You are on page 1of 25

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

TIỂU LUẬN

ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC, NÂNG CAO


HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC
TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ

Ngành: Quản lý công

Họ và tên học viên: Lê Nguyễn Hiền Diệu


Mã số học viên: 911820060
Mã ngành: CH20QLC_HG9_2
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thu Hòa

TRÀ VINH, NĂM 2021


2
i

MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.................................................................................................1
II. NỘI DUNG TIỂU LUẬN............................................................................3
2.1. Các khái niệm ..............................................................................................3
2.1.1. Khái niệm về chuyển đổi số ....................................................................3
2.1.2. Khái niệm về quản trị Nhà nước...............................................................4
2.2. Thực trạng quản trị nhà nước trong chuyển đổi số hiện nay........................5
2.3. Đánh giá thực trạng......................................................................................10
2.4. Nguyên nhân ................................................................................................15
2.5. Đề xuất các giải pháp...................................................................................17
III. KẾT LUẬN .................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................22
1

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chuyển đổi số trong quản trị quốc gia hay nói cách khác là quản trị trong
cơ quan nhà nước đã và đang trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế
giới. Đối với Việt Nam, chuyển đổi số là một trong những mục tiêu được quan
tâm hàng đầu của Chính phủ trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Trên thực
tế, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành Chiến
lược chuyển đổi số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức
chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới.
Trong thời kỳ Cách mạng 4.0, các phương thức hoạt động kinh tế các quốc
gia trên thế giới đều có sự thay đổi mạnh mẽ và Việt Nam cũng không phải là
ngoại lệ. Các trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp bắt
đầu dựa trên ứng dụng công nghệ số. Để thích ứng với nền kinh tế chuyển đổi
sang kinh tế số, Nhà nước cũng phải đổi mới mô hình và cách thức áp dụng
công nghệ số trong quản lý kinh tế.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang tác động mạnh mẽ đến toàn
cầu, buộc Chính phủ, doanh nghiệp các nước trên thế giới phải đối mặt với
những thách thức lớn, đòi hỏi những sự thay đổi để phù hợp trước sự tiến bộ của
công nghệ, khoa học kỹ thuật.
Chuyển đổi số là tất yếu và vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong các lĩnh vực khác
của xã hội như truyền thông đại chúng, y học, khoa học,…
Chuyển đổi số cũng đang làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của người dân,
nhất là trong tình hình dịch Covid-19 bùng nổ, cán bộ làm việc tại nhà, sinh
viên, học sinh học online, các tổ chức hội họp đều trực tuyến nhằm tránh tiếp
xúc, đảm bảo giãn cách cộng đồng, song vẫn phải đảm bảo được hiệu quả ở mức
có thể tối đa.
Từ những năm 2000, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng phát triển
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, xác định
đây là động lực góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt, đón
2

đầu để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2014, Bộ Chính
trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển
công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế
với quan điểm: “Ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh
vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên quan
tới doanh nghiệp, người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp...”.
Nghị quyết đã xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2020“triển khai có hiệu quả
chương trình cải cách hành chính, gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng Chính phủ
điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao và trong nhiều lĩnh
vực”. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết đầu tiên tập trung về Chính phủ điện tử nhằm “Đẩy mạnh phát triển Chính
phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước,
phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt
Nam về Chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên Hợp quốc. Công khai, minh
bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng”.
Do vậy, việc đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước
trong bối cảnh chuyển đổi số, tác động của chuyển đổi số đến cuộc sống và các
ngành, nghề kinh tế là hết sức cần thiết và quạn trọng phải thực hiện ngay trong
xu thế hiện nay.
3

II. NỘI DUNG TIỂU LUẬN


2.1. Các khái niệm
2.1.1. Khái niệm về chuyển đổi số
Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới, nhưng đến khi cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 bùng nổ, chuyển đổi số (Digital Transformation) mới xuất hiện
và trở nên phổ biến trong thời gian gần đây. Có rất nhiều định nghĩa và cách
hiểu khác nhau về chuyển đổi số.
Theo Công ty Nghiên cứu và Tư vấn công nghệ thông tin Gartner, chuyển
đổi số là việc ứng dụng công nghệ trong thay đổi mô hình kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó tạo thêm nhiều cơ hội và giá trị mới, giúp doanh nghiệp gia tăng
tốc độ tăng trưởng và đạt doanh số tốt hơn.
Còn theo Microsoft, chuyển đổi số chính là tái cấu trúc tư duy trong phối
hợp giữa dữ liệu, quy trình và con người nhằm tạo ra nhiều giá trị mới.
Tuy nhiên, cũng có định nghĩa cho rằng, chuyển đổi số không chỉ ứng dụng
công nghệ trong thay đổi mô hình kinh doanh, mà còn tham gia vào tất cả các
khía cạnh của doanh nghiệp. Nếu đạt hiệu quả, chuyển đổi số sẽ thay đổi toàn
diện (transformation) cách thức doanh nghiệp hoạt động, từ đó tăng hiệu quả
hợp tác, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và mang lại giá trị cho khách hàng.
Do đó, có thể thấy, chuyển đổi số là thay đổi phương thức làm việc trong
cuộc sống, phương thức sản xuất với các công nghệ số, là sự tích hợp đầy đủ các
công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một đơn vị, của một doanh
nghiệp, ứng dụng các công nghệ, nhằm thay đổi cách thức vận hành, mô hình
kinh doanh và đem đến những hiệu quả cao hơn, những giá trị mới hơn cho
doanh nghiệp. Chuyển đổi số còn là sự thay đổi về văn hóa của đơn vị, của
doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp cần liên tục cập nhật, liên tục học hỏi theo
cái mới, cái hiện đại và phải chấp nhận cả thất bại bên cạnh những thành công
của sự đổi mới đem lại.
Đối với Việt Nam, chuyển đổi số là quá trình thay đổi mô hình cũ, mô hình
truyền thống sang dạng doanh nghiệp số, dựa trên những ứng dụng công nghệ
4

