You are on page 1of 20

Môn: KINH TẾ ĐỔI MỚI VÀ SÁNG TẠO

Đề tài: CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA SINGAPORE
Giảng viên: TS. Phạm Mỹ Duyên
Học viên thực hiện: Nguyễn Thị Bảo Lâm
Lớp: Kinh tế học
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Cơ sở lý thuyết ..................................................................................................... 2
1.1. Khái niệm về đổi mới sáng tạo ...................................................................... 2
1.2. Đo lường đổi mới sáng tạo ............................................................................ 3
1.3. Vai trò của chính phủ trong đổi mới sáng tạo ............................................... 4
1.4. Một số hoạt động cơ bản của chính phủ trong đổi mới sáng tạo ................... 5
1.5. Tận dụng các cơ hội và thách thức do chính phủ mang lại ......................... 10
2. Chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo của Singapore ........................................ 11
2.1. Giới thiệu về quá trình hướng tới đổi mới, sáng tạo của Singapore ............ 11
2.2. Mô hình lan tỏa tri thức đổi mới, sáng tạo .................................................. 13
2.3. Các thành phần chính trong quy trình thúc đẩy đổi mới, sáng tạo .............. 14
2.4. Vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo ...................... 15
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 18
LỜI MỞ ĐẦU
Singapore, một đảo quốc với diện tích chỉ gấp đôi Phú Quốc, không tài nguyên
thiên nhiên, dân số ít, bao quanh là các quốc gia khó tính, đôi khi còn thù địch.
Nhưng nhờ vào những chính sách đổi mới sáng tạo phù hợp của chính phủ mà kể
từ khi dành tự chủ về chính trị năm 1956 đến nay Singapore đã vươn lên một cách
thần kỳ từ một quốc gia gần như không có thành tựu gì trong tất cả các lĩnh vực
trở thành con Rồng Châu Á với nền kinh tế phát triển vượt bậc, nền văn hóa có
bản sắc riêng khi hòa quyện hài hòa trên cơ sở văn hóa của Trung Hoa, Malyasia
và Ấn Độ. Xã hội gần như không có tệ nạn, với ý thức và văn minh của người dân
gần như được đánh giá cao nhất, nhì thế giới. Tiếp tục giữ vững phong độ phát
triển này, đứng trước kỷ nguyên ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật,
Singapore vẫn đang là một trong những nước đứng đầu trong các hoạt động đổi
mới sáng tạo. Vậy nhờ vào những chính sách thúc đẩy đổi mới nào của chính phủ
mà họ đạt được thành tựu này? Liệu rằng Việt Nam chúng ta có thể học hỏi được
gì từ họ?
Với sự phát triển vượt bậc của nền công nghiệp ứng dụng thành tựu của khoa học
kỹ thuật và internet hiện nay. Việt Nam chúng ta càng cần hơn nữa những chính
sách đổi mới sáng tạo để tận dụng được xu hướng phát triển của thời đại và áp
dụng phù hợp vào thể chế kinh tế của nước nhà. Việc tìm hiểu thành công của
nước bạn để xem xét và học hỏi cũng là một cách để có được bài học và kinh
nghiệm nhanh chóng và thực tế trong hoạch định chính sách của nước mình, vì vậy
em xin chọn nghiên cứu các chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo của Singapore
từ khi được thành lập đến nay và đặc biệt là những chính sách thúc đẩy đổi mới
sáng tạo gần đây trong kỷ nguyên ứng dụng thành tựu của khoa học kỹ thuật.

1
1. Cơ sở lý thuyết
1.1. Khái niệm về đổi mới sáng tạo
Đổi mới sáng tạo: Đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp
kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”.
Điều 3, Luật Khoa học công nghệ 2013
Hệ thống đổi mới sáng tạo: bao gồm những bên tham gia hay các tác nhân và các
hoạt động và tương tác của họ, cũng như môi trường kinh tế xã hội mà trong đó
những tác nhân hay những bên tham gia hoạt động để cùng xác định hiệu suất sáng
tạo của hệ thống đó. (M.R Eggick)
Đổi mới sáng tạo quốc gia: Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia (NIS- National
nnovation System) là hệ thống liên kết giữa khu vực hàn lâm (chủ thể tạo ra tri
thức - đại diện là các trường đại học, viện nghiên cứu) với khu vực công nghiệp
các ngành sản xuất, hoạt động sản xuất). Ttrong đó, nhà nước đóng vai trò kiến
tạo, kết nối, tạo môi trường chính sách, thể chế thúc đẩy mối quan hệ và hoạt động
tương tác giữa khu vực hàn lâm và công nghiệp để tạo ra, ứng dụng và chuyển hóa
tri thức thành các giá trị gia tăng phục vụ nền kinh tế và đời sống xã hội. Hình bên
bên dưới là một minh họa về một đổi mới sáng tạo quốc gia.

