You are on page 1of 12

cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt nguồn từ sự ra đời động cơ hơi nước - thúc đẩy cơ khí hóa
quá trình sản xuất (cuối thế kỷ XVIII). Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát
triển của ngành điện để tạo ra nền sản xuất hàng loạt vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX. Cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ ba xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX với sự ra đời của điện tử và công nghệ
thông tin - thúc đẩy tự động hóa sản xuất. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba còn được gọi là cuộc
Cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo nên sự thay
đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng... Vào giữa những
năm 80 của thế kỷ XX, cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ chuyển sang giai đoạn mới: giai đoạn hiện
đại hóa với công nghiệp siêu dẫn, giai đoạn vi điện tử, giai đoạn tin học hóa,… Cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư hiện chỉ đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng rõ ràng nó đang mở ra nhiều cơ hội cho các
nước, nhất là các nước đang phát triển, nhằm nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển, đồng
thời cũng đặt ra không ít thách thức lớn.
So với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khác cả về tốc độ,
phạm vi và chắc chắn sẽ tác động to lớn lên toàn bộ các hệ thống toàn cầu, báo trước sự chuyển hóa toàn
bộ các hệ thống: sản xuất, quản lý, phân phối, tiêu dùng... Không giống các cuộc cách mạng công nghiệp
trước vốn chỉ tập trung ở các quốc gia phát triển, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phủ khắp toàn
cầu, do đó, tầm ảnh hưởng cũng rộng hơn.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học - công nghệ ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu
hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Vì vậy, đòi hỏi cần
được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển khoa học - công nghệ với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội.
Hai là, khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội - nhân văn...) do con người tạo ra và thông qua con người tác động trở lại đời sống
kinh tế - xã hội... Vì vậy, đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học - công nghệ một cách thích
ứng...
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: khoa học là tiền đề trực
tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất và mọi mặt đời sống xã hội, hình thành và phát triển kinh
tế tri thức, kinh tế số, xã hội số, chính phủ số… Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì nguồn lực chuyển mạnh từ nguồn lực hữu
hình là các tư liệu sản xuất sang nguồn lực vô hình là tri thức của loài người, trí tuệ của con người, trí tuệ
nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, in-tơ-nét vạn vật, thông tin, dữ liệu lớn
(big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi
thế thương mại, uy tín trên thương trường... Nguồn lực vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng, thậm chí giữ vai trò quyết định trong nền kinh tế tri thức. Chủ sở hữu nào mà sở hữu được nguồn lực
vô hình thì càng có cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh, vì khi sở hữu được những tri thức, trí tuệ con
người, trí tuệ nhân tạo, công nghệ tiên tiến hiện đại, công nghệ kỹ thuật số,... và vận dụng vào trong quá
trình sản xuất thì sẽ tạo ra những hàng hóa chiếm ưu thế vượt trội trên thị trường với năng suất lao động
cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá trị cá biệt thấp hơn, sức cạnh tranh cao hơn và thường chiến
thắng trong cạnh tranh, thu được lợi ích kinh tế tối đa. Chính điều này là động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất xã hội phát triển, là cơ sở để chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất của các yếu tố
tổng hợp (TFP), chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, phải coi phát triển khoa học -
công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; phải chuyển mạnh từ áp dụng, “bắt chước” công nghệ sẵn có
sang đổi mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một đột phá chiến lược.
Bên cạnh đó, cần có công nghệ “Made by Vietnam” để tạo ra hàng hóa “Made by Việt Nam”. Những yêu
cầu đó đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát
triển khoa học - công nghệ, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và
thực thi hiệu quả...
Kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ _
Kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trực tiếp vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức, thông tin.
Trong nền kinh tế tri thức, việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự
phát triển kinh tế, xã hội; tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là nền kinh tế được
phát triển chủ yếu dựa vào tri thức và công nghệ hiện đại. Cơ sở của nền kinh tế tri thức là tri thức (thể hiện
trong con người và trong công nghệ)...
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tri thức là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã
hội. Nó được thúc đẩy bởi sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ tiên tiến hiện đại,
nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển nhanh, mang tính đột phá của công nghệ
thông tin. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các sáng kiến, phát minh khoa học,... đã tạo ra tính linh hoạt, hiệu
quả cao cho hoạt động sản xuất.
Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, cao hơn so với kinh tế công nghiệp và
kinh tế nông nghiệp. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với phát triển
kinh tế - xã hội.
Có thể khái quát đặc điểm của kinh tế tri thức ở những mặt sau:
Thứ nhất, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức là nguồn lực vô hình to lớn, quan trọng nhất
trong đầu tư phát triển, nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Nền kinh tế tri thức lấy tri thức là nguồn lực
có vị trí quyết định nhất của sản xuất, là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển.
Thứ hai, nền kinh tế dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ. Nếu trong nền kinh
tế công nghiệp, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào tối ưu hóa và hoàn thiện công nghệ hiện có, thì trong nền
kinh tế tri thức lại dựa chủ yếu vào việc nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Trong nền
kinh tế tri thức, cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học - công
nghệ, đặc biệt là công nghệ chất lượng cao. Các quyết sách kinh tế được tri thức hóa.
Thứ ba, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi trọng lao động trí tuệ. Trong nền kinh
tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm số lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao
động trí tuệ. Lao động trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức
hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người. Học suốt đời, xã hội
học tập là nền tảng của kinh tế tri thức.
Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Quyền sở hữu trí tuệ là sự bảo đảm pháp lý cho
tri thức và sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trì và phát triển. Trong nền kinh tế tri thức,
nguồn lực trí tuệ và năng lực đổi mới là hai nhân tố then chốt để đánh giá khả năng cạnh tranh, tiềm năng
phát triển và sự thịnh vượng của một quốc gia. Các tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên
quan trọng. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận động và phát
triển của nền kinh tế tri thức.
Thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế tri thức chỉ được hình thành và phát triển
khi lực lượng sản xuất xã hội đã phát triển ở trình độ cao, phân công lao động mang tính quốc tế và theo đó
là hệ thống sản xuất mang tính kết nối giữa các doanh nghiệp các quốc gia trong một chuỗi giá trị sản
phẩm. Bởi vậy, nó mang tính toàn cầu hóa. Trong nền kimh tế tri thức, sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri
thức không còn nằm trong phạm vi biên giới một quốc gia. Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kinh tế
toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức.
Ngoài các đặc điểm trên, nền kinh tế tri thức còn là một nền kinh tế hướng đến sự phát triển bền vững, thân
thiện với môi trường; nền kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội, làm xuất hiện các cộng
đồng dân cư kiểu mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn ươm khoa học...
Để phát triển kinh tế tri thức cần những tiền đề sau:
Một là,  thể chế kinh tế và môi trường xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức. Thể chế kinh tế và
môi trường xã hội thuận lợi, minh bạch cho phép dòng chảy tự do của tri thức, đổi mới sáng tạo công nghệ,
hỗ trợ công nghệ - thông tin và truyền thông, khuyến khích các chủ doanh nghiệp sáng tạo và sử dụng tri
thức là trọng tâm của kinh tế tri thức.
Hai là, hệ thống giáo dục - đào tạo có chất lượng. Hệ thống giáo dục - đào tạo là điều kiện quan trọng để
người dân có cơ hội được học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức. Đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới,
học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển toàn diện con người trở thành
nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Ba là, hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại. Hạ tầng cơ sở thông tin là điều kiện cần thiết để tăng cường
sự trao đổi phổ biến và xử lý kiến thức. Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và
thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng của nền kinh
tế tri thức.
Kết cấu hạ tầng quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức là thông tin, việc tổ chức sản xuất trở nên linh hoạt
đặc biệt. Với mạng thông tin, tri thức truyền bá, phổ cập rộng rãi, mạng thông tin trở thành hệ thống cung
cấp nguyên liệu không biên giới cho hệ thống sản xuất và phân công lao động toàn cầu. Các hoạt động sản
xuất, kinh doanh trở nên sôi động, nhanh nhạy, gắn bó mật thiết với thị trường, tổ chức quản lý có hiệu lực
và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của không những chủ thể các tổ chức sản
xuất, kinh doanh mà còn bao hàm các chính phủ và các tổ chức quốc tế.
Bốn là,  hệ thống sáng tạo có hiệu quả. Mạng lưới các học viện, trường đại học, trung tâm nghiên cứu, tổ
chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn
cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước và sáng tạo ra các
tri thức mới cần thiết.
Năm là,  kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Với đặc trưng của nền kinh tế tri thức, kết cấu hạ tầng cứng là
quan trọng và cần thiết. Với tư cách là thành tố vật chất của lực lượng sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội luôn giữ vai trò đặc biệt.  Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội xác lập sự đồng bộ trong hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo ra tiền đề cho sự hình thành các trụ cột của nền kinh tế tri thức,
tạo ra môi trường cho sự phát triển của hệ thống sáng tạo từ đó mà thúc đẩy sự lan tỏa và sản sinh tri thức
mới thay vì chỉ là ứng dụng tri thức.
Giải pháp phát triển cách mạng khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức ở Việt Nam
Thứ nhất,  đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền
kinh tế tri thức. Cơ chế, chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới
dựa trên công nghệ mới và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp
kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.
Thứ hai,  phát triển mạnh nguồn lao động trí tuệ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Tập trung đầu tư phát
triển giáo dục, cải cách giáo dục. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nhân lành
nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân... Cần coi giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là đột phá để đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức.
Thứ ba, tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo
các tri thức khoa học - công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước
sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học - công nghệ tiến tiến của Việt Nam.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công
nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.
Thứ năm, đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu khoa học - công nghệ nhằm tạo nền tảng công nghệ phục vụ
phát triển đất nước theo hướng hiện đại và tạo ra các yếu tố nền tảng của kinh tế tri thức. Đổi mới cơ chế
quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ. Cơ chế đó phải hướng vào việc thúc đẩy khoa học - công nghệ
thực sự gắn kết với sản xuất - kinh doanh, khoa học xâm nhập vào thực tiễn sản xuất - kinh doanh làm ra
của cải và tri thức mới phục vụ trực tiếp công cuộc phát triển kinh tế  - xã hội… Cùng với việc đầu tư cho
nghiên cứu (chú trọng cả khoa học - công nghệ cùng với khoa học - xã hội và nhân văn), việc đẩy mạnh
ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại vào các khâu, các lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế tạo ra khả năng lan tỏa trong nền kinh tế theo hướng hiện đại, cũng cần được chú ý.
Thứ sáu, từng bước hình thành và phát triển tài nguyên trí lực. Tài nguyên trí lực là một kết cấu bao hàm
nhiều năng lực; nó cũng không phải là phép gộp đơn giản các nhân tố, như sức quan sát, khả năng của trí
nhớ, suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sức sáng tạo của con người, mà là sự kết hợp trong
một cấu trúc tạo nên giá trị của tài nguyên trí lực, trong đó, tầm quan trọng của tri thức, kỹ năng là yếu tố
then chốt.
Thứ bảy,  tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn ngoại lực kết hợp với nội lực để
phát triển khoa học - công nghệ. Trong quá trình hội nhập đó, đòi hỏi sự sáng tạo mới khai thác được
những lợi ích mà hội nhập có thể mang lại để phục vụ cho mục tiêu hiện đại hóa lực lượng sản xuất./.