mới, như: Big data, IoT, điện toán đám mây,…, nhằm thay đổi phương thức điều
hành, quy trình làm việc và văn hóa lao động trong cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp. Đối với con người bình thường, chuyển đổi số làm thay đổi phong cách
sống của chúng ta.
2.1.2. Khái niệm về quản trị nhà nước
Quản trị là gì? Quản trị là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản trị đến
đối tượng quản trị thông qua các hoạt động: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm
tra và sử dụng các nguồn lực của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Quản trị ngày nay đã phát triển ở mọi nơi trong hoạt động của con người.
Nó trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng không thể thiếu của các tổ chức con
người, xã hội và nhà nước. Từ thực tiễn hoạt động quản trị các lĩnh vực khác
nhau của đời sống kinh tế - xã hội và nhà nước, các nhà quản trị, các nhà khoa
học đã tổng kết, đúc rút được các kiến thức, kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm
và hệ thống hóa thành một lĩnh vực khoa học gọi là khoa học quản trị hay quản
trị học. Nếu quản trị được quan niệm, được xác định là sự tác động có chủ đích
của chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức
thì khoa học quản trị nghiên cứu cách thức tác động của chủ thể quản trị đến các
đối tượng quản trị sao cho đạt được hiệu quả cao nhất.
Quản trị nhà nước là gì? Dưới góc độ của khoa học quản trị “quản trị nhà
nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đến các
quá trình, quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân, thông qua các hoạt
động: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra và sử dụng các nguồn lực nhằm
đạt được mục tiêu của nhà nước, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế –
xã hội và phục vụ đắc lực người dân”.
5

2.2. Thực trạng quản trị nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số hiện
nay
Từ những năm 2000, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng phát
triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, xác
định đây là động lực góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt,
đón đầu để thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2014, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát
triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc
tế với quan điểm: “Ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh
vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên quan
tới doanh nghiệp, người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp...”.
Nghị quyết đã xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2020“triển khai có hiệu quả
chương trình cải cách hành chính, gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng Chính phủ
điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao và trong nhiều lĩnh
vực”. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết đầu tiên tập trung về Chính phủ điện tử nhằm“Đẩy mạnh phát triển Chính
phủ điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước,
phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn. Nâng vị trí của Việt
Nam về Chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên Hợp quốc. Công khai, minh
bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng”.
Một trong những mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 36a/NQ-CP của Chính phủ
về Chính phủ điện tử là “đến hết năm 2017, Việt Nam nằm trong nhóm 3 quốc
gia đứng đầu ASEAN về chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI) và chỉ số phát
triển Chính phủ điện tử (EDGI) của Liên Hợp quốc”.
Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng và đạt được
những kết quả bước đầu quan trọng làm nền tảng trong triển khai xây dựng
Chính phủ điện tử. Hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây
dựng Chính phủ điện tử đã dần được thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính
6

chất nền tảng thông tin như Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ
sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu
đất đai quốc gia đang được xây dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành.
Các cơ quan nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho
doanh nghiệp và người dân như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế,
hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội... Một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc
trên môi trường mạng. Tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện
tử được đưa vào vận hành, dần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội
ngũ công chức. Chất lượng nhân lực về công nghệ thông tin của Việt Nam cũng
đã được quan tâm.
Việc thực hiện Chính phủ điện tử trong thời gian qua đã tạo nên những
thay đổi quan trọng, mang tính hệ thống hơn. Việt Nam đã có những hệ thống
mang tính quốc gia như hệ thống hải quan, thuế, đăng ký doanh nghiệp... Đối
với hệ thống quản lý văn bản - cốt lõi của Chính phủ điện tử, tính đến quý
I/2017, đã có 26/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 63/63
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành kết nối liên thông phần mềm
quản lý văn bản với Văn phòng Chính phủ, hình thành một hệ thống quản lý văn
bản điện tử thống nhất, thông suốt từ trung ương đến địa phương, cho phép tự
động nhận biết được trạng thái xử lý văn bản giữa các cơ quan.
Văn phòng Chính phủ về cơ bản hoàn thiện liên thông văn bản điện tử
với UBND thành phố Hồ Chí Minh, đây sẽ là mô hình mẫu để mở rộng ra toàn
quốc. Tiếp theo, Văn phòng Chính phủ sẽ tiếp tục triển khai, hoàn thành liên
thông với 7 bộ, ngành, địa phương là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thanh
tra Chính phủ, các tỉnh/thành phố: Đà Nẵng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Long An,
Đồng Nai.
Bên cạnh đó, đối với việc công khai tiến độ hồ sơ, 63/63 tỉnh, thành phố và
19/30 bộ, ngành đã công khai tiến độ xử lý hồ sơ trên Cổng Thông tin điện tử
Chính phủ. Văn phòng Chính phủ cũng công khai việc xử lý văn bản của lãnh
đạo Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ.
7

Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trong tổng số 83 dịch vụ công trực
tuyến giao cho 20 bộ, ngành, đến nay, các bộ, ngành đã triển khai thực hiện
78/83 dịch vụ công trực tuyến; trong tổng số 44 dịch vụ công trực tuyến giao
cho các địa phương, đến nay có 32/63 địa phương đã triển khai thực hiện.
- Thực trạng chuyển đổi số trên thế giới:
Có thể nói chuyển đổi số đang trở thành xu hướng toàn cầu. Chuyển đổi số
đã thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo từ bộ máy chính quyền của nhiều
quốc gia cho đến các doanh nhân của các tập đoàn lớn và cả người quản lý của
những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nếu như trước đây, công nghệ chỉ dành cho các công ty lớn, tiềm lực mạnh
thì giờ đây những công ty nhỏ thậm chí là Startup đều có thể tiếp cận với công
nghệ hiện đại.

Ảnh 1: Chuyển đổi số mang lại những lợi ích vượt trội cho doanh nghiệp.
8

Theo nghiên cứu của Microsoft, chuyển đổi số đã giúp tăng trưởng GDP từ
6% năm 2017 đến 25% năm 2019 và 60% năm 2021 tại khu vực Châu Á Thái
Bình Dương.
Theo nghiên cứu của McKensey chỉ ra rằng, năm 2025 chuyển đổi số sẽ tác
động GDP nước Mỹ 25%, Brazil là 35%, các nước Châu Âu là 36%.
Có thể thấy tốc độ chuyển đổi số tại các khu vực và quốc gia là khác nhau
tùy vào sự phát triển công nghệ và tốc độ chuyển đổi mô hình doanh nghiệp.
Hiện nay Châu Âu là khu vực có tốc độ chuyển đổi số nhanh nhất, thứ hai
là Mỹ và các nước Châu Á.
Cũng theo khảo sát của Microsoft tại Châu Á, 44% trong nhóm 615 doanh
nghiệp cho biết họ đã đo lường được mức độ thành công khi áp dụng chuyển đổi
số. Điều này cho thấy rằng chuyển đổi số là yếu tố bắt buộc để doanh nghiệp
“sống sót” trên thị trường.
- Thực trạng chuyển đổi số ở Việt Nam:
Chính phủ Việt Nam đã xác định được tầm quan trọng của Chuyển đổi số
trong công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển đất nước. Mục tiêu được nêu rõ
trong “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030”, Việt Nam có kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số ở mỗi ngành
tối thiểu 10%; năng suất lao động tăng tối thiểu mỗi năm 7%; thuộc nhóm top 50
quốc gia dẫn đầu về công nghệ thông tin. Thực tế các chương trình của Chính
phủ đã tác động đến quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp, 64% các doanh
nghiệp đã được hưởng lợi từ các chương trình đó, 36% đã biết đến chương trình
nhưng chưa tham gia.
9

Ảnh 2: Chuyển đổi số được chính phủ Việt Nam ưu tiên hàng đầu.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia mạnh mẽ hơn vào trong công
cuộc số hóa bởi dịch covid lan rộng. Điều này đòi hỏi phải thực hiện việc giãn
cách xã hội, bắt buộc doanh nghiệp cần ứng dụng chuyển đổi số về quản lý,
thanh toán điện tử, marketing trực tuyến.
Trong việc quản lý nội bộ, các doanh nghiệp đã ứng dụng chuyển đổi số
tăng 19,5% so với thời điểm trước dịch Covid. Hệ thống họp trực tuyến, quản lý
công việc đã được 30% doanh nghiệp ứng dụng.
Khi khảo sát về hiệu quả chuyển đổi số với doanh nghiệp, có đến 98%
doanh nghiệp có sự thay đổi về hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ giảm chi phí
hơn 71%, giảm thủ tục rườm rà không đáng có chiếm 61,4%; nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ chiếm 45,3%.
Chuyển đổi số hiện nay ở nước ta diễn ra ở các lĩnh vực, các loại hình
doanh nghiệp với nhiều mức độ khác nhau.
Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng sẽ triển khai các hệ sinh thái trên
nền tảng internet, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thông qua các app được cài
đặt trên điện thoại,…
Chuyển đổi số trong ngành vận tải với sự phát triển với dịch vụ gọi xe
Grab, Be, Fastgo được xây dựng dựa trên nền tảng công nghệ.
10

