You are on page 1of 34

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

VIỆN QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI BÁO CÁO


QUẢN TRỊ CÔNG NGHỆ

THỰC HIỆN BỞI

SINH VIÊN : PHẠM THỊ PHƯƠNG NGA

MSV : 19051537

LỚP: QH 2019-E CLC3

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. LƯU HỮU VĂN

Hà Nội - 2022

1
MỤC LỤC

Lời cảm ơn……………………………………………………………………………4

Phần mở đầu…………………………………………………………….……………5

Phần 1: Trình bày các nội dung Tâm đắc đã học………………….……………….6

1.1. Công nghệ……………………………………………………………….………..6

1.2. Quản trị công nghệ cứng và quản trị công nghệ mềm…………………..………..7

1.3. Năng lực công nghệ và khả năng cạnh tranh……………………………….…….8

1.4. Quản trị chiến lược công nghệ……………………………………………………8

1.5. Lựa chọn và phát triển công nghệ…………………………………………………9

1.6. Sở hữu trí tuệ……………………………………………………………………..11

1.7. Quản trị tinh gọn “Made in Viet Nam”..................................................................14

1.8. Chi phí……………………………………………………………………..…….15

1.9. Chi phí lãng phí………………………………………………………………….16

1.10. Chi phí lãng phí………………………….………………………………..……18

1.11. Tâm thế………………………………………………………………………....19

1.12. Quản trị tác nghiệp công nghệ……………………………………………….…20

1.13. Quản trị tri thức, quản trị các yếu tố phần mềm của công nghệ và quản trị tài sản
trí tuệ…………………………………………………………………………………21

1.14. Tổ chức, kiểm soát và đánh giá công tác quản trị công nghệ………………….21

PHẦN 2: Nghị luận về thực trạng công tác quản trị công nghệ tại một tổ chức,
một doanh nghiệp……………………………………………………………….…..22

2.1. Thực trạng công tác quản trị công nghệ……………………………………..…..22

2.2. Đề xuất hệ giải pháp nâng cao hiệu quả công tác nâng cao quản trị công nghệ...24

2
PHẦN 3: Trình bày giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các sản phẩm dịch
vụ thật của các doanh nghiệp Việt Nam (sản phẩm thuần Việt Made in Vietnam)
tại thị trường Việt Nam và trên trường quốc tế……………………………….…..27

PHẦN 4: Trình bày cảm nghĩ của bản thân về giá trị của môn học Quản trị Công
nghệ đối với bản thân, doanh nghiệp và xã hội……………………………………33

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..34

3
LỜI CẢM ƠN

Trong học kỳ này em được học bộ môn Quản trị Công nghệ do TS.
Lưu Hữu Văn hướng dẫn trong 15 tuần. Mặc dù học trong thời kỳ dịch bệnh
Covid - 19 diễn biến phức tạp, học online và offline xen kẽ nhau nhưng cả thầy
và trò đều rất nghiêm túc chấp hành việc dạy, học và phòng chống dịch. Vì vậy
trong 15 tuần học nhờ thầy hướng dẫn tận tình nên em và các bạn đã nắm bắt
được những kiến thức cần thiết của môn học. Qua môn học này em nhận ra
được một số lý thuyết quan trọng và thực tế cần thiết cần phải áp dụng và thay
đổi. Em cảm ơn thầy đã có những chia sẻ, đưa tâm huyết của bản thân truyền
đạt tới sinh viên một cách chân thành. Qua đó em mở rộng hơn được kiến thức
cũng như hiểu biết của bản thân đối với môn học.

Em xin chân thành cảm ơn !

4
PHẦN MỞ ĐẦU

Hiện nay, trong thời kỳ cách mạng công nghiệp hóa 4.0 và tiến
tới là thời kỳ 5.0 trong bất kỳ một tổ chức, doanh nghiệp nào, quản trị công
nghệ cũng được coi là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản trị
kinh doanh. Quản trị công nghệ liên quan đến việc xây dựng và triển khai thực
hiện các chính sách để giải quyết vấn đề phát triển và sử dụng công nghệ đặc
biệt là việc hoạch định và tăng cường năng lực công nghệ của tổ chức, doanh
nghiệp. Nói một cách chung nhất, công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy
trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực
thành các sản phẩm. Như vậy, có thể hiểu công nghệ như là kiến thức có hệ
thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và xử lý thông tin, bao
gồm tất cả các kỹ năng kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong việc
tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ.

Công nghệ gồm có Công nghệ cứng và Công nghệ mềm luôn đi
cùng và bổ sung cho nhau và để kết hợp được các công nghệ đó thì cần có năng
lực của người đứng đầu, chiến lược của tổ chức,... Quản trị công nghệ tốt sẽ
giúp doanh nghiệp nhìn nhận rõ về năng lực công nghệ của mình nhằm khắc
phục các điểm yếu và phát huy các điểm mạnh sẵn có, đảm bảo các quyết định
đưa ra hiệu quả và chính xác. Quản trị công nghệ tốt cũng giúp cho doanh
nghiệp giành chiến thắng khi tung ra một sản phẩm hay một phương thức
marketing mới, nhờ hiểu rõ năng lực của đối thủ cạnh tranh và đi trước đối thủ
một bước trong việc đổi mới công nghệ. Qua môn học Quản trị công nghệ này
bản thân em tuy không phải là người đứng đầu một doanh nghiệp hay làm việc
trong một tổ chức doanh nghiệp tư nhân sản xuất nhưng cũng rút ra được một
số bài học tâm đắc cho bản thân để có thể áp dụng trong gia đình, công việc và
xã hội để không những giúp cho bản thân phát triển tốt hơn mà còn đóng góp
cho xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp hơn

5
PHẦN 1: Trình bày các nội dung Tâm đắc đã học

Sau 15 tuần học bộ môn Quản trị công nghệ do TS. Lưu Hữu Văn lên
lớp giảng dạy thì những gì em nhận được không chỉ là kiến thức chuyên môn
do thầy truyền tài trong quá trình học cùng với đó là những kiến thức thực tế áp
dụng trực tiếp vào đời sống thường ngày của em. Dưới đây là những điều em
tâm đắc, học hỏi và rút ra được cho bản thân, cũng như những kiến thức áp
dụng vào thực tế sau khi được thầy chỉ dạy.

1.1. Công nghệ

Là sản phẩm do con người tạo ra và sử dụng làm công cụ sản xuất ra
của cải, vật chất. Công nghệ thường được hiểu là quá trình tiến hành một công
đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc, vì vậy công nghệ thường
được gắn với các thuật ngữ: Quy trình công nghệ, thiết bị công nghệ, dây
chuyền công nghệ,..... Qua đó ta có thể thấy công nghệ là tất cả những gì dùng
để biến đầu vào thành đầu ra. Công nghệ gồm có công nghệ cứng như: hệ
thống kiến trúc, quy trình kỹ thuật, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để chế
biến vật liệu và xử lý thông tin thành phẩm trong sản xuất, các thiết bị điện tử,
đồ dùng trong gia đình và công nghệ mềm như: quy trình phần mềm, quy trình
hướng dẫn thực hiện, kinh nghiệm cá nhân, những phần mềm ứng dụng, các
phát minh sáng chế,... hay những công thức nấu ăn, bí quyết dạy con cái trong
gia đình. Ngày nay yếu tố công nghệ không thể tách khỏi quá trình sản xuất,
kinh doanh, tuy nhiên để sử dụng hiệu quả các đơn vị phải có chiến lược, và
quản trị phù hợp thì mới có hiệu quả. Quản trị công nghệ luôn được quan tâm
và dần đưa vào thực tiễn nhằm tối ưu được chi phí và nâng cao hiệu quả sản
xuất, không những vậy nó còn là yếu tố không thể thiếu của mỗi tổ chức, doanh
nghiệp trong môi trường ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.

6
1.2. Quản trị công nghệ cứng và quản trị công nghệ mềm

Vạch ra một chiến lược quản trị công nghệ rõ ràng cho doanh nghiệp,
định hướng cho doanh nghiệp phân bổ các nguồn lực phù hợp để có quyết định
sử dụng công nghệ nào, năng lực đến đâu, mức độ đầu tư đồng thời dự báo,
đánh giá và lựa chọn công nghệ, đổi mới chuyển giao công nghệ, cho đến đầu
tư cho nghiên cứu và phát triển cũng như liên kết công nghệ với sản phẩm và
thị trường. Quản trị công nghệ không chỉ phụ thuộc kỹ năng làm việc mà còn ở
thái độ của từng cá nhân đối với công việc, điều này liên quan đến thông tin mà
con người được trang bị và hành vi, thái độ của tổ chức.

