You are on page 1of 45

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT

KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

KINH TẾ THÔNG TIN

Đề Tài 5: Cơ hội và thách thức trong nền kinh tế thông


tin Việt Nam, tìm hiểu năm 2015.
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thanh Huệ
Lớp học phần: Tin Kinh Tế
Nhóm sv thực hiện

Hà Nội, 2016
PHÂN CÔNG TÌM HIỂU :

Phạm Văn Tiến:Bao quát toàn bộ đề tài, tìm hiểu nền kinh tế thông tin năm
2015,chỉnh sửa đinh dạng văn bản.

Vũ Ngọc Phú: Giới thiệu và tìm hiểu thực trạng về nền kinh tế thông tin.

Nguyễn Ngọc Khánh: Cơ hội của nền Kinh tế thông tin.

Phùng Văn Dung: Thách thức của nền kinh tế thông tin.

1
MỤC LỤC
PHÂN CÔNG TÌM HIỂU :.........................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................3
I. Giới thiệu về Kinh tế thông tin...........................................................................................................4
1.1. Công nghệ Thông tin và Kinh tế Thông tin..................................................................................4
1.2. Đặc điểm và vai trò của Kinh tế thông tin ở Việt Nam..............................................................5
II. Thực trạng phát triển kinh tế thông tin ở Việt Nam.........................................................................7
2.1. Nhóm chỉ số CNTT&TT cơ bản về tình hình phát triển kinh tế thông tin...................................7
2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng nước ta hiện nay đối với ngành công nghệ thông tin.....................10
III. Cơ hội Kinh tế thông tin ở nước ta................................................................................................14
3.1. Phát triển công nghiệp nội dung số..........................................................................................14
3.2 Phát triển thương mại điện tử..................................................................................................17
3.3 Đào tạo nguồn lực phục vụ cho CNTT.......................................................................................20
3.4 Xây dựng phát triển công nghệ phần mềm..............................................................................21
3.5 Phát triển kinh tế nông thôn, khắc phục khoảng cách giữa thành thị và nông thôn...............22
3.6 Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước..................................................................24
IV. Thách thức của nền kinh tế thông tin............................................................................................24
4.1 Thách thức về cơ sở hạ tầng CNTT&TT....................................................................................24
4.2. Thách thức về nguồn nhân lực và việc làm..............................................................................26
4.3 Thách thức về môi trường pháp lý quốc gia cho nền kinh tế thông tin....................................28
4.4 Thách thức về hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý hành chính Nhà nước......................29
V. Tìm hiểu nền kinh tế thông tin năm 2015.......................................................................................30
1. Những bước tiến, thành tựu về CNTT đã đạt được trong năm 2015.........................................30
2.Những thuận lợi và khó khăn của nền công nghệ thông tin nước ta năm 2015.........................33
VI. Giải pháp.........................................................................................................................................35
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................37
Tài liệu tham khảo...............................................................................................................................39

2
LỜI MỞ ĐẦU

CNTT là 1 ngành nghề rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực, có ảnh hưởng
tới nhiều ngành nghề khác nhau của xã hội.
Ngày nay,công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi có sự áp dụng tiến bộ của
khoa học kỹ thuật thì ngành công nghệ thông tin cần được nổ lực nhiều hơn
nữa, hệ thống công nghệ mới được áp dụng vào những tiến bộ khoa học kỹ
thuật , trong sản xuất trong kinh doanh và trong mọi lĩnh vức đời sống của con
người.Đó là sự phát triển của xã hội liên tục và không ngừng nghỉ chính vì vậy
công nghệ thông tin luôn đổi mới,luôn cải tiến để đi cùng thời đại.
Gần đây nhất Ngày 3 tháng 2 năm 2016, Cục Thương mại điện tử và Công
nghệ thông tin (TMĐT và CNTT) đã tổ chức Hội nghị Tổng kết công tác năm
2015 và triển khai nhiệm vụ năm 2016 Thứ trưởng nhấn mạnh Bộ Công Thương
với vai trò đóng góp hơn 70% GDP của cả nước, trong đó TMĐT là một trong
những kết cấu hạ tầng quan trọng của lĩnh vực thương mại, do vậy mục tiêu
đặt ra trong năm 2016 là hết sức quan trọng đối với Lãnh đạo Cục và toàn thể
các đồng chí công chức, viên chức. Để đạt được mục tiêu đặt ra, Cục TMĐT và
CNTT cần đảm bảo hệ thống an ninh, an toàn mạng trong TMĐT; phát triển
toàn diện và bền vững định hướng tổng thể TMĐT gắn với mục tiêu phát triển
kinh tế đất nước giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong hội nhập
quốc tế, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu
cuối cùng Thứ trưởng nêu rõ, cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
cho phát triển TMĐT để từ đó đánh giá, dự báo và đưa ra nhu cầu đáp ứng
công việc không những cho cơ quan QLNN mà còn phục vụ cho các địa phương,

3
hiệp hội và doanh nghiệp. Đó là cơ hội cũng như thách thức của công nghệ
thông tin nước ta hiện nay.

I. Giới thiệu về Kinh tế thông tin.


1.1. Công nghệ Thông tin và Kinh tế Thông tin.

Công nghệ Thông tin (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là một
nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi,
lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin phục vụ cho mọi lĩnh vực
trong đời sống như kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng...

Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng khi nền kinh tế phát triển đến
giai đoạn mà nội dung thông tin bao trùm mọi hoạt động sản xuất kinh doanh,
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong bản thân các hàng hóa, dịch vụ. Sự tiến hóa
trong vai trò của thông tin gắn liền với những bước tiến vũ bão của ngành kỹ
thuật máy tính. Từ việc ra đời những máy tính điện tử đầu tiên vào những năm
50, 60 với chức năng chủ yếu là tính toán khoa học kỹ thuật, đến các máy tính
có khả năng lưu trữ và xử lý thông tin lớn hơn của những năm 60, 70 có khả
năng ứng dụng trong kinh tế, quản lý. Sự ra đời của các máy tính vào những
năm 80 với số lượng hàng trăm triệu thâm nhập vào mọi nơi trên thế giới. Và
hiện nay, khi mà hệ thống mạng lưới các đường thông tin cao tốc(xa lộ thông
tin) với khả năng truyền thông đa phương tiện (multimedia) được triển khai
khắp mọi nơi, thì vai trò của thông tin càng được khẳng định.

Những năm chiến tranh đói khổ qua đi thay vào đó là một cuộc sống hiện
đại, đầy tri thức, thông tin và công nghệ. Nhiều học giả của các trường phái
khoa học xã hội gọi đó là “nền kinh tế tri thức”, còn các học giả của các trường

4
phái khoa học tự nhiên, công nghệ thông tin gọi là “nền kinh tế thông tin – kinh
tế số”. Các khái niệm "kinh tế tri thức", "kinh tế thông tin" hay "kinh tế số" hiện
được dùng với nghĩa gần tương đương, chúng đều nhấn mạnh và khẳng định
vai trò động lực phát triển kinh tế toàn cầu của thông tin, tri thức, công nghệ và
truyền thông.

1.2. Đặc điểm và vai trò của Kinh tế thông tin ở Việt Nam.
a. Đặc điểm của kinh tế thông tin

Là nền kinh tế lớn mạnh và phát triển nhờ áp dụng rộng rãi công nghệ
thông tin trong mọi tổ chức: Từ cá nhân hộ gia đình, đến các doanh nghiệp ,nhà
trường và đặc biệt là bộ máy quản lý nhà nước, muốn tồn tại và làm việc có
hiệu quả thì việc áp dụng CNTT là điều bắt buộc. Hơn thế nữa, ngày nay mạng
internet và thương mại điện tử đang dần khẳng định vai trò và vị thế trong đất
nước mình. Dần dần, người dân sẽ có thói quen mua hàng qua mạng, doanh
nghiệp sẽ nộp thuế qua mạng,học sinh được trừ tiền qua thẻ ngân hàng, nhà
nước sẽ quản lý chứng minh thư qua mạng,.v.v. đó là hướng đi tích cực là tiến
bộ cố gắng của chúng ta.
Lao động tri thức và sáng tạo: năng suất lao động là thước đo đánh giá
hệ thống chính sách, động lực của sự tăng trưởng bền vững. Mà để có được
năng suất lao động cao điều tiên quyết là cần đội ngũ nhân lực tri thức khoa
học.Đòi hỏi người lao động luôn tìm tòi học hỏi không ngừng nghỉ, tiếp thu
nhưng thay đổi.
Phát triển bền vững: Xã hội kinh tế thông tin được xây dựng trên nền
tảng là tri thức, công nghệ, khoa học và thông tin. Nó là sự kết hợp hài hòa giữa
bản sắc văn hóa người Việt Nam và văn minh nhân loại. Kinh tế thông tin sẽ
phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển
trong tương lai xa.