Và với các ngành khác cũng đều được chuyển đổi đảm bảo tiết kiệm chi
phí, tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu suất.
2.3. Đánh giá thực trạng
Mặc dù bước đầu đã đạt được một số kết quả khả quan, nhưng vẫn còn
nhiều thách thức, khó khăn trong lộ trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện
tử để có thể hoàn thành được các nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết 36a, đạt được
mục tiêu cải cách toàn diện 3 nhóm chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI), hạ
tầng viễn thông và nguồn nhân lực (HCI). Nhìn chung việc triển khai Chính phủ
điện tử chưa đạt được như mong muốn của lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Chính phủ.
Vị trí của Việt Nam trong Bảng xếp hạng Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử
của Liên Hợp quốc vẫn ở mức trung bình, theo báo cáo mới nhất của Liên Hợp
quốc, 2 năm qua, chúng ta tăng 1 bậc, đang xếp thứ 88 trong tổng số 193 quốc
gia và lãnh thổ được đánh giá. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam chỉ được xếp
hạng khiêm tốn ở vị trí thứ 6. Kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về Chính phủ
điện tử còn rất chậm và nhiều nơi thực hiện mang tính hình thức. Việc xây dựng
triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng
phục vụ phát triển Chính phủ điện tử rất chậm so với tiến độ cần có; các hệ
thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ
thống thông tin; chất lượng dữ liệu và thông tin chưa được cập nhật kịp thời,
chính xác; nhiều hệ thống thông tin đã triển khai chưa bảo đảm an toàn, an ninh
thông tin, mức độ tin cậy của quốc gia trong giao dịch điện tử thấp. Việc cung
cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo số lượng trong khi tỷ lệ hồ sơ thực
hiện dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính và
xử lý hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ. Còn những rào cản
trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin gây khó khăn cho các doanh
nghiệp trong triển khai các dự án. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều lãnh đạo
Chính phủ, bộ, ngành, địa phương còn chưa có đầy đủ thông tin dữ liệu số của
các đối tượng mình quản lý.
11

Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành
chương trình hay chiến lược về Chuyển đổi số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành
quốc gia có nhận thức về chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến
trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam chủ động khai thác triệt để
các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại và bứt phá vươn lên, thay đổi
thứ hạng.
Cách đây hơn 20 năm, khi lần đầu tiên kết nối Internet, Việt Nam đã đặt
những “dấu chân” đầu tiên trên một miền không gian hoàn toàn mới - không
gian mạng. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã đi được một hành trình dài trong
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chuyển đổi số là cuộc chuyển
đổi toàn diện từ không gian thực lên không gian số, cho phép đưa toàn bộ hoạt
động lên không gian số. Cuộc dịch chuyển này diễn ra với tốc độ nhanh chóng
theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Giống như khai phá những
vùng đất mới, không gian mạng được mở rộng sẽ tạo dư địa và mở ra không
gian phát triển mới cho đất nước.
Chuyển đổi số tác động sâu rộng, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt
động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh
tranh của quốc gia. Chuyển đổi số giáo dục sẽ đổi mới cách thức giảng - dạy
truyền thống hướng tới phổ cập hoá và cá nhân hoá dịch vụ học tập suốt đời tới
từng người học. Chuyển đổi số y tế sẽ cho phép người dân, thông qua các nền
tảng số tiếp cận với dịch vụ y tế tốt nhất 24/7 từ những bác sĩ giỏi nhất, giải
quyết vấn đề giảm tải cho các cơ sở y tế. Còn có rất nhiều ví dụ khác về các
ngành, lĩnh vực có tiềm năng chuyển đổi số. Chuyển đổi số không phải là cuộc
cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi
trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công
nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo,
Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
12

Ở cấp độ quốc gia, chuyển đổi số là chuyển đổi chính phủ số, kinh tế số và
xã hội số quốc gia. Ở cấp độ địa phương, chuyển đổi số là chuyển đổi sang
chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn của địa phương đó. Địa
phương chuyển đổi số thành công sẽ đóng góp vào thành công chung của
chuyển đổi số quốc gia. Do vậy, chuyển đổi số là nhiệm vụ cần sự vào cuộc
quyết tâm của toàn hệ thống chính trị, triển khai xuyên suốt, đồng bộ từ cấp
Trung ương đến địa phương.
Chuyển đổi số còn là cuộc cách mạng của toàn dân. Chuyển đổi số chỉ thực
sự thành công khi mỗi một người dân tích cực tham gia và thụ hưởng các lợi ích
mà chuyển đổi số mang lại. Chuyển đổi số mang trong mình sứ mệnh lớn lao, đó
là phổ cập và cá nhân hoá các dịch vụ (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế, …)
tới từng người dân để phục vụ người dân tốt hơn. Chuyển đổi số tạo ra cơ hội
cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực
tuyến một cách công bằng, bình đẳng và nhân văn rộng khắp “không ai bị bỏ lại
phía sau”.
Năm 2020 được xác định là năm khởi động chuyển đổi số quốc gia. Nhận
thức của toàn xã hội về chuyển đổi số được thay đổi đột biến. Năm 2021 và cả
giai đoạn 2021 - 2025 sẽ là giai đoạn tăng tốc với những hành động triển khai cụ
thể theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt với tầm nhìn 10 năm sẽ thay đổi toàn diện đất nước, đặt ra các mục tiêu:
Việt Nam sẽ thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, kinh tế số đóng
góp 30% GDP; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%; mọi người dân
có cơ hội tiếp cận, trải nghiệm các dịch vụ thiết yếu thông minh, không ai bị bỏ
lại phía sau. Để đạt được mục tiêu đó, cần có quyết tâm và đột phá với cách làm
mới, phù hợp với bối cảnh và thực tiễn.
- Những thuận lợi cho phát triển và quản lý nhà nước trong bối cảnh
chuyển đổi số ở Việt Nam.
Việt Nam có dân số trẻ, nhanh nhạy trong nắm bắt công nghệ, nằm trong
13

