thừa nhận rằng: Trước năm 1960 ông Tào Văn Sung và bà Nguyễn Thị
Mùi (là cha, mẹ của những người khởi kiện và ông Tào Minh Hùng) sinh sống trên thửa
đất thổ cư cũ của ông bà để lại ngoài xóm đê sát Quốc lộ 1A. Năm 1959 ông Tào Văn
Sung chết. Năm 1960, chính quyền địa phương vận động gia đình bà Nguyễn Thị Mùi từ
ngoài đê vào trong xóm thuộc thôn Thạnh Phú, xã Hoàng Lý, giáp đình thờ làng Thượng
(nay là Đình thờ ông Lê Phụng Hiểu) để ở. Điều này cũng phù hợp với lời khai của
những người sống tại Thôn 4, xã Hoằng Lý là ông Tào Văn Tự, Tào Văn Thông, Lê Văn
Nhân cho rằng nguồn gốc đất ngay từ đầu là của bà Nguyễn Thị Mùi. Như vậy, bà Mùi
và tất cả các con đều chuyển vào sinh sống tại khu đất này từ năm 1960.
Về quá trình sinh sống của bà Mùi cũng như những người con của bà trên mảnh đất
này, nhận thấy rằng:

7
(i) Tại bút lục số 14 có nêu, Ông Tào Minh Hùng đi thoát ly, năm 1957 lấy vợ là
bà Hồng về ở cùng với bố mẹ, đến năm 1982 lấy vợ lần 2 và về ở trên khu đất xóm 4, xã
Hoằng Lý cho đến nay (là thửa đất đang có tranh chấp). Bà Tào Thị Mão lấy chồng năm
1965, bà Tào Thị Tỵ lấy chồng năm 1962, bà Tào Thị Thơm lấy chồng năm 1975. Ông
Tào Minh Nhường lấy vợ năm 1983, được cấp đất tách hộ năm 1984. Bà Tào Thị Nhịn về
nhà chồng từ năm 1974. Ông Tào Minh Dũng lấy vợ năm 1984, tách hộ năm 2001.
(ii) Tại bút lục số 16, ông Tào Minh Hùng trình bày: Trước năm 1962, gia đình
ông có mẹ (bà Nguyễn Thị Mùi) và các anh chị em ở trên khu đất ngoài Quốc lộ 1A, do
chiến tranh nên năm 1962, ông xin UBND xã cho ở trên khu đất cạnh đền thờ Lê Phụng
Hiểu (vị trí gia đình đang ở). Sau đó con cái của bà Nguyễn Thị Mùi đều có gia đình
riêng ở nơi khác, ông Tào Minh Dũng là người cuối cùng tách hộ đi nơi khác vào năm
2001. Ngoài ra, theo như lời khai của những người tham gia tố tụng đều đồng nhất rằng,
Bà Nguyễn Thị Mùi chết vào năm 1994.
Như vậy, so khớp, xâu chuỗi thời gian thì có thể khẳng định rằng bà Mùi là người
duy nhất sinh sống, sử dụng đất ổn định, liên tục từ năm 1960 cho đến khi bà mất (năm
1994), cộng thêm việc nguồn gốc đất cũng từ bà Mùi nên thửa đất, nhà ở cùng toàn bộ tài
sản trên đất được xem là di sản thừa kế của bà Mùi. Việc các anh chị em có gia đình và
lần lượt chuyển đến nhà vợ/chồng/nơi ở riêng sinh sống và việc ông Hùng là người đàn
sinh sống tại thửa đất đến hiện nay không là căn cứ quyết định ông Hùng là người duy
nhất sử dụng đất đối với thửa đất cũng như có quyền sử dụng đất. Do bà Mùi chết không
để lại di chúc nên theo quy định pháp luật toàn bộ di sản thừa kế của bà phải được chia
thừa kế cho tất cả các người con của bà Mùi.
Ngoài ra, tại Biên bản về tổ chức buổi họp đối thoại với các bên liên quan về giải
quyết đơn khiếu nại theo Quyết định số 7864/QĐ-UBND ngày 09/9/2015 của Chủ tịch
UBND thành phố Thanh Hóa ngày 25/9/2015, bà Hoàng Thị Lan – Cán bộ địa chính xã
Hoằng Lý có giải trình rằng: “Hồ sơ thể hiện trong bản đồ địa chính 364-CT (năm 1996)
thể hiện tên ông Tào Minh Hùng đứng tên => Ông Hùng được cấp theo hạn mức đất ở”
(bút lục 37, 37)
Tuy nhiên, trên thực tế, tại thời điểm lập Bản đồ địa chính năm 1996, trên thửa đất
có hộ ông Tào Minh Hùng và ông Tào Minh Dũng cùng sử dụng căn cứ vào Bản tự khai
ngày 13/7/2016 ông Tào Minh Hùng cũng trình bày rằng “1994 mẹ tôi chết vợ chồng
Dũng ở chung với tôi, 1999 xã cấp đất cho Dũng ở giữa ao xin tôi cho đất đắp thành nền
nhà, 2001 tách hộ” (bút lục số 71). Bên cạnh đó, tại Biên bản về tổ chức buổi họp đối
thoại với các bên liên quan về giải quyết đơn khiếu nại theo Quyết định số 7864/QĐ-
UBND ngày 09/9/2015 của Chủ tịch UBND thành phố Thanh Hóa ngày 25/9/2015, ông
Tào Văn Hiền có ý kiến như sau: “Năm 1998 thực hiện quy hoạch ao ông Sang Lọc xóm
6 thì ưu tiên xét cấp cho hộ có 3 bếp trở lên rồi đến 2 bếp, do đó căn cứ vào hộ gia đình
ông Hùng và ông Dũng cùng ở trên khu đất nên ưu tiên cho hộ ông Dũng khu đất tách hộ
và ở riêng.” (bút lục 38)
Như vậy, việc Bản đồ địa chính năm 1996 chỉ thể hiện ông Tào Minh Hùng là chủ
sử dụng đất là sai sự thật khách quan, tước bỏ quyền sử dụng của ông Tào Minh Dũng và