Phần công nghệ mềm thể hiện các tri thức tích lũy trong công nghệ,
nhờ các tri thức áp dụng trong công nghệ mà các sản phẩm của nó có đặc trưng
mà các sản phẩm cùng loại của các công nghệ khác không có được. Mặt khác
phần công nghệ mềm lại phụ thuộc vào con người bởi vì con người trong quá
trình sử dụng sẽ bổ sung, cập nhật các thông tin của công nghệ, việc đó giúp
cho sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ. Việc quản trị công nghệ
phần lớn là nhờ tổ chức, người đứng đầu tổ chức đóng vai trò điều hòa, phối
hợp các thành phần riêng biệt của công nghệ để thực hiện hoạt động một cách
có hiệu quả, đó là công cụ để quản lý, lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, bố trí nhân
sự, động viên thúc đẩy và kiểm soát mọi hoạt động của công nghệ.

Quản trị công nghệ là lĩnh vực kiến thức liên quan đến việc xây
dựng và thực hiện các chính sách để giải quyết vấn đề phát triển và sử dụng
công nghệ, sự tác động công nghệ đến xã hội, tổ chức, cá nhân và môi trường.
Quản trị công nghệ nhằm thúc đẩy, đổi mới tạo nên sự tăng trưởng kinh tế và
khuyến khích sử dụng công nghệ một cách hợp lý vì lợi ích con người. Ngoài
ra quản trị công nghệ liên kết với những lĩnh vực kỹ thuật, khoa học và quản trị
để hoạch định, phát triển và thực hiện năng lực công nghệ nhằm vạch ra và
hoàn thành mục tiêu chiến lược và tác nghiệp của tổ chức.

7
1.3. Năng lực công nghệ và khả năng cạnh tranh

Bên cạnh định nghĩa và các yếu tố nội hàm của khả năng cạnh
tranh quốc gia, lý luận cơ bản về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được
giới thiệu và xác định thông qua nhiều yếu tố nội hàm trong đó có năng lực
công nghệ. Thông qua các nội dung này, em có thể sử dụng lý luận và mô hình
tháp khả năng cạnh tranh để để đánh giá và so sánh khả năng cạnh tranh của
một doanh nghiệp hay của cả một nhóm doanh nghiệp đại diện cho một ngành
kinh tế. Mô hình mối quan hệ giữa năng lực công nghệ với khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp cũng là một công cụ hữu dụng cho em trong việc xác định
mức độ đóng góp và tầm quan trọng của năng lực công nghệ đối với thành
công chung của doanh nghiệp trong quá trình xây dựng và duy trì khả năng
cạnh tranh bền vững.

1.4. Quản trị chiến lược công nghệ

Chiến lược công nghệ là những mục tiêu, phương tiện, phương pháp
và cách thức thực hiện các mục tiêu phát triển, cải tiến, hoàn thiện và ứng dụng
công nghệ cũng như phát triển tiềm lực công nghệ. Chiến lược công nghệ là
một bộ phận của toàn bộ chiến lược phát triển của doanh nghiệp, một chiến
lược công nghệ đúng đắn sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn cho doanh nghiệp.
Chiến lược công nghệ của các doanh nghiệp thường có sự độc lập nhất định đối
với chiến lược công nghệ của nhà nước. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả cao
nhất của các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ cần có sự
phối hợp, thống nhất giữa các chiến lược của doanh nghiệp với hệ thống chiến
lược phát triển tiềm lực công nghệ quốc gia. Nhu cầu đời sống ngày càng nâng
cao, khách hàng chấp nhận giá cao hơn cho những sản phẩm tốt hơn, để đáp
ứng nhu cầu đó thì doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực để tung ra thị trường các
sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cả về hình thức và chất lượng
đó trở thành vấn đề cốt lõi để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong xu
thế thị trường cạnh tranh như hiện nay. Đó là lý do doanh nghiệp mạnh dạn đầu

8
tư vào công nghệ, trang thiết bị, máy móc ngày càng hiện đại cũng như tuyển
chọn đội ngũ nhân viên có tay nghề, trình độ kỹ thuật cao, có khả năng ứng
biến linh hoạt trong điều hành, quản lý để có thể tìm ra chiến lược tốt nhất cho
sự phát triển của doanh nghiệp.

Do vậy để cạnh tranh bằng sản phẩm, doanh nghiệp cần phải xây
dựng thật tốt chiến lược bằng công nghệ bên cạnh việc kết hợp chiến lược thị
trường, chiến lược kinh doanh. Để có chiến lược công nghệ hiệu quả thì đầu
tiên doanh nghiệp cần lựa chọn được phần công nghệ cứng phù hợp để tạo ra
các sản phẩm đúng yêu cầu của thị trường, phần công nghệ mềm phải có đủ
trình độ chuyên môn, kỹ thuật để có thể kiểm soát và phát triển phần công nghệ
cứng nếu không dù phần công nghệ cứng có hiện đại thì vẫn không đạt được
hiệu quả tối ưu. Từ đó ta có thể thấy chiến lược công nghệ là phần rất quan
trọng trong việc tồn tại và phát triển của tổ chức, doanh nghiệp.

1.5. Lựa chọn và phát triển công nghệ:

Toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và là một xu thế tất yếu đối với
sự phát triển của thế giới ngày nay, do vậy đó vừa là cơ hội to lớn cho sự phát
triển của mỗi quốc gia, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mà nếu không
chuẩn bị nội lực và bỏ lỡ thời cơ thì sẽ tụt hậu rất xa trên con đường tiến tới
văn minh của nhân loại. Trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới, khoa học và
công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động
và hiệu quả sản xuất và hiển nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa, lĩnh vực này
cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ nhất là ở các nước đang phát triển như
Việt Nam. Khoa học và công nghệ Việt Nam từng bước hội nhập, giao lưu với
nền khoa học công nghệ của thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam học tập kinh
nghiệm, tiếp thu những thành tựu khoa học thế giới phục vụ cho sự phát triển
của kinh tế, xã hội của đất nước.

9
Việc chuyển giao các dây chuyền công nghệ, khoa học tiên tiến của
thế giới vào từng ngành nghề, lĩnh vực, việc lựa chọn và phát triển công nghệ
trở thành một việc tất yếu của doanh nghiệp đó để làm sao có thể phát triển
công nghệ cứng và đầu tư vào công nghệ mềm một cách phù hợp, đưa ra các
sản phẩm phù hợp với xã hội và là một sản phẩm “made by Viet Nam”, được
xã hội chấp nhận và ủng hộ mà không phải là các sản phẩm nhập từ Trung
Quốc hay các nước khác. Và để làm được điều đó ngoài việc lựa chọn những
công nghệ cứng theo xu hướng hiện đại, tiên tiến, nâng cao kỹ thuật máy móc,
thiết bị thì đầu tư phát triển tư duy con người là một phần rất quan trọng, tư duy
phát triển thì từ đó kỹ năng, tay nghề và chiến lược mới được đổi mới và theo
kịp các công nghệ cứng.

Tuy nhiên, ngoài việc thay đổi công nghệ cứng mềm thì việc lựa
chọn chiến lược công nghệ cũng là một phần quan trọng của doanh nghiệp, đầu
tiên khi đưa ra chiến lược một doanh nghiệp cần phải biến đến chữ Safety (S)
đó là đặt sự an toàn của công nghệ lên hàng đầu, nhiều doanh nghiệp Việt Nam
hiện tại đang không lựa chọn sự an toàn của công nghệ dẫn đến việc chưa sản
xuất được sản phẩm chất lượng đã dẫn đến việc môi trường bị ô nhiễm, ảnh
hưởng nghiêm trọng như Formosa đã gây hại nghiêm trọng cho môi trường tại
Hà Tĩnh dẫn đến những hậu quả khó khắc phục và công ty từ đó cũng chết dần.
Tiếp đó là chữ Quality (Q) chất lượng của sản phẩm, một sản phẩm “made by
Viet Nam” có chất lượng tốt sẽ cho thấy sự thay đổi trong tư duy và sự sáng tạo
của người đứng đầu, người Việt Nam rất sính ngoại tuy nhiên nếu một sản
phẩm Việt Nam được đầu tư kỹ lưỡng và có chất lượng tốt sẽ được mọi người
lựa chọn và ủng hộ với tư duy “người Việt dùng hàng Việt”. Thứ ba là Cost ( C
) giá thành, việc đưa ra giá thành hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp tiêu thụ được sản
phẩm tốt, giá rẻ mà chất lượng được gắn mác Made by Viet Nam là một sản
phẩm sẽ được lòng mọi người. Chữ Delivery (D) khả năng thu hồi vốn cũng
cần được quan tâm đối với doanh nghiệp nếu muốn phát triển, và cuối cùng là
Environment (E) một môi trường kinh doanh lành mạnh, bền vững thì mới có

10
thể thu hút được những con người sáng tạo, có tư duy và kỹ năng tốt. Một
doanh nghiệp biết xây dựng, lựa chọn công nghệ và phát triển theo mô hình
SQCDE sẽ là một doanh nghiệp luôn phát triển mạnh và bền vững.