tốp đầu các quốc gia có tốc độ tăng trưởng về số người dùng Internet, điện thoại
thông minh và sử dụng mạng xã hội. Chuyển đổi số, trong khi chưa cần đến một
chiến lược ở cấp quốc gia và hành động của Chính phủ, thì thực chất khu vực tư
nhân và người dân đã đi trước một bước. Mặt khác, ngành viễn thông công nghệ
thông tin đã tạo ra hạ tầng viễn thông 3G, 4G phủ 95% cả nước, sắp tới sẽ triển
khai 5G, đây là một nền tảng quan trọng của nền kinh tế số ở Việt Nam.
Nhưng bên cạnh khía cạnh tích cực đó, ở cấp độ quốc gia, những vấn đề
kinh tế - xã hội lớn của tiến trình số hóa đời sống đang ngày càng trở nên rõ hơn,
vượt ra khỏi khả năng giải quyết của khu vực tư và cần đến bàn tay hành động
của nhà nước. Và thực chất, không riêng gì Việt Nam, những vấn đề này cũng
đã xuất hiện ở các quốc gia khác và trở thành bài toán chính sách chung ở cấp
độ toàn cầu.
Để không bỏ lỡ cơ hội này, trước hết, Chính phủ phải tự đổi mới, chuyển
đổi để trở thành một Chính phủ của thời đại 4.0, có đủ năng lực quản trị phát
triển quốc gia trong thời đại số. Đồng thời, các cấp, các ngành và toàn xã hội cần
có những thay đổi từ nhận thức đến hành động để phát huy được những thuận
lợi do việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số mang lại và đáp ứng
được những thách thức của thời đại kinh tế số. Với quyết tâm chính trị, thống
nhất quan điểm “hành động nhanh, kết quả lớn, làm đâu chắc đấy”, “nghĩ lớn,
nghĩ tổng thể nhưng bắt đầu từ những việc nhỏ nhất nhưng có hiệu quả lớn”,
Chính phủ đã giao Văn phòng Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị quyết của
Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử
giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025, xác định rõ mục tiêu, vai trò,
trách nhiệm, lộ trình cụ thể và thiết lập hệ thống chỉ số giám sát hiệu quả thực
thi, tránh tình trạng làm hình thức mà không bảo đảm yêu cầu.
- Những vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi
số ở Việt Nam.
+ Bảo vệ quyền riêng tư trên môi trường Internet của người dân. Vụ việc
Facebook, qua vụ bê bối Cambridge Analytica - khi dữ liệu cá nhân của khoảng
14

80 triệu tài khoản người dùng Mỹ bị khai thác trái phép bởi các bên thứ ba - là
đỉnh điểm khiến thế giới phải giật mình nhìn lại về việc thông tin, dữ liệu cá
nhân của mình đang được các doanh nghiệp quản lý và khai thác như thế nào.
Tại Việt Nam, việc rò rỉ dữ liệu, mua bán và khai thác dữ liệu cá nhân cũng diễn
ra phổ biến, trong đó các vụ việc nổi cộm liên quan đến cả những doanh nghiệp
lớn.
+ Vấn đề tin giả, thông tin không chính xác và các phát ngôn cực đoan
trên môi trường mạng xã hội. “Ngồi lê đôi mách” là thứ văn hóa nghìn năm của
con người. Nhưng chuyện nói xấu, chuyện bịa đặt, trong môi trường “lũy tre
làng” khi đưa lên mạng - vốn không biên giới, và tốc độ lan tỏa, chia sẻ nhanh
như ánh sáng - trở thành vấn nạn không chỉ tổn hại lợi ích từng cá nhân, cộng
đồng mà còn là toàn thể xã hội.
Ở Việt Nam, không chỉ Đảng, Nhà nước, không chỉ lãnh đạo bị tấn công
bởi tin giả, thông tin gọi là “xấu, độc”, mỗi người dân, cộng đồng cũng đang
hứng chịu các vấn đề tương tự. Nhưng cân bằng như thế nào giữa phát triển kinh
tế (mạng xã hội là một nền tảng cho kinh doanh) và nhu cầu bày tỏ quan điểm, ý
kiến cá nhân, và chia sẻ thông tin của người dùng; cân bằng thế nào giữa kiểm
soát “phát ngôn cực đoan” và quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt của người
dân là bài toán không hề dễ giải và hiện chưa có câu trả lời.
+ Vấn đề kinh tế, trong đó tập trung vào quản lý, đặc biệt là vấn đề thu
thuế thế nào với các hoạt động thương mại và cung cấp dịch vụ xuyên biên giới.
Internet là không biên giới, lãnh thổ và địa lý trở thành tương đối khi ngồi ở đâu
doanh nghiệp cũng có thể làm việc, kinh doanh. Cản trở lưu thông thông tin và
dữ liệu là cắt đường huyết mạch của kinh tế số. Nhưng thu thuế thế nào, đảm
bảo quyền lợi cho người lao động thế nào khi Grab, Netflix, Airbnb không ở
Việt Nam nhưng lại kinh doanh ở Việt Nam?
Và cuối cùng, không phải là vấn đề của mọi quốc gia mà là vấn đề riêng
của Việt Nam: hệ thống xử lý tranh chấp cho các hoạt động kinh doanh, thương
mại, dân sự trên môi trường số. Hệ thống tư pháp vốn là điểm yếu cố hữu của
15