Giáo dục Việt Nam, trong đó có giáo dục nghề nghiệp Việt Nam, chưa bao giờ gặp phải thách thức
kép của sự phát triển mạnh mẽ của thế giới hiện đại.
 
Bài toán về mô hình người lao động đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức chưa đi tới đáp số thì đã xuất
hiện bài toán về mô hình người lao động sống và làm việc với nền kinh tế kỹ thuật số (còn gọi là kinh tế
internet hay kinh tế web).
Có 4 thành tựu lớn về công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp 3.0 đã tạo điều kiện để xuất hiện nền
kinh tế tri thức. Đó là:
 
1. Nhân loại đã thắng được sức hút trái đất, mở đầu cho việc phát triển những công nghệ khám phá vũ trụ.
Ngày 12/4/1962, vệ tinh nhân tạo của người Nga đã mang con chó Laika vào khoảng không vũ trụ. 
Tiếp sau đó là chuyến bay vào vũ trụ của Iu. Gagarin (Nga), rồi A. Leonov (cũng người Nga), tiếp đến là
con tàu Apollo 8 có người lái bay xung quanh mặt trăng (Mỹ). 
Năm 1964, tàu Apollo 11 của Mỹ đã hạ cánh xuống mặt trăng. Amsstrong là người đầu tiên đặt chân tới
tiểu hành tinh này.
 