2
1.2. Đo lường đổi mới sáng tạo
Rất khó để đo lường chính xác sự tiến bộ của đổi mới sáng tạo, có thể được đo
lường bằng lợi nhuận hay một số thông số của sản phẩm,… tuy nhiên một số chỉ
số đang được áp dụng tại Việt Nam hiện này.
- GII (Global InnovaDon Index – chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu)
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu/ hay chỉ số đổi mới toàn cầu là chỉ số nhằm
đánh giá năng lực và kết quả đổi mới của các nền kinh tế thế giới, do WIPO, Đại
học Cornell (Hoa Kỳ) và Viện INSEAD hợp tác thực hiện hàng năm từ năm 2009.
Chỉ số này được tổng hợp từ 84 chỉ tiêu trong các lĩnh vực: Thể chế; Nguồn nhân
lực và năng lực nghiên cứu; Kết cấu hạ tầng; Sự tinh tế của thị trường và doanh
nghiệp; Sản phẩm tri thức và công nghệ; Sản phẩm sáng tạo.
Với mục tiêu duy nhất nhằm xác định làm thế nào để có được những số liệu và
phương pháp tiếp cận cho phép nắm bắt tốt hơn mức độ của đổi mới sáng tạo
(ĐMST) và hiệu quả của hệ thống ĐMST của các quốc gia, nền kinh tế.
(Theo Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam)
- FOP (Readiness for the Future of ProducDon- chỉ số tương lai sản xuất )
Do WEF xây dựng và công bố vào ngày 11/01/2018 nhằm đánh giá mức độ các
quốc gia/nền kinh tế sẵn sàng như thế nào trước những cơ hội và thách thức mà
cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang tới, đặc biệt là trong sản xuất. Chính phủ
đã sử dụng kết quả đánh giá FOP và đưa thành mục tiêu trong Nghị quyết 02/NQ-
CP. Để kịp thời cung cấp thông tin hướng dẫn, hỗ trợ các bộ, cơ quan và địa phương
theo dõi, nắm bắt và cải thiện nhóm chỉ số Công nghệ và ĐMST thuộc bộ chỉ số
FOP, Bộ KH&CN đã ban hành Sổ tay hướng dẫn về Chỉ số FOP 2018, với 03 nội
dung về: Giới thiệu chung về Khung chỉ số Mức độ sẵn sàng cho Tương lai của
Sản xuất; giới thiệu kết quả đánh giá của Việt Nam về mức độ sẵn sàng cho tương
lai của sản xuất; hướng dẫn chi tiết từng chỉ số thuộc nhóm Công nghệ và ĐMST.
- GCI (Global CompeDDveness IndexNăng lực cạnh tranh toàn cầu, WEF)
Chỉ số GCI là thước đo để đánh giá năng suất và hiệu quả của một quốc gia. Bằng
cách so sánh các quốc gia trên thế giới, nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về lợi thế cạnh
tranh của mỗi quốc gia. Năng lực cạnh tranh toàn cầu được đánh giá bởi 12 trụ cột:
thể chế, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục tiểu học, giáo
3
dục và đào tạo sau đại học, hiệu quả của thị trường hàng hóa, hiệu quả của thị
trương lao động, trình độ phát triển của thị trường tại chính, tiềm năng công nghệ,
quy mô thị trường, trình độn kinh doanh, năng lực đổi mới sáng tạo.
1.3. Vai trò của chính phủ trong đổi mới sáng tạo
Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường, thúc đẩy duy trì các cá
nhân doanh nghiệp đổi mới sáng tạo gắn liền với bản chất của đổi mới sáng tạo.
Thứ nhất, Tri thức đổi mới sáng tạo hay tri thức công nghệ có bản chất “đại chúng”
có thể gây khó khăn cho việc thu được lợi nhuận từ đổi mới. Khi một công ty muốn
mua ý tưởng mới họ không thể xác định được giá trị của ý tưởng tới khi họ biết
được ý tưởng đó là gì. Nhưng khi biết được ý tưởng đó, thì họ lại không còn động
cơ trả cho ý tưởng đó nữa, vì họ đã nắm được ý tưởng. Điều này có thể làm cản
trở nhà cung cấp tri thức tiềm năng đầu tư để tạo ra ý tưởng.
Hai là, tri thức có khía cạnh không cạnh tranh. Khác với các sản phẩm và dịch vụ
thông thường, người cung cấp có thể tăng số lượng bán để thu về lợi nhuận, nhưng
tri thức của đổi mới sáng tạo khi chia sẻ đi người nhận có thể sở hữu mãi mãi và
không hạn chế người sử dụng, điều này có thể ngăn cản nhà cung cấp tiềm năng
đầu tư tạo ra tri thức đổi mới.
Thứ ba, tri thức có thể bị rò rỉ trong quá trình chuyển giao. Và khi người mua thu
được lợi nhuận từ tri thức, thì ý tưởng cũng có thể nhanh chóng bị rò rỉ. Tuy nhiên,
việc rò rỉ tri thức còn mang lại tác động tích cực, đó là tác động tràn, lan tỏa tri
thức ra cộng đồng.
Với bản chất đại chúng trên của tri thức vai trò của chính phủ là: bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ cho những người tạo ra tri thức; trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ý
tưởng và cung cấp đầu ra rộng rãi cho các công ty và doanh nghiệp; có chế độ trợ
giá cho các công ty và cá nhân cũng như khuyến khích tạo ra tri thức riêng.
Tiếp theo, quá trình đổi mới luôn chứa đầy bất ổn về công nghệ và thị trường. Có
những nghiên cứu tốn rất nhiều thời gian và rủi ro và rất khó dự đoán được kết quả
như nghiên cứu mã gen hay các nghiên cứu về dược phẩm, sức khỏe con người.
Chính phủ có thể thực hiện một số chính sách để trợ giúp vấn đề này: chính phủ tự
nhận một số chương trình nghiên cứu và phát triển (R&D) rủi ro; hoặc hỗ trợ các
công ty hợp tác trong những chương trình R&D rủi ro; trợ cấp R&D cho những
4
công việc kinh doanh mạo hiểm để thu hút thêm các nhà đổi mới; gia hạn thời hạn
bằng sáng chế của những đổi mới từ các nghiên cứu mạo hiểm để kéo dài thời gian
công ty thu hồi các khoản đầu tư vào R&D.
Hơn nữa, khi thực hiện đổi mới thì chỉ nghiên cứu và phát triển thôi là chưa đủ.
Trong một số trường hợp để thực hiện đổi mới còn cần sử dụng các tài sản bao
gồm đường xá, điện, gas, nước và hệ thống truyền thông. Trong một số trường hợp,
những tài sản này đòi hỏi sự độc quyền tự nhiên của nhà nước vì quy mô hiệu quả
tối thiểu để sản xuất những tài sản này bằng hoặc lớn hơn quy mô toàn thị trường.
Chính vì vậy chính phủ sẽ để một công ty chuyên cung cấp dịch vụ này hoặc tự
mình cung cấp.
Tiếp theo, là các yếu tố mạng lưới của một sản phẩm đổi mới sáng tạo, một loại
công nghệ thể hiện ảnh hưởng của các yếu tố ngoài mạng lưới nếu càng nhiều
người sử dụng, giá trị của công nghệ càng được nâng cao. Một bất lợi của những
công nghệ này là nếu một công nghệ tốt hơn ra đời nhưng lại có mạng lưới nhỏ
hơn, người sử dụng có thể thích tiếp tục dùng công nghệ cũ vì sợ là người duy nhất
chuyển sang công nghệ mới, và đánh mất ích lợi từ mạng lưới cũ. Do đó, họ có thể
tiếp tục giữ công nghệ cũ. Nếu điều này tiếp diễn trong một thời gian dài, quốc gia
có thể mất đi lợi thế cạnh tranh vì công nghệ lỗi thời, lúc này hính phủ sẽ phải can
thiệp để mở rộng mạng lưới cho các sản phẩm đổi mới, sáng tạo.
Cuối cùng là chính trị, các sản phẩm đổi mới sáng tạo liên quan đến an toàn, an
ninh quốc gia hay uy tín của quốc gia trên thế giới sẽ được chính phủ đầu tư, thúc
đẩy và nghiêm ngặt giám sát.
1.4. Một số hoạt động cơ bản của chính phủ trong đổi mới sáng tạo
Can thiệp của chính phủ có thể cần thiết ở một số giai đoạn nhất định trong một
quy trình đổi mới. Sự can thiệp này có thể ở dạng huy động vốn cho R&D, đóng
vai trò như một người sử dụng tiêu biểu, cung cấp tài sản bổ sung, quy định hoạt
động của công ty, đào tạo lực lượng lao động, duy trì các quy tắc cơ bản của kinh
tế vĩ mô và duy trì ổn định chính trị để thu hút đầu tư vào đổi mới