Việt Nam và càng là vấn đề khi bước vào kỷ nguyên số. Bởi tốc độ và mức độ
ảnh hưởng của tranh chấp nếu trong đời thực là 1 thì trên môi trường số sẽ lũy
thừa lên n lần.
Không có một hệ thống tư pháp tốt để giải quyết tranh chấp, để bảo vệ
công dân số thì coi chừng doanh nghiệp sẽ di cư sang một quốc gia có hệ thống
tư pháp tốt hơn. Doanh nghiệp số thì biên giới tài phán cứng không còn ý nghĩa
và đây không phải là cảnh báo suông, việc startup Việt chuộng sang Singapo
đăng ký doanh nghiệp là minh chứng sống động.
Ngoài ra, một số tồn tại được chỉ ra như nền tảng kỹ thuật chia sẻ dữ liệu
triển khai chậm, đặc biệt cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư dậm chân tại chỗ; dịch
vụ công trực tuyến thiết kế rời rạc, chưa lấy người dân, doanh nghiệp làm trung
tâm, dẫn đến số lượng hồ sơ trực tuyến rất thấp, thậm chí một số dịch vụ không
phát sinh hồ sơ.
Dịch vụ lẫn lộn giữa giấy tờ và trực tuyến, gây phiền hà cho người dân và
công chức thực hiện. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin mỏng và có xu hướng
dịch chuyển sang khu vực tư. Bảo mật thấp. Có tình trạng cát cứ, không sẵn
sàng chia sẻ, liên thông dữ liệu. Chưa có trách nhiệm giải trình của người đứng
đầu...
2.4. Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề trên là do nhiều cấp, nhiều ngành chưa
xác định rõ lộ trình và các nhiệm vụ cụ thể để triển khai, còn thiếu gắn kết giữa
ứng dụng công nghệ thông tin với cải cách thủ tục hành chính và đổi mới lề lối,
phương thức làm việc, nhất là trong quan hệ với người dân, doanh nghiệp; chưa
phát huy vai trò của người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện. Nền tảng tích hợp,
chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan hành chính nhà nước cũng như quy định về cơ
chế tích hợp, chia sẻ dữ liệu còn thiếu; thói quen cát cứ dữ liệu còn tồn tại ở
nhiều cơ quan; việc bảo đảm an toàn, an ninh cho các hệ thống thông tin của các
cơ quan nhà nước còn chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, chúng ta còn
thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng Chính phủ điện tử, thiếu quy định cụ
16

thể về xác thực cá nhân, tổ chức trong các giao dịch điện tử cũng như các quy
định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong
giao dịch hành chính và thanh toán. Cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng
Chính phủ điện tử chưa đủ mạnh cũng là nguyên nhân của việc thực hiện còn
thiếu hiệu quả và mang nặng tính hình thức. Chúng ta cũng chưa phát huy tối đa
sự tham gia của khu vực tư nhân trong xây dựng Chính phủ điện tử và thiếu cơ
chế tài chính và đầu tư phù hợp với đặc thù dự án công nghệ thông tin.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, với việc ứng dụng công nghệ số, việc xử lý
thông tin chủ yếu do trí tuệ nhân tạo, nên nhiều thiết chế nhà nước trở nên thừa
và vì vậy ngay bản thân chức năng của nhà nước cũng có sự điều chỉnh, chuyển
đổi từ “người chèo lái thuyền”, sang “người hoa tiêu”. Trong môi trường số,
quan hệ lao động có sự thay đổi, các mô hình kinh doanh mới xuất hiện, đi liền
với đó mô hình kinh doanh cũ mất đi và rôbốt hóa nhiều vị trí việc làm, đặt ra
thách thức trong bố trí và đào tạo lao động, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Những thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã thúc đẩy và kéo theo
những thay đổi trong lối sống và giao tiếp. Bên cạnh các hình thức giao tiếp
truyền thống, giao tiếp qua email, mạng xã hội… ngày càng gia tăng, đặt ra yêu
cầu cho quản trị quốc gia đối với các quan hệ xã hội trong môi trường ảo.

