You are on page 1of 9

BÀI TẬP NHÓM GIẢI QUYẾT HỒ SƠ 09

Môn: Kỹ năng tham gia giải quyết vụ việc dân sự

Lớp E1 – NHÓM 4

Yêu cầu: Với tư cách Luật sư của Nguyên đơn, hãy trình bày những nội
dung chính cần lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên
đơn (bà Trần Thị Thu)

STT Họ và tên Số báo Mức độ đánh giá Ghi chú


danh

1. Nguyễn Hà Phương 369 A

2. Trần Thị Hà Phương 376 A

3. Nguyễn Bích Phượng 381 A

4. Lê Văn Quyền 388 A

5. Dương Anh Tú 401 A

6. Tạ Thi Hồng Tươi 416 A

7. Chu Văn Thành 422 A

8. Nguyễn Thu Thảo 429 A

9. Trịnh Phương Thảo 431 A

10. Trần Văn Thắng 435 A

11. Bùi Minh Thiên 441 A


1. Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp và yêu cầu của Nguyên đơn

1.1 Tóm tắt nội dung tranh chấp

Nguyên đơn

Bà Trần Thị Thu sinh ngày 17/06/1985.

Địa chỉ thường trú: 6xx, phố Hoàng Văn Thụ, Hồng Bàng, Hải Phòng.

Đại diện theo ủy quyền: bà Nguyễn Thu Hà – Luật sư Công ty luật K – Đoàn
luật sư thành phố Hải Phòng.

Địa chỉ trụ sở: Số 7xx Hoàng Văn Thụ, Minh Khai, quận Hồng Bàng, thành phố
Hải Phòng

Bị đơn

Công ty TNHH YD Việt Nam

Địa chỉ trụ sở: Lô 12xx khu công nghiệp NM – Hải Phòng, thành phố Hải
Phòng.

Đại diện theo pháp luật: ông Shuhei.

Chức vụ: Giám Đốc.

Nội dung vụ tranh chấp

Bà Trần Thị Thu ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với Công ty YD
từ ngày 17/07/2006 với trình độ chuyên môn là kế toán, chức danh là kế toán trưởng của
Công ty YD với mức lương được hưởng tại thời điểm hiện tại là 21.733.600 đồng/tháng.

Ngày 09/12/2015 sau khi hết thời gian nghỉ thai sản, bà Thu trở lại Công ty làm
việc thì được bảo vệ cho biết Ban lãnh đạo Công ty chỉ thị không cho bà vào làm việc.
Đồng thời, bà nhận được Thông báo số 05/2015/TB ngày 5/12/2015 yêu cầu bà đúng 09
giờ sáng ngày 15/12/2015 đến Công ty để làm rõ sai phạm về kế toán (Thông báo
05/2015). Đúng 09 giờ ngày 15/12/2015, bà Thu đến Công ty theo Thông báo 05/2015.
Tại cuộc họp Ban lãnh đạo Công ty quy kết trách nhiệm và buộc bà Thu phải nhận
những sai phạm về kế toán trong thời gian bà Thu đảm nhiện chức vụ kế toán trưởng
của Công ty, tuy nhiên, Ban lãnh đạo không chỉ ra được những sai phạm đó cụ thể là gì.
Ngày 20/12/2015, Công ty YD gửi Thông báo số 07/2015/TB mời bà Thu tham gia buổi
họp Hội đồng kỷ luật lao động. Theo biên bản họp ngày 25/12/2015, hội đồng kỷ luật
vẫn không đưa ra được những chứng cứ cụ thể cho các sai phạm quy kết cho bà Thu và
nhận định bà Thu vi phạm và nội quy làm việc của Công ty YD với các ý kiến của
phòng nhân sự cho rằng trong khoảng thời gian bà Thu đang làm việc tại Công ty
thường hay “đi trễ về sớm”. Theo ý kiến của giám đốc, bà Thu không đạt yêu cầu của vị

2
trí Kế toán trưởng. Cũng theo biên bản này, Công ty sẽ thuyên chuyển công việc khác
cho bà Thu với mức lương bằng 85% mức lương cơ bản ban đầu.