Hai yếu tố quan trọng nhất trong quá trình lựa chọn công nghệ theo
mô hình SQCDE đó là yếu tố đầu tiên Safety (S) và yếu tố cuối cùng
Environment (E) một doanh nghiệp nếu không đặt sự an toàn của nhân viên
mình lên hàng đầu thì sẽ chịu những hậu quả và tổn thất nặng về danh tiếng và
ngược lại nếu một doanh nghiệp luôn đặt sự an toàn lên hàng đầu thì sẽ được
rất nhiều nhân viên theo làm việc, tận tâm và an tâm làm tốt công việc của
mình thậm chí còn đưa ra những sáng kiến mang lại nhiều lợi ích cho doanh
nghiệp. Cũng như yếu tố an toàn Safety (S) thì yếu tố Environment (E) cũng là
yếu tố về an toàn nhưng về sự an toàn của môi trường, vấn đề môi trường đang
là vấn đề cấp thiết được cả thế giới ưu tiên và đặt lên hàng đầu, tuy nhiên
không phải doanh nghiệp nào khi tạo ra sản phẩm đều an toàn cho môi trường,
chính vì vậy, một doanh nghiệp đảm bảo tốt môi trường, quan tâm đến môi
trường xung quanh, bảo vệ nó thì đó chính là thể hiện được tầm nhìn và sứ
mệnh của không chỉ doanh nghiệp đó mà cả sự sáng suốt của người đứng đầu.

1.6. Sở hữu trí tuệ:

Bất kỳ khi nào một sản phẩm mới vào thị trường và thu hút khách
hàng, thành công, không sớm thì muộn sẽ bị đối thủ cạnh tranh sản xuất những
sản phẩm tương tự hoặc giống. Trong một số trường hợp đối thủ cạnh tranh sẽ
hưởng lợi từ việc tiết kiệm từ việc tiết kiệm về quy mô sản xuất, khả năng tiếp
cận thị trường lớn hơn, có quan hệ tốt hơn với các nhà phân phối chính hoặc
tiếp cận với các nguồn nguyên liệu thô rẻ hơn và do đó có thể sản xuất một sản
phẩm tương tự hoặc giống hệt với giá thành rẻ hơn, tạo áp lực nặng nề lên nhà
sáng tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ gốc.

11
Đôi khi điều này sẽ đẩy nhà sáng tạo gốc ra khỏi thị trường, đặc biệt
khi mà họ đã đầu tư đáng kể vào việc phát triển sản phẩm mới thì đối thủ cạnh
tranh lại hưởng lợi từ kết quả đầu tư đó và chẳng mất một xu nào cho thành quả
sáng tạo và sáng chế của người sáng tạo ra sản phẩm, dịch vụ đó. Đó là lý do
quan trọng để các doanh nghiệp phải cân nhắc khi sử dụng việc đăng ký Quyền
sở hữu trí tuệ để đảm bảo những sản phẩm sáng tạo và sáng chế của mình nhằm
mang lại cho họ các độc quyền khi sử dụng các tác phẩm do chính mình làm ra,
do đó hạn chế sự sao chép và bắt chước của các đối thủ cạnh tranh. Các doanh
nghiệp thường chỉ nhận ra tầm quan trọng của việc bảo hộ Quyền sở hữu trí tuệ
khi đã có các 9 công ty khác làm giả, làm nhái sản phẩm của họ hoặc khi có
một công ty cáo buộc chính doanh nghiệp sáng tạo ăn cắp ý tưởng đó của họ.
Tại thị trường Việt Nam hiện nay, trong tất cả các lĩnh vực và có thể thấy rõ
nhất là lĩnh vực bán lẻ, có rất nhiều các sản phẩm giống hoặc tương tự nhau cả
về hình thức lẫn chất lượng.

Ta có thể thấy những sản phẩm phải sẽ có hình thức, mẫu mã y


như sản phẩm thật tuy chỉ khác một vài chi tiết và mặc dù nhãn hiệu như
Aquafina đã đăng ký Quyền sở hữu trí tuệ tuy vậy vẫn có nhiều sản phẩm như
này được đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Một phần của việc có nhiều sản phẩm
bị sao chép trên thị trường cũng là do thói quen tiêu dùng của người Việt, có rất
ít người quan tâm đến việc bản thân có mua được sản phẩm chính hãng không
mà họ thường quan tâm nhiều hơn đến việc một sản phẩm có chất lượng như
vậy nhưng giá thành lại rẻ hơn. Tuy nhiên, hiện nay sở hữu trí tuệ là một trong
những nội dung quan trọng tại các diễn đàn kinh tế quốc tế cũng như trong các
hiệp định thương mại tự do, trong đó phải kể đến hai hiệp định thương mại tự
do rất quan trọng gần đây mà Việt Nam đã ký kết đó là Hiệp định CPTPP và
Hiệp định EVFTA thì vấn đề liên quan đến Sở hữu trí tuệ là một trong những
vấn đề được quan tâm và thảo luận.

12
Sở hữu trí tuệ đã được Đảng và Nhà nước đưa vào Bộ luật dân sự từ
những năm 1995 và khi đất nước chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa năm 2005 thi đã xây dựng riêng bộ luật Sở
hữu trí tuệ. Mới đây ngày 22/08/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định
số 1068/QĐ-TTG phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 như:
Thường xuyên rà soát, đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của các
biện pháp bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ (SHTT) theo hướng đảm bảo tính chất
dân sự của quyền SHTT, dần dần tiến tới xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các
quan hệ dân sự về SHTT; Nghiên cứu việc thành lập tòa án chuyên trách về
SHTT, xây dựng đội ngũ thẫm phản chuyên xét xử các vụ việc về SHIT
Khuyến khích giải quyết các tranh chấp SHTT bằng hình thức trọng tài, đẩy
mạnh và tăng cường hoạt động hòa giải các tranh chấp về SHTT; mở rộng xã
hội hóa đi đối với nâng cao chất lượng, hoạt động bỗ trợ tư pháp về SHTT, rà
soát, bổ sung và củng cổ đội ngũ giám định viên tư pháp về SHTT, khuyến
khích việc tham gia 10 cung ứng đồng thôi tăng cường kiểm soát chất lượng
dịch vụ giám định chuyên môn theo yêu cầu cũng như dịch vụ tư vấn pháp luật
phục vụ hoạt động quyền SHTT. Từ đó ta có thể thấy vấn đề về Sở hữu trí tuệ
rất được Chính phủ quan tâm, bảo vệ và phát triển. Việc phát triển hệ thống Sở
hữu trí tuệ phải được đồng thuận ở nhiều khẩu: sáng tạo, xác lập quyền, khai
thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong đó việc khai thác và bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ đang là vấn đề không chỉ được quan tâm trong nước mà trên toàn
thế giới và từ thực tế cũng như định hưởng chiến lược có thể thấy rằng công tác
phối hợp giữa các cơ quan liên quan và giữa trung ương với địa phương là một
trong những chìa khóa quan trọng trong thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao năng
lực thực thi quyền SHTT tại Việt Nam, từ đó giúp doanh nghiệp, tổ chức bảo
vệ được sự sáng tạo và quyền lợi của mình

13
1.7. Quản trị tinh gọn “Made in Viet Nam”

Tư duy Quản trị tinh gọn "Made in Việt Nam" là trường phái duy
nhất về quản trị do người Việt Nam và cụ thể là do PGS.TS Nguyễn Đăng
Minh sau 20 năm học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu sáng lập ra và hiện tại đang dần
đưa vào thực hiện và áp dụng thực tế trong các doanh nghiệp tại Việt Nam và
đã đạt được những thành tựu nhất định. Tư duy Quản trị tinh gọn "Made in Việt
Nam" là tư duy quản trị tạo ra lợi nhuận hay giá trị gia tăng cho doanh nghiệp,
tổ chức bằng cách dùng trí tuệ của con người hay trí tuệ của tổ chức cắt giảm
tối đa chi phí lãng phí.