Ảnh 3: Việt Nam được định hướng trở thành “quốc gia số” vào năm 2030.
17

Chính vì vậy, việc tạo lập nền quản trị tốt, có chất lượng là rất cần thiết.
Một nền quản trị chất lượng tốt phải thỏa mãn các nguyên tắc cơ bản như:
Thứ nhất, tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ
quan công quyền cũng như tính hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng các
nguồn lực công.
Thứ hai, bảo đảm nguyên tắc thúc đẩy sự bình đẳng và sự tham gia của các
chủ thể, nhất là người dân vào các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý sự phát
triển bền vững xã hội.
Thứ ba, đó là nền quản trị dung nạp sự khác biệt về văn hóa, đưa văn hóa
trở thành mục tiêu, hệ điều tiết và là động lực của tăng trưởng.
Thứ tư, tôn trọng pháp quyền, thúc đẩy việc bảo vệ các quyền con người và
trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước.
2.5. Đề xuất các giải pháp
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi số, hướng tới nền kinh tế số, xã
hội số. Chuyển đổi số là việc sử dụng công nghệ số để thay đổi cách thức sống,
phương thức làm việc và quản trị, thay đổi mô hình kinh doanh, cung cấp dịch
vụ mới, giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội theo phương thức mới.
Chuyển đổi số không chỉ là công nghệ số mà còn là thay đổi nhận thức, thay đổi
thói quen, dám chấp nhận cái mới. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi quản trị
quốc gia phải có bước chuyển kịp thời, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản nêu trên
nhằm khai thác hiệu quả các nguồn lực truyền thống và các nguồn lực mới do
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa lại. Để góp phần chuyển đổi, nâng
cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi số cần hệ
thống các giải pháp đồng bộ, trong đó trước mắt cần tập trung vào những giải
pháp cơ bản như:
Một là, cần đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội về chuyển đổi số; hoàn thiện thể chế, trong đó ưu tiên xây dựng
đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách
18

nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng
tạo; huy động và quản lý sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển về chuyển đổi số.
Hai là, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó chú trọng phát triển hạ tầng
thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế
số, xã hội số, cụ thể:
- Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia. Hình thành hệ thống
trung tâm dữ liệu quốc gia, các trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ
và thống nhất. Hình thành các hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn định của Nhà nước và
doanh nghiệp. Đầu tư trang bị các hệ thống thiết bị thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo vệ dữ
liệu công.
- Quy hoạch xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống
nhất, dùng chung, tận dụng và khai thác có hiệu quả hạ tầng mạng lưới viễn thông để
triển khai các dịch vụ thanh toán cho người dân với chi phí thấp.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh mẽ thanh toán không dùng tiền
mặt. Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng các hệ thống thanh toán số.
- Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Xây dựng và
triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị về
Chiến lược an ninh mạng quốc gia.
- Nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu đồng bộ, hiện đại
đáp ứng yêu cầu áp dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đáp
ứng yêu cầu chuyển đổi số, trước hết là hạ tầng năng lượng và giao thông. Bảo đảm
vững chắc an ninh năng lượng quốc gia.
Ba là, đổi mới trong quản trị phát triển nguồn nhân lực, thực hiện theo lộ trình
phổ cập kỹ năng số; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu
vực và thế giới, trong đó ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ.
- Rà soát tổng thể, thực hiện đổi mới nội dung và chương trình giáo dục, đào tạo
theo hướng phát triển năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi
trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển; đưa vào chương trình giáo dục phổ
thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu.
Đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số; lấy đánh giá của
doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học trong lĩnh
19

vực công nghệ thông tin. Khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên
các nền tảng số.
- Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình giáo dục và đào tạo, tạo ra sản phẩm phục
vụ cho nền kinh tế số. Xây dựng một số trung tâm giáo dục, đào tạo xuất sắc về công
nghệ theo hình thức hợp tác công - tư. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến
khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Phát triển mạnh đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho chuyển đổi công
việc. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho người lao động khi tham gia đào tạo lại, đào
tạo nâng cao chuyên môn và kỹ năng để chuyển đổi công việc.
- Hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam. Thực hiện theo lộ trình phổ
cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người
dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, xây dựng văn hoá số trong
cộng đồng.
Bốn là, tạo lập niềm tin vào tiến trình chuyển đổi số, hoạt động trên môi trường
số thông qua việc hình thành văn hóa số, bảo vệ các giá trị đạo đức căn bản và bảo
đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân bao gồm:
- Nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng các bộ quy tắc
ứng xử, tạo lập niềm tin trong môi trường số, hình thành văn hóa số gắn liền với bảo
vệ các giá trị đạo đức căn bản của nhân loại và văn hóa truyền thống của Việt Nam;
- Xây dựng cơ chế hợp tác, đối thoại để giải quyết các vấn đề phát sinh; cơ chế
hợp tác giữa Nhà nước và các hội, hiệp hội nghề nghiệp và doanh nghiệp trong xây
dựng và thực thi chính sách;
- Xây dựng và triển khai hệ thống xác định, phát hiện thông tin vi phạm pháp luật
trên không gian mạng và kịp thời xử lý, gỡ bỏ. Yêu cầu các tổ chức, doanh nghiệp
cung cấp hạ tầng và nền tảng số có sứ mệnh bảo đảm thông tin đáng tin cậy, an toàn,
lành mạnh, phát triển hệ thống nền tảng, hạ tầng, mạng lưới gắn với bảo đảm an toàn,
an ninh mạng, có khả năng tự sàng lọc, phát hiện tấn công, bảo vệ ở mức cơ bản;
- Xây dựng và triển khai hệ thống đánh giá tín nhiệm số đối với hệ thống thông
tin của các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trực tuyến để đánh giá và công bố
công khai mức độ an toàn, tin cậy;
20