5
Toàn cầu hóa: Đây là cơ hội cũng là thách thức lớn cho nền kinh tế thông
tin, vươn ra thế giới đồng nghĩa với việc cạnh tranh khốc liệt và hợp tác hiệu
quả. Khi công nghệ và thông tin đạt đến mức toàn cầu hóa, thì khoảng cách địa
lý, đất nước, văn hóa giữa các vùng miền dần xóa mờ, kinh tế thương mại được
kết nối và thế giới sẽ chuyển mình thay đổi thực sự. Nhìn lại Việt Nam,
11/1/2007-2016 sau 9 năm kể từ khi ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,
ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại nhận định, nhờ sự
cam kết và thực hiện các cam kết, Việt Nam đã từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, nghiên cứu, tạo dựng khung pháp lý, đưa ra những quy định theo
thông lệ quốc tế, chủ động hội nhập đời sống thương mại toàn cầu.
Thúc đẩy quá trình dân chủ: Quản lý phi tập trung, thông tin công khai,
đầy đủ và kịp thời.

b. Vai trò của Kinh tế thông tin ở Việt Nam


Thông tin là một nhu cầu và thuộc tính của loài người. Mọi diễn biến sự
kiện của các vùng lãnh thổ, hay tri thức khoa học - xã hội đều được phổ biến và
tiếp nhận bởi thông tin. Vì vậy mà thông tin đáp ứng nhu cầu hiểu biết và tìm
hiểu cuộc sống của con người, là động lực để thúc đẩy sự phát triển. Có thể nói,
thông tin gắn bó hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, góp
phần quan trọng cho sự tiến hóa nhân loại.
Các ngành công nghiệp thông tin là bộ phận tăng trưởng nhanh của nền
kinh tế. Nhu cầu về dịch vụ và hàng hoá thông tin từ những người tiêu dùng
ngày càng tăng lên. Các phương tiện thông tin đại chúng như máy tính cá nhân,
nhạc số, phim kỹ thuật số, truyền hình kỹ thuật số, trò chơi điện tử, là thuộc
vào các ngành công nghiệp thông tin và đang có sự bùng nổ về tăng trưởng.
Các ngành nghề như lập trình máy tính; thiết kế hệ thống; tin học ứng dụng
trong tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản; viễn thông và nhiều
ngành nghề liên quan đến thông tin khác cũng đang tăng lên không ngừng cả ở

6
phạm vi quốc gia lẫn quốc tế, và đang tạo ra cơ hội để kinh tế phát triển nhanh
nếu có chiến lược và bước đi thích hợp, kịp thời trong việc phát triển những
ngành nghề đó.

Ngày xưa thì việc truyền tin từ nơi này sang nơi khác thì rất tốn thời gian
và sức lực. Ngày xưa thì việc truyền tin thông qua những người vận chuyển hay
buôn bán từ các vùng này sang các vùng khác, người đưa tin, thời Trung Cổ có
cách truyền tin cực kỳ hay là dùng chim bồ câu. Năm 1875 A Lexander
GrahamBell phát minh ra chiếc điện thoại đầu tiên. Nhờ chiếc máy này mà con
người dù ở đâu, không còn phụ thuộc vào khoảng cách địa lý đều có thể liên lạc
và thông tin với nhau ngay tức thì. Hiện nay, trong cuộc sống con người, mọi
hoạt động đều không thể thiếu vai trò của thông tin, đây là điều kiện quan
trọng để thực hiện hay quyết định một công việc. Việc chuyển tải và tiếp nhận
thông tin một cách nhanh chóng đã “thúc đẩy tiến trình phát triển các hoạt
động kinh tế - xã hội”. Các công ty quốc tế hoạt động, cạnh tranh nhau nhờ
nắm bắt và khai thác được khối lượng thông tin nhanh chóng và hữu ích. Nhờ
đó mà người lãnh đạo có thể đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn và
mang tính sống còn.

Công nghệ phát thanh, truyền hình ngày một phát triển với quy mô và tốc
độ rộng lớn là bước tiến vượt bậc của công nghệ thông tin. Đặc biệt là sự xuất
hiện của internet, điều này đã thực sự làm nên một cuộc cách mạng thông tin
của thời đại chúng ta. Nhờ đó mà con người có thể giao tiếp với nhau vào bất
cứ thời điểm nào, có thể tiếp nhận được cả âm thanh và hình ảnh trong cùng
một thời điểm. Vì vậy mà nhiều người cho rằng, thế giới ngày nay là thế giới
phẳng. Mọi diễn tiến sự kiện cuộc sống, mọi tri thức đều được phổ biến ở
phạm vi toàn cầu. Rất thuận tiện cho sự tiếp nhận thông tin của con người, xóa
nhòa đi mọi khoảng cách về hiểu biết tri thức và trình độ phát triển. Chúng ta
có thể nói: “Cách mạng thông tin thúc đẩy cách mạng khoa học kỹ thuật”.
7
Việt Nam đang ở trong thời kỳ đang phát triển, mọi lĩnh vực kinh tế, khoa
học – kỹ thuật chậm so với thế giới, vì thế phải nắm bắt lấy lợi thế của công
nghệ thông tin để giúp ích cho đất nước,đưa Việt Nam trở thành quốc gia văn
minh - tiến bộ.

II. Thực trạng phát triển kinh tế thông tin ở Việt Nam
2.1. Nhóm chỉ số CNTT&TT cơ bản về tình hình phát triển kinh tế
thông tin

a. Số người sử dụng Internet

Sự phát triển nền kinh tế thông tin của các quốc gia phụ thuộc nhiều vào
trình độ khai thác, ứng dụng Internet của cộng đồng người sử dụng, điều kiện
cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và mức độ xã hội hoá các lĩnh vực trong cuộc
sống trên mạng máy tính nói chung, nhất là Internet.

Hình 1: Độ tuổi của người sử dụng Internet so với tổng số dân


Trung bình mỗi người Việt Nam sử dụng 1,4 thuê bao di động.

8
Hình 2 : Tỉ lệ người sử dụng internet (năm 2014)

Thống kê cho thấy Việt Nam đang có 41 triệu người dùng Internet, chiếm
44% tổng dân số cả nước. Hiện nay, cũng có khoảng 28 triệu tài khoản mạng xã

hội đang hoạt động tại Việt Nam. Con số 41 triệu thể hiện mức tăng 10% trong
số lượng người dùng Internet tại Việt Nam so với cùng kỳ năm trước.

b. Đường truyền băng thông rộng và hạ tầng mạng Internet ở Việt Nam

Việt Nam hiện đang dần được bao phủ dày đặc bởi internet băng thông
rộng, khi

tính đến hết tháng 6, cả nước có 8,19 triệu thuê bao internet băng thông rộng
cố định, gồm cả cáp đồng (ADSL) và cáp quang (FTTx), tăng gấp đôi so với năm
2011. Độ phủ (số đường băng rộng/hộ gia đình) đạt 37%, tức cứ 3 hộ gia đình
thì có hơn một hộ sử dụng băng thông rộng cố định.

Thị trường cáp quang bùng nổ từ tháng 4/2013, cả nước mới có 210.000
thuê bao cáp quang thì đến tháng 4/2016 con số này đã là 4,5 triệu, gấp 21 lần
chỉ sau 3 năm

Với sự ra đời của trạm trung chuyển quốc gia VNNIC, một lượng lớn các lưu
lượng trao đổi trong nước giữa các nhà cung cấp dịch vụ kết nối đã được lưu

9
chuyển trong nước, làm giảm thiểu băng thông kết nối quốc tế, tăng chất lượng
của dịch vụ Internet trong nước.

c. Số máy tính điện tử, số điện thoại di động

Hình 3: Các thương hiệu được người dùng ưa chuộng nhất

Hiện 100% xã trên toàn quốc có máy điện thoại. Các hoạt động của người
dùng di động bao gồm:

Hình 4: Những họat động di động

10
2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng nước ta hiện nay đối với ngành công
nghệ thông tin

Hiện nay, thế giới tiếp tục chuyển dịch sang kỷ nguyên thông minh của
toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin đã, đang được ứng dụng
rộng rãi vào mọi mặt đời sống xã hội, trở thành một phần không thể thiếu đối
trong hoạt động của mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Mạng Internet trở thành hạ
tầng thông tin thiết yếu kết nối toàn bộ thế giới lại với nhau.

