You are on page 1of 5

VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114

VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nguyễn Thị Hiền, Trường Đại học Kinh tế - Kĩ thuật Công nghiệp

Ngày nhận bài: 25/05/2018; ngày sửa chữa: 16/06/2018; ngày duyệt đăng: 25/06/2018.
Abstract: After three decades of reform, Vietnam is catching up with the explosion of the
industrial revolution 4.0 and implementing industrialization in parallel with developing
knowledge-based economy. It is also an essential trend that promotes the development of
productive forces in our country. In the knowledge-based economy, knowledge is the key factor
of production, the advantage of competition and the quality of human resources and knowledge of
human is acquired through education and training. Therefore, education and training development
is a driving force, the resource of knowledge-based economy development, and is a vital issue in
the current trend of globalization and international integration.
Keywords: Education and training, knowledge-based economy, education and training role.

1. Mở đầu cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương
Thực tiễn đã chứng minh, kinh tế tri thức (KTTT) là trình, kế hoạch phát triển KT-XH.
giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất xã hội; Xuyên suốt các kì Đại hội, Đảng ta luôn coi GD-ĐT
phát triển KTTT là xu thế tất yếu trong quá trình sản xuất là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước, là phương
vật chất của xã hội. Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước phải tiện chủ yếu để quyết định chất lượng con người, là nền
gắn với phát triển KTTT. Phát triển KTTT tạo nên bước tảng của chiến lược con người. Từ thực tiễn phát triển
đột phá trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và đó của các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới đang trong quá
cũng chính là cách thức để “rút ngắn” quá trình CNH, trình thực hiện bước chuyển tiếp trình độ phát triển từ
HĐH. Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, để tạo kinh tế công nghiệp sang hậu công nghiệp và KTTT.
động lực cho sự phát triển KTTT, phải chú trọng đến phát Những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ
triển GD-ĐT là vấn đề sống còn ở nước ta hiện nay. hiện đại đã biến tri thức thành yếu tố quan trọng bên trong
Vai trò của GD-ĐT được thể hiện rõ trong quan điểm quá trình sản xuất và quyết định sự phát triển của nền
của Đảng ở các kì đại hội. Tại Nghị quyết Trung ương 2 kinh tế. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố
(khoá VIII) đã khẳng định: “Phát triển GD-ĐT là nền quyết định nhất đối với sự phát triển KT-XH.
tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH trong giai 2. Nội dung nghiên cứu
đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay” [1]. Tiếp đó, Đại 2.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế tri thức
hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng nhấn mạnh: GD-ĐT Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa IX
là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH,
của Đảng Cộng sản Việt Nam, thuật ngữ “KTTT” được
HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu chính thức sử dụng và trở thành một nội dung quan trọng
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta. KTTT là
và bền vững. Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước nền kinh tế, trong đó khoa học - công nghệ trở thành lực
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu
triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: GD-ĐT có sứ mệnh việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng triển. Theo OECD, KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản
nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định
dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Trong chiến nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao
lược phát triển KT-XH giai đoạn 2011-2020 được thông chất lượng cuộc sống.
qua tại Đại hội XI, vai trò của GD-ĐT lại được làm rõ:
GD-ĐT cần tập trung vào việc phát triển nhanh nguồn Cho đến nay, khái niệm “KTTT” vẫn còn nhiều bàn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đến luận, do đó có thể khái quát nội hàm của khái niệm này
Nghị quyết Trung ương 8 (khoá XI) tiếp tục khẳng định: trên cơ sở nhận dạng các đặc trưng của KTTT, gồm:
GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, 2.1.1. Nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức mà căn bản
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư là tri thức khoa học - công nghệ hiện đại

