You are on page 1of 9

Phần I: Kiến thức chung

Câu 1:

Anh/Chị hãy phân tích các trụ cột quan trọng của Chính phủ số?

Câu 2:

Anh/chị hãy nêu tình hình thực tiễn, khó khăn, thách thức chuyển đổi số tại địa
phương? Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm triển khai thực hiện hiệu quả
chuyển đổi số tại địa phương?

Phần II: Kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp chuyên ngành

Câu 1:

Anh/chị hãy trình bày chiến lược cơ bản để xử lý rủi ro trong quản lý rủi ro hệ
thống thông tin? Liên hệ vận dụng trong cơ quan anh/chị đang công tác?

Câu 2:

Hãy thiết lập cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin mà cơ quan anh/chị đang áp dụng
và đánh giá các rủi ro, nguy cơ, điểm yếu trong cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
đó?
Khái niệm Chính phủ số là vấn đề mới được đặt ra nghiên cứu trong vài năm gần đây
nên còn một số cách tiếp cận khác nhau của một số tổ chức quốc tế và một số quốc gia
trên thế giới về khái niệm này. Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) lần
đầu tiên đưa ra khuyến nghị về các chiến lược Chính phủ số đã đưa ra định nghĩa về
Chính phủ số như sau: “Chính phủ số (Digital Government) là việc sử dụng các công
nghệ số, như một phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa Chính phủ để tạo ra
các giá trị công. Quá trình này dựa trên một hệ sinh thái Chính phủ số bao gồm các tác
nhân liên quan đến Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã
hội và người dân, thúc đẩy sự tạo ra và truy cập dữ liệu, dịch vụ và nội dung thông qua
sự tương tác với Chính phủ”1. Theo cách tiếp cận này, OECD đã phân biệt rõ giữa khái
niệm Chính phủ điện tử (nơi công nghệ được ứng dụng để cải tiến hiệu quả các quá
trình hiện hữu) và khái niệm Chính phủ số (nơi các dịch vụ được hình thành ý tưởng và
cung cấp theo những cách đổi mới và sáng tạo nhờ có sự hỗ trợ của các công nghệ
hiện đại). Theo một cách tiếp cận khác của Ngân hàng thế giới (World Bank), khái niệm
Chính phủ số được hiểu như sau: "Chính phủ số là việc các cơ quan Chính phủ sử
dụng một cách có hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông để thực hiện quan hệ
với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó giao dịch của các cơ quan
Chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải thiện, nâng cao chất lượng. Lợi ích
thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần
vào sự tăng trưởng và giảm chi phí".

Ở Việt Nam, theo cách tiếp cận trong cuốn tài liệu “Cẩm nang chuyển đổi số” của Bộ
Thông tin và Truyền thông, khái niệm Chính phủ số được hiểu như sau: “Chính phủ số
là Chính phủ đưa toàn bộ hoạt động của mình lên môi trường số, không chỉ là nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động, mà còn đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi cách thức
cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ số và dữ liệu, cho phép doanh nghiệp cùng tham
gia vào quá trình cung cấp dịch vụ. Hay nói một cách khác, đây là quá trình chuyển đổi
số của chính phủ”2. Theo cách tiếp cận này, cuốn tài liệu này đã chỉ ra những điểm
khác biệt giữa khái niệm Chính phủ điện tử và Chính phủ số.

Từ khái niệm trên cho thấy, Chính phủ số không đồng nhất với Chính phủ điện tử.
Chính phủ số có mối liên hệ trực tiếp kế thừa, bắt đầu từ Chính phủ điện tử (tức đã bao
hàm Chính phủ điện tử), nhưng cơ bản có những điểm khác biệt về cách tiếp cận, cách
triển khai mới nhờ vào sự phát triển của công nghệ số, thể hiện một sự thay đổi phát
triển cao hơn Chính phủ điện tử. Cụ thể, Chính phủ số có những đặc điểm khác biệt so
với Chính phủ điện tử như sau:

Thứ nhất, có sự đổi mới về mục tiêu và phương thức cung ứng dịch vụ công của Chính
phủ. Trước hết, trong xây dựng Chính phủ số có sự chuyển đổi về tư duy quản lý, từ
việc chính quyền cung cấp dịch vụ công để phục vụ sự quản lý nhà nước là chính sang
mục tiêu chính quyền cung cấp dịch vụ công mang tính nền tảng, để kiến tạo sự phát
triển cho xã hội là chính. Đồng thời, cách thức triển khai cung ứng dịch vụ công trong
Chính phủ số cũng có sự thay đổi, từ việc triển khai các dịch vụ công trực tuyến theo
từng hệ thống riêng lẻ đến việc triển khai toàn bộ các dịch vụ thông qua một nền tảng
(dịch vụ số).

Thứ hai, có sự đổi mới về quy trình nghiệp vụ và thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động
của chính phủ số. Chính phủ số chuyển mọi hoạt động của Chính phủ lên môi trường
số, hướng đến đổi mới về quy trình nghiệp vụ từ nhấn mạnh cải cách thủ tục hành
chính sang nhấn mạnh thay đổi mô hình quản trị, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ,
nhanh chóng cung cấp dịch vụ công mới. Đồng thời, có đổi mới về thước đo đánh giá
hiệu quả trong Chính phủ số. Chẳng hạn, một trong những thước đo chính của Chính
phủ điện tử là số lượng dịch vụ hành chính công trực tuyến; còn một trong những
thước đo chính của Chính phủ số là số lượng dịch vụ hành chính công giảm đi, số
lượng dịch vụ công mới, mang tính sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên, nhờ công nghệ số
và dữ liệu.