Tính đến hết năm 2012, cả nước có 91 ISP. Trong số đó, 3 công ty có thị
phần Internet đứng đầu Việt Nam: VNPT, Viettel và FPT. Với sự xuất hiện của
cáp quang (4/2013) đã làm cho tốc độ đường truyền được cải thiện một cách
rất dõ dàng. VNPT và Viettel cung cấp cả dịch vụ truy cập Internet cố định:
ADSL, FTTx và di động 2.5G/3G (tương lai là 4G). FPT chỉ cung cấp dịch vụ
Internet cố định: ADSL, FTTx.

Biểu đồ thị phần ADSL và FTTx của các nhà cung cấp internet :

Hình 5:Biểu đồ thị phần ADSL và FTTx ( Bộ TTTT )

11
Địa điểm truy nhập Internet vẫn chủ yếu từ nhà và nơi làm việc

Hình 6: Tốc độ internet(Thống kê infoQ)

Nhận thấy tầm quan trọng của internet nói riêng và cơ sở hạ tầng CNTT
nói chung trong cuộc sống hằng ngày, không chỉ riêng các trung tâm thành thị
mà còn tới những vùng nông thôn, vùng trung du, biển đảo… Bởi vậy việc phát
triển quy mô cơ sở hạ tầng là vô cùng cấp thiết.

Xếp hạng mức độ Ứng dụng CNTT tổng thể của các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương ta có bảng sau(19 tỉnh có vị trí XH cao nhất) :

12
Xếp hạng theo tiêu chí thành phần về hạ tầng kỹ thuật CNTT của các tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (22 tỉnh có vị trí cao nhất):

13
Công ty hiện đại mà cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) hiệu quả
thì có lợi thế cạnh tranh đáng kể ở mức độ chiến lược. Hơn nữa, do sự phát
triển liên tục của doanh nghiệp, chẳng hạn như mở rộng mạng lưới chi nhánh,
vươn ra các thị trường mới, phức tạp hóa của các quy trình, tất cả những điều
này đòi hỏi cần phải phức tạp hóa không ngừng các hệ thống phần mềm của
công ty. Do đó, nhu cầu về quản lý CNTT một cách hợp lý, đặc biệt là đối với các
công ty lớn, luôn được đặt lên hàng đầu. Không đi đâu xa như các nhà mạng

14
viễn thông lớn ở Việt Nam họ đã vươn ra các tỉnh trong nước. Viettel khai
trương 3 thị trường lớn tại châu Phi là Cameroon, Burundi và Tanzania.

Trong Báo cáo đánh giá về xã hội thông tin của Liên minh Viễn thông
Quốc tế (ITU), chỉ số phát triển CNTT-TT của Việt Nam tụt 2 bậc, từ 86/155 năm
2012 xuống 88/157 năm 2013, vẫn xếp vị trí thứ 4 khu vực Đông Nam Á và
đứng 14/28 nước châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam tiếp tục được ITU đánh
giá cao về ứng dụng CNTT với thứ hạng 83/155 năm 2013. Theo xếp hạng được
công bố trong Báo cáo CNTT toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), thứ
hạng chỉ số sẵn sàng kết nối NRI của Việt Nam năm 2013 đạt 84/148 nước, giữ
nguyên so với năm 2012. Trong đánh giá này, mức độ sẵn sàng trong Chính phủ
Việt Nam được xếp thứ hạng 58/148 và đặc biệt giá cước viễn thông, Internet
của Việt Nam gần như thấp nhất thế giới, được xếp hạng 8/148. Đối với xếp
hạng về chỉ số kỹ năng của ITU, đến năm 2013, Việt Nam đang xếp vị trí 101
trên tổng số 155 quốc gia, giữ nguyên so với năm 2012. Đặc biệt, trong lĩnh vực
công nghiệp CNTT, Việt Nam vẫn nằm trong 10 quốc gia gia công phần mềm
hấp dẫn nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời, TP. Hồ Chí Minh và
Hà Nội tiếp tục nằm trong nhóm 20 và 30 thành phố gia công phần mềm hấp
dẫn nhất thế giới

Có thể khẳng định, năm 2013 là một năm đầy khó khăn, thách thức, song
ngành CNTT-TT vẫn tiếp tục khẳng định vị thế của mình và đã có đóng góp
không nhỏ trong việc phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ của nền
kinh tế quốc dân và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

III. Cơ hội Kinh tế thông tin ở nước ta


3.1. Phát triển công nghiệp nội dung số
a. Phát triển công nghiệp

15
Quan điểm của Bộ Bưu chính Viễn thông cho rằng: “Công nghiệp nội
dung số (DCI) là ngành giao thoa giữa 3 nhóm ngành: CNTT, viễn thông và
ngành sản xuất nội dung. Công nghiệp nội dung số là ngành thiết kế, sản xuất,
xuất bản, lưu trữ, phân phối, phát hành các sản phẩm nội dung số và dịch vụ
liên quan. Nó bao gồm nhiều lĩnh vực như: tra cứu thông tin, dữ liệu số, giải trí
số, nội dung giáo dục trực tuyến, học tập điện tử, thư viện và bảo tàng số, phát
triển nội dung cho mạng di động, giải trí số (trò chơi trực tuyến, trò chơi tương
tác), thương mại điện tử…

Trên thế giới, ngành công nghiệp nội dung số đã có bước phát triển mạnh
mẽ và đạt doanh thu lớn. Chỉ riêng năm 2002, tổng doanh thu của ngành này
trên toàn cầu là 172 tỷ USD, năm 2006 là 430 tỷ USD và năm 2014 là xấp xỉ 1,7
nghìn tỉ USD. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sẽ có doanh số tăng mạnh nhất
Theo các chuyên gia dự báo tới năm 2020, nhân lực ngành công nghiệp nội
dung số sẽ cần tới 148.000 người, với doanh thu bình quân đạt 13.500
USD/người/năm, mở ra cơ hội việc làm cho hàng trăm ngàn lao động có tay
nghề.
Tại Việt Nam, tiềm năng của thị trường đối với nội dung số là rất lớn.
Năm 2010, doanh thu của lĩnh vực công nghiệp nội dung số đạt mức 1 tỷ USD.
Với hạ tầng mạng viễn thông và Interrnet phát triển bền vững với tổng doanh
thu viễn thông đạt 7,4 tỷ USD trong năm 2013. Tổng số thuê bao điện thoại đạt
130 triệu thuê bao, trong đó thuê bao di động chiếm 95% và số thuê bao 3G đã
gần chạm mốc 20 triệu. Số thuê bao Internet băng rộng đạt trên 22,4 triệu thuê
bao, đạt tỷ lệ 24,93 thuê bao/100 dân. Mặc dù chịu ảnh hưởng bởi khó khăn
của nền kinh tế nhưng năm 2013, lĩnh vực nội dung số vẫn đạt doanh thu 1.407
triệu USD, tăng 13,9% so với năm 2012. Với đề án phát triển CNTT và truyền
thông đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từ nay đến năm 2020, Việt

16
Nam phấn đấu nằm trong top 10 nước dẫn đầu về cung cấp dịch vụ gia công
phần mềm và nội dung số.
Tính đến 25/12/2014, Tổng doanh thu công nghiệp CNTT ước tính đạt hơn
27 tỷ USD. Các doanh nghiệp phần mềm tiếp tục giữ vững thị trường xuất khẩu,
dịch vụ CNTT tiếp tục phát triển khá, đa dạng các loại hình dịch vụ. Tổng số
nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp CNTT ước đạt 350.000 người.
Về ứng dụng CNTT, 100% cơ quan nhà nước có trang/Cổng thông tin
điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến các loại phục vụ người
dân và doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo nhân lực CNTT tiếp tục được duy trì ổn
định với khoảng 290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo
nghề về CNTT truyền thông.
Bắt nhịp với tốc độ phát triển như đó, Việt Nam cần một nguồn nhân lực
chất lượng cao, có khả năng sáng tạo, đủ sức cạnh tranh trong phạm vi khu vực
và thế giới. Các chuyên gia trong lĩnh vực này đều có chung nhận định Việt Nam
cần đầu tư mạnh vào việc đào tạo để có đội ngũ nhân lực có tay nghề đồng
thời xác định được động lực cho những người tham gia vào ngành và từ đó tập
trung vào những lĩnh vực ưu tiên.

b. Công nghiệp CNTT

Hình 7 :Doanh thu ngành công nghiệp CNTT

17
Ông Nguyễn Trọng Đường, Vụ CNTT, Bộ TT&TT với việc công bố một số
nội dung cơ bản của Sách trắng CNTT-TT 2014, đã thu hút đông đảo người nghe
về những con số.