110 Email: hien062008@gmail.com


VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114

Công nghệ cao chủ yếu bao gồm công nghệ thông tin, ngành sản xuất thứ tư). Chức năng của tin học là chuyển
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ hóa tri thức khoa học và kĩ thuật thành sức sản xuất; tỉ
năng lượng mới và năng lượng tái sinh, khoa học kĩ thuật trọng của nó tăng lên không ngừng và sẽ phát triển thành
không gian, khoa học kĩ thuật hải dương. Trong đó, khoa ngành chủ đạo.
học - công nghệ cao đóng vai trò là nền tảng của KTTT Công nghệ thông tin nói chung đem lại năng suất và
[2]. Nếu trong giai đoạn kinh tế tài nguyên (kinh tế công chất lượng lao động cao trong công tác quản lí KT-XH.
nghiệp), các yếu tố của sản xuất chủ yếu là tài nguyên, Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy cập vào
lao động, vốn, thì ngược lại, trong giai đoạn KTTT, nhân các “kho” thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt
tố tri thức được xếp ở hàng đầu của những nhân tố tăng động trong xã hội đều có sự tác động của công nghệ
trưởng kinh tế. Tri thức được hiểu là những hiểu biết có thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.
hệ thống về một khách thể (đối tượng) nhất định. Cụ thể, Vì vậy, nhiều người gọi giai đoạn phát triển KTTT là nền
tri thức là sự hiểu biết về một cụm thông tin và biết sử kinh tế số hay kinh tế mạng. Thương mại điện tử, thị
dụng thông tin đó tốt nhất, trong đó quan trọng nhất là tri trường ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa... được
thức về khoa học - công nghệ, quản lí và thực hành. thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh rất
2.1.2. Nhân tố sáng tạo trở thành động lực trực tiếp của nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng cách địa lí giảm dần, ý
sự phát triển nghĩa của vị trí địa lí giảm đi. Nhiều quốc gia trên thế giới
Trong nền KTTT, tri thức, trí tuệ con người và kĩ đã coi công nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn
năng lao động trở thành lợi thế phát triển lớn nhất, quyết thúc đẩy sự phát triển và đã, sẽ mang lại những biến đổi
định nhất. Khoa học - công nghệ được thừa nhận là lực kì diệu trong cả đời sống kinh tế và đời sống xã hội.
lượng sản xuất thứ nhất (yếu tố quan trọng và quyết định 2.1.4. Kinh tế tri thức được tổ chức quản lí theo mô hình
tiến trình phát triển kinh tế). Vì tri thức và công nghệ cao phi tập trung, mô hình mạng
đóng vai trò là lực lượng sản xuất quan trọng nhất, do tri Nền kinh tế thế giới hiện đại đang được cấu trúc thành
thức, kĩ năng, nguồn phát minh và công nghệ hiện đại đã một mạng lưới toàn cầu. “Mạng” là thuộc tính phân biệt
trở thành lợi thế cạnh tranh quyết định việc nâng cao chủ yếu hệ thống này với các hệ thống trước; là cơ sở để
năng lực sáng tạo và sử dụng có hiệu quả các thành tựu nói đến tính cách mạng/bước ngoặt lịch sử của quá trình
khoa học - công nghệ trở thành nhiệm vụ trọng tâm của chuyển sang KTTT đang diễn ra. Mạng lưới toàn cầu của
các nỗ lực phát triển. nền KTTT đang diễn ra được kiến tạo bởi: Các “chất
Trong nền kinh tế công nghiệp, nâng cao năng lực liệu” phát triển cơ bản khác trước (những công cụ mới,
cạnh tranh chủ yếu là bằng cách tối ưu hóa (hoàn thiện như: máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, các loại
cái đã có) để giảm chi phí sản xuất; còn trong KTTT, cái vật liệu mới, công nghệ “gen”, thương mại điện tử...)
quyết định năng lực cạnh tranh chính là sự sáng tạo ra cái những nhân vật mới (nhà lao động trí thức, các “siêu”
mới có chất lượng cao hơn. Công nghệ đổi mới rất nhanh, công ty xuyên quốc gia...) vận động theo nguyên lí mới.
“vòng đời” công nghệ rất ngắn, các doanh nghiệp muốn Mô hình này phát huy được tính năng động sáng tạo của
tồn tại và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản mọi người, các doanh nghiệp; vì thế nó dễ thích nghi và
phẩm, phải tìm chọn các công nghệ mới. Có thể nói sáng đổi mới. Hiện nay, những doanh nghiệp của các nước
tạo là linh hồn của KTTT [2]. công nghiệp phát triển được trang bị các thiết bị thông tin
2.1.3. Các ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ hiện đại, lập nên một mạng các công ty con nằm tại nhiều
thông tin, được áp dụng trong mọi lĩnh vực kinh tế và đời nơi trong nước và trên toàn thế giới; nhưng mối liên kết
sống xã hội trong mạng lưới công ty rất chặt chẽ; công tác quản lí,
Công nghệ thông tin dựa vào 2 lĩnh vực chủ lực là thiết kế, tiêu thụ sản phẩm, việc giao nhận hàng hóa
công nghệ tin học và công nghệ viễn thông, tạo ra mạng nhanh chóng và kịp thời.
Internet. Hầu hết các quốc gia đều xếp các lĩnh vực sau 2.1.5. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế học hỏi
đây vào danh mục công nghệ thông tin và viễn thông: Ở bất kì trình độ phát triển nào của nền kinh tế thế
lĩnh vực “tin học” (gồm tất cả các ngành sản xuất thiết bị giới, trong KTTT, con người vẫn là nhân tố quyết định
và các dịch vụ đi kèm, chủ yếu là dịch vụ vận hành, khai sự phát triển, nhưng không phải con người với bất kì tri
thác, bảo trì); lĩnh vực “điện tử” cùng với hoạt động sản thức và năng lực nào, mà buộc phải là con người có tri
xuất linh kiện điện tử và một số loại máy móc; lĩnh vực thức khoa học, có năng lực sáng tạo: “Con người trong
“viễn thông” (các hoạt động dịch vụ và sản xuất thiết bị). KTTT là con người sáng tạo chứ không phải là một bộ
Quá trình tin học hóa các khâu sản xuất, dịch vụ, và quản phận của hệ thống máy móc trên dây chuyền sản xuất
lí là cốt lõi của quá trình chuyển sang KTTT và tin học của doanh nghiệp” [3; tr 21]. Tri thức là vốn quý nhất, là
là ngành hạt nhân của các ngành mới nổi lên (gọi là nguồn lực hàng đầu của sự tăng trưởng kinh tế; quyền sở