5
Chính phủ-môi trường cho đổi mới (Allan Afuah Quản trị quá trình đổi mới và
sáng tạo)
Huy động vốn cho các chương trình R&D
Đối với một số hoạt động nghiên cứu và phát triển khi thực hiện có những khó
khăn làm cản trở công ty thực hiện, lúc này chính phủ sẽ đầu tư vào hoạt đầu này
và cũng có thể sẽ thực hiện và cung cấp cho công ty. Thông thường chính phủ sẽ
tài trợ hai loại nghiên cứu và phát triển là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng. Nghiên cứu được phần lớn thực hiện tại các phòng thí nghiệm quốc gia,
trường đại học. Nguồn vốn của chính phủ cho các hoạt động nghiên cứu và phát
triển không phải lúc nào cũng là hình thức trực tiếp, có khi nó được tài trợ gián
tiếp thông qua chính sách giảm thuế, chính sách trợ giá của chính phủ, đảm bảo
khoản vay, tính dụng xuất khẩu hoặc giá trần cho các doanh nghiệp mang tính biểu
tượng của một quốc gia.
Khi chính phủ tài trợ cho nghiên cứu và phát triển, chính phủ cũng đang đào tạo
ra nguồn nhân lực của mình với tri thức và kỹ năng cần có trong đổi mới. Chi tiêu
của chính phủ vào nghiên cứu và phát triển cũng khích lệ các công ty tư nhân đầu
tư vào các phát minh liên quan hoặc tiến hành hoạt động thương mại hoá. Bằng
cách tập trung vào những khu vực cụ thể, dự án nghiên cưu và phát triển của chính
phủ có thể đạt được lợi thế quy mô luôn đi kèm với những dự án đầu tư lớn. Cuối
cùng, chính phủ có thể giảm đáng kể chi phí để công ty gia nhập một số thị trường
6
nhất định. Mặc dù mục tiêu của chính phủ khi đầu tư vào phát triển các dự án là
tạo nên những đổi mới, sáng tạo hữu ích cho mọi người, nhưng trong quá trình
thực hiện có dự án thành công, cũng có dự án thất bại, vì vậy cần các nhà hoạch
định phải có những tính toán cẩn thận trước khi rót vốn vào bất kỳ dự án nào.
Người sử dụng tiêu biểu
Vào đầu vòng đời đổi mới, có rất nhiều bất ổn về công nghệ và thị trường. Nhà đổi
mới có thể không chắc chắn liệu điều gì sẽ tạo thành sản phẩm và khách hàng
muốn gì. Nhiều khách hàng thậm chí cũng không biết họ muốn gì trong sản phẩm.
Do đó, sự tương tác giữa nhà đổi mới và khách hàng là thực sự quan trọng để giúp
khách hàng biết tới những khả năng và giúp nhà đổi mới tìm ra nhu cầu khách
hàng. Vì vậy một người sử dụng tiêu biểu thực sự quan trọng với đổi mới. Họ là
những người sử dụng có nhu cầu tương tự như nhu cầu của những người khác, trừ
phi họ có những nhu cầu này hàng tháng hoặc hàng năm trước phần còn lại của thị
trường và họ thu được lợi nhuận đáng kể khi nhu cầu của mình được đáp ứng sớm
hơn lượng khách hàng còn lại. Trong một số lĩnh vực quan trọng, chính phủ cần
đổi mới sớm hơn so với cộng đồng, và sẵn sàng trả giá cao để đổi mới được thực
hiện từ sớm. Hơn thế nữa chính phủ, với tư cách người sử dụng tiêu biểu, luôn sẵn
sàng phối hợp chặt chẽ với các công ty tư nhân để hướng phát minh thành đổi mới.
Nhà cung cấp tài sản bổ sung đại chúng
Hệ thống giao thông hiện đại và cao cấp có thể khuyến khích đổi mới trong ngành
công nghệp sản xuất Ô tô. Phương tiện thông tin truyền thông tiên tiến không
những tạo điều kiện thúc đẩy truyền đạt thông tin giữa các công ty và khách hàng
trong nước mà còn kết nối họ với mạng lưới đối tác toàn cầu.
Nhà quản lý
Khi một công ty thu được lợi nhuận từ sản phẩm/ ý tưởng đổi mới của mình, những
ý tưởng đó rất dễ bị sao chép vì vậy chính phủ lúc này phải có các chính sách quản
lí phù hợp hơ ban hành các quy định để bảo về sự độc quyền về các bằng phát
minh, sáng chế. Theo lập luận của Schumpeter “mong muốn có được sức mạnh thị
trường thông qua bằng sáng chế là một động cơ lớn để các công ty đầu tư vào đổi
mới”. Chính phủ Trao cho một công ty đặc quyền độc quyền thông qua cấp bằng
sáng chế nâng cao khả năng công ty sẽ quan tâm tới việc cấp bằng sáng chế ưu