“Trong giai đoạn 2013 - 2014, thứ hạng của Việt Nam hầu như ít biến
động trên bản đồ CNTT-TT thế giới. Mặc dù vậy, điểm sáng nhất của Việt Nam
được các tổ chức quốc tế nhìn nhận vẫn thuộc về công nghiệp CNTT khi nước
ta vẫn nằm trong Top 10 nước gia công phần mềm hấp dẫn nhất khu vực châu
Á -Thái Bình Dương; TP.HCM và Hà Nội vẫn được xếp Top 20, Top 30 các thành
phố hấp dẫn nhất về gia công phần mềm”, ông Đường cho biết.

Theo Sách trắng CNTT 2014, ngành công nghiệp CNTT tiếp tục khởi sắc
với tổng doanh thu công nghiệp CNTT năm 2013 đạt trên 39 tỷ USD, tăng 55%
so với năm 2013. Trong đó, lĩnh vực công nghiệp phần cứng - điện tử tăng
trưởng mạnh doanh thu nhờ hoạt động xuất khẩu. Doanh thu công nghiệp
phần cứng - điện tử năm 2013 đạt 36,8 tỷ USD (tăng trưởng 59,2% so với năm
trước), chiếm 93% tổng doanh thu toàn ngành, trong đó xuất khẩu điện thoại di
động chiếm tỷ trọng trên 60%. Công nghiệp phần mềm và nội dung số sau thời
kỳ đối mặt với nhiều khó khăn, đã có những bước chuyển khả quan với tổng
doanh thu khoảng 2,6 tỷ USD.Định hướng phát triển trong những năm tiếp
theo của ngành Công nghiệp CNTT Việt Nam có một số cơ hội lớn như: Việt
Nam là thành viên của WTO, có thể hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn
cầu, cơ hội thu hút FDI trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài và cơ hội
outsourcing do việc mở cửa thị trường thế giới.

3.2 Phát triển thương mại điện tử


a.Tiềm năng phát triển của thương mại điện tử từ mức độ chi tiêu.

18
Thương mại điện tử phát triển bởi Việt Nam là quốc gia đông dân với
khoảng 90 triệu dân, đứng thứ 14 trên thế giới, thứ 8 Châu Á và thứ 3 khu vực
Đông Nam Á, con số này báo hiệu đây là một thị trường tiềm năng khổng lồ.

Nước ta lại nằm trong nhóm có cơ cấu dân số trẻ nhất thế giới, ¾ (gần
69%) dân số nằm trong độ tuổi tiềm năng trở thành người tiêu dùng (15 – 64
tuổi). Người Việt có tỉ lệ chi tiêu tiêu dùng cao, có thể chiếm tới 60 – 70% thu
nhập. Điều này chắc chắn sẽ tạo nên một sự đột biến trong thị trường kinh
doanh bán lẻ tại các khu vực kinh tế phát triển, nhất là thành thị.

Yếu tố quyết định sức mua của thị trường chính là thế hệ trẻ bởi đó là
những người có nhiều nhu cầu trong nhiều lĩnh vực nhất. Thế hệ trẻ không chỉ
có khả năng tạo ra xu hướng tiêu dùng và thị trường của những loại hàng hóa
họ muốn mà còn có khả năng tác động đến tâm lý, hành vi và nhu cầu tiêu
dùng của những nhóm tuổi khác trong xã hội.

Hình 8 :Sự tiện lợi của TMDT


Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tăng trưởng doanh thu thực của các
lĩnh vực có liên quan đến hàng tiêu dùng ở Việt Nam dự tính sẽ đạt 140 tỷ USD
vào năm 2016, và sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tiếp theo. Tỷ lệ tăng

19
trưởng chi tiêu của người tiêu dùng Việt Nam trong giai đoạn 2015 – 2020
được dự báo sẽ thuộc loại cao nhất trong khu vực ASEAN, đạt 8%, cao hơn cả
Indonesia và Malaysia 5%, và Philippines, Thái Lan, Singapore cùng là 4%.

b. Tiềm năng phát triển của KTTT qua sự phát triển của Internet

Việt nam là quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong số
các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới.

Bên cạnh đó, công nghệ để hình thành thị trường điện tử đã rẻ đi rất
nhiều. Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau
thông qua các giao diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung
có mật độ chào hàng cao. Ngoài ra, dân số Việt Nam là dân số trẻ, tiếp thu công
nghệ mới nhanh, lại rất nhanh nhạy trong các lĩnh vực kinh doanh trên
mạng chính là tiền để để TMĐT phát triển mạnh mẽ hơn.

Tốc độ tăng trưởng Internet của Việt nam đứng thứ 15 trên thế giới.
Bảng số liệu thống kê :

Hình 9:Thống kê tốc độ tăng trưởng Internet (Nguồn IBM)


20
c. KTTT trong lĩnh vực tài chính ngân hàng
Với đặc điểm giao dịch không cần gặp mặt nên TMĐT thời gian đầu cũng
khó khăn trong việc gây dựng niềm tin ở khách hàng sử dụng dịch vụ. Nhưng
bắt kịp với xu thế này, hệ thống ngân hàng đã có những cải tiến đáng kể nhằm
xóa nhòa đi sự hoài nghi của khách hàng.

Nhiều ngân hàng đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi, hệ thống
chuyển mạch, cung cấp một loạt các dịch vụ thanh toán trực tuyến, Intenet
banking… Toàn bộ thông tin về số tài khoản, mã giao dịch, lịch sử giao dịch của
khách hàng đều được giữ kín tuyệt đối tránh trường hợp bị lợi dụng cho các
mục đích không minh bạch. Nhờ vậy,người tiêu dùng có thể hoàn toàn yên tâm
với mọi giao dịch, bạn không cần phải di chuyển nhiều để được nhìn tận mắt
sản phẩm, không phải mang nhiều tiền mặt giao dịch bên người với tâm trạng
lo lắng, bất an nữa.

Bạn chỉ cần ngồi nhà, mọi thao tác giao dịch thương lượng chỉ cần thực
hiện trên một màn hình máy tính hay vài cuộc điện thoại.

21
Hình 10:Hệ thống thanh toán

3.3 Đào tạo nguồn lực phục vụ cho CNTT


Trong mấy thập niên gần đây đổi mới giáo dục đào tạo là xu thế toàn
cầu. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ trên thế
giới phát triển như vũ bão tạo ra những bước tiến nhảy vọt, đặc biệt trong các
lĩnh vực điện tử - viễn thông, tin học và công nghệ thông tin.

Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi
mặt của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Để diễn
đạt bước ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại người ta đã nói đến
một thời đại tin học với sự bùng nổ thông tin và công nghệ đổi mới nhanh đến
mức chóng mặt. Đó chính là nền tảng khoa học – công nghệ của quá trình toàn
cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức. Những chuyển biến hết sức mạnh
mẽ này đã làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm,
phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết và
chủ yếu lại chính là giáo dục và đào tạo.
22
Tri thức mới được tạo ra với cấp số nhân, được phổ biến nhanh và rộng
đến mức không hình dung được lại có thể lưu giữ những khối lượng khổng lồ
bằng những phương tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng
đến mức trẻ con cũng có thể làm được và thậm chí còn thao tác nhanh hơn
người lớn… Trong bối cảnh ấy kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu,
cái mới luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất hiện và
trở nên rất phổ biến các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình
đào tạo từ xa, hội nghị trực tuyến…Cho đến hôm nay việc tìm kiếm thông tin,
kiến thức và giao lưu qua mạng đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều so với việc
đọc sách, báo giấy trước đây. Đã trở thành câu nói cửa miệng của rất nhiều
người, rằng với đà phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay, không thể
biết trước điều gì sẽ xảy ra.