111
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114

hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất; ai chiếm lượng sản xuất trực tiếp và có vai trò quyết định đối với
hữu được nhiều tài sản tri thức hơn thì người ấy sẽ thắng. nền kinh tế.
Để có tri thức thì phải học tập; vì thế, nền KTTT đòi hỏi Vì vậy, để phát triển KTTT, nghiên cứu của Ngân
con người phải không ngừng học tập, học suốt đời và hàng Thế giới cho rằng, các nước cần xây dựng và củng
dưới mọi hình thức. cố bốn trụ cột; trong đó, trụ cột cơ bản nhất là GD-ĐT,
2.1.6. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa đóng vai trò quyết định trong phát triển KTTT. Nội hàm
KTTT sẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hợp tác của bốn trụ cột đó được tóm tắt tại bảng 1:
kinh tế quốc tế. Với tốc độ phát triển khoa học - công

Bảng 1. Bốn trụ cột của nền KTTT


Bốn trụ cột
Nội hàm của trụ cột
của nền KTTT
GD-ĐT Người dân cần GD-ĐT kĩ năng để có khả năng sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tốt tri thức
Chế độ kinh tế, thể chế cung cấp những chính sách kinh tế và thể chế đảm bảo sự huy động và
Môi trường kinh
phân bổ nguồn lực hiệu quả, khuyến khích và tạo động lực sử dụng hiệu quả những kiến thức
doanh và thể chế
hiện tại, sáng tạo kiến thức mới
Hạ tầng công
Hạ tầng thông tin năng động cần thiết để tạo điều kiện trao đổi, phổ biến và xử lí thông tin
nghệ thông tin
Hệ thống đổi mới, gồm: doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm tư vấn và các
Đổi mới
tổ chức khác, phải có khả năng tiếp nhận khối lượng kiến thức ngày càng lớn của nhân loại, hấp
sáng tạo
thụ và áp dụng theo nhu cầu và tạo ra kiến thức mới