2. Ngày 13/7/1945, quả bom nguyên tử đầu tiên được thử nghiệm thành công tại sa mạc Alamogordo, bang
New Mexico. 
Những năm sau đã xuất hiện nhà máy điện hạt nhân, con tàu phá băng chạy bằng năng lượng nguyên tử...
Từ đó, phục vụ dân sinh đã có thêm năng lượng nguyên tử.
 
3. Năm 1994, nhóm người nghiên cứu người Pháp thuộc Phòng thí nghiệm Genethon đã lập được bản đồ
gen người.
Năm 1997, dưới sự chỉ đạo của Ian Wilmut (Scotland), người ta đã nhân bản vô tính con cừu Dolly. Lần
đầu tiên, nhân loại sáng tạo thành công một sinh linh.
Năm 2000, tiến sĩ Francis Collins (Mỹ) đã công bố bản đồ gen người, và sau đó, người ta đã giải mã được
hơn 95% bộ gen người.
 
4. Phát minh lớn nhất ở thế kỷ XX là sự ra đời của Internet. Chính Internet được coi là biểu tượng của Cách
mạng công nghiệp 3.0 - cuộc cách mạng được khởi nguồn từ ngành điện tử.
Từ đây, điện tử xâm nhập vào hệ thống kỹ thuật, tạo nên Tin học (Informatic) và người máy (Robot).
Cả 4 thành tựu vĩ đại của khoa học và công nghệ trên đây đã tạo ra sự hình thành của một nền kinh tế mới -
một nền kinh tế mà "chủ bài" của nó là dựa vào việc sáng tạo, chế biến, ứng dụng những tri thức
(Knowledge) để tạo ra giá trị gia tăng cao nhất. 
Người ta gọi nền kinh tế mới này bằng nhiều cái tên khác nhau như kinh tế học hỏi (Learning economy),
Kinh tế thông tin (Information economy)... và cuối cùng, tên được nhiều người lựa chọn là Kinh tế tri thức
(Knowledge economy).
Với cách hiểu sâu sắc và tầm nhìn xa rộng về nền kinh tế tri thức mà Ủy ban Quốc tế về sự phát triển giáo
dục thế kỷ XXI cho rằng, cuộc cải cách giáo dục trên thế giới phải đáp ứng yêu cầu con người của nền kinh
tế này, và như vậy phải tập trung vào 2 khái niệm luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau: Học tập
suốt đời (Lifelong Learning) và Xã hội học tập (Learning society).
Đến đây, nền giáo dục phải hướng vào việc đào tạo con người năng động về các phương diện chính trị,
kinh tế và xã hội, phát huy cao độ năng lực sáng tạo trên cơ sở những quyền con người. 
Họ phải học tập suốt đời để tiếp cận những tri thức mới liên tục xuất hiện, và do đó, họ phải có năng lực tự
học và đề cao học cách học (Learning how to learn). Như vậy, xã hội tri thức chính là xã hội học tập.
Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển khoa học và công nghệ của thế giới hiện đại đã dẫn đến cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 với 4 thành tựu lớn sau đây.
 
+ Trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence hay machine intelligence, AI), còn gọi là trí thông minh nhân tạo.
Trí tuệ nhân tạo được nói đến như là một khả năng học hỏi và nhận thức của máy móc, thể hiện ở những
tác vụ điều khiển, lập kế hoạch, lập lịch (scheduling), nhận dạng chữ viết tay, tiếng nói, khuôn mặt, chơi
cờ, chơi một số trò chơi, chẩn đoán bệnh, trả lời khách hàng.
Cho đến nay, chúng ta chưa thể biết Trí tuệ nhân tạo sẽ thông minh đến đâu, nhưng chắc chắn rằng, khi nó
đạt tới trình độ hoàn thiện thì lao động con người sẽ hoàn toàn không như bây giờ.
+ Robot 3D hay còn gọi là công nghệ sản xuất đắp dần, gồm một chuỗi công đoạn khác nhau để tạo ra một
vật thể 3 chiều, với hình dạng bất kỳ, được tạo ra từ một mô hình 3D. Máy in 3D về thực chất là một loại
robot công nghiệp. Nó có thể in ra chiếc ô tô, phòng làm việc, các loại đồ dùng v.v...
+ Dữ liệu khổng lồ (Big data) là một thuật ngữ dùng để chỉ một tập hợp dữ liệu rất lớn và phức tạp mà các
ứng dụng xử lý dữ liệu truyền thống không thực hiện được.
Những dữ liệu tạo thành các kho dữ liệu lớn có thể đến từ các nguồn như các trang web, mạng xã hội, ứng
dụng dành cho các máy tính để bàn và ứng dụng trên các thiết bị di động, các thí nghiệm khoa học, các
thiết bị cảm biến...
+ Internet vạn vật (Internet of things). Thực chất là mạng lưới vạn vật kết nối internet hay mạng lưới thiết
bị kết nối Internet. 
Nó là hạ tầng cơ sở toàn cầu phục vụ cho xã hội thông tin, hỗ trợ các dịch vụ chuyên sâu thông qua các vật
thể (thực và ảo) được kết nối với nhau nhờ vào công nghệ thông tin và truyền thông hiện hữu được tích
hợp.
 