8
có dấu hiệu sai phạm nghiêm trọng trong quá trình kiểm kê đất đai của cán bộ địa chính
thời điểm đó.
Từ những phân tích trên, thì việc xác định nguồn gốc thửa đất này là của ông Tào
Minh Hùng là không có cơ sở.
Thứ hai, việc UBND Huyện Hoằng Hóa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Hùng và bà Sen là không đúng với quy định của pháp luật.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 135 Luật đất đai 2003 quy định về hồ sơ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bao gồm:
“a) Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5
Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
c) Văn bản uỷ quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).”
Qua hồ sơ có trong vụ án, khi thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận, ông Tào Minh
Hùng không cung cấp được các giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật
đất đai hiện hành tại Khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai 2003. Do đó, trong trường hợp này để
được cấp giấy chứng nhận thì căn cứ theo Khoản 4 Điều 50 Luật đất đai 2003, người đề
nghị phải đáp ứng ba điều kiện (1) đất được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10
năm 1993, (2) ông Hùng và bà Sen được Uỷ ban nhân dân xã xác nhận là đất không có
tranh chấp và (3) việc sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét
duyệt.
Căn cứ theo Điểm i Khoản 2 Điều 3 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007
(có hiệu lực ngày 01/07/2007) quy định việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn
định, theo đó:
“2. Việc xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được căn cứ vào ngày
tháng năm sử dụng và mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau:
[…]
i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;”
Theo bút lục 09, phần kết quả thẩm tra, xác minh trong Quyết định 9050 ghi nhận
“Bản đồ địa chính lập năm 1996 (Bản đồ 364-CT) khu đất ở thuộc thửa 843a, tờ bản đồ
số 5 xã Hoằng Lý, tỷ lệ 1/2000, diện tích 186.0m2, loại đất T, sổ mục kê ghi tên chủ sở
hữu đất là ông Tào Minh Hùng” và tại bút lục 16, phần báo cáo của UBND xã Hoằng Lý
trong Quyết định 619 xác nhận “hồ sơ địa chính năm 1996 có tên ông Tào Minh và là chủ
sử dụng đất tại thừa 843a…”. Như vậy, căn cứ theo quy định trên, ông Tào Minh Hùng
chưa thỏa mãn điều kiện sử dụng đất ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993.
Từ những cơ sở đó, có thể khẳng định việc UBND Huyện Hoằng Hóa cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất 843a cho ông Hùng và bà Sen là không đúng
theo quy định pháp luật thời điểm đó.