3.4 Xây dựng phát triển công nghệ phần mềm


Doanh thu CNPM chỉ chiếm 13% tổng doanh thu toàn ngành Công nghiệp
CNTT.Trong bối cảnh hiện nay, phát triển CNPM là một trong nhữn giải pháp
góp phần chống lạm phát, giảm nhập siêu, tăng hiệu quả của nền kinh tế.

Chỉ thị số 58 từ năm 2000 của Bộ Chính trị cũng đã khẳng định: Cần phát
triển Công nghiệp CNTT thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phát
triển CNPM. Vì vậy, Bộ TT&TT đã soạn thảo và trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình phát triển CNPM Việt nam (theo quyết định 51/2007/QĐ-
TTg), và Chương trình phát triển Công nghiệp Nội dung số Việt Nam (theo quyết
định 56/2007/QĐ-TTg) với mục tiêu đến năm 2010 tổng doanh thu phần mềm
và dịch vụ đạt trên 800 triệu USD/năm, trong đó giá trị xuất khẩu đạt ít nhất
40%, và các giải pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

23
Hình 11:Nhân tố phát triển CNPM

3.5 Phát triển kinh tế nông thôn, khắc phục khoảng cách giữa thành
thị và nông thôn
Nhiều mô hình, giải pháp ứng dụng CNTT trong ngành nông nghiệp đã
được triển khai và đem lại hiệu quả tích cực như: sàn giao dịch nông sản, hệ
thống thông tin nông nghiệp, giải pháp ứng dụng CNTT trong chăn nuôi và hệ
thống giám sát môi trường nông nghiệp …

Việc kết hợp CNTT và công nghệ viễn thám thành các hệ thống thông tin
cho phép theo dõi tiến độ mùa vụ, xác định giai đoạn sinh sản của cây trồng để
tính đúng, tính đủ nhu cầu nước, phân bón, đánh giá mức độ nhạy cảm của cây
trồng với các loại sâu bệnh và đưa ra dự báo sâu bệnh hại trên đồng ruộng. Đặc
biệt, một số tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long đang sử dụng hệ thống thông tin
địa lý viễn thám quản lý sản xuất lúa, từ đó theo dõi tiến độ gieo trồng, tiến độ
thu hoạch, cơ cấu giống trên các cánh đồng, tình hình sâu bệnh, biến động diện
tích lúa qua từng năm, dự báo 9/16/2016 về năng suất lúa trên các cánh đồng…

24
Những thông tin này rất cần cho việc định hướng sản xuất của nông dân, hoạt
động hỗ trợ sản xuất của Chính phủ, dự kiến kế hoạch thu mua, xuất khẩu gạo
của doanh nghiệp.

CNTT sẽ tạo cơ hội cho người nông dân trở thành doanh nghiệp số có
năng suất và giá trị vượt trội và chất lượng sống ngày càng cao hơn.

Sự phát triển của cơ sở hạ tầng thông tin và sử dụng tích cực của nó sẽ
là một phím tắt để tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia kém phát triển. Công
nghệ thông tin nói chung có xu hướng gắn với cải thiện năng suất. Việc khai
thác các công nghệ mới nhất có thể cung cấp cho các ngành công nghiệp của
các quốc gia nhất định một lợi thế cạnh tranh.Điểm sáng trong ứng dụng CNTT
vào nông nghiệp là những tên tuổi như: TH True Milk, VinEco. Bên cạnh đó, còn
có một số mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao quy mô nhỏ ở TPHCM,
Lâm Đồng.

Vì vậy, Nhà nước đã tạo điều kiện để khắc phục khoảng cách số giữa
thành thị và nông thôn. Điển hình Hiệp Hội Internet Việt Nam chia sẻ thông về
dự án “Internet về nông thôn”. Đây là một dự án mang tính chất cộng đồng và
cần sự chung tay của các nhà mạng lớn như VNPT, Viettel, FPT, CMC... cũng
như những đơn vị cung cấp nội dung trên nền tảng Internet . “Tôi lấy ví dụ, Tập
đoàn VNPT đang triển khai dự án myHomework- nhằm hỗ trợ đối tượng là học
sinh, phụ huynh học sinh cấp 1 và cấp 2 trong việc hướng dẫn và giải bài tập
môn Toán học trên môi trường Internet (Mobile – Android/IOS, Web/Wap).

Với sự ủng hộ của cộng đồng và các doanh nghiệp chung tay thì dự án
Internet về nông thông sẽ sớm được đưa vào thực hiện và mang lại lợi ích cho
nhân dân và rút ngắn khoảng cách số.

25
3.6 Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
Thứ trưởng Nguyễn Minh Hồng cũng đặc biệt nhấn mạnh, trong hai năm
2013 - 2014 đã có nhiều sự kiện quan trọng đối với ngành CNTT-TT, minh
chứng bằng hàng loạt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được
ban hành như: nghị định 132/2013/NĐ (16/10/2013) - về quy định lại lại về cơ
cấu, tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Bộ TT&TT; Quyết định 109/QĐ-TTg
(2014) của Thủ tướng Chính phủ, về thành lập Ủy ban quốc gia về CNTT (do Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng làm Chủ tịch). Và gần đây nhất, ngày 1/7/2014 Bộ
chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh, ứng dụng CNTT
đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế nhằm định hướng
chiến lược cho sự phát triển ngành CNTT trong giai đoạn tới… ngoài ra còn phải
kể đến hàng loạt văn bản khác hết sức quan trọng, sẽ tác động lớn đến lĩnh vực
CNTT như: Nghị định 154/2013/NĐ-CP quy định về khu CNTT tập trung; Nghị
định 172/2013 NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông
tin mạng; đề án Đào tạo nguồn nhân lực an toàn thông tin đến 2020…

IV. Thách thức của nền kinh tế thông tin


Những thách thức chính :
 Phát triển cơ sở hạ tầng CNTT&TT
 Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
 Xây dựng khung khổ pháp lý quản lý nền kinh tế thông tin
 Hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước chưa hiệu quả.

4.1 Thách thức về cơ sở hạ tầng CNTT&TT


Công ty hiện đại mà cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) hiệu quả
thì có lợi thế cạnh tranh đáng kể ở mức độ chiến lược. Hơn nữa, do sự phát
triển liên tục của doanh nghiệp, chẳng hạn như mở rộng mạng lưới chi nhánh,
vươn ra các thị trường mới, phức tạp hóa của các quy trình, tất cả những điều

26
này đòi hỏi cần phải phức tạp hóa không ngừng các hệ thống phần mềm của
công ty. Do đó, nhu cầu về quản lý CNTT một cách hợp lý, đặc biệt là đối với các
công ty lớn, luôn được đặt lên hàng đầu.

Mô hình cơ sở hạ tầng của một doanh nghiệp :

HÌnh 12: Cơ sở hạ tầng của Doanh nghiệp

Hoạt động thông suốt: Đầu tiên, cơ sở hạ tầng CNTT không được phép
làm cản trở quá trình kinh doanh. Đối với CNTT của các công ty lớn ngày nay
đòi hỏi phải làm việc 24 × 7; thậm trí chỉ ngưng trệ nhỏ cũng có thể dẫn đến
tổn thất tài chính và uy tín rất lớn.

Khả năng mở rộng: Giám sát chủ động là cần thiết cho việc xác định kịp
thời những "nút thắt cổ chai" trong cơ sở hạ tầng CNTT, những nơi làm hạn chế
khả năng mở rộng hoạt động của doanh nghiệp. Nếu có sự theo dõi thường
xuyên và "hàn vá" những nơi như vậy thì sẽ giảm bớt đáng kể xác suất phải xây
dựng lại toàn bộ cơ sở hạ tầng CNTT khi mở rộng kinh doanh.

An ninh: Cơ sở hạ tầng CNTT càng phức tạp và càng có nhiều hệ thống


phần mềm chạy trên đó bao nhiêu thì nó càng dễ bị tổn thương bấy nhiêu. Khối
lượng dữ liệu và sự phức tạp của quy trình nghiệp vụ có ảnh hưởng trực tiếp
đến kiến trúc hệ thống bảo mật thông tin.