Những thành tựu này cũng là đặc trưng của nền sản xuất hiện đại, thể hiện ở những điểm sau:
- Từ sản xuất theo dây chuyền ra hàng loạt những sản phẩm cùng mẫu mã sang sản xuất hàng loạt sản
phẩm theo các đơn đặt hàng. Đó là dây chuyền làm ra sản phẩm có cá tính.
- Từ lao động với những thao tác trực tiếp trên máy và các công cụ sang làm việc cùng Robot và những
công cụ thông minh.
- Từ lao động lặp lại các thao tác sang lao động với những ứng dụng tri thức.
- Từ sản xuất lấy vốn làm cơ sở sang sản xuất dựa trên sự sáng tạo nhờ những tri thức mới.
- Từ lao động với những kỹ năng thao tác khéo léo, nhanh nhẹn sang kỹ năng tư duy sáng tạo.
- Từ học tập để có việc làm hoặc tạo việc làm sang học tập để khởi nghiệp, sáng tạo ra các mô hình sản
xuất mới.
- Từ chỗ sử dụng những lao động đã qua đào tạo đến sử dụng những lao động có thể đào tạo, có khả năng
học tiếp, có năng lực tự học, học tập suốt đời.
Với những đặc trưng ấy, hệ thống giáo dục nghề nghiệp đứng trước nhiều thách thức mới, như:
- Người lao động rất dễ thất nghiệp vì nhiều nghề cũ sẽ mất đi, nhiều nghề mới xuất hiện.
- Hiện tượng thất nghiệp sẽ trầm trọng hơn khi Robot có thể đảm nhiệm nhiều vị trí làm việc của người lao
động. Trong những trường hợp này, việc học nghề mới là cần hoặc tốt nhất là có khả năng di chuyển nghề
nghiệp.
- Tri thức hóa lao động để tạo ra những cán bộ, công nhân, nhân viên trong doanh nghiệp, trong cơ quan
thành những lao động tri thức (Knowledge workers). Ngoài yêu cầu cao về tay nghề chuyên môn, tất cả
người lao động đều phải biết ngoại ngữ, giỏi về công nghệ thông tin và những phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp.
Vấn đề đặt ra là phải tìm kiếm được mô hình đào tạo phù hợp với nền văn hóa nước nhà, nhưng lại vẫn có
được những năng lực lao động tương xứng chí ít với trình độ trung bình của nhiều quốc gia hiện đại.
Nhiều nước muốn rút ngắn giai đoạn đuổi kịp các nước đi trước bằng cách sao chép mô hình kinh tế của
họ. Điều này sẽ dẫn đến những thất bại. 
Nói về vấn đề này, ông André Dazin có một ý kiến hay: Nhiều quốc gia bị thôi miên bởi sự phát triển của
những quốc gia có nền sản xuất tiên tiến nên đã copies nguyên mẫu mô hình phát triển của họ và thường
không thành công. 
Vấn đề ở đây là không phải bắt chước cách làm mà là xác định cho mình mô hình nhân cách nào để phát
triển. 
 
Vậy, chúng ta sẽ làm gì để có được mô hình nhân cách?
Mô hình nhân cách trong giáo dục chính là mục tiêu đào tạo của nền giáo dục. Hiện nay, theo đường lối
giáo dục của Đảng, nước ta đang thực hiện một nền giáo dục mở (Open education), xây dựng cả nước
thành một xã hội học tập (Learning society). 
Đó là một xã hội mà mỗi công dân đều phải học tập suốt đời để thích ứng và thế giới đang thay đổi mau lẹ,
khó lường. Ta gọi công dân trong xã hội học tập là công dân học tập (Learning Citizen).
 
Tôi đề xuất với Tổng cục giáo dục nghề nghiệp mô hình công dân học tập như hình dưới đây. 
Mô hình công dân học tập dưới lăng kính giáo dục nghề nghiệp.
 
Sắp tới, Nhà nước sẽ ban hành Bộ tiêu chí đánh giá công nhận danh hiệu "Công dân học tập". Mô hình trên
là một gợi ý về xây dựng công dân học tập. 
Xét theo quan điểm đào tạo con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên và ở góc độ xây dựng xã hội học
tập, đưa con người vào hệ thống giáo dục mở: "Giáo dục thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời",
chúng tôi đưa ra một mô hình nhân cách để tham khảo, thể hiện ở hình dưới đây.

Mô hình nhân cách theo quan điểm Hồ Chí Minh.


 
Hồ Chí Minh quan niệm rằng, nền giáo dục cách mạng phải đào tạo ra người công dân tốt, người lao động
tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt. 
Đây là 4 vai trò mà mỗi người có thể phải đóng trong cuộc đời, do sự phân công lao động xã hội (không
nên hiểu là nền giáo dục có 4 mục tiêu đào tạo).

1. Tổng quan về CMCN 4.0 và sự hình thành của “Giáo dục 4.0”
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây, đại thể là cuộc cách
mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ nano,... với nền tảng là các đột phá của công nghệ số.
Khái niệm “công nghiệp 4.0” được đưa ra vào năm 2011 tại Hội chợ Hannover, giới thiệu các dự kiến của
chương trình công nghiệp 4.0 của nước Đức, nhằm nâng cao nền công nghiệp cơ khí truyền thống của Đức.
Điều khác biệt giữa CMCN 4.0 với 3 cuộc cách mạng trước đó là CMCN 4.0 không gắn với sự ra đời của
một công nghệ nào cụ thể mà là kết quả hội tụ của nhiều công nghệ khác nhau, trong đó trọng tâm là công
nghệ nano, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin - truyền thông. CMCN 4.0 bắt nguồn từ cuộc cách
mạng lần thứ 3, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh
học.