7
tiên, trong đó công ty đăng ký bản quyền sáng chế phát minh của mình, nhưng lại
không thương mại hoá phát minh đó. Do đó, công ty có thể ngăn cản các công ty
khác cung cấp sản phẩm sử dụng sáng chế này. Nếu sáng chế mang tính đột phá
về mặt kinh tế, trong đó công ty làm cho những sản phẩm hiện tại mất đi khả năng
cạnh tranh, cấp bằng sáng chế ưu tiên cho phép công ty có thu được lợi nhuận độc
quyền trong khi làm chậm lại tốc độ đổi mới. Do đó, mặc dù đặc quyền độc quyền
được cho là thúc đẩy đổi mới, các đặc quyền đó có thể gây ra trì trệ nếu không
được quản lý tốt. Chính vì vậy việc hạn chế độc quyền mà chỉnh phủ thường cố
gắng kiểm soát lại vô hình tạo nên rào cản đổi mới.
Một khía cạnh quản lý khác có thể ảnh hưởng tới đổi mới là chính sách định giá
của chính phủ. Các hình thức gồm có giá sàn, giá trần, thuế, hạn ngạch và trợ giá.
Giá sàn là mức giá công ty không thể định giá sản phẩm của công ty thấp hơn. Khi
muốn ngăn chặn bán phá giá từ công ty nước ngoài chính phủ có thể áp dụng mức
giá sàn cho hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu vào nước mình. Nhờ vào đó chính phủ
có thể đảm bảo cho công ty nội địa thu được lợi nhuận cao hơn khi giá sàn kết thúc.
Còn đối với giá trần, mức giá mà công ty không thể định giá sản phẩm của mình
cao hơn. Giá trần có thể được chính phủ quy định để giữ những chi phí nhất định
ở mức thấp. Tuy nhiên, điều này có thể làm giảm lợi nhuận của người bán và cũng
là lợi nhuận của đổi mới. Về thuế quan, chính phủ áp mức phí lên hàng nhập khẩu,
do đó làm tăng giá hàng nhập khẩu. Điều này cho phép công ty địa phương nâng
giá và thu được lợi nhuận cao hơn. Thay vì áp dụng thuế quan, chính phủ có thể
quyết định đặt ra số lượng hàng hoá được nhập khẩu từ một số nước ở mức nào đó
hay còn gọi là hạn ngạch. Mức độ được chọn phải đủ nhỏ để tổng lượng hàng bán
ra tại địa phương đủ thấp để đẩy giá lên cao. Tác động lên giá địa phương và lợi
ích của công ty địa phương cũng tương tự như trong trường hợp của thuế quan. Sự
khác biệt là với hạn ngạch, công ty nước ngoài cũng thu được nhiều lợi nhuận,
trong khi người bị thiệt là chính phủ vì không thu được gì. Cuối cùng, để duy trì
lợi nhuận của công ty nội địa ở mức cao, chính phủ có thể áp dụng chính sách trợ
giá. Với mỗi lượng sản phẩm được bán ra, chính phủ trả cho công ty một lượng
tiền nhất định, gọi là lượng trợ giá.