Ngày 30/12/2015 Công ty YD Quyết định bố trí công việc cho bà Thu sau thời
gian nghỉ đẻ vào vị trí “phụ trách quản lý kho rác”.

Ngày 20/03/2016 Công ty YD tiến hành lập biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao
động đối với bà Thu bằng hình thức sa thải với lý do bà Thu không tuân thủ theo Quyết
định bố trí công việc của Công ty đề ra mà tự ý bỏ về khi không chấp hành theo quy
định của Công ty.

Ngày 14/05/2016, Ban quản lý khu kinh tế và Công Đoàn khu kinh tế Hải Phòng
đã tiến hành buổi làm việc giữa bà Thu và lãnh đạo Công ty YD Việt Nam. Tại cuộc
họp, bà Thu nhận được Biên bản xử lý kỷ luật đề ngày 20/03/2016 theo hình thức sa
thải. Tại cuộc họp, Công ty YD được yêu cầu trả lời cho những hành vi vi phạm pháp
luật của mình chậm nhất là ngày 25/05/2016. Tuy nhiên, cho đến nay Công ty YD
không hề có bất kỳ thiện chí giải quyết quyền lợi cho bà Thu.

1.2 Yêu cầu của Nguyên đơn

Tại Đơn khởi kiện ngày 06/07/2016, Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết
các vấn đề sau:

 Buộc Công ty YD thanh toán toàn bộ tiền lương kể từ ngày 09/12/2015


đến hết ngày 09/7/2016 (07 tháng) theo mức lương được hưởng là
21.733.600 VND/tháng, tổng số là 152.135.200 VND.

 Buộc Công ty YD thanh toán tiền trợ cấp thôi việc: bà Thu làm việc tại
Công ty từ 17/7/2006, căn cứ theo Điều 48 Bộ luật Lao động thì tổng
thời gian hưởng trợ cấp thôi việc là từ 17/7/2006 đến ngày 31/12/2008
được tính là 2,5 năm. Tiền lương của 06 tháng liền kề trước khi bà nghỉ
việc là 21.733.600 VND/tháng, vậy tiền trợ cấp thôi việc mà bà được
hưởng là 21.733.600 x 1/2 x 2.5 = 27.167.000 VND

 Buộc Công ty YD thực hiện ngay việc chốt sở Bảo hiểm xã hội cho bà
Thu.

Tại Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 11/05/2017, Nguyên đơn bổ sung
yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc Công ty:

 Thanh toán tiền lương từ 09/12/2015 đến khi chính thức nhận lại. Tạm
tính đến ngày 09/5/2017 (17 tháng) với mức lương 20.393.000
VND/tháng, tổng số 20.393.000 x 17 tháng = 346.681.000 VND;

3
 Bồi thường 2 tháng tiền lương theo Phụ lục hợp đồng lao động ký ngày
1/1/2015 và theo khoản 3 Điều 42 BLLĐ là: 02 tháng x 20.393.000 =
40.786.000 VND;

 Thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bà Thu với thời gian được hưởng
trợ cấp thôi việc là 2,5 năm, tiền lương 06 tháng liền kề trước khi nghỉ
việc là 20.393.000 VND, tổng số tiền trợ cấp thôi việc là 25.491.250
VND; chốt sổ bảo hiểm cho bà Thu tính đến thời điểm hiện tại.

 Bồi thường 02 tháng tiền lương theo Hợp đồng lao động (Phụ lục Hợp
đồng lao động ngày 01/01/2015) theo quy định tại khoản 3 Điều 42
BLLD là: 02 tháng x 20.393.000 đồng = 40.786.000 đồng.

 Buộc Công ty YD thực hiện ngay việc chốt sổ Bảo hiểm xã hội kể từ
ngày 09/12/2015 đến khi có phán quyết của Tòa án.