Quản trị tinh gọn được bắt nguồn từ sâu xa từ lý luận của Adam
Smith, lý thuyết này đã giúp các nhà sản xuất nâng cao hiệu quả lao động hơn,
tiết kiệm thời gian sản xuất bằng cách thay vì phân một công việc lớn cho một
người làm, công việc lớn được chia nhỏ thành các công việc phụ cho nhiều
người cùng thực hiện. Từ lý luận đó trải qua nhiều quá trình nghiên cứu, thử
nghiệm của nhiều cá nhân có tư duy cống hiến to lớn đã tạo ra nền tảng hình
thành để tạo thành tư duy, phương thức quản trị mới. Quản trị tinh gọn giúp rút
ngắn thời gian sản xuất, nâng cao tính hiệu quả của hệ thống bằng cách loại bỏ
lãng phí có trong từng công đoạn của chu trình sản xuất để đạt được chất lượng
tốt nhất với chi phí thấp nhất trong khi vẫn nâng cao được mức an toàn và tinh
thần người lao động.

"Quản trị tinh gọn made in Vietnam” hiện là phương thức quản trị tiên
tiến, hiện đại, có thể nói “Quản trị tinh gọn made in Vietnam" đã thổi vào mô
hình quản trị một cách nhìn mới, đang bắt đầu được các doanh nghiệp Việt
Nam quan tâm áp dụng bởi đây là một trong những phương pháp quản trị phù
hợp với thực tiễn tại Việt Nam hiện nay. Minh chứng là thời gian gần đây, mô
hình này đã bước đầu thu hút được sự quan tâm, áp dụng của một số tổ chức,
doanh nghiệp ở các ngành đồ uống, sản xuất ô tô, máy móc công nghiệp như
THACO Trường Hải, MK Smart Novaland, FECON, Manutronics, VNPT,

14
Công ty Tân Phát, Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam. ... và nhận
được ý kiến phản hồi khá tốt.

Qua sự thành công của các doanh nghiệp tiêu biểu trên, có thể thấy
rằng mô hình Quản trị tinh gọn "Made in Việt Nam" nếu được phổ biến rộng
rãi hơn trong doanh nghiệp và nhất là trong môi trường cơ quan nhà nước thì
nước ta sẽ tạo ra được rất nhiều lợi ích cả về tinh thần lẫn vật chất, từ gia đình
đến xã hội cho người Việt Nền tảng của Quản trị tinh gọn đó chính là sự thấu
hiểu khách hàng và thấu hiểu chính doanh nghiệp, bao gồm:

- Xác định đúng nhu cầu của khách hàng, thấu hiểu tổ chức và tạo ra văn hóa từ
lỗi tư duy tinh gọn.
- Nhận dạng chuỗi giá trị. Xác định các điểm nút tạo ra giá trị cho doanh nghiệp
và khách hàng, từ đó nhận diện các lãng phí đang tồn tại trong doanh nghiệp.
- Tạo dòng chảy vật tư và nguồn lực liên tục trong quá trình vận hành sản xuất,
kinh doanh
- Kéo dòng chảy theo chiều xuất phát từ khách hàng;
- Khi dòng sản xuất, kinh doanh đã ổn định, thực hiện cải tiến không ngừng để
hưởng đến sản phẩm và chất lượng hoàn hảo.

1.8. Chi phí:

Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản của xã hội con người, là
điều kiện tiên quyết tất yếu của sự tồn tại và phát triển. Trong nền kinh tế thị
trường hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là việc sản
xuất ra các sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường và thu về lợi thuận.
Đó là quá trình mà mỗi doanh nghiệp bỏ ra những chi phí nhất định, là chi phí
về lao động đời sống gồm: tiền lương, tiền công, trích BHXH, còn chi phí về
lao động vật hoá gồm chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí NVL.

Mọi chi phí bỏ ra cuối cùng đều được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn số hao phí về lao

15
động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt
động sản xuất trong một thời kỳ nhất định có thể là màu ạ quý năm. Trong điều
kiện giá cả thường xuyên biên động thì việc xác định chính xác các khoản chi
phí tính vào giá thành sản phẩm, giúp doanh nghiệp bảo toàn vốn theo yêu cầu
của chế độ quản lý kinh tế. Trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, ngoài
hoạt động sản xuất còn có những hoạt động khác không có tính chất sản xuất
như: bán hàng, quản lý, các hoạt động mang tính chất sự nghiệp. Nhưng chỉ
những chi phí để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mới được coi là
chi phí sản xuất kinh doanh. Thực chất chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là sự dịch chuyển vốn của doanh nghiệp vào đối tượng tinh giá nhất
định, nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí
sản xuất kinh doanh phát sinh thường xuyên, hàng ngày, gắn liền với từng vị trí
sản xuất từng sản phẩm và loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tính toán,
tổng hợp chi phí sản xuất kinh doanh cần được tiến hành trong thời gian nhất
định, có thể là tháng quý năm Các chi phí này cuối kỳ sẽ được bù đắp bằng
doanh thu kinh doanh trong kỳ đó của doanh nghiệp.

1.9. Chi phí lãng phí:

Chi phí lãng phí là tất cả những gì không đem lại giá trị cho doanh
nghiệp. Bất kỳ hoạt động, vật liệu, quy trình hay tính năng nào không tạo thêm
giá trị theo quan điểm của khách hàng đều được xem là dư thừa lãng phí cần
ghi nhận và loại bỏ. Thực tế cho thấy các hoạt động thật sự tạo ra giá trị cho
khách hàng chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ quá trình làm việc. Đó là lý do
tại sao các tổ chức nên tập trung vào việc cắt giảm các chi phí lãng phí càng
nhiều càng tốt. Bằng cách này các tổ chức có thể cắt giảm được thời gian chi
phí sản xuất mà vẫn nâng cao được chất lượng năng suất và chất lượng sản
phẩm. Qua quá trình sản xuất kinh doanh có các loại lãng phí xuất niên sau:

16
- Lãng phí do vận chuyển: Vận chuyển là việc di dời nguyên vật liệu, phụ
tùng, các bản thành phẩm hay thành phẩm từ nơi này sang nơi khác để thực
hiện một công việc nào đó. Lãng phí do vận chuyển ở đây là nói đến bất kỳ
công việc vận chuyển nào mà không làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, chẳng
hạn như việc vận chuyển nguyên vật liệu giữa các công đoạn sản xuất, việc di
chuyển giữa các công đoạn làm kéo dài thời gian, chu kỳ sản xuất dẫn đến việc
sử dụng lao động và mặt bằng kém hiệu quả từ đó có thể gây nên những trì trệ
trong sản xuất. Lãng phí cho vận chuyển có thể là một loại lãng phí rất lớn
trong doanh nghiệp do phải chi trả mọi chi phí từ con người đến vật liệu để di
chuyển qua nhiều nơi mà không đem lại thêm bất kỳ giá trị nào.
- Lãng phí tồn kho: Lãng phí do tồn kho tức là dự trữ nguyên vật liệu, bán thành
phẩm, hay thành phẩm nhiều hơn mức cần thiết. Lượng tồn kho lớn dẫn tới
việc chiếm chỗ chưa cần nhiều kho, nơi chứa, tốn chi phí cho việc bảo quản,
quản lý và dễ gây hư 15 hỏng sản phẩm. Chính vì vậy mà doanh nghiệp cần
giảm thiểu và chỉ duy trì lượng hàng tồn kho ở mức độ vừa đủ, không thừa,
không thiếu để tối thiểu hóa chi phí.
- Chi phi lãng phí do thao tác: Lãng phí do thao tác là những động tác chuyển
động chuyển động không cần thiết của người lao động trong hoạt động sản xuất
hoặc cung cấp dịch vụ, chẳng hạn như phải cúi xuống, với tay hoặc đi khắp
xưởng để lấy các chi tiết, dụng cụ, thiết bị hay những bất tiện do quy trình thao
tác kém. Những động tác không cần thiết này có thể gây ra thương tích, kéo dài
thời gian sản xuất và làm giảm năng suất lao động.
- Lãng phí do sản xuất dư thừa: Sản xuất dư thừa tức là sản xuất nhiều hơn
hay sớm hơn so với những gì được yêu cầu một cách không cần thiết. Việc này
làm gia tăng rủi ro lỗi thời của sản phẩm, tăng rủi ro về sản xuất sai chủng loại
và sản phẩm, có thể phải bán đi với giá thấp hay phải bỏ đi. Đây là loại lãng phí
được tạo ra nhiều nhất trong doanh nghiệp.
- Lãng phí do sai lỗi, khuyết tật. Sai lỗi (khuyết tật) là những sai sót bất kỳ
của sản phẩm, dịch vụ trong việc đáp ứng những quy định của khách hàng. Bao
gồm những khuyết tật trên sản phẩm, sai sót về giấy tờ, cung cấp thông tin sai
17
lệch về sản phẩm, giao hàng trễ, sử dụng quá nhiều nguyên vật liệu hay tạo ra
phế liệu không cần thiết và việc khắc phục những lỗi sai này tốn rất nhiều thời
gian và chi phí nhân công lao động. Tổ chức muốn tồn tại thì phải có lợi nhuận,
mà muốn có lợi nhuận thì phải tăng doanh thu hoặc cắt giảm chi phí. Đối với
doanh nghiệp thì việc tăng doanh thu từ giá hàng bán là rất khó do đó cách tốt
nhất để tăng doanh thu đó là cắt giảm chi phí nhất là những chi phí lãng phí
đang tồn tại trong doanh nghiệp.