9
Thứ ba, có dấu hiệu vi phạm trình tự, thủ tục xem xét cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại thửa đất 843a cho Ông Tào Minh Hùng và Bà Hoàng Thị Sen:
Một là, tại bút lục 55, trong Kết luận giám định số 1280/KLGĐ-PC54 ngày
28/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận rõ: Chữ ký
dạng viết“Hùng” và chữ viết họ tên “Tào Minh Hùng” tại mục “Ký tên, Chủ hộ sd đất,
Người viết đơn” trên các tài liệu giám định (ký hiệu A1, A2, A3) (tương ứng với các giấy
tờ có trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Phiếu lấy ý kiến khu dân
cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất ngày 05/10/2007; Biên bản kiểm tra hiện trạng
thửa đất ngày 11/10/2007 và Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
30/10/2007) so với chữ viết họ tên Tào Minh Hùng dưới các mục “Người viết đơn, Chủ
hộ sd đất, Người làm đơn, Người trình bày thêm, Người nhận trên tài liệu so sánh (kí hiệu
từ A1 – A7) không phải do cùng một người viết ra. Tuy nhiên, Ông Tào Minh Hùng
không đứa ra được bằng chứng, chứng cứ gì để lý giải cho kết quả giám định như trên.
Như vậy, dễ dàng nhận thấy có dấu hiệu của việc giả mạo hồ sơ tài liệu.
Hai là, tại hồ sơ vụ án này ghi nhận có đến 02 Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông Tào Minh Hùng đề ngày 25/04/2007 và 30/10/2007. Tuy nhiên, nhận
thấy có dấu hiệu tẩy xóa, sửa chữa trong Đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đề ngày 25/04/2007; tự ý lập hồ sơ khác để hợp thức hóa hồ sơ, cụ thể như sau:
(i) Tại bút lục số 24, thời gian thực chất ghi trên Đơn xin cấp GCN ngày
25/04/2007 phải là năm 2006. Khi nhận đơn 25/04/2006, UBND xã Hoằng Lý đã tiến
hành thẩm tra, xác nhận nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất và có biên bản kiểm tra diện
tích đất ở 14/12/2006 (Bút lục số 20). Cùng ngày, ông Hùng có đơn xin xác nhận sai tên
lót, tên đệm (Bút lục số 22) trên bản đồ địa chính, sổ mục kê lập năm 1996.
(ii) Thời điểm này đã diễn ra việc tẩy xóa, sửa chữa trên chính đơn mà ông Hùng
đã lập ngày 25/04/2006 thành ngày 25/04/2007 (Bút lục số 24) và sửa chữa ở phần xác
nhận của UBND xã Hoằng Lý từ ngày 06/05/2006 thành ngày 06/05/2007. Nếu tính từ
ngày 25/04/2007 đến ngày 31/12/2007 (là ngày được cấp Giấy chứng nhận) là hơn 240
ngày sẽ vi phạm thời hạn quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 135 Luật đất đai 2003
(không quá 55 ngày), vì vậy đã có sự tự ý lập hồ sơ mới và ký giả chữ ký để hợp thức hóa
hồ sơ để tuân thủ trình tự về thời gian từ lúc làm đơn là 30/10/2007 đến ngày 31/12/2007
là 44 ngày làm việc (phù hợp với thời gian luật định).
Ba là, căn cứ theo Điều 135 Luật đất đai 2003, việc công bố công khai danh sách
các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã phải được thực hiện sau khi có đơn xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình. Tại bút lục số 09 phần hồ sơ cấp
GCN do UBND xã Hoằng Lý cung cấp nêu Danh sách công khai các trường hợp đủ điều
kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã Hoằng Lý huyện Hoằng Hóa đề ngày
20/04/2007. Tuy nhiên, cả 2 đơn xin cấp Giấy chứng nhận của ông Tào Minh Tùng lần
lượt đề ngày 25/04/2007 và 30/10/2007 đều sau ngày ban hành danh sách của UBND xã
Hoằng lý. Như vậy, có thể thấy có sự sai lệch, không tuân thủ về trình tự công bố danh
sách các trường hợp đủ điều kiện cấp GCN.

10
Từ các phân tích trên, có thể thấy trình tự, thủ tục việc cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen là không đúng theo quy định
của Điều 135 Nghị định 181/2003/NĐ-CP, còn nhiều vấn đề khúc mắc, không phù hợp
và có dấu hiệu của ngụy tạo, làm khống hồ sơ.
Thứ tư, về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
Thành phố Thanh Hóa đối với các khiếu nại của Chị em bà Tào Thị Mão là không
phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ
thể:
Một là, Xét việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tào Minh Hùng
và bà Hoàng Thị sen vừa là quyết định hành chính, vừa là hành vi hành chính của UBND
cấp huyện (huyện Hoằng Hóa). Xét Quyết định 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của
Chủ tịch UBND TP Thanh Hóa là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với khiếu
nại của Chị em bà Tào Thị Mão.
Căn cứ Điều 18 Luật Khiếu nại 2011 quy định:
“Điều 18. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
1. Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
của mình.
2. Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp
huyện đã giải quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn
nhưng chưa được giải quyết.”
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên, đối với khiếu nại lần đầu quyết định hành
chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết phải thuộc về
chủ tịch UBND của huyện đó. Đối với Giấy chứng nhận cấp cho Ông Tào Minh Hùng là
do Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa cấp nên thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu
phải thuộc về Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa giải quyết. Do đó, việc Chủ tịch UBND
TP Thành Hóa thụ lý giải quyết khiếu nại đối với khiếu nại lần đầu của chị em bà Tào
Thị Mão là không có cơ sở, không đúng thẩm quyền theo quy định của Luật khiếu nại.
Hai là, việc giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai là không đúng thời hạn theo quy
định của pháp luật:
Căn cứ theo Điều 28 Luật Khiếu nại 2011 quy định: “Thời hạn giải quyết khiếu nại
lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải
quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý.” Tuy nhiên, theo
bút lục số 12, tại Quyết định 9050 có xác nhận đơn khiếu nại của chị em bà Tào Thị Mão
đề ngày 17/06/2015, theo đó, từ ngày đề trên đơn khiếu nại đến ngày ban hành ra quyết
định giải quyết khiếu nại (ngày 14/10/2015) gần bốn tháng (trừ cho thời gian thụ lý khiếu
nại theo Điều 27 Luật khiếu nại 2011 là 10 ngày) thì cũng đã quá thời hạn giải quyết lần
đầu kể cả trường hợp có xem xét đến việc gia hạn.