nghệ hiện nay, không một quốc gia nào có thể đi đầu Qua bảng 1, có thể thấy, các trụ cột môi trường kinh
trong tất cả các ngành công nghệ cao; vì thế, chuyên môn doanh và thể chế, hạ tầng công nghệ thông tin và đổi mới
hóa sản xuất trở nên sâu sắc, đòi hỏi sự hợp tác sản xuất sáng tạo chỉ có thể phát huy hết chức năng của nó khi
quốc tế; vì vậy, rất ít có sản phẩm do một nước sản xuất nằm trong mối quan hệ với trụ cột GD-ĐT. Theo đó, một
ra, mà là kết quả hợp tác của nhiều nước. Công nghệ nền KTTT chỉ có thể phát triển khi có mặt của bốn trụ
thông tin, nhất là mạng Internet làm cho không gian trở cột trên.
nên nhỏ bé. Tri thức, công nghệ, vốn, lao động được luân 2.2. Vai trò của giáo dục và đào tạo với tư cách là “trụ
chuyển trên phạm vi toàn cầu; thị trường và sản phẩm cột” phát triển kinh tế tri thức
mang tính toàn cầu.
Trong phát triển KTTT, các trụ cột được xác định
2.1.7. Đóng góp của tri thức gồm: môi trường kinh doanh và thể chế; hạ tầng công
Đóng góp của tri thức thông qua các ngành sản xuất, nghệ thông tin; đổi mới sáng tạo; GD-ĐT. Trong đó, GD-
dịch vụ ứng dụng công nghệ cao và sử dụng lao động tri ĐT không chỉ là trụ cột mà còn đóng vai trò là động lực
thức chiếm trên 2/3 giá trị sản phẩm và tổng sản phẩm trong phát triển KTTT, bởi: Không có tri thức, hiểu biết
quốc nội (GDP). về xã hội, tự nhiên và chính bản thân mình, con người sẽ
2.1.8. Kinh tế tri thức bảo đảm sự phát triển bền vững, luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức mạnh
không hủy hoại môi trường, sinh thái cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình. Vị trí,
KTTT dựa trên cơ sở kĩ thuật - công nghệ cao sử dụng vai trò của con người được xác định: Con người vừa là
một cách khoa học, hợp lí, hiệu quả các nguồn tài mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, muốn
nguyên, không gây ô nhiễm môi trường sống của con phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể
người. Các khu công nghệ cao đã được hình thành là chất và tinh thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế
những khu công nghệ sạch khác xa với khu sản xuất giới để họ có thể góp phần xây dựng và cải tạo xã hội
truyền thống. ngày càng văn minh.
Khái quát lại, theo quan điểm Triết học và Kinh tế GD-ĐT góp phần nâng cao dân trí và tạo ra hệ thống
chính trị Mác-Lênin, KTTT là khái niệm dùng để chỉ một giá trị xã hội mới. Trong nền KTTT, tri thức là sản phẩm
trình độ phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất mà của GD-ĐT, đồng thời là tài sản quý giá nhất của con
trong nền tảng lực lượng sản xuất chủ yếu của nó là các người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan
ngành kĩ thuật công nghệ cao; khoa học đã trở thành lực trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Trong các