2. Lập luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn

2.1 Bà Thu không thuộc đối tượng xử lý kỷ luật lao động

2.1.1 Theo điểm d khoản 4 Điều 123 và khoản 4 Điều 155 Bộ luật Lao động
năm 2012 quy định:
“Điều 123. Nguyên tắc, trình tự xử lý kỷ luật lao động

[…]

4. Không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong
thời gian sau đây:

[…]

d) Lao động nữ có thai, nghỉ thai sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới
12 tháng tuổi. […]”

“Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động nữ

[…]

4. Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy
định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao
động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động. […]”

2.1.2 Việc xử lý kỷ luật lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi còn tiếp tục
được hướng dẫn bởi Điều 29 Nghị định 05/2015/NĐ-CP như sau:
“Điều 29. Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động nuôi con nhỏ
dưới 12 tháng tuổi

4
1. Người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật lao động đối với
người lao động là cha đẻ, mẹ đẻ hoặc cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp đang
nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

2. Khi hết thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, mà thời hiệu xử lý
kỷ luật đã hết thì được kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động, nhưng tối
đa không quá 60 ngày, kể từ ngày hết thời gian nuôi con nhỏ dưới 12
tháng tuổi.”

2.1.3 Bà Thu sinh con vào T6/2015 và tính tới thời điểm diễn ra phiên họp xử
lý kỷ luật ngày 20/3/2016 thì con bà Thu mới chỉ được 9 tháng tuổi.
Theo đó, bà Thu, một lao động nữ đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi
sẽ không thể là đối tượng bị xem xét hay bị tiến hành bất kỳ thủ tục nào
nằm trong quy trình xử lý kỷ luật lao động của công ty. Nói cách khác,
các phiên họp xử lý kỷ luật mà Công ty YD Việt Nam tiến hành vào
ngày 25/12/2015 và ngày 20/03/2016 là vi phạm quy định của pháp luật
về lao động.

2.2 Căn cứ sa thải mà công ty YD Việt Nam đưa ra là không chính xác

2.2.1 Cụ thể, tại Biên bản ngày 20/3/2015, Công ty xác định lỗi của bà Trần
Thị Thu là tự ý nghỉ việc theo công việc tại Quyết định số S008-14/QĐ
có hiệu lực từ 05/1/2016. Tuy nhiên, ngay ngày 05/1/2016 khi ký nhận
quyết định bà Thu đã ghi rõ “không đồng ý với Quyết định này, yêu cầu
công ty lập biên bản họp nhưng không lập, sẽ có công văn trả lời tới
công ty”.

2.2.2 Bà Thu không thực hiện Quyết định số S008-14/QĐ là đúng bởi lẽ:

(a) Ngày quyết định có hiệu lực là 05/1/2016 và ngày ký nhận của bà
Thu cũng là 05/1/2016. Như vậy, việc bố trí công việc này Công
ty không hề báo trước và không có thỏa thuận với bà Thu là đã vi
phạm Điều 31, Điều 158 Bộ luật Lao động.

(b) Đồng thời, theo quyết định số S008-14/QĐ thì bà Thu sẽ phải
“Trông coi, sắp xếp, vệ sinh kho rác”, đây là công việc có tính
chất độc hại ảnh hưởng tới hệ hô hấp và nguồn sữa mẹ và khả
năng nuôi con, vi phạm Điều 160 BLLD. Cụ thể:

“Điều 160. Công việc không được sử dụng lao động nữ

1. Công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con
theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì
phối hợp với Bộ Y tế ban hành. […]”

5
Theo đó, Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013
ban hành Danh mục không được sử dụng lao động nữ trong một
số công việc được quy định tại Phần B về danh mục áp dụng cho
lao động nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trong
đó có liệt kê “Công việc […] dễ bị nhiễm trùng”.

Rõ ràng công việc liên quan trực tiếp đến rác thải do Ban lãnh
đạo Công Ty YD phân công cho bà Thu theo Quyết định số
S008-14/QĐ ngày 30/12/2015 là một công việc tiếp xúc với môi
trường làm việc rất ô nhiễm, không phù hợp với chuyên môn, sức
khỏe của bà Thu, đặc biệt là sau khi vừa nghỉ sinh và nuôi con
nhỏ.