1.10. Chi phí lãng phí vô hình:

Là các lãng phí khó nhìn thấy được như tầm nhìn và chiến lược phát triển.
Chủ doanh nghiệp không có được tầm nhìn và không tự xây dựng ra chiến lược
phát triển một cách thực sự cho doanh nghiệp, chiến lược phải dựa trên khoa
học kỹ thuật và khoa học kinh tế, xã hội. Không có tầm nhìn, không xây dựng
được chiến lược đúng nên doanh nghiệp đi được một chặng đường thực hiện
chiến lược thì bị thất bại. Vậy là toàn bộ chi phí đó trở thành lãng phí và có thể
dẫn đến phá sản doanh nghiệp đó là tổn thất lớn.

Phương pháp làm việc, cách thức triển khai công việc: Cùng một công
việc nhưng có người làm nhanh và chất lượng, có người làm chậm và có sai
hỏng việc này dẫn đến lãng phí về thời gian. Thời gian cũng là tiền bạc vì làm
mất cơ hội đưa ra sản phẩm/dịch vụ cũng như mất uy tín; sai hỏng thì chắc
chắn đó là lãng phí nhìn thấy (hữu hình) do lãng phí vô hình gây ra. Cũng với
phương pháp làm việc sai cộng với nhiệt tình tạo ra sự phá hoại, sử dụng các
quy trình quản trị quá hiện đại hoặc cồng kềnh cho các dự án, các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong khi với quy mô dự án và hoạt động sản xuất đó chưa
cần đến. Có những dự án hoặc đơn vị gồm rất nhiều tầng lớn lãnh đạo và quản
lý những người làm thật thì ít dẫn đến lãng phí nhân lực lãnh đạo/ quản lý
chồng chéo yêu cầu người thực hiện mất nhiều thời gian và công sức.

18
1.11. Tâm thế:

Tâm thế là một phạm trù quản trị được PGS.TS Nguyễn Đăng Minh
định nghĩa theo công thức:

TÂM THẾ = THẤU 1 + THẤU 2 + Ý (Tâm thế là hai thấu một ý)

- Thấu 1: Thấu hiểu rằng công việc (việc học/việc làm) mà con người thực hiện
là có ích cho chính bản thân mình.
- Thấu 2: Thấu hiểu rằng con người chỉ có làm thật công việc (học thật/làm thật)
mới nâng cao được năng lực tư duy (khi đi học) và năng lực làm việc (khi đi
làm) của chính bản thân.
- Ý. Con người cần có ý thức, thái độ và đạo đức tốt đối với công việc (việc
học/việc làm) của mình, để soi đường cho thực hiện hai thấu ở trên.

Ta có thể thấy rằng "Tâm thế" không tự nhiên sinh ra mà được


hình thành, rèn dũa, đúc kết từ gia đình cho tới xã hội. Được nuôi dưỡng qua
nhiều năm sinh sống và học tập. Một môi trường tốt sẽ nuôi dưỡng những
người có tâm thể tốt do vậy tâm thể đóng vai trò hết sức quan trọng và người
có tâm thể tốt sẽ thực hiện và áp dụng thành công mô hình quản trị tinh gọn tại
các doanh nghiệp, tổ chức. Có nghĩa là người có tâm thế cần phải hiểu hai thấu:
đó là thấu hiểu rằng áp dụng, phát triển tư duy và công cụ quản trị tinh gọn có
ích cho chính bản thân từng người trong doanh nghiệp, thấu hiểu rằng áp dụng
tư duy, phương pháp, công cụ của quản trị tinh gọn sẽ giúp nâng cao năng lực
của từng cá nhân và năng lực của doanh nghiệp và ý thức thái độ của mọi
người phải tốt để có được hai thấu đó. Thấu hiểu công việc mà mình thực hiện
mang lại lợi ích cho bản thân, cần lựa chọn những việc làm mang lại hiệu quả,
không làm những công việc vô bổ, lãng phí thời gian, biết mình cần gì và phải
làm gì là thứ nghe có vẻ như rất dễ nhưng để nhìn ra và thực hiện được thì lại
rất khó và ít người làm được.

19
Thấu hiểu rằng con người chỉ có làm thật, ăn thật thì mới nâng cao
năng lực tư duy và năng lực làm việc của bản thân tuy nhiên trong xã hội ngày
nay thì việc ăn thật làm dối lại phổ biến hơn, làm cho có làm để đối phó nhưng
lại nâng cao giá trị của việc làm đó lên để ra giá trị ảo, có thể thấy rõ việc ăn
thật làm dổi xuất hiện trong cả gia đình, công việc và xã hội, là một vấn nạn mà
rất khó để thay đổi nếu không có ý thức, đạo đức, thái độ tốt với những việc
mình làm. Tâm thế thực sự là cái tâm của vòng tròn kết nối tất cả những kiến
thức, kỹ năng của một con người, giúp các kiến thức, kỹ năng đó luôn được kết
nối chặt chẽ, vận hành một cách tốt nhất. Tâm thế là điều kiện cần và có để có
thể giúp cho bản thân mỗi cá nhân sau đó là tổ chức có thể gặt hái được thành
công trong công việc và cuộc sống.

1.12. Quản trị tác nghiệp công nghệ

Để thành công trong công cuộc kinh doanh nói chung, DN phải
quản trị tốt tổ chức và hoạt động hay còn gọi là các công tác quản trị tốt tổ chức
và các hoạt động hay còn gọi là các công tác chức năng như: tài chính, nhân
lực, công nghệ, sản xuất, marketing, bán hàng, quan hệ khách hàng, văn hóa,...

Quản trị tác nghiệp công nghệ bao gồm mọi hoạt động tương tác có
liên quan trực tiếp trong quy trình quản trị công nghệ từ việc nghiên cứu thị
trường khoa học - công nghệ, đánh giá, dự báo công nghệ, hoạch định chiến
lược công nghệ… tới việc phối hợp với các đơn vị chức năng để thực hiện các
kế hoạch hay các dự án phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ, sáng tạo công
nghệ, đăng ký bảo hộ công nghệ hay quyền sở hữu tài sản trí tuệ và sử dụng
công nghệ một cách hiệu quả.

Qua chương này, em phát triển được thêm kiến thức và vận dụng
sáng tạo các lý luận vào công tác quản trị công nghệ ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô.

20
1.13. Quản trị tri thức, quản trị các yếu tố phần mềm của công nghệ và quản trị
tài sản trí tuệ.

Tri thức, trong đó có các thiết kế (design) và bí quyết (know -


how) là một yếu tố hay một nhóm yếu tố quan trọng nhất của công nghệ quản
trị, công nghệ sản xuất, công nghệ dịch vụ hay của một hệ thống công nghệ liên
kết trong DN. Vì vậy rất nhiều DN quan tâm đến quản trị tri thức.

Với các phân tích cơ bản, phần này giúp em có thể định hướng
được tư duy về mối quan hệ giữa các công tác quản trị tư duy về mối quan hệ
biện chứng giữa các công tác quản trị tri thức, quản trị công nghệ và quản trị tài
sản trí tuệ theo các giới hạn nghiên cứu và biết liên hệ vận dụng vào thực tiễn.
Đây là cơ sở để em tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các quy định luật pháp hiện
hành đang điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và kinh doanh liên quan tới tri
thức, sáng tạo, công nghệ và tài sản trí tuệ.