Cuộc CMCN 4.0 đặt ra thách thức ngành giáo dục phải thay đổi cách dạy học cho phù hợp. Người thầy
không còn là người cung cấp, truyền đạt thông tin tri thức cho người học mà còn có nhiệm vụ giúp người
học phát triển phẩm chất, năng lực bản thân. Theo Dương Trọng Tấn, 2018, trích báo cáo của hãng tư vấn
Ernts & Young mang tên “Leapfrogging to Education 4.0” đưa ra một cách “gắn chấm” đối với giáo dục
đại học ở phương Tây.
Theo đó, Education 1.0 bắt đầu được đánh dấu cùng với I1.0. Cách mạng công nghiệp dẫn đến nhu cầu
lượng người đi học tăng lên, nhà nước chính thức tham gia vào công cuộc giáo dục quốc dân. Trước đó, số
lượng người đi học giới hạn ở tầng lớp tinh hoa, và giáo dục còn thuộc trách nhiệm của các tổ chức tôn
giáo là chính.
Education 2.0 xuất hiện khi số lượng lớn trường đại học ra đời, gắn với việc phát triển vượt bậc của công
nghệ in ấn và xuất bản. Thời kỳ này đại học chủ yếu giảng dạy và nghiên cứu, và vẫn chưa phổ biến cho số
đông.
Education 3.0 đánh dấu sự xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng của công nghệ trong lớp học. Đầu thế kỷ
21 này, người ta có thể thấy nhiều lớp học không còn bảng phấn, mà thay vào đó là máy tính cá nhân,
phương tiện giảng dạy tương tác. Lớp học đã đa dạng hóa, giáo dục trở nên phổ cập.
Giáo dục, từ 1.0 đến 3.0 vẫn quan tâm nhiều hơn đến việc dạy. Thay vì cầm cuốn sách để đọc chép, thì phát
bài giảng trên TV, hoặc ngày nay là đưa bài giảng lên YouTube. Nửa cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỉ 21 chứng
kiến những cải cách giáo dục theo đường lối “lấy học trò làm trung tâm”, sự tập trung bắt đầu chuyển từ
việc “dạy” sang việc “học”. Các lớp học đã tương tác nhiều hơn, hoạt động nhiều hơn, sinh viên đã tích cực
chủ động nhiều hơn. Nhưng do nhiều nguyên nhân về chi phí, sư phạm, hạn chế về công nghệ nên lớp học
vẫn theo dạng một thầy nhiều trò, chung một chương trình.
Giáo dục 4.0 là một mô hình giáo dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản
lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo và năng suất lao động trong xã hội tri thức.
Mô hình này cũng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của giảng viên, sinh viên; tạo điều kiện cho hợp tác giữa
giáo dục đại học và sản xuất công nghiệp; gắn kết cùng các nỗ lực phát triển kinh tế khu vực và địa
phương... Giáo dục 4.0 giúp hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc và mọi nơi, giúp người học có thể cá
nhân hóa, hoàn toàn quyết định việc học tập theo nhu cầu của bản thân.
Bên cạnh đó, Giáo dục 4.0 sẽ giúp thay đổi tư duy và cách tiếp cận về mô hình đại học. Trường đại học
không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn,
mang giá trị cho xã hội. Trường không chỉ đóng khung trong các bức tường của giảng đường, lớp học hay
phòng thí nghiệm, mà phải mở rộng kết hợp với các doanh nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một
hệ sinh thái giáo dục.
Giáo dục 4.0 sẽ hướng sự tập trung đến việc học cá nhân hóa triệt để hơn. Với sự ra đời của hàng loạt nội
dung học tập số hóa, sinh viên có thể lựa chọn nội dung học tập cho phù hợp với mục tiêu của mình. Các
hệ thống học tập số hóa cũng giúp việc đánh giá có tính thích ứng hơn, cung cấp phản hồi về hiệu quả học
tập cùng với gợi ý cho các nội dung học tập tiếp theo. Tử đó, phương pháp dạy và học cũng cần phải thay
đổi theo để thích ứng với nền giáo dục 4.0, trước tác động của CMCN 4.0. Ta có thể phác họa đặc điểm của
các nền giáo dục qua bảng so sánh sau:
Bảng 1: So sánh các nền giáo dục theo phân chia bằng “gắn chấm”

Theo PGS.
TS. Đinh Đức Anh Vũ trích Minh Châu, 2017
2. Đối với người dạy
Dạy học dựa trên nhu cầu của người học và biết cách tổ chức để học sinh, sinh viên thực hiện bằng được
những nhu cầu bản thân là cả một nghệ thuật. Nó đòi hỏi người dạy phải thật sự tâm huyết, năng động và
sáng tạo, phải thay đổi tư tưởng trong cách dạy, không chỉ là một người truyền đạt kiến thức mà còn là
người chia sẽ các phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học và cách tích lũy, tìm tòi kiến thức; giúp người
học phát huy được khả năng tự nghiên cứu, tự học của bản thân.
(1) Thay đổi phương pháp giảng dạy: Thay đổi quan trọng nhất là giảng viên phải thay đổi phương pháp
giảng dạy từ người truyền đạt các kiến thức trở thành người giúp sinh viên thay đổi kỹ năng giải quyết vấn
đề, tư duy sáng tạo và xóa mù thông tin. Cách dạy cũ không thể tạo ra những công dân thích hợp cho thế kỉ
XXI – những công dân toàn cầu.