2.3 Trình tự xử lý kỷ luật lao động trái pháp luật.

Trước khi Phiên họp xử lý vi phạm kỷ luật lao động 20/03/2016 diễn ra, bà Thu
không hề nhận được bất kỳ thông báo tham gia cuộc họp hội đồng kỷ luật lao động nào.
Phía Công ty YD nêu đã gửi bằng bưu điện ba lần thông báo cho bà Thu đến tiếp tục
hợp đồng lao động nhưng các vận đơn mà bị đơn cung cấp không thể hiện nội dung các
thông báo của Công ty (đại diện Công ty cũng xác nhận tại trang 135). Như vậy tức là
phía Công ty YD đã không xuất trình được các tài liệu, chứng cứ hợp pháp về thông báo
đã gửi bà Thu. Và vì bà Thu không được biết nên phiên họp xử lý vi phạm kỷ luật lao
động ngày 20/03/2016 do Công ty tổ chức không hề có sự tham dự của bà Thu, điều đó
cũng đồng nghĩa với việc bà Thu không có cơ hội để đưa ra ý kiến để bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của mình.

Như vậy, việc Công ty YD Việt Nam không mời bà Thu đến tham dự phiên họp
đã vi phạm nghiêm trọng trình tự xử lý kỷ luật lao động quy định tại Điều 30 Nghị định
05/2015/NĐ-CP do không đáp ứng yêu cầu về thành phần tham dự, cụ thể, khoản 2
Điều 30 Nghị định này quy định: “Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động được tiến hành khi
có mặt đầy đủ các thành phần tham dự được thông báo theo quy định tại Khoản 1 Điều
này. Trường hợp người sử dụng lao động đã 03 lần thông báo bằng văn bản, mà một
trong các thành phần tham dự không có mặt thì người sử dụng lao động tiến hành cuộc
họp xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp người lao động đang trong thời gian không
được xử lý kỷ luật quy định tại Khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động”, và kể cả có
thông báo thì vẫn loại trừ trường hợp của bà Thu là lao động nữ đang nuôi con dưới 12
tháng tuổi.

2.4 Bà Thu đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định pháp luật liên quan đến
nghĩa vụ của người lao động

2.4.1 Trong thời gian lao động trước khi nghỉ sinh con, bà Thu không hề bị
Công Ty YD kiểm điểm trách nhiệm hay tiến hành xử lý kỷ luật lần nào.
Tuy nhiên, sau khi nghỉ thai sản, Ban lãnh đạo Công Ty YD đã không bố
trí việc làm và cho rằng bà Thu đã có sai phạm trong hoạt động kế toán

6
trước khi bà nghỉ thai sản nhưng cho đến phiên tòa ngày hôm nay phía
Công Ty YD không thể nêu rõ được đó là sai phạm gì hay bất kỳ căn cứ
nào chứng minh cho những cáo buộc của mình.

2.4.2 Bà Thu không hề có sai phạm trong việc thực hiện công việc sau khi
nghỉ thai sản, việc bà Thu không có mặt ở Công ty để làm việc là do
nguyên nhân từ phía Công ty YD không sắp xếp bố trí công việc cho bà
Thu, cụ thể:

(a) Ngày 09/12/2015, bà Trần Thị Thu quay trở lại làm việc sau kỳ
nghỉ thai sản thì bị bảo vệ chặn lại, không được vào Công ty, điều
này đã được bảo vệ Nguyễn Ngọc Đông làm chứng.

(b) Ngày 15/12/2015, sau khi bà Thu tham gia phiên họp, Công ty
không sắp xếp công việc cho bà Thu và yêu cầu bà Thu ra về.

(c) Ngày 25/12/2015, sau khi bà Thu tham gia phiên họp xử lý kỷ
luật, Công ty cũng không sắp xếp công việc cho bà Thu. Nội
dung công việc của bà Thu cũng không được đề cập trong các
Biên bản họp.

(d) Ngày 05/01/2016, bà Thu đến Công ty thì nhận được Quyết định
điều chuyển công việc từ Kế toán văn phòng sang làm phụ trách
quản lý kho rác căn cứ theo Điều 31 Bộ luật lao động 2012.
Quyết định này đã vi phạm quy định pháp luật như đã phân tích ở
trên, do đó bà Thu đã không đồng ý với quyết định điều chuyển
trên, bà đề nghị gặp trực tiếp Tổng giám đốc Shuhei để làm rõ
nhưng bị bảo vệ chặn và không cho vào nên bà phải ra về. Điều
này đã được ông Nguyễn Ngọc Đông xác nhận.