112
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114

nguồn lực phát triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, còn là quá trình kế tiếp nhau mà trở thành đan xen nhau,
vốn, khoa học - công nghệ, thể chế và nguồn lực con tương tác với nhau; trong đó quan trọng nhất là sử dụng
người có tri thức thì nguồn lực con người có tri thức là tri thức, biến tri thức thành giá trị. Theo đó, vai trò của
cơ bản nhất, quyết định nhất. Ngoài ra, GD-ĐT còn góp GD-ĐT phải đào tạo ra con người có tri thức và biết sử
phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc. dụng tri thức trong hoạt động thực tiễn để tạo ra nhiều giá
Bởi, chúng góp phần xây dựng đội ngũ lao động có trình trị mới phục vụ xã hội. Ngày nay, trong nền KTTT, GD-
độ cao, làm giàu của cải vật chất cho xã hội, đồng thời có ĐT cũng đang thay đổi, dịch chuyển tích cực, như: dịch
bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống (coi đào tạo và
các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong chính quá trình hội làm việc là hai giai đoạn tách biệt nhau), sang mô hình
nhập quốc tế, và chính GD-ĐT bảo vệ cho nền KTTT đào tạo (học tập) suốt đời. Nếu ở mô hình “giáo dục
phát triển bền vững. truyền thống”, nhà trường đào tạo rèn luyện để người học
GD-ĐT có vai trò to lớn bồi dưỡng nhân tài, xây dựng có được một vốn tri thức, một kĩ năng nhất định để có thể
đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao. ra làm việc suốt đời, thì trong mô hình “học tập suốt đời”,
Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần quan trọng nhà trường trang bị cho người học một vốn tri thức và kĩ
phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của năng cơ bản để người học ra đời có thể sớm ra làm việc,
KTTT. Bởi vậy, các quốc gia phát triển đều xây dựng cho tiếp tục giúp đỡ người lao động vừa làm vừa tiếp tục học
mình chiến lược phát triển GD-ĐT. Trong Báo cáo giám tập, học tập suốt đời, phát triển kĩ năng liên tục. Do vậy,
sát toàn cầu giáo dục cho mọi người, tổ chức UNESCO sự dịch chuyển là phù hợp với bối cảnh mới: học đi đôi
cũng đã khuyến khích các nước phải chi tiêu ít nhất 6% với hành, đào tạo gắn liền với sử dụng, giáo dục gắn liền
GDP cho GD-ĐT. Hơn nữa, GD-ĐT còn cung cấp với việc làm, với thị trường lao động.
nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế Hiện nay, GD-ĐT đã trở thành bộ phận quan trọng,
của mỗi quốc gia. Đến nay, Việt Nam đang tiến hành phổ có tính quyết định của cấu trúc hạ tầng xã hội, là tiền đề
cập giáo dục trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thông quan trọng cho sự phát triển của tất cả các lĩnh vực, từ
còn thấp, ít được đào tạo nghề, vẫn còn khoảng gần 60% kinh tế, chính trị, văn hoá đến quốc phòng và an ninh. Vì
lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây dựng vậy, để thúc đẩy sự phát triển của KTTT và tạo đà cho
KTTT. Chúng ta tập trung phát triển GD-ĐT nhằm phát nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, GD-
huy năng lực nội sinh “đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian ĐT nước ta không có con đường nào khác là phải có
CNH, HĐH đất nước. chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với điều kiện
Vốn tri thức có các đặc điểm khác với các nguồn vốn hoàn cảnh đất nước và bắt nhịp được xu thế của thời đại.
khác ở chỗ: vốn tri thức khi chuyển giao cho người khác 2.3. Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
thì người sở hữu tri thức không bị mất tri thức, mà tri thức - đào tạo thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức
được nhiều lên gấp đôi; khi truyền bá tri thức cho nhiều
người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội và đòi hỏi ít Để phát triển KTTT, phát huy vai trò của GD-ĐT,
chi phí. Rõ ràng, tri thức không những không bị hao mòn trước mắt cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải
trong quá trình sử dụng mà còn được nâng cao lên. Trong pháp sau: - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí
nền KTTT, những hoạt động cơ bản nhất là tạo ra, truyền của Nhà nước đối với đổi mới GD-ĐT, bắt nhịp với xu
bá và sử dụng tri thức. Hoạt động tạo ra tri thức là mục thế phát triển KTTT của thế giới; - Tập trung đổi mới
đích của nghiên cứu sáng tạo, do những người được đào mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GD-ĐT theo
tạo bài bản thực hiện. Hoạt động truyền bá tri thức tức là hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
nhân lên vốn tri thức, làm cho vốn tri thức xã hội tăng lên học. Căn cứ vào mục tiêu đổi mới cần xác định rõ và
nhanh chóng, đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của GD-ĐT. công khai mục tiêu, Chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn
GD-ĐT góp phần tạo ra tri thức, đồng thời cũng quảng học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo;
bá tri thức. Đây là lí do các nhà quản lí coi GD-ĐT là - Tiếp tục đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi,
ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền KTTT. Sử dụng tri kiểm tra và đánh giá kết quả GD-ĐT, bảo đảm trung
thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành giá trị, đưa thực, khách quan; - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục
tri thức vào trong các hoạt động xã hội của con người; quốc dân theo hướng “hệ thống giáo dục mở”, “học tập
đây cũng là nhiệm vụ của GD-ĐT, nhất là giáo dục suốt đời” và xây dựng “xã hội học tập”. Đồng thời,
thường xuyên, “học tập suốt đời”, “học kết hợp với nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp
hành”, giáo dục kết hợp hoạt động thực tiễn... với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo
Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình tạo dục của thế giới. Theo đó, thực hiện phân tầng cơ sở giáo
ra tri thức, truyền bá tri thức và sử dụng tri thức không dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng,