Thay đổi về tư duy, giúp sinh viên có kỹ năng giải quyết vẫn đề, tư duy sáng tạo là rất quan trọng, giúp
sinh viên cần làm gì, học gì và như thế nào để đạt được mục đích học tập mình đề ra. Nếu đến trường chỉ
được truyền đạt kiến thức thì sách, sách điện tử, công nghệ dạy học được trang bị đầy đủ với không gian
rộng hơn rất nhiều so với lớp học,... cũng có thể đảm đương nhiệm vụ này.
Trong xã hội thông tin, giảng viên phải giúp sinh viên điều chỉnh định hướng về chất lượng và ý nghĩa của
nguồn thông tin, phải là nhà giáo dục chuyên nghiệp có đầu óc sáng tạo, biết phê phán, tư duy độc lập,
năng lực hợp tác tích cực và hỗ trợ có hiệu quả giữa người học với những gì họ muốn biết, là người cung
cấp cách hiểu mới cho người học. Sự biến đổi lớn về vai trò người dạy - truyền thụ kiến thức theo cách
truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối, họ phải chuyển sang chức năng hướng dẫn người học.
Với điện toán đám mây (cloud computingy), công nghệ số kết nối toàn cầu và giao tiếp trong không gian
rộng và thời gian đa chiều, bởi trong thế giới “ảo” lại hóa thật và sâu, tưởng rộng và xa nhưng rất gần và
hữu ích với việc học và cả trong cuộc sống. Đồng thời người dạy cũng cần thay đổi phương pháp giảng
dạy, dần dần chuyển đổi từ phương pháp đọc – chép - học thuộc lòng sang hình thức giảng dạy khác phù
hợp hơn như dạy học nêu vấn đề, thảo luận nhóm, seminar, báo cáo – thảo luận, học tập lý thuyết kết hợp
sinh hoạt thực tế,....
(2) Nâng cao năng lực sử dụng các phương tiện công nghệ: Người dạy phải có năng lực quản lý tài nguyên
mạng, có khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ phục vụ quá trình dạy học, chuyển đổi
từ các hình thức giảng dạy truyền thống sang các hình thức giảng dạy áp dụng công nghệ số hóa. Các hình
thức học trực tuyến E-Learning: học thông qua các thiết bị điện tử; Mobile Learning: Học thông qua các
thiết bị di động; Blended-learning: mô hình học kết hợp giữa học trên lớp và học online; context aware u-
learning: học theo ngữ cảnh, thông qua các thiết bị định vị; collaborative environments: học trong các môi
trường mang tính tương tác cao; cloud computing: sử dụng công nghệ điện toán đám mây cần được đẩy
mạnh áp dụng.
(3) Bồi dưỡng năng lực chuyên môn bằng các phương pháp hiện đại, tiên tiến: Hiện nay, nhiều giảng viên
chưa tiếp cận được với các mô hình dạy học mới sẽ làm hạn chế việc rèn kỹ năng nghề cho sinh viên sư
phạm. Vì thế công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên nên kết hợp các mô hình đào tạo
tiên tiến 4.0, đào tạo trực tuyến, từ xa để giảng viên sư phạm vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp
cận các mô hình dạy học mới. Các hình thức dạy học này sẽ giúp giảng viên bổ sung vào kiến thức nghiệp
vụ, làm phong phú hơn các hình thức dạy học của mình.
Bên cạnh đó, có một số mô hình giảng viên dạy trực tuyến đã và sẽ được ứng dụng trong đào tạo và bồi
dưỡng giảng viên như Mô hình E-learning (đây là mô hình hệ thống quản lý qua mạng); mô hình B-
learning (mô hình dạy học kết hợp hình thức học tập trên lớp với hình thức học hợp tác qua mạng máy tính
và tự học); mô hình ứng dụng kỹ thuật hội thảo truyền hình (là dịch vụ cho phép nhiều người hội thảo từ
xa, với sự xuất hiện của hình ảnh và âm thanh từ một người đến những người còn lại); Mô hình 4.0 là mô
hình giáo dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp,
tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo và năng suất lao động trong xã hội tri thức.
(4) Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học: Đẩy mạnh công tác NCKH, bồi dưỡng giảng viên theo hướng
nghiên cứu. Bên cạnh việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ, giảng viên sư phạm cần phải bồi
dưỡng năng lực NCKH.
(5) Nâng cao trình độ ngoại ngữ: Để tiếp cận những tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến do sự phát
triển của công nghệ 4.0 mang lại, con người không thể không thông thạo ngoại ngữ. Đây là điều cần thiết
để giảng viên hội nhập với xu hướng kết nối toàn cầu, hội nhập với giáo dục đại học thế giới. Vì thế người
giảng viên cần nâng cao trình độ ngoại ngữ bằng nhiều biện pháp khác nhau như học theo các chương trình
đào tạo, tự học hay thông qua sách báo, phim ảnh,....
3. Đối với người học
“Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để làm người”, đó là bốn trụ cột của giáo dục mà
tổ chức UNESCO đưa ra. Giáo dục phải tạo ra những giá trị thực sự phù hợp với nhịp sống của thời đại
mới, những con người có đức, có tài sẽ công hiến hết mình cho sự phát triển của xã hội.
Thời đại đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng
hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ
liệu. Đây cũng là những kỹ năng mà sinh viên Việt Nam đang thiếu nhiều nhất. Để giải quyết vấn đề này,
GD 4.0 sẽ là một trong những giải pháp hiệu quả mà GD đại học cần triển khai.
Trong nền giáo dục tương lai, người học phải biết cần cái gì, cần trang bị những hiểu biết và kỹ năng gì và
sau đó tìm hiểu bản chất của nó, trái với hiện tại là có rất nhiều thứ người học bị nhồi nhét và đưa vào đầu
mà không biết nó thực sự có ích hay không cho cuộc sống tương lai. Hãy sống và học tập theo niềm đam
mê của chính mình. Học tập cùng nhau, học hỏi lẫn nhau, phương pháp dạy lấy người học là trung tâm, vai
trò giảng viên chỉ là người hỗ trợ, hướng dẫn và xây dựng được một cộng đồng học tập cùng chung một ý
tưởng, một khát vọng, đó là nền giáo dục 4.0. Để đạt đượ điều đó, người học cần phải:
(1) Học mọi lúc, mọi nơi (đa dạng địa điểm và thời gian): Sinh viên có nhiều cơ hội học tập trong những
khoảng thời gian khác nhau và ở những nơi khác nhau. Việc học tập sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện khi có
các công cụ học tập trực tuyến hỗ trợ cho việc học tập từ xa và tự học. Các lớp học dường như sẽ bị đảo
ngược so với các lớp học truyền thống hiện nay, phần lý thuyết sẽ là tự học, học trực tuyến bên ngoài lớp
học, còn phần thực hành sẽ được giảng dạy và hướng dẫn trực tiếp trên lớp.
(2) Cá nhân hóa việc học tập: Sinh viên sẽ học cách thích nghi với các công cụ hỗ trợ học tập phù hợp với
khả năng của mỗi cá nhân. Mỗi nhóm sinh viên có trình độ khác nhau sẽ được thử thách bởi các nhiệm vụ
có mức độ khó khăn khác nhau. Sinh viên có cơ hội thực hành nhiều hơn đối với các học phần khó cho đến
khi đạt yêu cầu. Sinh viên sẽ được củng cố kiến thức cũng như có được kinh nghiệm tích cực trong quá
trình học tập độc lập của mình, họ sẽ có động lực hơn cũng như tự tin hơn về khả năng học tập của mình.
Hơn nữa, giảng viên sẽ dễ dàng thấy được trình độ của từng sinh viên để can thiệp và giúp đỡ kịp thời.
(3) Tự do lựa chọn: Mặc dù mỗi môn học được giảng dạy với cùng một mục đích, tuy nhiên, con đường để
đạt được mục đích đó thì có thể khác nhau đối với mỗi sinh viên. Mỗi sinh viên đều có thể lựa chọn cho
mình một chiến lược học tập của riêng mình với những công cụ học tập mà họ cảm thấy là cần thiết và phù
hợp nhất với họ. Sinh viên sẽ học tập cùng với các thiết bị hỗ trợ khác nhau, các chương trình khác nhau và
các công nghệ khác nhau dựa trên sở thích riêng của từng người. Học tập theo phương thức truyền thống
kết hợp với học trực tuyến sẽ tạo nên sự thay đổi quan trọng trong xu hướng học tập hiện nay. Hiện nay,
chương trình học tập theo học chế tín chỉ đã đáp ứng được một phần của vấn đề này; xu hướng sắp tới
người học sẽ quyết định học tập gì, cần kiến thức gì cho bản thân để vận dụng vào cuộc sống sau khi tốt
nghiệp ra trường.
(4) Thực hiện dự án: Nghề nghiệp trong tương lai sẽ gắn với nền kinh tế tự do, do vậy sinh viên ngày càng
phải thích nghi với việc học tập theo kiểu dự án. Điều này có nghĩa học phải học cách áp dụng các kỹ năng
trong một thời gian rất ngắn để giải quyết nhiều tình huống khác nhau. Sinh viên nên sẵn sàng làm quen
với các kỹ năng dựa trên dự án trong trường đại học, đó là các kỹ năng quản lý tổ chức, kỹ năng quản lý
thời gian có thể được giảng dạy như những điều cơ bản mà mọi sinh viên có thể sử dụng trong quá trình
học tập của mình.
(5) Trải nghiệm thực tế: Mỗi một chương trình học đều được gắn liền với một lĩnh vực ngành nghề nhất
định trong xã hội, do vậy, kinh nghiệm trong từng lĩnh vực sẽ được ẩn mình trong từng chương trình, từng
môn học. Các trường đại học sẽ tạo nhiều cơ hội để sinh viên có được các kỹ năng thực tế ở mỗi lĩnh vực
đại diện cho chương trình học của mình. Điều này có nghĩa là chương trình sẽ tạo ra nhiều khoảng trống
cho sinh viên hoàn thiện thông qua thực hành thực tế, tư vấn và tham gia vào các dự án hợp tác.
(6) Giải thích số liệu: Mặc dù toán học được coi là một môn học có thể tính toán và giải thích, tuy nhiên
phần tính toán này sẽ trở nên không quan trọng trong tương lai gần khi máy tính đã làm thay phần tính
toán, thống kê mô tả và phân tích dữ liệu cũng như dự đoán tương lai. Do đó, sự giải thích của con người
về những dữ kiện đó sẽ trở thành một phần quan trọng hơn ở chương trình giảng dạy trong tương lai. Áp
dụng kiến thức lý thuyết cho các con số, sử dụng lý luận của con người để suy luận logic và xu hướng từ
những dữ liệu này sẽ trở thành một nền móng căn bản của việc học toán học.
(7) Tư vấn sẽ trở nên ngày càng quan trọng hơn: Sinh viên sẽ ngày càng độc lập hơn trong việc học tập của
mình, lấy tự học là chính, giáo viên như một người hướng dẫn và là một tâm điểm trong nguồn dữ liệu
thông tin khổng lồ mà sinh viên sẽ phải đi qua.
4. Kết luận
Trước tác động của CMCN 4.0 thì giáo dục 4.0 là xu thế tất yếu trong tương lai. Mọi thứ đều được thay đổi
theo hướng hiện đại. Mỗi tổ chức, cá nhân đều phải có nhận thức rõ ràng về sự thay đổi này và tự chuẩn bị
cho mình những kiến thức và kỹ năng phù hợp để dễ dàng đón nhận sự thay đổi hiện đại của thế giới. Giáo
dục được coi là một trong những ngành phải tiên phong trong việc thay đổi để tiếp cận với sự thay đổi của
cuộc CMCN 4.0.
Mục tiêu đào tạo cũng phải thay đổi hướng tới đào tạo không chỉ năng lực con người mà còn là những kỹ
năng phát triển và tự phát triển bản thân, người học sau khi ra trường phải có tư duy sáng tạo và dễ dàng
tiếp cận với nền kỹ thuật hiện đại cũng như đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cao của xã hội. Do đó, bước thay đổi
đầu tiên và quan trọng là người dạy và người học cần thay đổi tư tưởng, thay đổi cách dạy và học phù hợp
trước tác động của CMCN 4.0 và nền giáo dục 4.0.