8
Các quy định về môi trường và an toàn giúp đảm bảo an toàn cho người dân trong
công việc, tại nhà và trong sản phẩm họ sử dụng. Cũng giống như việc chính phủ
có thể đưa ra quy định, chính phủ cũng có thể bãi bõ quy định. Bãi bỏ quy định có
thể thay đổi tính chất cạnh tranh trong ngành một cách đáng kể.
Các yếu tố cơ bản của kinh tế vĩ mô
Các yếu tố cơ bản vững mạnh của kinh tế vĩ mô thực sự quan trọng với đổi mới.
Chính sách kinh tế đưa ra kì vọng về lạm phát thấp, lãi suất thấp, tăng trưởng cao
và lợi nhuận cao hơn sẽ khuyến khích công ty đầu tư nhiều hơn vào các chương
trình nghiên cứu và phát triển và tài sản bổ sung như nhà xưởng và các thiết bị
quan trọng với đổi mới. Kì vọng về lợi nhuận như vậy khuyến khích các nhà đầu
tư mạo hiểm đầu tư vào các hoạt động công ty. Lãi suất kì vọng thấp giúp các dự
án dễ dàng đặt ra ngưỡng thu hồi vốn. Lãi suất thấp và tăng trưởng kinh tế cao hơn
nghĩa là sẽ có nhiều khách hàng mua sản phẩm hay nhiều người sử dụng tiêu biểu
sẵn sàng làm việc với các nhà đổi mới hơn. Hoạt động đổi mới có thể là động cơ
để phát triển kinh tế. Và quy trình kinh tế lại nuổi dưỡng các động cơ đổi mới.
Người giữ trẻ và cha đỡ đầu
Các chính sách tài khóa như hạn ngạch, trợ giá, thuế quan và giá sàn có thể được
chính phủ sử dụng để bảo vệ những ngành kinh tế trong nước còn non trẻ cho tới
khi những ngành này có thể cạnh tranh tốt tại thị trường trong nước với các sản
phẩm nhập ngoại. Chính phủ cũng có thể giúp các công ty trong nước tiếp cận với
thị trường nước ngoài thông qua các chính sách nhằm thu hút đầu tư nước ngoài.
Chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng để tạo ra các cơ hội đầu tư ra nước ngoài
cho các cá nhân, doanh nghiệp có đủ tiềm năng. Chính phủ có thể can thiệp khi
quyền bảo hộ tài sản trí tuệ của công ty bị vi phạm bởi những công ty từ các quốc
gia khác. Chính phủ cũng có thể can thiệp khi đầu tư của công ty ở nước ngoài bị
chiếm đoạt.
Nhà giáo dục, Trung tâm thông tin và Người duy trì ổn định chính trị.
Các trường đại học khi thực hiện các hoạt động nghiên cứu của mình cũng là đang
thực hiện đào tạo ra đội ngũ nhân lực có tư duy đổi mới sáng tạo trong tương lai.
Chính phủ chú trọng đầu tư vào giáo dục thông qua những chính sách nhằm hỗ trợ
các cá nhân học tập, tạp ra môi trường bình đẳng để mọi người đều có cơ hội tiếp

9
cận giáo dục như nhau. Chính phủ còn là cầu nối liên kết các ý tưởng sáng tạo với
những nhà đầu tư để đưa những ý tưởng vào hiện thực hóa, mang lại giá trị cho
cộng đồng. Các công ty gia nhập thị trường các nước đang phát triển có thể tìm
thấy nguồn thông tin tốt nhất tại đại sứ quán nước mình đặt tại nước sở tại. Một
vai trò khác của chính phủ là tạo ra môi trường chính trị ổn định đảm bảo với các
nhà đầu tư rằng vốn đầu tư của họ không bị chiếm đoạt và người dân không có
hành động bạo loạn hay phá huỷ các khoản đầu tư.
1.5. Tận dụng các cơ hội và thách thức do chính phủ mang lại
Thực tế là chính phủ có thể đóng vai trò là người tạo ra ý tưởng, người tài trợ hoạt
động nghiên cứu và phát triển, nhà cung cấp tài sản bổ sung, người sử dụng tiêu
biểu và khách hàng, tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư toàn
cầu, bảo vệ tài sản trí tuệ cho tất cả các cá nhân, tổ chức. Những điều này có ý
nghĩa vô cùng sâu sắc cho việc hình thành và triển khai các ý tưởng cho đổi mới
và sáng tạo.
Tạo ra ý tưởng và nhận ra tiềm năng của đổi mới
Một công ty có thể khai thác tri thức từ công quy và chuyển giao tri thức từ người
tạo ra ý tưởng vào trong công ty bằng các thực hiện các chương trình R&D, tạo sự
tương tác giữa những người tạo ra ý tưởng thay vì chỉ đọc hay nghiên cứu những
ý tưởng thông qua sách báo, tạp chí khoa học. Theo Allen, có nhiều kỹ sư tạo ra ý
tưởng đổi mới thông qua việc thu thập tập thông tin và tương tác với các đồng
nghiệp của mình qua thực tế công việc hàng này. Xây dựng cho mình một trung
tâm nghiên cứu phát triển hay thực hiện liên kết với các viện nghiên cứu, các
trường đại học.
Bảo vệ lợi nhuận
Khi thực hiện tất cả các chiến lược để bảo vệ lợi nhuận từ đổi mới, một công ty có
thể cần tới sự trợ giúp của chính phủ trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của
mình. Hoặc công ty cũng có thể thu được lợi nhuận thông qua việc bán bản quyền
cho các tổ chức khác. Hơn nữa, với các công ty có ý tưởng, đổi mới và sáng tạo
mang lại giá trị cao cho cộng đồng có thể xin nguồn tài trợ chủa chính phủ để có
điều kiện hơn trong việc hiện thực hóa ý tưởng của mình.