- Thúc đẩy hoạt động bảo hiểm rủi ro cho chuyển đổi số, an toàn, an ninh mạng
và giao dịch trên không gian mạng;
- Xây dựng và triển khai hệ thống giám sát, cảnh báo sớm nguy cơ, điều phối ứng
cứu sự cố mất an toàn, an ninh mạng cho các cơ quan, tổ chức tại Việt Nam, giúp bảo
vệ quyền lợi chính đáng của cả người sử dụng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trước
những rủi ro và khi xảy ra sự cố.
Năm là, xử lý hài hòa quan hệ nhà nước - thị trường - xã hội trong quản trị quốc
gia. Qua đó không chỉ phát huy vai trò chủ thể nhà nước mà các chủ thể khác cũng
phát huy tích cực vai trò của mình trong tham gia quản trị quốc gia, nhất là sự tham gia
của người dân.
Sáu là, cần có những đột phá về quản lý phát triển công nghệ và phát triển thị
trường khoa học và công nghệ. Nhà nước cần có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội
để tư nhân tham gia phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, từ đó chuyển
từ nhập khẩu sang sáng tạo và làm chủ công nghệ nguồn, nhất là công nghệ thông tin,
đưa khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng.
III. KẾT LUẬN
Trước hết, Chính phủ phải tự đổi mới, chuyển đổi để trở thành một Chính
phủ của thời đại 4.0, có đủ năng lực quản trị phát triển quốc gia trong thời đại
số. Đồng thời, các cấp, các ngành và toàn xã hội cần có những thay đổi từ nhận
thức đến hành động để phát huy được những thuận lợi do việc ứng dụng công
nghệ thông tin, công nghệ số mang lại và đáp ứng được những thách thức của
thời đại kinh tế số. Với quyết tâm chính trị, thống nhất quan điểm “hành động
nhanh, kết quả lớn, làm đâu chắc đấy”, “nghĩ lớn, nghĩ tổng thể nhưng bắt đầu
từ những việc nhỏ nhất nhưng có hiệu quả lớn”, Chính phủ đã giao Văn phòng
Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải
pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2018-2020, định hướng
đến năm 2025, xác định rõ mục tiêu, vai trò, trách nhiệm, lộ trình cụ thể và thiết
lập hệ thống chỉ số giám sát hiệu quả thực thi, tránh tình trạng làm hình thức mà
không bảo đảm yêu cầu.
21

Nếu có lộ trình và hướng đi đúng đắn, công nghệ “Make in Viet Nam” sẽ
vươn tầm thế giới và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn đóng góp lớn vào
GDP quốc gia. Chuyển đổi số và “Make in Viet Nam” sẽ là con đường đúng đắn
và bền vững nhất để nâng tầm và đưa sản phẩm “Make in Viet Nam” tiếp cận
với các thị trường ngoài nước. Việt Nam làm chủ công nghệ, sáng tạo công
nghệ, dựa trên công nghệ mở, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế tập trung giải quyết
bài toán Việt Nam và từ đó vươn ra thế giới.
Trong công cuộc chuyển đổi số, báo chí và truyền thông đóng vai trò quan
trọng. Sứ mệnh của báo chí, truyền thông là tăng cường công tác bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc; chủ động, tích
cực đấu tranh phản bác thông tin xấu độc, làm sạch không gian mạng; phản ánh
trung thực dòng chảy chính của xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội, đồng thời lan
tỏa năng lượng tích cực, xây dựng niềm tin xã hội và tạo nên khát vọng về một
Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Mỗi quốc gia muốn phát triển bứt phá vươn
lên đều phải khơi dậy được sức mạnh tinh thần dân tộc đó.
Với sự quyết tâm, đồng lòng, với sức mạnh truyền thống, văn hoá và trí tuệ
Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng công cuộc đổi mới phương thức, nâng cao
hiệu quả quản trị nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số sẽ đạt được các mục
tiêu đặt ra, góp phần đưa đất nước tiến lên trong cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư để phát triển một Việt Nam hùng cường, vững mạnh./.
22

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính
trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư;
[2] Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Chính
phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử
giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025;
[3] Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 phê duyệt
chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030.
[4] Quyết định số 1726/QĐ-BTTTT ngày 12 tháng 10 năm 2020 của
Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Đề án “Xác định Bộ chỉ số đánh
giá chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của quốc gia”.

You might also like