1. CMCN 4.0 LÀM THAY ĐỔI GDNN


CMCN nói chung là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất kéo sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế -
xã hội, văn hóa và kỹ thuật. CMCN khiến lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo ra lực lượng vật chất
khổng lồ cho xã hội. Việt Nam cũng nằm trong sự tác động của cuộc CMCN 4.0 nhưng có lẽ lĩnh vực
GDNN chịu nhiều tác động nhất.
Trong những năm qua, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu trong phát triển hệ thống GDNN, có sự
thống nhất trong quản lý nhà nước với tổng số 1.914 cơ sở GDNN, bao gồm 399 trường cao đẳng, 462
trường trung cấp và 1.053 trung tâm GDNN…
Tuy nhiên, chỉ có hơn 79% số sinh viên cao đẳng ra trường có việc làm, con số này ở bậc trung cấp là trên
82%1. Trong khi đó, Việt Nam có hơn 55 triệu lao động. Điều đó cho thấy, chúng ta chỉ mới giải quyết việc
làm về mặt số lượng, còn chất lượng nguồn nhân lực chưa được nâng lên đáng kể. Trong bối cảnh CMCN
4.0 hiện nay, GDNN Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để bứt phá, cũng như gặp phải những thách thức mới.
2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GDNN
GDNN có vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Trong đó, cuộc CMCN 4.0 cũng
đang đặt ra nhiều thách thức mới, đặc biệt trong bối cảnh thị trường lao động thay đổi nhanh chóng, trình
độ công nghệ và tổ chức sản xuất liên tục phát triển.
Về cơ hội đối với GDNN
Một là,  cuộc CMCN 4.0 xuất hiện khi Việt Nam đang trong thời kỳ “dân số vàng” giúp chúng ta tận dụng
hiệu quả cơ cấu “dân số vàng”. Vấn đề đặt ra cho GDNN Việt Nam là lựa chọn nắm bắt cơ hội, thành tựu
của cuộc CMCN 4.0 hay để trôi qua. Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị và ý chí của người Việt Nam,
chúng ta sẵn sàng vượt qua thách thức. Đây thực sự là cơ hội để dân tộc Việt Nam thực hiện khát vọng
phồn vinh2.
Hai là, hệ thống các cơ sở dạy nghề, các trường trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng ở Việt Nam có bước
phát triển cả về quy mô và chất lượng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Chất lượng
và hiệu quả đào tạo GDNN đã có những chuyển biến tích cực, từng bước chuyển từ hướng “cung” sang
hướng “cầu”, gắn với dự báo nguồn nhân lực, dự báo về việc làm, yêu cầu của doanh nghiệp.
Về thách thức với GDNN
Thứ nhất, nhận thức về học nghề của người dân, đầu tư của nhà nước và của xã hội, của doanh nghiệp đã
được quan tâm hơn, song trên thực tế tính chủ động, sự phối hợp với các cơ sở GDNN, phát triển nguồn
nhân lực của doanh nghiệp chưa cao, dẫn đến tính hiệu quả của doanh nghiệp trong hợp tác với trường
nghề còn thấp… Công tác xây dựng chiến lược gặp khó khăn do chưa có chiến lược cụ thể về phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền và cơ cấu trình độ đào tạo
(trình độ sơ cấp và ngắn hạn vẫn chiếm tỷ lệ chủ yếu, lên tới gần 90%). Công tác tuyển sinh GDNN còn
gặp khó khăn, đặc biệt ở những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, ngành nghề năng khiếu. Trong khi đó,
mạng lưới cơ sở GDNN chưa được quy hoạch, sắp xếp hiệu quả, chưa phân bổ hợp lý giữa các vùng, miền.
Thứ ba, việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GDNN chưa được quan tâm đúng
mức. Cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác dự báo nhu cầu đào tạo
nghề nghiệp chưa được cải thiện; sự tham gia của doanh nghiệp trong GDNN còn bị động, chưa có sự gắn
kết với cơ sở GDNN dẫn tới chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu. Chương trình, giáo trình đào tạo nghề chưa
được thường xuyên cập nhật, bổ sung phù hợp.
Thứ tư, lao động Việt Nam chưa được đào tạo bàn bản, kiến thức và tay nghề còn hạn chế, nhân lực Việt
Nam còn thiếu kỹ năng mềm như ngôn ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, tác
phong công nghiệp và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp 3. Công tác quản lý nhà nước về GDNN chưa thoát
được tư duy bao cấp, kế hoạch hóa, chưa đủ sức kiến tạo cho sự phát triển của hệ thống GDNN trong tương
lai.