27
Tốc độ thay đổi: Cạnh tranh buộc các công ty phải liên tục cải thiện mức
độ cũng như chất lượng dịch vụ. Việc thay đổi quy trình nghiệp vụ cần được hỗ
trợ bởi các dịch vụ của cơ sở hạ tầng CNTT: nếu như đưa ra một quyết định
thay đổi thì sau đó cần phải được triển khai trong thời gian càng sớm càng tốt.

Minh bạch và dễ quản lý: Các cơ sở hạ tầng CNTT càng đơn giản và minh
bạch thì càng dễ dàng quản lý, ít lỗi và bảo trì đỡ tốn kém hơn. Tính minh bạch
và dễ quản lý cơ sở hạ tầng CNTT có nghĩa là phản ứng của CNTT đối với những
thay đổi trong kinh doanh. Điều này cho phép đưa ra đánh giá: cơ sở hạ tầng có
thể đáp ứng được các thay đổi cần thiết trong hoạt động của doanh nghiệp
không, và nếu có, với khoảng thời gian nào và với chi phí là bao nhiêu.
Giá trị sở hữu tổng thể: Cần phải hiểu rằng, phần lớn các chi phí của một
công ty lớn không chỉ để mua sắm hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT, mà còn
để hỗ trợ và duy trì, và công việc này được hiểu là liên tục điều chỉnh để phù
hợp với các nhu cầu hiện tại của doanh nghiệp. Các công ty lớn ngày nay
thường áp dụng các quy trình kinh doanh phức tạp, và để thay đổi thì cần chi
phí không hề rẻ. Nếu nhân với quy mô áp dụng, chi phí có thể đạt tới con số
khổng lồ. Bởi vậy, yêu cầu về chi phí sở hữu hợp lý của cơ sở hạ tầng CNTT là
điều vô cùng quan trọng.

4.2. Thách thức về nguồn nhân lực và việc làm


Nhu cầu nhân lực ngành Công nghệ thông tin (CNTT) rất lớn. Đây là
ngành rất hấp dẫn và có nhiều trường đào tạo. Tuy nhiên, thực trạng lao động
trong ngành CNTT tại Việt Nam báo cáo mới đây của Vụ Công nghệ thông tin:
Hiện số lao động trong ngành công nghiệp Công nghệ thông tin trên cả nước là
trên 200.000, với doanh thu thấp nhất là 13.500 USD/người/năm (công nghiệp
nội dung số), cao nhất là 37.200 USD/người/năm (công nghiệp phần cứng).
Riêng ngành quản trị mạng, an toàn bảo mật Việt Nam, với lộ trình từ nay đến

28
2020, ngân sách nhà nước sẽ chi 765 tỉ đồng để thực hiện 6 dự án phục vụ mục
tiêu phát triển an toàn thông tin số quốc gia.

Theo Sách trắng CNTT Việt Nam 2014, ước tính, đến năm 2020, Việt Nam
cần 1 triệu nhân lực ngành CNTT, nhưng hiện tổng số nhân lực làm việc trong
ngành này mới đạt hơn 440.000 người. Số lượng và chất lượng đào tạo chưa
đáp ứng được sự phát triển, mở rộng và nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp
trong ngành.

“Trong những năm tới, ngành công nghệ thông tin (CNTT) đang có nhu
cầu về nhân lực với một số lượng lớn, tuy nhiên vấn đề cung – cầu nhân lực của
ngành này đang tồn tại nhiều nghịch lý”. Theo thống kê của Bộ Thông tin và
&Truyền thông, hiện nay nguồn nhân lực CNTT tại các doanh nghiệp đang thiếu
trầm trọng trong khi nhu cầu tuyển dụng vào khoảng 250.000 lao động. Theo
hướng quy hoạch nhân lực quốc gia đến năm 2020, Việt Nam cần 1 triệu lao
động trong lĩnh vực này. Những con số trên cho thấy nhu cầu, cơn khát nhân
lực trong ngành CNTT dường như vẫn chưa hề giảm sút. Bên cạnh công nghệ
phần cứng, phần mềm hay mạng máy tính quen thuộc lâu nay, thị trường
ngành này thay đổi hằng năm với sự góp mặt và phát triển nhanh ở các lĩnh vực
như: tích hợp hệ thống, công nghệ di động, thương mại điện tử, game… Hiện
nhu cầu tuyển dụng nhân lực trong ngành rất rộng mở, đa dạng, trong đó có
nhiều vị trí “khát” trầm trọng như: lập trình di động, điện toán đám mây, quản
trị mạng, chuyên gia bảo mật và an ninh mạng… Riêng tại thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2011 – 2015, nhu cầu chung về nhân lực là 270.000 đến
280.000 việc/năm, trong đó ngành công nghệ thông tin là ngành có nhu cầu
nhân lực lớn nhất, chiếm khoảng 3%-4%.

29
Việc làm IT – Cơn khát nguồn nhân lực. Và theo như dự kiến của sở
Thông tin & Truyền thông, đến năm 2020, nhân lực ngành CNTT phải lên đến
67.324 người mới đủ để đáp ứng nhu cầu. Tuy nhiên, bên cạnh việc “khát”
nguồn nhân lực thì tình trạng tay nghề lao động của chúng ta cũng còn nhiều
điểm yếu:
 Hạn chế về kỹ năng, chưa phù hợp yêu cầu chuyên ngành, kể cả kiến
thức ngoại ngữ. Kiến thức ngoại ngữ của nguồn nhân lực IT nước ta còn
nhiều hạn chế, qua khảo sát cho thấy, tỷ lệ nguồn nhân lực CNTT trình độ
ngoại ngữ khá, giỏi trở lên chỉ chiếm 59%. Ðiều này ảnh hưởng đến việc
đưa nguồn nhân lực CNTT đi đào tạo nâng cao ở nước ngoài. Ngoại ngữ
là một trong những yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến quá trình cập nhật
công nghệ mới của thế giới.
 Hiện nguồn nhân lực có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn giỏi vẫn
không đáp ứng đủ cho thị trường lao động.
 Chương trình đào tạo chưa thích ứng với sự thay đổi của công nghệ. Bên
cạnh đó, số cơ sở đào tạo nhiều nhưng tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ
trở lên còn thấp, chỉ chiếm 49%.

30
4.3 Thách thức về môi trường pháp lý quốc gia cho nền kinh tế
thông tin
Phát triển kinh tế thông tin toàn cầu sẽ làm mờ biên giới kinh tế giữa các
quốc gia. Mạng máy tính toàn cầu có phạm vị ảnh hưởng rất rộng lớn và đa
dạng. Trong nền kinh tế thông tin nhiều vấn đề pháp lý phức tạp có ảnh hưởng
lớn tới hoạt động kinh tế - xã hội sẽ được đặt ra như: quyền sở hữu trí tuệ;
quyền riêng tư; bảo mật và an toàn dữ liệu; tiền tệ điện tử và thanh toán điện
tử; bảo vệ người tiêu dùng, .... Hệ thống luật pháp cần liên tục được hoàn thiện
để phù hợp với đặc trưng của nền kinh tế thông tin và chỉ có như vậy mới nâng
cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, hấp dẫn và khuyến khích đầu tư các nhà
đầu tư, tạo ra những điều kiện cần thiết để các nhà đầu tư nước ngoài, các
thành phần kinh tế trong nước mạnh dạn tham gia vào nền kinh tế thông tin.
Môi trường pháp lý không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp
trong nước, hạn chế thu hút đầu tư nước ngoài.

Điều cần chú ý là phải tăng cường hợp tác ở cấp quốc gia, khu vực và
quốc tế khi xây dựng môi trường pháp lý cho nền kinh tế thông tin. Ngay trong
việc triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng CNTT&TT quốc gia đã
rất cần tham khảo kinh nghiệm và sự hợp tác của những nước trong khu vực,
với quốc tế.

Một trong những thành tựu lớn nhất của nền kinh tế nước ta trong thời
kỳ đổi mới là đã hình thành được thể chế nền kinh tế thị trường và nền kinh tế
đang chuyển đổi ngày càng có khả năng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng hệ thống luật pháp cho nền kinh tế mới ở
nước ta còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết, cohưa hoàn thiện và còn chưa thật phù
hợp với chuẩn mực quốc tế nhất là về những vấn đềo về quyền sở hữu trí tuệ;
quyền riêng tư; bảo mật và an toàn dữ liệu; tiền tệ điện tử và thanh toán điện

31
tử; bảo vệ người tiêu dùng như được nêu ở trên.