1.14. Tổ chức, kiểm soát và đánh giá công tác quản trị công nghệ.

Quy trình quản trị công nghệ của DN có thể có nhiều bước tùy theo
điều kiện của DN và ý muốn chủ quan của nhà quản trị. Tuy nhiên, công tác tổ
chức, kiểm soát và đánh giá công tác quản trị công nghệ lại là việc cần phải
làm thường xuyên để thấy rõ hơn năng lực quản trị công nghệ của các cổ đông.
các chủ sở hữu hay cụ thể là hội đồng quản trị của DN. Nếu không có những
con người đủ năng lực quản trị công nghệ, không có các quy trình quản trị
chiến lược và kế hoạch công nghệ, không có các công cụ quản trị thì một DN
khó có thể có được các công nghệ và năng lực công nghệ cần thiết để cạnh
tranh.

Phần này giúp em tổng kết và vận dụng một số lý luận cơ bản của
môn học này trong thực tiễn sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.

21
PHẦN 2: Nghị luận về thực trạng công tác quản trị công nghệ tại một tổ chức,
một doanh nghiệp.

2.1. Thực trạng công tác quản trị công nghệ

Hiện tại, ứng dụng công nghệ thông tin đã bao phủ hầu hết các hoạt
động nghiệp vụ chủ yếu của ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH), như giao dịch
điện tử trong công tác thu BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp
và cấp số BHXH, thẻ BHYT; giám định điện tử chi phí khám, chữa bệnh
BHYT thông qua hệ thống thông tin giám định BHYT; số hóa hồ sơ lưu trữ;
các phần mềm phục vụ công tác tài chính - kế toán, quản lý văn bản... Hạ tầng
kỹ thuật, thiết bị công nghệ thông tin đã được trang bị đầy đủ và đang vận hành
hiệu quả. Ngành BHXH đã triển khai 14 dịch vụ công trực tuyến mức độ cao
(mức độ 3, 4), trong đó, nhiều dịch vụ công có số lượng hồ sơ giao dịch mỗi
năm lên tới hàng chục triệu.

Từ năm 2015, BHXH Việt Nam đã thúc đẩy mạnh việc tiếp nhận
hồ sơ và giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, triển khai giao dịch
điện tử trên phạm vi toàn quốc đối với việc đăng ký thu nộp BHXH. Để thực
hiện có hiệu quả công tác này, BHXH Việt Nam đã thành lập Tổ cán bộ chuyên
trách, rà soát tổng thể 115 thủ tục hành chính của ngành. Nhờ đó, trong vòng
một năm, số thủ tục hành chính đã giảm từ 115 xuống còn 33, giúp giảm 56%
số lượng hồ sơ, 82% chỉ tiêu trên tờ khai, mẫu biểu; giảm 78% quy trình, thao
tác thực hiện. Đồng thời, BHXH Việt Nam đã quy định nhiều hình thức tiếp
nhận hồ sơ và trả kết quả để doanh nghiệp lựa chọn như giao dịch điện tử, giao
dịch qua dịch vụ bưu chính...

Năm 2016, BHXH Việt Nam tiếp tục cắt giảm thêm 1 thủ tục,
giảm 38% số lượng hồ sơ giảm 42% chỉ tiêu trên tờ khai, mẫu biểu: giảm 54%
quy trình, thao tác thực hiện. Đến năm 2017, BHXH tiếp tục cắt giảm thêm 4
thủ tục. Thời gian hoàn thành việc kế khai tham gia BHXH bắt buộc đối với
doanh nghiệp cũng giảm còn 45 giờ. Bên cạnh đó . BHXH Việt Nam đưa ra

22
quy trình triển khai thực hiện Nghị định 166/2016/NĐ-CP ngày 24-12-2016,
của Chính phủ quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHYT, bảo
hiểm thất nghiệp. Các đơn vị lựa chọn hình thức giám định điện tử sẽ không
phải mất thời gian đi lại, chờ đợi nộp hồ sơ đăng ký tham gia trực tiếp tại cơ
quan BHXH. Mới đây, BHXH Việt Nam đã triển khai Cổng thông tin điện tử
phiên bản nâng cấp nhằm đáp ứng yêu cầu của Chính phủ trong việc mở rộng
thực hiện các giao dịch điện tử và cung cấp thông tin về BHXH, BHYT. Cổng
thông tin điện tử đáp ứng được yêu cầu là điểm truy cập duy nhất của BHXH
Việt Nam trên môi trường internet, cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động, chủ
trương, chính sách pháp luật về BHXH, BHYT, liên kết với trang thông tin điện
tử của BHXH tại tất cả các tỉnh, thành phố.

Ngoài ra, BHXH Việt Nam triển khai hàng loạt hệ thống thông
tin, cơ sở dữ liệu của ngành, như: Hệ thống giao dịch BHXH điện tử; Hệ thống
thông tin giám định BHYT; Hệ thống cấp số định danh và quản lý BHYT hộ
gia đình... Toàn bộ ứng dụng CNTT ngành BHXH đã được triển khai theo kiến
trúc Chính phủ điện tử được xây dựng theo Khung kiến trúc Chính phủ điện tử
do Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành. Trung tâm Điều hành hệ thống
CNTT của ngành BHXH được triển khai xây dựng và bắt đầu vận hành là kết
quả tổng hợp từ một quãng thời gian dài hệ thống BHXH đồng thời phát triển
hạ tầng kỹ thuật, nhân lực và đẩy mạnh ứng dụng CNTT. Định hướng hiện đại
hóa ngành BHXH được triển khai quyết liệt và hiệu quả. Hệ thống lưu trữ hồ
sơ điện tử ngành BHXH để số hóa tài liệu lưu trữ của thành nhân mầm non
dịch điện tử trên tất cả các lĩnh vực tư vấn BHXH thẻ BHYT, giải quyết chế độ
BHXH, BHTN; hệ thống một cửa điện tử tập trung trên cơ sở phần mềm Tiếp
nhận và quản lý hồ sơ, cổng thông tin điện tử BHXH Việt Nam là điểm truy
cập duy nhất của BHXH Việt Nam trên môi trường internet cung cấp đầy đủ
thông tin hoạt động, chủ trương, chính sách pháp luật về BHXH, BHYT, tiếp
nhận các yêu cầu giao dịch điện tử 'khai thác thông tin, dữ liệu về BHXH,
BHYT của tổ chức, cá nhân.

23
Đặc biệt, hệ thống thông tin giám định BHYT đã được đưa vào
vận hành, kết nối gần 100% cơ sở khám, chữa bệnh BHYT từ tuyến xã đến
Trung ương trên phạm vi toàn quốc để thực hiện quản lý khám, chữa bệnh,
giám định và thanh toán BHYT. Đồng thời ngành BHXH đã tạo lập xong cơ sở
dữ liệu cho hộ gia đình tham gia BHYT với thông tin của 92,6 triệu dân tương
ứng với 24,3 triệu hộ gia đình trên toàn quốc . Qua đó có thể thấy công nghệ
được áp dụng rất hiệu quả và việc quản trị công nghệ cũng đã được áp dụng có
hiệu quả tại đơn vị.

Tuy nhiên thực tế cho thấy vẫn còn nhiều vấn đề trong việc quản
trị con người như việc ngành triển khai quá nhiều công nghệ cứng cả về thiết
bị, phần mềm công nghệ nhưng công nghệ mềm thì chưa kịp phát triển theo
công nghệ cứng, nhiều khóa học, đào tạo nghiệp vụ vẫn chưa hiệu quả, công
nghệ cứng được trang bị quá mức cần thiết nhất là ở đơn vị cơ sở dẫn tới việc
dư thừa, lãng phí. Nguyên nhân của những vấn đề trên có thể do việc quản trị
công nghệ chưa có những chiến lược tốt, tạo ra quá nhiều chi phí lãng phí, công
nghệ mềm chưa kịp thời phát triển ngang bằng so với công nghệ cứng, và vấn
đề về nguồn nhân lực nhất là ở cơ sở những người có năng lực thì không được
trọng dụng, không được tạo điều kiện để phát triển, còn những người được gọi
là "con ông cháu cha", "con em trong ngành" được ưu tiên, được nâng đỡ do có
mối quan hệ nhưng lại không phát huy được năng lực, trí tuệ dẫn đến việc công
nghệ mềm luôn yếu kém hơn công nghệ cứng.