11
Về việc giải quyết khiếu nại lần hai, theo các quy định của pháp luật tại Điều 33, 36,
37 Luật khiếu nại 2011 thì tổng thời gian các giai đoạn từ khi nhận được quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu đến khi giải quyết khiếu nại lần hai tối đa là 125 ngày (xét cả
trường hợp gia hạn và ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn). Tuy nhiên, theo hiện trạng
hồ sơ vụ án thì ngày 14/10/2015 (ngày giải quyết khiếu nại lần đầu) đến ngày 22/02/2016
(giải quyết khiếu nại lần 2) là hơn bốn tháng. Hơn nữa không có bất kỳ văn bản, quyết
định nào liên quan đến việc gian hạn thời gian giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
TP Thanh Hóa. Như vậy, việc Chủ tịch UBND TP Thanh Hóa giải quyết khiếu nại lần 2
của chị em bà Tào Thị Mão là quá thời hạn luật định. Bên cạnh đó, trong Quyết định số
619 cũng không đề cập đến sai phạm này và đề ra phương hướng khắc phục cho các
người khởi kiện mà tiếp tục giải quyết làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình giải
quyết vụ việc.
Từ tất cả các phân tích trên đây, nhận thấy việc xác định nguồn gốc đất không đúng,
hồ sơ xin cấp, trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hùng
không đúng theo quy định của pháp luật về đất đai, việc giải quyết khiếu nại không đúng
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại là không tuân thủ quy định của pháp
luật về khiếu nại dẫn đến gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của những
người khởi kiện. Bởi các lẽ đó, với tư cách Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
thân chủ của tôi – những người khởi kiện, tôi kính đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng
Điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính 2015, tuyên hủy toàn bộ các Quyết
định:
(i) Quyết định GQKN số 9050/QĐ-UBND ngày 14/10/2015 của Chủ tịch UBND
thành phố Thanh Hóa về việc giải quyết khiếu nại của bà Tào Thị Mão, Tào Thị Tỵ, Tào
Thị Thơm;
(ii) Quyết định GQKN số 619/QĐ-UBND ngày 22/02/2016 của Chủ tịch UBND
tỉnh Thanh Hóa giải quyết khiếu nại của bà Tào Thị Mão và 04 công dân;
(iii) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL214324 do UBND huyện Hoằng
Hóa cấp ngày 31/12/2007 cho ông Tào Minh Hùng và bà Hoàng Thị Sen.
Trên đây là toàn bộ quan điểm của tôi, tôi xin hết. xin trân trọng cảm ơn Hội đồng
xét xử đã lắng nghe!

B. PHẦN NHẬN XÉT TẠI LỚP


1. Chuẩn bị phiên tòa
2. Chủ tọa phiên tòa – Thẩm phán:
3. Hội thẩm nhân dân
3.1. Hội thẩm nhân dân 1:
3.2. Hội thẩm nhân dân 2:
4. Thư ký phiên tòa:
12
5. Đại diện Viện kiểm sát:
6. Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện, Ông Nguyễn Ngọc Uyên:
7. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Người khởi kiện
7.1. Luật sư 1:
7.2. Luật sư 2:
8. Người bị kiện
8.1. Đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND huyện Hoằng Hóa, Ông Nguyễn
Đình Tuy (Phó Chủ tịch):
8.2. Đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND TP. Thanh Hóa, Ông Lê Văn Tú
(Phó Chủ tịch):
8.3. Đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa, Ông Nguyễn Đức
Quyền (Phó Chủ tịch):
9. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Ông Nguyễn Mạnh Hùng (Chủ tịch
UBND xã Hoằng Lý:
10. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan, Ông Tào Minh Hùng:
11. Nhận xét chung

13

You might also like