10
2. Chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo của Singapore
2.1. Giới thiệu về quá trình hướng tới đổi mới, sáng tạo của Singapore
Singapore đã đạt được sự phát triển kinh tế nhanh chóng nhờ vào việc liên tục tái
cơ cấu và nâng cấp công nghệ. Sau khi độc lập năm 1965, tốc độ tăng trưởng phần
lớn nhờ vào hoạt động sản xuất thâm dụng lao động của các công ty đa quốc gia,
được chính phủ thu hút đầu tư vào Singapore thông qua các chính sách ưu đãi về
thuế quan, lực lượng lao động sản xuất, tiền lương, quan hệ lao động hài hòa, kinh
tế vĩ mô minh bạch. Sau sự thành công của công nghiệp hóa sử dụng nhiều lao
động, chính phủ tiếp tục với các chính sách công nghệp dành ưu tiên cao cho các
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng nhiều vốn, và có kỹ năng quản lý để đầu
tư. Nhờ đó Singapore tiếp tục duy trì được sự phát triển nhanh chóng của mình.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng đó còn nhờ vào sự tập trung nguồn lực vào
các ngành kinh doanh quan trọng như dịch vụ tài chính, vận tải và thông tin liên
lạc nhờ đó mà tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Singapore đã tăng lên đáng kể
vào cuối những năm 1980. Tuy nhiên, các năm tiếp theo nhận thấy tầm quan trọng
của việc phát triển công nghệ, chính phủ Singapore đã thực hiện nhiều chính sách
thúc đẩy đổi mới trong lĩnh vực này. Nhờ đó, Singapore đã đạt được những tiến
bộ đáng kể trong việc phát triển khoa học, công nghệ và khả năng đổi mới trong
hơn 50 năm kể từ khi độc lập vào năm 1965. Có thể thấy, con đường đi lên của
kinh tế Singapore ban đầu là dựa trên việc thu hút các công ty đa quốc gia nhằm
tận dụng sự chuyển giao công nghệ, sau đó là phát triển có sở hạ tầng và nguồn
lực con người để hấp thụ và khai thác công nghệ mới một cách nhanh chóng. Từ
những năm 1990, khi đã có đủ tri thức về công nghệ Singapore bắt đầu chuyển
sang một cách tiếp cận cân bằng hơn, đó là ngày càng tập trung vào nghiên cứu và
phát triển (R&D) để đổi mới tri thức quốc gia và định vị mình là một nền kinh tế
dựa trên tri thức, luôn theo hướng đổi mới với sự phát triển của thời đại, chính phủ
Singapore bắt đầu đầu tư vào R&D, và nó đã trở thành chủ đề trung tâm của hệ
thống quốc gia của Singapore, chính phủ hỗ trợ quá trình liên tục từ nghiên cứu
cho đến khi ứng dụng được vào thực tế.
Năm 2016, chính phủ Singapore công bố kế hoạch đổi mới, sáng tạo quốc gia tới
năm 2020 với khoản đầu tư là 19 tỷ Đô La Singapore trong vòng 5 năm từ năm

11
2016. Khoản đầu tư này tăng 18 % so với giai đoạn 5 năm trước đó nhằm mục đích
sử dụng đòn bẩy hiệu quả hơn cho khoa học và công nghệ để xây dựng năng lực
đổi mới của khu vực tư nhân và giải quyết các thách thức quốc gia. Theo kế hoạch,
ngân sách tài trợ cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo sẽ được nâng lên 2,5 tỷ Đô
La Singapore, tăng hơn 50% so với năm 2015. Quỹ Nghiên cứu Quốc gia của
Singapore cũng xây dựng một cơ chế đổi mới phù hợp để đảm bảo rằng các nguồn
lực và ngân sách được phân bổ cho những lĩnh vực xứng đáng. Một khía cạnh quan
trọng khác là ngân sách tài trợ cho các hoạt động đổi mới và sáng tạo đã tăng lên
tới 4 tỷ đô la Singapore để tìm ra những ý tưởng tốt nhất trong các lĩnh vực liên
quan đến công nghệ. Kể từ năm 2006, chi tiêu công cho nghiên cứu và phát triển
đã tăng 9,1% hàng năm và đạt 7 tỷ đô la Singapore vào năm 2015. Cường độ
nghiên cứu của Singapore tiếp tục tăng lên, ngày càng tăng từ 2,2% tổng sản phẩm
quốc nội năm 2014 lên 2,4% năm 2015 (Chính phủ Singapore, 2015).

Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và tổng chi tiêu trên Nghiên
cứu và Phát triển, 1990–2015 (triệu đô la Singapore)