113
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 110-114

thực hành [4]; - Chủ động đổi mới căn bản công tác quản [5] Nguyễn Văn Hòa (2009). Phát triển giáo dục và đào
lí GD-ĐT, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự tạo - một động lực để phát triển kinh tế tri thức ở
chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học; nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học, số 4 (215), tr
- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí, đáp ứng 26-30.
yêu cầu đổi mới GD-ĐT; đặc biệt quan tâm đến lương [6] Tần Ngôn Trước (2014). Thời đại kinh tế tri thức.
của nhà giáo, phải được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm [7] Phạm Văn Đức - Josef Sayer - Đặng Hữu Toàn -
phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng, miền; Nguyễn Đình Hòa - Ulrich Dornberg (2010). Trách
- Tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. NXB
sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả Khoa học xã hội.
đầu tư, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân
sách; từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên
môn cho các cơ sở GD-ĐT công lập...; - Phải có chính KHAI THÁC PHẦN MỀM GEOGEBRA...
sách trọng dụng nhân tài, coi “hiền tài là nguyên khí của
quốc gia”, tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng (Tiếp theo trang 167)
lực của “cán bộ giỏi đầu đàn” trong các lĩnh vực khoa
học - công nghệ; - Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu Tài liệu tham khảo
quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, đặc [1] Bùi Minh Đức (2017). Sử dụng phần mềm
biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lí. Tích cực, GeoGebra hỗ trợ dạy học giải bài toán Hình học
chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế không gian bằng thủ pháp trải hình. Tạp chí Giáo
trong GD-ĐT; Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin dục, số đặc biệt tháng 3, tr 122-125.
và sử dụng mạng Internet trong GD-ĐT, trong dạy học, [2] Trần Trung (2014). Sử dụng phần mềm GeoGerba
phát triển các hình thức tự học; nâng cao trình độ ngoại hỗ trợ dạy học quỹ tích ở trường phổ thông. Tạp chí
ngữ cho cả người dạy và người học; thực hiện xã hội hóa Khoa học Giáo dục, số 100, tr 23-26.
học tập và xã hội hóa thông tin là tiền đề cho nền KTTT. [3] Lê Minh Cường (2017). Rèn luyện cho sinh viên đại
3. Kết luận học Sư phạm ngành Toán kĩ năng ứng dụng công
Phát triển KTTT là đòi hỏi mà tất cả các nước tiên nghệ thông tin trong dạy học ở trường phổ thông.
tiến trên thế giới đã và đang vươn tới. Đối với Việt Nam, Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Trường Đại học
phát triển KTTT là một tất yếu, trong đó GD-ĐT là trụ Sư phạm Hà Nội.
cột quan trọng nhất. Trong thời gian tới, cần tạo động lực [4] Markus Hohenwarter - Judith Hohenwater - Yves
Kreis - Zsolt Lavicza (2008). Teaching and calculus
và huy động mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả GD-
with free dynamic mathematics software GeoGebra.
ĐT. Việc thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp
ICME 11, Mexico.
nêu trên và sự vào cuộc của tất cả các lực lượng sẽ tạo ra [5] Hélia Jacinto - Susana Carreira (2017).
bức tranh KT-XH toàn diện hơn. Mathematical Problem Solving with
Technology: the Techno-Mathematical Fluency
Tài liệu tham khảo of a Student - with - GeoGebra. International
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2000). Nghị quyết số 02- Journal of Science and Mathematics Education,
NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về định hướng chiến Springer, Vol. 15, issue 6.
lược khoa học và công nghệ trong thời đại công [6] Nguyễn Bá Kim (2015). Phương pháp dạy học môn
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Toán. NXB Đại học Sư phạm.
[2] Viện Nghiên cứu Quản lí kinh tế Trung ương [7] Phan Đức Chính (tổng chủ biên) (2012). Toán 9 (tập
(2000). Nền kinh tế tri thức, nhận thức và hành 2). NXB Giáo dục Việt Nam.
động. NXB Thống kê. [8] Trịnh Thanh Hải - Trần Việt Cường - Trịnh Thị
[3] Ban Chấp hành Trung ương (2002). C. Mác - Ph. Phương Thảo (2013). Ứng dụng tin học trong dạy học
Ăngghen toàn tập (tập 64). NXB Chính trị Quốc gia Toán (Giáo trình đại học). NXB Giáo dục Việt Nam.
- Sự thật. [9] Kin Keung Poon (2018). Learning fraction
[4] Lê Thị Hồng Diệp (2012). Phát triển nguồn nhân comparison by using a dynamic mathematics
lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xây dựng nền software - GeoGebra, International Journal of
kinh tế tri thức ở Việt Nam. NXB Đại học Quốc Gia Mathematical Education in Science and
Hà Nội. Technology. Taylor & Francis, Vol. 49, issue 3.

114

You might also like