3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GDNN


Trước hết, nâng cao nhận thức chung trong toàn xã hội đối với những thay đổi nhanh chóng từ cuộc
CMCN 4.0. Việc nghiên cứu về những tác động tích cực và tiêu cực từ CMCN 4.0 sẽ giúp cho Việt Nam
có được những luận cứ khoa học và sát thực tiễn như là một nội dung bắt buộc của việc phân tích bối cảnh
để điều chỉnh những chỉ tiêu, thông số của các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung và dài hạn. Xây
dựng kịch bản nhằm thích ứng với tình hình thay đổi do CMCN 4.0 đem lại, nhất là vấn đề việc làm cho
NLĐ.
Hai là, đổi mới cơ chế, chính sách trong việc giao quyền tự chủ hoàn toàn cho các cơ sở GDNN về nhân
sự, tài chính, cơ sở vật chất cũng như việc xây dựng kế hoạch hoạt động. Thực hiện cơ chế đặt hàng và đấu
thầu đào tạo theo kết quả đầu ra, không phân biệt trường công lập hay trường tư thục với cơ chế giá dịch vụ
trong đào tạo trên cơ sở tính đúng, tính đủ theo cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí của
từng ngành nghề và cấp trình độ đào tạo.

Ba là, cải thiện hệ thống thông tin dữ liệu, báo cáo, dự báo đáp ứng yêu cầu phát triển hệ thống; xây dựng
các tiêu chuẩn ở nhiều cấp trình độ khác nhau, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Ưu tiên phát
triển mô hình hội đồng kỹ năng nghề ở nhiều ngành nghề khác nhau, đào tạo trong nội bộ doanh nghiệp,
đưa GDNN tiếp cận tốt hơn nữa đối với người dân và xã hội.

Bốn là, chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp, chuyển mạnh đào tạo theo năng
lực, chú trọng phát triển năng lực sáng tạo và khả năng khởi nghiệp để có thể tiếp thu, làm chủ những tiến
bộ công nghệ mới. Các cơ sở GDNN cần chủ động xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra một
cách hợp lý về kỹ năng mềm, kỹ năng khởi nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, bảo vệ môi trường, an toàn lao
động, quyền con người;...

Năm là, xây dựng chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với
các ngành nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn. Người tốt nghiệp cao đẳng cần được công nhận
danh hiệu kỹ sư thực hành hoặc cử nhân thực hành. Áp dụng công nghệ đào tạo tiên tiến của các nước phát
triển, ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập, quản lý đào tạo
Sáu là, tăng cường kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp, đào tạo gắn với nhu cầu thị trường, việc làm
bền vững và an sinh xã hội. Trong đó, doanh nghiệp cần tham gia tất cả các công đoạn của quá trình đào
tạo từ việc xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo đến việc thi, kiểm tra, xét công nhận tốt nghiệp. Hình
thành mối quan hệ chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và các trung tâm giới thiệu việc làm nhằm hỗ trợ người học
tìm việc làm sau khi tốt nghiệp; chú trọng gắn kết giữa đào tạo với xuất khẩu lao động.

TỪ sản xuất hàng loạt SANG sản xuất hàng loạt theo đơn đặt hàng.
TỪ người lao động phục vụ máy và công cụ SANG máy và công cụ phục vụ người lao động (rôbốt sẽ làm
thay thế phần lớn người làm việc).
TỪ lao động thực hiện nhiệm vụ một cách lặp đi lặp lại SANG lao động ứng dụng tri thức.
TỪ lấy vốn làm trọng SANG lấy tri thức làm trọng.
TỪ lấy vốn làm đầu SANG lấy tri thức làm đầu khi khởi nghiệp sáng tạo.
TỪ chủ yếu kỹ năng tay chân SANG chủ yếu kỹ năng tư duy.
TỪ việc làm truyền thống SANG việc làm xanh.
TỪ tìm việc làm SANG tự tạo việc làm và khởi nghiệp sáng tạo.
TỪ tuyển dụng đã qua đào tạo SANG tuyển dụng có thể đào tạo được.
TỪ đào tạo dựa vào nội dung SANG  học để học tiếp (học tập suốt đời).

You might also like