GDP = tổng sản phẩm quốc nội, GERD = tổng chi tiêu cho
nghiên cứu và phát triển. Nguồn: National Survey of
Research and Development in Singapore, 2015 (published in
December 2016). https://www.a-star.edu.sg
12
2.2. Mô hình lan tỏa tri thức đổi mới, sáng tạo
Ngân sách cho việc nghiên cứu và phát triển của Singapore ngày càng tăng song
song với đó là việc chính phủ thực hiện các chính sách nghiêm ngặt để quản lí
ngân sách cho các hoạt động đổi mới và sáng tạo hay các hoạt động nghiên cứu và
phát triển R&D.
Singapore chú trọng vào việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực công
nghiệp hiện có, đặt tầm quan trọng của việc hình thành ý tưởng đổi mới sáng tạo
và áp dụng thực tế. Đầu tiên tập trung vào hình thành các cơ sở hạ tầng của tri thức
đó bằng việc đầu tư vào các viện nghiên cứu và các trường đại học nơi thực hiện
các nghiên cứu cơ bản. Tiếp đến là hình thành liên kết giữa cơ sở hạ tầng này với
những đối tượng sử dụng tri thức để các nghiên cứu này trở nên hữu ích. Tiếp theo
để các nghiên cứu được tồn tại và phát triển bền vững thì làm thương mại hóa
chúng. Ngoài ra, để tạo môi trường cũng như cung cấp các công nghệ, dịch vụ bổ
trợ nhằm tạo môi trường và phương tiện để có các ý tưởng đổi mới sáng tạo có thể
thành hình sản phẩm tốt nhất.
Chính phủ Singapore còn thực hiện chiến lược 'Ngôi nhà' ba bên: đề cập đến
"Home for Business", "Home for Innovation" và "Home for Talent". Home for
Business cung cấp một khuôn khổ tổng thể cho tài năng và chiến lược đổi mới, mở
rộng đến mọi ngành, không chỉ những ngành của các cường quốc phát triển mà
còn chú trọng nhiều vào sản xuất hàng tiêu dùng, điện tử, hóa chất và năng lượng
dựa trên ứng dụng của công nghệ thông tin (CNTT) và phương tiện kỹ thuật số.
Ban Phát triển Kinh tế Singapore (EDB) đã trở thành cơ quan tạo điều kiện thích
hợp để thu hút nhân tài và đầu tư. Khi những điều kiện còn thiếu, EDB sẽ nỗ lực
để tạo ra chúng. Đối với Hệ sinh thái khởi nghiệp Home for Innovation kể từ khi
được đang được thành lập tại Singapore, trong năm 2015, đã có hơn 42 000 công
ty khởi nghiệp và gần 1/10 người trong độ tuổi lao động ở Singapore đã tham gia
và thành lập công ty (Chính phủ Singapore, 2016). Đối với chiến lược Home for
Talent, áp dụng chiến lược đổi mới của Singapore để đáp ứng các xu hướng vĩ mô
đang diễn ra trên thị trường toàn cầu. Singapore hưởng lợi từ vị trí địa lý là trung
tâm trung chuyển, gần với các nền kinh tế đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ
và Indonesia. Các công ty đa quốc gia đặc biệt là của Mỹ như như DuPont, General
13
Motors và Archer Daniels Midland, thực hiện đầu tư vào Singapore với mong
muốn làm bàn đạp trong việc mở rộng kinh doanh sang gã khổng lồ Trung Quốc
và các quốc gia trong khu vực Châu Á. Với Home for Talent, Singapore cam kết
luôn có một lượng lớn nhân tài cho bất kỳ công ty đa quốc gia nào muốn mở rộng
hoạt động trong Singapore và khu vực Châu Á.
2.3. Các thành phần chính trong quy trình thúc đẩy đổi mới, sáng tạo
Singapore thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo dựa trên cơ sở tri thức về các khái niệm
và quy luật của nền kinh tế thị trường, tạo nên nền tảng kiến thức cho đổi mới sáng
tạo với bốn thành phần sau:
Tạo cơ sở hạ tầng tri thức chung.
Hình thành cơ sở tri thức chung thông qua việc tạo ra các trường đại học mới và
các viện nghiên cứu công, tái cấu trúc các tổ chức hiện có hoặc tạo ra các chương
trình trong đó ưu tiên các lĩnh vực nghiên cứu và giáo dục cần thiết cho từng ngành
công nghiệp. Cụ thể hơn, Singapore đã thành lập Hội đồng Nghiên cứu Y sinh
(BMRC), có bảy viện nghiên cứu và năm hiệp hội nghiên cứu, thành lập Hội đồng
Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (SERC), với bảy viện nghiên cứu và một trung
tâm. Hai Hội đồng này đều trực thuộc Cơ quan Khoa học, Công nghệ và Nghiên
cứu (A * STAR), nơi tạo điều kiện tương tác giữa BMRC và SERC để thúc đẩy
nghiên cứu liên ngành và liên hội đồng. Đồng thời hai Hội đồng này cũng được
xây dựng gần nhau để thuận tiện cho việc trao đổi thực tế.
Khuyến khích các công ty tư nhân cùng hợp tác.
Sự phát triển của tư nhân trong nghiên cứu và phát triển vừa thu hút các công ty
đa quốc gia thiết lập hoạt động tại Singapore vừa nuôi dưỡng các công ty và ngành
công nghiệp trong nước nâng cao kiến thức. Chính phủ đã cung cấp các biện pháp
khuyến khích để thu hút các các công ty dược phẩm thành lập hoạt động tại
Singapore và thực hiện nghiên cứu chung với các cơ quan nghiên cứu công. Ví dụ:
Procter & Gamble có các khoản đầu tư lớn trong việc đưa Singapore trở thành
trung tâm khu vực cho các sản phẩm làm đẹp và tiêu dùng, và Jurong Island đang
được tái phát triển thành nơi trưng bày đổi mới cho các công ty năng lượng và hóa
chất tại đây. Đồng thời sự khuyến khích các công ty tư nhân cùng hợp tác còn có
thể khuyến khích chuyển giao công nghệ nội bộ giữa công ty đối tác trong và ngoài
14
nước. Ngoài ra, còn có thể xây dựng các liên kết quốc tế thông qua liên minh
nghiên cứu và phát triển quốc tế.
Liên kết và chung chuyển tri thức cùng ngành.
Singapore xây dựng mạng lưới liên ngành giữa các trường đại học, viện nghiên
cứu công. Đồng thời, tạo các nền tảng và cơ chế để hợp tác giữa các công ty trong
khu vực tư nhân.
Khung pháp lý và môi trường kinh doanh.
Khung pháp lý quy định các quy tắc và quy định minh bạch và công bằng cho tất
cả các bên liên quan phải được cung cấp một môi trường kinh doanh cạnh tranh
với đủ điều kiện để có thể sáng tạo và đổi mới.
2.4. Vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo
Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới
sáng tạo thông qua các chính sách và chương trình đầu tư của mình. Điều này có
thể được thấy rõ trong chiến lược công nghiệp của Singapore kể từ khi bắt đầu
công nghiệp hóa cho đến các chính sách đổi mới ngày nay. Chính phủ thực hiện
các chiến lược đa dạng và phù hợp trong từng thời điểm và từng lĩnh vực, chẳng
hạn như lựa chọn các chính sách để thúc đẩy và thâm nhập vào các công nghệ mới
nổi, điều này sẽ tạo động lực để phát triển và lan tỏa tri thức đổi mới cho một ngành
công nghiệp. Trong việc lựa chọn các chiến lược để thúc đẩy, chính phủ tập trung
vào cả công ty đa quốc gia và các công ty nội địa thông qua các cơ quan liên quan
đến đổi mới, sáng tạo do nhà nước thành lập như EDB và A*STAR, Chính phủ
của Singapore đã trở thành tâm điểm chính trong việc thu hút các công ty nước
ngoài và tài năng để phát triển các lĩnh vực công nghiệp họ muốn tập trung phát
triển. Về mặt thời gian tham gia vào các công nghệ mới nổi, chính phủ đã tham gia
vào thị trường trong khi công nghệ vẫn còn sơ khai hoặc đợi cho đến khi thị trường
và công nghệ trưởng thành hơn. Trong trường hợp của Singapore, hầu hết các công
nghệ đã phát triển và trưởng thành ở Châu Âu và Hoa Kỳ, nhưng chúng tương đối
mới ở Singapore và ở Đông Nam Á. Thông thường, các công nghệ đã được thiết
lập được điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu khu vực mới nổi đối với các sản phẩm và
dịch vụ.