4.4 Thách thức về hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý hành
chính Nhà nước
Thực chất nền kinh tế Việt Nam đang nằm trong hai luồng chuyển đổi.
Luồng chuyển đổi thứ nhất nhằm chuyển đổi nền kinh tế nhỏ, dựa chủ yếu vào
nông nghiệp thành một nền kinh tế được phát triển toàn diện theo hướng hiện
đại. Trong ngữ cảnh đó nước ta phải tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và cơ cấu lại nền kinh tế một cách khoa học, hợp lý. Luồng
chuyển đổi thứ hai là quá trình chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung
cao sang nền kinh tế thị trường được điều tiết tốt bởi Nhà nước. Trong ngữ
cảnh này nước ta cần xác lập và thực hiện thành công thể chế của nền kinh tế
thị trường, phải đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và phát triển kinh tế quốc
tế.

Thực tế đó đang đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống quản lý hành chính
nhà nước ở nước ta và muốn vượt qua được nó thì các cơ quan hành chính nhà
nước phải mạnh hơn, hoạt động cần hiệu quả và minh bạch hơn, cần phục vụ tốt
hơn các nhu cầu của nhân dân.

Một trong những nguyên nhân quan trọng là đội ngũ cán bộ công chức
chưa theo kịp sự biến đổi của thời đại, nhất là của toàn cầu hoá và hình thành
nền kinh tế thông tin; chưa được trang bị kiến thức chuyên môn vững vàng và
chưa nắm bắt được (hoặc ngại phải học để nắm bắt) những thành tựu quan
trọng của cách mạng khoa học công nghệ đang làm biến đổi cục diện chính trị
và cơ cấu kinh tế toàn cầu, ...

Công nghệ thông tin và truyền thông được các nước đánh giá là có vai
trò rất quan trọng và là công cụ thích hợp trong việc hỗ trợ quá trình chuyển
đổi chức năng cuả chính quyền, dù rằng việc sử dụng khả năng của nó để đạt

32
được mục đích đề ra là không dễ dàng. Chính phủ ta cũng coi việc ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT) trong hệ thống các cơ quan
hành chính là giải pháp quan trọng để các cấp chính quyền trong hệ thống vượt
qua những yêu cầu thách thức được nêu ở trên.

V. Tìm hiểu nền kinh tế thông tin năm 2015


1. Những bước tiến, thành tựu về CNTT đã đạt được trong năm
2015
a. Sự quan tâm của chính phủ vào ngành CNTT

1. Chính phủ ban hành nghị quyết 36A về xây dựng Chính phủ điện tử.

Trong những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng phát
triển ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), đặc biệt là ứng dụng CNTT trong
các cơ quan nhà nước. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành,
tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy ứng dụng CNTT. Công nghệ thông tin
được coi là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo vệ
Tổ quốc; là động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp
phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm phát triển nhanh và
bền vững đất nước.

Các bộ, ngành và các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị,
Nghị quyết của Bộ Chính trị; các nghị quyết, quyết định của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT. Hầu hết các bộ,
ngành và địa phương đã có trang/cổng thông tin điện tử và ứng dụng công
nghệ thông tin giải quyết các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ,
giảm chi phí hoạt động; tăng tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà
nước, tạo thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.

33
CNTT đã góp phần không nhỏ vào công tác quản lý nhà nước của các bộ,
ngành, địa phương, nhất là trong xử lý hồ sơ hành chính, quản lý ngân sách,
thuế, kho bạc, hải quan, bảo hiểm xã hội, thành lập doanh nghiệp... Ngay trong
năm 2015, tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện kê khai thuế điện tử đã tăng từ 65%
lên 98%; thời gian nộp thuế của doanh nghiệp giảm từ 537 giờ/năm xuống còn
167 giờ/năm. Việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử theo Hệ thống thông
quan tự động (VNACCS/VCIS) và Cơ chế một cửa quốc gia tại cảng biển quốc tế
đã giảm thời gian thông quan hàng hóa bình quân từ 21 ngày xuống còn 14
ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu, giảm được 10 - 20% chi phí
và 30% thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp.

Việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT trên tất cả các lĩnh vực đã góp
phần tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho người dân và
doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và quản trị doanh
nghiệp,thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Ngày 14/10/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 36a/NQ-CP về xây
dựng Chính phủ điện tử, với mục tiêu từ năm 2015 - 2017 tập trung đẩy mạnh
cải cách hành chính gắn với tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý và cung
cấp dịch vụ công trực tuyến, bảo đảm rút ngắn quy trình xử lý, giảm số lượng
và đơn giản hóa, chuẩn hóa nội dung hồ sơ, giảm thời gian và chi phí thực hiện
thủ tục hành chính. Đến hết năm 2016 các bộ, ngành Trung ương có 100% các
dịch vụ công được cung cấp trực tuyến ở mức độ cho phép người sử dụng điền
và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.

Nghị quyết này được ban hành với kỳ vọng nâng cao năng lực hoạt động
của bộ máy hành chính Nhà nước; đáp ứng, phục vụ người dân và doanh
nghiệp ngày càng tốt hơn; thúc đẩy cải cách hành chính; tạo môi trường thuận

34
lợi cho sản xuất kinh doanh; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế khi
nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.

Chính phủ điện tử sẽ giúp tiết kiệm được rất nhiều chi phí và thời gian cho
người dân, doanh nghiệp và các cơ quan hành chính, kiểm soát được những sai
sót khi làm thủ tục, tiết kiệm giấy tờ hành chính. Ngoài ra, việc công khai, minh
bạch trên mạng điện tử sẽ làm giảm bức xúc cho người dân, doanh nghiệp.

2. Quốc hội thông qua Luật an toàn thông tin mạng.

Ngày 19/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật An toàn thông tin
mạng (ATTTM) với 85,83% đại biểu tán thành.

Luật ATTTM gồm 8 chương và 54 điều, quy định về hoạt động an toàn
thông tin mạng, quyền, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
bảo đảm an toàn thông tin mạng; mật mã dân sự; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
thuật về an toàn thông tin mạng; kinh doanh trong lĩnh vực an toàn thông tin
mạng; phát triển nguồn nhân lực an toàn thông tin mạng; quản lý nhà nước về
an toàn thông tin mạng.

Với việc ban hành Luật sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về an toàn
thông tin mạng theo hướng bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của các
quy định trong lĩnh vực này. Đồng thời, phát huy các nguồn lực của đất nước
để bảo đảm an toàn thông tin; tạo điều kiện phát triển ổn định, bình đẳng cho
các tổ chức, cá nhân đang hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam; góp
phần tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực An toàn thông tin mạng.

=> Sự quan tâm của chính phủ. Ta thấy được tầm ảnh hưởng vô cùng
quan trọng của CNTT.

b.Những chỉ tiêu đã đạt được ngành CNTT năm 2015

35
Về ứng dụng cntt, 100% cơ quan nhà nước có trang/cổng thông tin điện tử,
cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến các loại phục vụ người dân và
doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo nhân lực cntt tiếp tục được duy trì ổn định với
khoảng 290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo nghề về
cntt-tt.
Một số chỉ tiêu cụ thể đạt được trong năm 2015:
1. Tổng doanh thu phát sinh toàn ngành: ước đạt 520.000 tỷ đồng.
(không tính công nghiệp CNTT)
2. Tổng nộp ngân sách nhà nước: ước đạt 63.880 tỷ đồng.
3. Tỷ lệ thuê bao di động: 140 thuê bao/100 dân.
4. Tỷ lệ thuê bao internet băng rộng cố định: 8,2 thuê bao/100 dân.
5. Tỷ lệ thuê bao băng rộng di động: 40 thuê bao/100 dân.
6. Tỷ lệ người sử dụng internet: 52% dân số.
7.Tỷ lệ phủ sóng di động: 94%.
8. Tỷ lệ số xã có máy điện thoại: 100%.
9. Tỷ lệ số xã có Điểm Bưu điện-văn hoá xã: 98%.
10. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh: trên 98% diện tích cả nước.
11. Tỷ lệ phủ sóng truyền hình: trên 98% diện tích cả nước.
2.Những thuận lợi và khó khăn của nền công nghệ thông tin nước ta năm
2015
a) Thuận lợi
Nhà nước chủ trương thúc đẩy công nghệ thông tin, thương mại điện tử
phát triển TMĐT thức đưa vào chương trình đào tạo bậc đại học, cao đẳng sau
đại học, tạo sở vững để tạo nên đội ngũ có chuyên môn cao lĩnh vực

Số lượng các cơ sở đào tạo chính quy dài hạn về CNTT tương đối dồi dào.
Trong hơn 400 trường đại học và cao đẳng trên cả nước, có 2/3 trường có đào

36
tạo các ngành thuộc lĩnh vực CNTT. Chỉ tiêu tuyển sinh đại học, cao đẳng
chuyên ngành CNTT cũng tăng theo từng năm.