2.2. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản trị công nghệ:

Tâm thế là một trong những điều quan trọng nếu được đưa vào
công tác quản trị công nghệ trong doanh nghiệp thì việc quản trị sẽ có hiệu quả
và những giá trị tốt hơn. Cá nhân hay người lãnh đạo có được tâm thế, có được
Thấu 1 rằng hiểu được những việc làm cần thiết, có giá trị cho tổ chức, có giá
24
trị cho công tác an sinh xã hội, nâng cao được hiệu quả năng lực của cán bộ. Có
Thấu 2 hiểu được rằng con người cần phải "làm thật ăn thật" không phải làm
cho có xã hội nước ta hiện nay và cả lịch sử trước kia nói tới cơ quan nhà nước
người ta sẽ nghĩ tới ổn định, nghĩ tôi công việc nhàn hạ, làm ít ăn nhiều, cuối
tháng có lương đều đặn, đô vẫn là suy nghĩ đúng nhưng chỉ với một số bộ phận
nhỏ trong một tổ chức, những người không có năng lực, dựa vào mối quan hệ
của bản thân để trèo cao, làm dối nhưng lại được trả công hậu hĩnh, và ngồi
hưởng trên công sức, năng lực của người khác.

Nếu người lãnh đạo có được Thấu 2 trong Tâm thế thì sẽ trọng
dụng người tài, người có năng lực xã hội, người làm ra được những giá trị có
ích cho tổ chức, cho xã hội thi tổ chức sẽ có được những thành tựu và cống
hiến giúp ích hơn nữa cho con người, cho an sinh xã hội. Và cuối cùng một
người có Ý có ý thức, có đạo đức, có lối sống trong sạch giản dị, không nghĩ
tới việc hưởng lợi cho bản thân, không nhận hối lộ để chạy chọt, xin việc tuyển
người không có năng lực, không tham ô của cải dành cho dân nghèo, một
người lãnh đạo có đạo đức sẽ giúp cho tổ chức, đơn vị đã thực sự có được
nguồn công nghệ mềm có năng lực cống hiến cho doanh nghiệp. Ngoài ra một
doanh nghiệp có năng lực công nghệ cao khi có đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi,
nhanh chóng nắm bắt và làm chủ công nghệ mới, đồng thời có thể cải tiến công
nghệ cũ hay công nghệ nhập từ bên ngoài sao cho phù hợp với điều kiện của
doanh nghiệp.

Tuy nhiên, để đội ngũ cán bộ kỹ thuật phát huy được khả năng
chuyên môn của họ, doanh nghiệp cần phải tạo ra một môi trường làm việc
thuận lợi cho họ, bao gồm cả bốn thành phần của công nghệ đã trình bày ở trên.
Trước hết, các nhà quản trị cần phải vạch ra một chiến lược công nghệ rõ ràng
cho doanh nghiệp. Chiến lược này thể hiện một tầm nhìn dài hạn, định hướng
cho doanh nghiệp phân bổ các nguồn lực và sử dụng công nghệ, bao gồm các
quyết định về sử dụng loại công nghệ nào, về năng lực công nghệ và mức độ
đầu tư vốn cho phát triển công nghệ. Tiếp đó, tùy theo đặc điểm của quá trình

25
sản xuất, trách nhiệm quản trị sẽ được chia sẻ giữa giám đốc sản xuất với giám
đốc kỹ thuật, giám đốc nghiên cứu. Các nhà quản trị này sẽ giải quyết vấn đề
mang tính chất quản trị tác nghiệp, từ phát sinh ý tưởng, dự báo công nghệ,
đánh giá và lựa chọn công nghệ, đổi mới và chuyển giao công nghệ, cho đến
đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, cũng như liên kết công nghệ với sản phẩm
và thị trường.

Như vậy, thông qua việc nhận dạng được cơ hội thị trường và phát
triển công nghệ, các nhà quản trị sẽ quyết định được là nên duy trì hay thay đổi
các hoạt động kinh doanh, công nghệ, sản phẩm hiện tại, mở rộng sản xuất, hay
cần có công nghệ, sản phẩm mới.

26
PHẦN 3: Trình bày giải pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các sản phẩm dịch
vụ thật của các doanh nghiệp Việt Nam (sản phẩm thuần Việt Made in Vietnam)
tại thị trường Việt Nam và trên trường quốc tế.

3.1. Tinh giản đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ bằng biện pháp hành chính

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, Tòa án, Thanh tra chuyên
ngành, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có
thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong đó, việc áp
dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công
an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp.

Hệ thống các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ hiện nay bị coi là quá phức tạp, nhiều đầu mối. Có cơ quan
được trao thẩm quyền xử phạt hành chính nhưng thực tế không có điều kiện để
tổ chức thực hiện (Ủy ban nhân dân cấp huyện); có cơ quan không xác định
được trách nhiệm giữa thẩm quyền được trao thêm (thẩm quyền xử phạt hành
chính) với nhiệm vụ theo chức năng thường xuyên (nhiệm vụ điều tra, xác
minh của cơ quan công an). Trong khi đó, phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm
của các cơ quan còn có sự trùng lặp, chồng chéo nhau, ví dụ, các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý quy định tại Điều 12 và 13 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc
thẩm quyền xử phạt của cả 04 cơ quan là Thanh tra Khoa học và Công nghệ,
Quản lý thị trường, Hải quan, Công an; hoặc hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp nêu tại Điều 14 của Nghị định số
99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của 03 cơ quan là Thanh tra Khoa
học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan. Năng lực của các cơ quan
thực thi hành chính về cơ bản còn thiếu và yếu (cơ sở vật chất, kỹ thuật, thông
tin và đội ngũ cán bộ); cơ quan thực thi hành chính ở một số địa phương chưa
có lực lượng chuyên trách về sở hữu trí tuệ. Khi giải quyết các vụ tranh chấp,
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhiều trường hợp các cơ quan thực thi hành
27
chính không thể chủ động mà còn phụ thuộc vào ý kiến giám định của tổ chức
giám định hoặc ý kiến của cơ quan chuyên môn. Điều này khiến cho nhiều vụ
việc bị kéo dài thời gian xử lý, chất lượng giải quyết chưa cao.

Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
cần thiết phải thực hiện rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của
hệ thống tổ chức và cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiện có để làm
căn cứ xây dựng và thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy.
Việc sắp xếp, phân công lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần đảm bảo theo hướng
thu gọn đầu mối, phù hợp với tính chất dân sự của quyền sở hữu trí tuệ, xóa bỏ
tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về sở hữu trí tuệ.

Việc thu gọn đầu mối cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần được thực hiện đồng thời với việc
phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan và tăng cường chất lượng hoạt động
trên cơ sở thực hiện chuyên môn hóa về tổ chức và nhân sự trong các cơ quan
này.

Ngoài ra, cần thiết lập cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin, chuyên môn
giữa cơ quan xác lập quyền với các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và giữa
các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ với nhau nhằm tạo sự nhất quán trong
nhận định và cách thức xử lý các vụ việc có cùng bản chất. Các cơ quan bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ cũng cần công bố công khai các vụ việc được xử lý, các
trường hợp xâm phạm điển hình, qua đó, rút kinh nghiệm trong hoạt động của
mỗi cơ quan.

3.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu
liên quan đến sở hữu trí tuệ

Kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ tại biên
giới đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc phát hiện, ngăn chặn hàng
hóa giả mạo và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đưa vào thị trường trong nước.
28
Các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết trong thời gian qua
như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Hiệp
định CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu
Âu (Hiệp định EVFTA) cũng đặt ra những yêu cầu cao đối với biện pháp này.
Ví dụ, Điều 18.76.5 Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước thành viên quy định
thẩm quyền chủ động tiến hành các biện pháp tại biên giới của cơ quan hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu, tập kết để xuất khẩu hoặc nhập khẩu bị nghi
ngờ là giả mạo nhãn hiệu hoặc sao lậu quyền tác giả. Điều 18.59 Hiệp định
EVFTA yêu cầu cơ quan hải quan phải chủ động trong việc phát hiện và xác
định hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ trên cơ sở các kỹ thuật phân tích rủi ro. Hiệp định này cũng yêu cầu cơ
quan phải hợp tác với chủ thể quyền, bao gồm việc cho phép cung cấp thông
tin để phân tích rủi ro.