15
Trong việc phát triển các lĩnh vực tri thức đa dạng khác nhau, chính phủ cũng phải
đối mặt với sự lựa chọn nâng cấp kiến thức của các lĩnh vực hiện có hoặc tạo các
lĩnh vực hoặc nhóm ngành hoàn toàn mới cho công nghệ mới nổi. Dù là chiến lược
nào được áp dụng, sẽ có các yếu tố trong các chiến lược được sử dụng làm quy
trình chính để phát triển lĩnh vực đó và là chung cho cả ngành mới và lĩnh vực hiện
có. Tuy nhiên, thời điểm can thiệp của chính phủ sẽ khác nhau tùy thuộc vào về sự
trưởng thành và tính chất của từng ngành được phát triển. Đối với Singapore thì
phát triển các công trình hàng hải và trung tâm logistics là lĩnh vực được phát triển
từ ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển và giao thông vận tải và dịch vụ
hàng không đã có. Mặt khác, phát triển kiến thức về sinh học là một lĩnh vực mới.

16
KẾT LUẬN
Qua các phân thích về các chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo của Singapore có
thể thấy hệ thống Đổi mới Quốc gia của Singapore chắc chắn là hệ thống tiên tiến
nhất trong Đông Nam Á. Là một nền kinh tế nhỏ, Singapore tự thách thức chính
bản thân mình bằng việc di chuyển nhanh và có chiến lược để đi trước các đối thủ
cạnh tranh trong khu vực bằng việc tập trung vào các ngành khoa học tri thức và
ngành công nghiệp mình có lợi thế so sánh. Đồng thời, không những tập trung vào
đào tạo nhân tài trong nước Singapore còn có những chính sách nhằm thu hút nhân
tài toàn cầu, đặc biệt là những người có tư tưởng đổi mới sáng tạo và kinh doanh
tài năng. Và hơn nữa, chính phủ chính là động lực chính cho sự thành công trong
việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo tại Singapore.
Việt Nam chúng ta cũng có vị trí địa lí gần như tương đồng với Singapore có cảng
biển nơi là vị trí giao thương thuận lợi với nhiều quốc gia trên thế giới vậy qua
nghiên cứu về sự đổi mới và sáng tạo của Singapore chúng ra có thể rút ra được
nhiều bài học cho sự phát triển của đất nước.
Chúng ta cần đầu tư hơn nữa vào các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu
trong các trường đại học. Thành lập các tổ chức có thể giúp khuyến khích và phát
triển các ý tưởng mang tính sáng tạo. Đầu tư vào đổi mới sáng tạo trong các lĩnh
vực công nghệ tri thức như công nghệ khoa học kỹ thuật cao.
Hình thành các hệ sinh thái khởi nghiệp, tạo môi trường để liên kết các trường đại
học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp. Trường đại học là nơi hình thành ý tưởng,
nhưng các doanh nghiệp là nơi có những người có khả năng quản lí và có nguồn
vốn sẽ là những người đầu tư để hiện thực hóa các ý tưởng này, vì vậy tạo ra môi
trường để các đối tượng này có cơ hội trao đổi là điều rất quan trọng trong việc
phát triển tri thức đổi mới khi mà chính phủ không thể tài trợ cho tất các ý tưởng.
Xây dựng một hệ thống công quyền trong sạch, minh bạch, tạo điều kiện thu hút
nhân tài, xóa bỏ các cơ chế, chính sách đã lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển.
Những người đứng đầu quản lí của chính quyền nên là những người có tài và tư
duy theo kịp thời đại, để những người tài, người trẻ cảm thấy mình có cơ hội để
phát triển và tri thức của mình là đáng được trân trọng và hữu ích.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Innovation Policy in Singapore, Hank Lim
2. Allan Afuah, Quản trị quá trình đổi mới và sáng tạo, NXB Đại học kinh tế
quốc dân

18

You might also like