(e) Đối với 3 thông báo mời quay trở lại làm việc ngày 10/03/2016,
13/03/2016, 17/03/2016, bà Thu khẳng định không nhận được 3
thông báo này và không biết người nhận tên Long là ai, không có
ai tên là Long cư trú tại địa chỉ số 6xx, phố Đ, phường Hoàng
Văn Thụ, Quận Hồng Bàng, tp Hải Phòng cùng nhà với bà Thu.
Ngoài ra, nhận ủy quyền của bà Thu, công ty Luật K đã gửi 3
công văn đề nghị Công ty YD làm việc về trường hợp của bà Thu
ngày 09/01/2016, ngày 3/3/2016 và ngày 29/05/2016 nhưng phía
Công ty YD không có phản hồi.

Từ những lập luận trên có thể thấy rõ ràng rằng, việc Công ty tiến hành xử
lý kỷ luật vi phạm lao động, lập biên bản xử lý vi phạm bằng hình thức sa thải
ngày 20/3/2016 đối với bà Thu là vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật về
lao động.

7
3. Căn cứ giải quyết yêu cầu của Nguyên đơn

STT Yêu cầu của Nguyên đơn Căn cứ

i) Buộc công ty YD hủy biên bản xử lý Như đã phân tích ở phần 2


kỷ luật lao động ngày 20/03/2016 với
hình thức sa thải đối với bà Thu.

ii) Buộc công ty YD khôi phục mọi - Khoản 1 và khoản 3 Điều 42


quyền lợi của bà Thu theo quy định và Điều 48 Bộ luật lao động
tại Hợp đồng lao động ký ngày năm 2012
17/07/2006, cụ thể:
- Điều 48 Bộ luật lao động
- Thanh toán toàn bộ tiền lương, tiền 2012 => tính trợ cấp thôi việc
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong
thời gian không được làm việc kể từ - Điều 33 Nghị định
ngày 09/12/2015 đến khi chính thức 05/2015/NĐ-CP – Nghĩa vụ
được nhận lại. Tạm tính đến ngày trong trường hợp kỷ luật sa thải
09/05/2017 (17 tháng) theo mức trái pháp luật
lương hiện tại, tổng số tiền là
- Điểm c khoản 3 điều 14 NĐ
20.393.000 đồng x 17 tháng =
05/2015/NĐ-CP hướng dẫn
346.681.000 đồng;
thời gian làm việc tính trợ cấp
- Bồi thường cho bà Thu 02 tháng tiền thôi việc
lương theo Hợp đồng lao động (phụ
- Điều 8 Thông tư 47/2015/TT-
lục hợp đồng ký ngày 01/01/2015)
BLĐTBXH hướng dẫn tính tiền
theo quy định tại Khoản 1, điều 42 Bộ
lương làm căn cứ tính trợ cấp
luật lao động là: 02 tháng x
thôi việc
20.393.000 = 40.786.000 đồng.

- Hiện tại bà Thu không có nhu cầu


quay trở lại công ty YD nên ngoài
khoản tiền trên còn phải bồi thường
thêm:

+ Bồi thường 02 tháng tiền lương theo


hợp đồng lao động quy định tại khoản
3 điều 42 BLLĐ là 20.393.000 x 2 =
40.786.000 đồng;

+ Tiền trợ cấp thôi việc căn cứ theo


quy định tại điều 48 BLLĐ thì thời
gian được hưởng trợ cấp từ
17/07/2006 đến 31/12/2008 là: 2.5
năm x ½ x 20.393.000 đồng =
25.491.250 đồng

8
=>Tổng số tiền công ty YD phải
thanh toán cho bà Thu là 346.681.000
+ 40.786.000 + 25.491.250 +
40.786.000 = 453.744.250 đồng.

iii) Buộc Công ty YD thực hiện ngay việc - Khoản 1 Điều 18 Luật BHXH
chốt sổ Bảo hiểm xã hội kể từ ngày 2014:
09/12/2015 đến khi có phán quyết của
Tòa án. - Khoản 1 và khoản 3 Điều 42
Bộ luật lao động 2012

You might also like