Công nghệ thông tin, internet Việt Nam đã, tiếp tục phát triển nhanh Việt
Nam quốc gia có tỉ lệ tăng trưởng Internet nhanh khu vực nằm số quốc gia có tỉ
lệ tăng trưởng cao giới Số người sử dụng internet Việt Nam đạt mức 40 triệu
tiếp tục đà tăng trưởng mạnh

Hệ thống ngân hàng có chuyển mạnh mẽ Nhiều ngân hàng đầu tư cung cấp
dịch vụ toán trực tuyến, Intenet banking

Doanh nghiệp đầu tư ngày nhiều vào kinh tế thông tin, thương mại điện
tử

Nhu cầu tìm kiếm sản phẩm internet người Việt Nam ngày càng tăng.

b) Khó khăn

Dự báo năm 2020, nhu cầu nhân lực CNTT là hơn 600.000 người nhưng
khả năng đáp ứng tối đa hiện nay của Việt Nam cũng chỉ hơn 60%.

Sinh viên CNTT sau khi tốt nghiệp chưa thể gia nhập ngay thị trường lao
động trong môi trường công nghiệp và thị trường quốc tế.

Doanh nghiệp sử dụng lao động thường phải mất thời gian và kinh phí
đào tạo lại bởi một số hạn chế cơ bản của sinh viên sau khi ra trưởng như trình
độ ngoại ngữ còn yếu (cụ thể là tiếng Anh), thiếu khả năng làm việc độc lập và
theo nhóm, ... Theo một doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực
CNTT ở Việt Nam, chỉ khoảng 1/10 ứng viên đáp ứng được yêu cầu. Đa số các
sinh viên muốn được tuyển dụng, làm việc tại các công ty lớn hoặc chuyên về
CNTT đều phải học thêm các chứng chỉ quốc tế, chủ yếu là về lập trình hoặc
quản trị mạng.

37
Sự thiếu hụt các chuyên gia đầu ngành, các giảng viên có trình độ cao, có
đẳng cấp quốc tế về lĩnh vực CNTT đang là một vấn đề nan giải.

Hoạt động nghiên cứu khoa học về CNTT tại các trường đại học còn yếu:
rất ít các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí uy tín của thế giới.
Đây cũng là một lý do làm cho chất lượng đào tạo còn yếu mặc dù nguồn nhân
lực CNTT phát triển mạnh về số lượng. Đặc biệt, rất thiếu đội ngũ cán bộ lãnh
đạo công nghệ thông tin (CIO), lãnh đạo quản lý CNTT, quản lý các dự án CNTT
và các kỹ sư trưởng về CNTT

Các doanh nghiệp về công nghệ thông tin chưa có nhiều sự hỗ trợ nhiều
từ phía quan chức quản lý

Doanh nghiệp chưa có đủ điều kiện sở hạ tầng cần thiết để phát triển
công nghệ thông tin, thương mại điện tử

Hành lang pháp lý về kinh tế thông tin, thương mại điện tử vẫn còn mông
lung, chưa cụ thể

VI. Giải pháp


1. Để công nghệ thông tin thực sự trở thành nền tảng của phương thức
phát triển mới, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương và cộng
đồng doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu cùng triển khai
một số nội dung nhiệm vụ giải pháp chủ yếu sau đây:
a) Nâng cao nhận thức, quán triệt quan điểm công nghệ thông tin là một
nền tảng của phương thức phát triển mới trong các cấp quản lý, các
ngành kinh tế xã hội, trong mỗi doanh nghiệp và toàn xã hội. Phát
triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất, kinh doanh và
quản lý hướng tới mục tiêu nâng cao toàn diện năng lực cạnh tranh

38
quốc gia, coi đây là con đường ngắn nhất để Việt Nam tiến kịp các
nước phát triển - tiến cùng thời đại.
b) xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia, ban hành chuẩn thông
tin quốc gia bảo đảm khả năng kết nối liên thông, đồng bộ, chú trọng
công tác an ninh, an toàn và bảo mật thông tin quốc gia.
c) đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, làm chủ các bí quyết, giải pháp công
nghệ mới. Ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghệ
thông tin của từng ngành, lĩnh vực, từng địa phương, doanh nghiệp và
của cả quốc gia.
d) Xây dựng cơ chế chính sách tạo thuận lợi và hiệu quả cao nhất nhằm
bảo đảm việc ứng dụng công nghệ thông tin trở thành một yêu cầu
tiên quyết trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi công trình, dự án đầu
tư trong tiến trình phát triển.
e) Năm là tạo môi trường thuận lợi cho phát triển thị trường công nghệ
thông tin, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, tạo chỗ đứng vững
chắc trên thị trường trong nước và xây dựng năng lực canh tranh
vươn ra thị trường nước ngoài.
f) Tăng cường hợp tác quốc tế, huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là
nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài để phát triển công nghệ
thông tin.
g) Phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin được coi là nhiệm vụ
quan trọng của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Người đứng đầu
tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị phải trực tiếp chỉ đạo và
chịu trách nhiệm về triển khai ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin
vì mục tiêu phát triển nhanh, bền vững.

39
2. Để thực hiện được những định hướng phát triển nêu trên, đòi hỏi sự nỗ
lực phấn đấu rất cao, sự chung tay cùng hành động của tất cả các ngành
các cấp, các doanh nghiệp, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu.
3. “Nâng cao năng lực CNTT quốc gia, phát triển công nghiệp CNTT trở
thành một ngành kinh tế - kỹ thuật, dịch vụ chủ lực, đưa năng lực nghiên
cứu, sản xuất, cung ứng dịch vụ CNTT quốc gia ngang tầm khu vực, đủ
khả năng làm chủ công nghệ, đồng thời có đóng góp lớn cho GDP. Ứng
dụng CNTT mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, gắn liền với nâng
cao năng suất, năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao chất lượng sống,
chỉ số phát triển con người và phát triển bền vững”.

40
KẾT LUẬN
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của
CNTT. CNTT đã ở một bước phát triển cao đó là số hóa tất cả các dữ liệu thông
tin, luân chuyển mạnh mẽ và kết nối tất cả chúng ta lại với nhau. Mọi loại thông
tin, số liệu âm thanh, hình ảnh có thể được đưa về dạng kỹ thuật số để bất kỳ
máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người. Những
công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu
thập, chia sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo
phương thức hoàn toàn mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm,
các tập tục, các thói quen truyền thống, và thậm chí cả cách nhìn các giá trị
trong cuộc sống. CNTT đến với từng người dân, từng người quản lý, nhà khoa
học, người nông dân, bà nội trợ, học sinh tiểu học….Không có lĩnh vực nào,
không có nơi nào không có mặt của CNTT. Công nghệ thông tin là một trong các
động lực quan trọng nhất của sự phát triển…ứng dụng và phát triển công nghệ
thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và
hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng và tạo khả
năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp

Và cũng chính từ đây nảy sinh một thách thức rất lớn đối với các nước đang
phát triển như nước ta đó là làm thế nào để phát huy được thế mạnh của CNTT
thúc đẩy sự phát triển của xã hội mà không mất đi văn hoá truyền thống quý
báu của dân tộc. Sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay tất yếu phải khai thác

41
được những tiềm năng thế mạnh của công nghệ thông tin, thúc đẩy những ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin, coi đó là một điều kiện cần thiết để đạt
được những mục tiêu của giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Nhận thức
rõ vai trò của CNTT trong việc góp phần nâng cao hiệu quả công tác, cải cách
hành chính, đổi mới phương thức, lề lối làm việc,góp phần đẩy mạnh nước nhà
tiến bộ và văn minh.

42
Tài liệu tham khảo

1. http://mic.gov.vn

2. http://news.zing.vn

3. http://business.gov.vn

4. http://baocongthuong.com.vn

5. http://tbsvn.com.vn

6. http://laodong.com.vn

7. http://vnnic.vn

8. http://ictnews.vn

43
44

You might also like