Theo quy định hiện hành, thủ tục tạm dừng làm thủ tục hải quan
đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng đối
với tất cả các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, Hiệp định TRIPS
chỉ yêu cầu các nước thành viên áp dụng biện pháp này đối với hàng hóa giả
mạo nhãn hiệu và sao chép lậu quyền tác giả; thậm chí Hiệp định CPTPP cũng
chỉ yêu cầu mở rộng áp dụng biện pháp này với hàng hóa mang nhãn hiệu
tương tự gây nhầm lẫn. Quy định áp dụng biện pháp này đối với các đối tượng
như sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật thương mại… không phù
hợp với các biện pháp thực hiện tại biên giới vì việc xác định các yếu tố xâm
phạm đối với những đối tượng nêu trên là tương đối khó và mất nhiều thời
gian, ảnh hưởng đến quá trình lưu thông hàng hóa qua cửa khẩu, thậm chí trong
một số trường hợp cơ quan hải quan tại cửa khẩu không đủ điều kiện để thực
hiện. Hơn nữa, sau khi hàng hóa được thông quan, trường hợp có nghi ngờ xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ, các cơ quan bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nội
địa vẫn có thời gian và điều kiện để xác định các hành vi xâm phạm. Quy định
hiện hành trong Luật Sở hữu trí tuệ vượt quá yêu cầu của Hiệp định TRIPS

29
cũng như các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam cam kết, tạo
gánh nặng không cần thiết cho cơ quan hải quan trong việc kiểm tra, giám sát
hàng hoá xuất, nhập khẩu tại biên giới, trong khi đó, cơ quan hải quan hiện nay
còn nhiều hạn chế về nguồn lực, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cũng như
nguồn nhân lực.

Do đó, để nâng cao hiệu quả kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu về sở
hữu trí tuệ, cần sửa đổi quy định của Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng thu hẹp
đối tượng hàng hóa về sở hữu trí tuệ bị kiểm soát tại biên giới. Kiểm soát về sở
hữu trí tuệ tại biên giới chỉ nên áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo
về sở hữu trí tuệ và hàng hoá xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.

Luật Sở hữu trí tuệ cũng cần bổ sung thẩm quyền chủ động tạm dừng
làm thủ tục hải quan của cơ quan hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu bị nghi ngờ giả mạo về sở hữu trí tuệ để đáp ứng cam kết theo Hiệp định
CPTPP. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực của cơ quan hải quan trong việc
nhận biết hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ và hàng hoá xâm phạm quyền đối
với nhãn hiệu. Chỉ khi năng lực của cán bộ cơ quan hải quan được nâng cao,
việc bổ sung thẩm quyền chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan mới phát
huy hiệu quả.

3.3. Thúc đẩy phát triển dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp, đội ngũ giám
định viên sở hữu công nghiệp

Giám định sở hữu công nghiệp là một khâu quan trọng để xác định
hành vi, tính chất, mức độ xâm phạm và xác định thiệt hại trong quá trình xử lý
các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Mặc dù các văn bản pháp luật quy định về hoạt động giám định đã
tương đối đầy đủ song trên thực tế, hiện nay, mới chỉ có 01 tổ chức giám định
được thành lập (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công
nghệ) và cũng chỉ có 04 người được công nhận là giám định viên sở hữu công
30
nghiệp, trong đó, 02 người đang “hoạt động trong tổ chức giám định, dưới danh
nghĩa của tổ chức” (Viện Khoa học sở hữu trí tuệ), 02 người còn lại “hoạt động
độc lập”.

Thực trạng nêu trên xuất phát từ việc tổ chức kiểm tra nghiệp vụ sở
hữu công nghiệp để cấp thẻ giám định viên, một yêu cầu bắt buộc cho việc
thành lập tổ chức giám định, chưa được thực hiện. Các quy định của Luật Sở
hữu trí tuệ về các chuyên ngành giám định quá rộng, không hoàn toàn phù hợp
với các lĩnh vực chuyên môn thực tế của đội ngũ chuyên gia, vì vậy, khó có thể
có những chuyên gia đáp ứng được yêu cầu để được cấp Thẻ giám định viên.

Để tăng cường hiệu quả của hoạt động giám định, cần nghiên cứu,
xây dựng khung chương trình đào tạo và sát hạch nghiệp vụ giám định sở hữu
công nghiệp; và có cơ chế để huy động những người có trình độ chuyên môn
sâu nhờ kinh nghiệm công tác vào đội ngũ giám định viên sở hữu công nghiệp,
ví dụ, bổ sung điều kiện được đặc cách cấp thẻ giám định viên đối với người đã
qua thực tế hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực pháp luật về sở hữu trí tuệ và
lĩnh vực chuyên ngành giám định từ 15 năm trở lên.

Thực tiễn phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam nhiều năm
qua cho thấy, để bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ, cần thực hiện
một cách đồng bộ và thống nhất hàng loạt các biện pháp và đòi hỏi sự tham gia
tích cực của tất cả các chủ thể, từ các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa
phương, đến các tổ chức, doanh nghiệp và mọi cá nhân trong xã hội. Bảo hộ và
thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc
khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo, góp phần đảm bảo một nền thương
mại bình đẳng dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư và đẩy
mạnh chuyển giao công nghệ, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

31
3.4. Các nhiệm vụ, giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động
thực thi quyền sở hữu trí tuệ (theo Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030):

- Rà soát, phân định rõ chức năng nhiệm vụ, từng bước tinh giản đầu mối cơ
quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành
chính;
- Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và với
các cơ quan tư pháp trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; phối hợp nghiên
cứu về việc tăng cường vai trò của tòa án trong giải quyết các vụ việc về sở hữu
trí tuệ;
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ, đặc biệt là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong môi
trường kỹ thuật số;
- Nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu
liên quan đến sở hữu trí tuệ;
- Tích cực và chủ động phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về sở
hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả công tác điều tra các vụ án hình sự về sở hữu trí
tuệ;
- Khuyến khích giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ bằng hình thức trọng
tài, hòa giải;
- Khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân chủ động tự bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ của mình;
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ sở hữu trí tuệ cho đội ngũ
cán bộ làm công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ;
- Mở rộng xã hội hóa đi đôi với nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp về
sở hữu trí tuệ; phát triển đội ngũ giám định viên sở hữu trí tuệ; thúc đẩy phát
triển dịch vụ giám định sở hữu trí tuệ và dịch vụ tư vấn pháp luật về bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ.

32
PHẦN 4: Trình bày cảm nghĩ của bản thân về giá trị của môn học Quản trị Công
nghệ đối với bản thân, doanh nghiệp và xã hội.

Môn học Quản trị công nghệ là môn học giúp em nhận ra được
tầm quan trọng của công nghệ và quản trị công nghệ trong đời sống xã hội,
trong công việc và trong gia đình. Giúp bản thân em hiểu rằng công nghệ
không chỉ là những thiết bị công nghệ, thiết bị văn phòng phục vụ công việc,
thiết bị sinh hoạt trong gia đình, vật dụng hàng ngày, những công trình xây
dựng trong xã hội mà công nghệ còn bao gồm cả con người, trí tuệ của con
người để có thể vận hành một cách trơn tru và phục vụ cho cuộc sống ngày
càng hiện đại hơn. Một đất nước không có công nghệ không có chiến lược quản
trị công nghệ sẽ trở thành một quốc gia kém phát triển. khó mà theo kịp sự tiến
bộ của xã hội ngày nay và nếu một quốc gia mà chỉ có công nghề mà không có
quản trị công nghệ sẽ chỉ làm cho đất nước ngày càng nghèo đói vì sự lãng phí
của cải, tiền bạc lãng phí chi phí của đất nước.

Do vậy quản trị công nghệ rất quan trọng không chỉ trong gia đình,
doanh nghiệp, tổ chức mà còn trong cả một quốc gia. Quản trị trong gia đình
giúp cho cuộc sống gia đình hạnh phúc, nuôi dưỡng được những người có thể
tốt, đóng góp những lợi ích cho xã hội, giúp hạn chế được những lãng phi làm
tăng doanh thu, lợi ích cho bản thân và người thân trong gia đình; quản trị công
nghệ trong doanh nghiệp giúp doanh nghiệp quản trị tốt những công nghệ
cứng, công nghệ mềm, sử dụng có hiệu quả, cắt giảm được chi phi lãng phí,
nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao giá trị của bản thân doanh
nghiệp, tự tạo ra được nhiều cơ hội để phát triển hơn trong xã hội đang phát
triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và toàn cầu và quản trị
công nghệ ng xã hội giúp nâng cao đời sống người dân, sử dụng, khai thác hiệu
quả tốt nhất những tài nguyên thiên nhiên ban tặng, không gây hại cho môi
trường và giúp các loài động, thực vật khác cùng phát triển.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày
01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế;

2. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 677/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 về
việc phê duyệt Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020;

3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê duyệt
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020;

4. ThS. Nguyễn Thị Bích Liên (2017), Cách thức đổi mới công nghệ của DN
nhỏ và vừa, Đại học Vinh;

5. Bình An (2017), DN cần nâng cao năng lực quản trị công nghệ và cập nhật
công nghệ, Báo Kinh tế Đô thị;

6. Thanh Hồ (2017), DN chậm đổi mới công nghệ, Petrotimes.

7. Hoàng Đình Phi, Giáo trình Quản Trị Công nghệ, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.

34

You might also like