Thứ ba, Chính phủ số sử dụng dữ liệu là trung tâm. Khác biệt cốt lõi của Chính phủ số
là hoạt động dựa trên dữ liệu, sử dụng dữ liệu để ra quyết định, coi dữ liệu là một tài
nguyên mới, đó là chuyển đổi về cách thức, ra quyết định của cơ quan chính quyền
dựa trên báo cáo bản giấy sang dữ liệu phân tích định lượng và tổng hợp từ nhiều
nguồn dữ liệu khác nhau, giúp cho việc ra quyết định và quản lý xã hội hiệu quả hơn,
dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia. Ví dụ, quá trình ra quyết định phân luồng, cho phép
thông quan hàng hóa ở cửa khẩu được hỗ trợ bởi việc tự động tổng hợp, phân tích dữ
liệu liên quan (khai báo điện tử, truy xuất dữ liệu lịch sử…) đã rút thời gian xử lý từ
nhiều giờ xuống chỉ còn vài giây.

Thứ tư, Chính phủ số cho phép sự tham gia nhiều hơn của người dân, của doanh
nghiệp. Trong Chính phủ số có sự chuyển đổi về cách thức tương tác giữa người dân
và cơ quan chính quyền, từ việc người dân chỉ thụ động nhận kết quả đến việc người
dân có thể tham gia vào việc làm cho chất lượng dịch vụ trở nên tốt hơn, từ việc doanh
nghiệp chỉ tham gia vào thiết lập các hệ thống kỹ thuật công nghệ để cung cấp dịch vụ
đến việc doanh nghiệp có thể tham gia cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng cho người dân
trên cơ sở dữ liệu mở của chính quyền. Nghĩa là, trong sự chuyển đổi này, Chính phủ
số không chỉ cung cấp dịch vụ công, mà còn trở thành nhà cung cấp nền tảng lớn cho
phép bên thứ 3 kết nối, ví dụ, dữ liệu mở hoặc các hệ thống phân tích dữ liệu, phục vụ
phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ năm, Chính phủ số hướng đến phát triển kỹ năng số của các nhân viên. Chính phủ
số hướng đến sự chuyển đổi về kỹ năng số của từng cán bộ, công chức, viên chức
trong cơ quan chính quyền từ việc chỉ đơn thuần là kỹ năng sử dụng công nghệ sang
bổ sung thêm các kỹ năng về phân tích và xử lý dữ liệu và kỹ năng giao tiếp hiệu quả
với các bên để thích ứng với sự chuyển đổi từ Chính quyền điện tử sang Chính quyền
số.

Thứ sáu, Chính phủ số hướng đến ứng dụng công nghệ mới. Chính phủ điện tử chủ
yếu dùng công nghệ thông tin như từ công nghệ Web và máy tính, còn Chính phủ số là
dùng công nghệ số, nhất là công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 với điện toán
đám mây, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo... Đó là sự chuyển đổi về cách
thức ứng dụng công nghệ trong cơ quan nhà nước khi xuất hiện hàng loạt công nghệ
mới, chuyển từ việc ứng dụng công nghệ để đáp ứng các yêu cầu nghiệp vụ sang ứng
dụng công nghệ để phục vụ và thích ứng kịp với sự phát triển nhanh và sáng tạo của
nền kinh tế số, sự bùng nổ thông tin và sự phát triển của xã hội số.

Việc phân biệt các đặc điểm về phát triển của Chính phủ điện tử và Chính phủ số,
không có nghĩa là phải làm tuần tự, làm xong Chính phủ điện tử rồi mới làm Chính phủ
số. Thực tế là trong Chính phủ điện tử đã có một số yếu tố của Chính phủ số và ngược
lại trong Chính phủ số bao giờ cũng tồn tại những yếu tố của Chính phủ điện tử. Do đó,
cần thiết phải nhận thức rằng để có thể xây dựng được Chính phủ số thì cần phải làm
nhanh, làm hiệu quả Chính phủ điện tử, có như thế mới tạo được nền tảng, thúc đẩy
được quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ số tại Việt Nam.

Nội dung của xây dựng Chính phủ số

Công tác chỉ đạo điều hành và xây dựng cơ chế chính sách về Chính phủ số
Chuyển đổi số là một trong những chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta
nhằm tận dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phát
triển. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chính
phủ ban hành Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính
trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020
về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030. Nội dung trọng tâm của chuyển đổi số quốc gia tập trung vào ba trụ cột
chính là phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 về phê duyệt Chiến lược
phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng
đến năm 2030. Đồng thời, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật từng bước thể chế hoá những lĩnh vực nền tảng của
Chính quyền số. Cụ thể như Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 của Chính
phủ về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; Nghị định 47/2020/NĐ-CP
ngày 9/4/2020 của Chính phủ quy định về các hoạt động quản lý, kết nối và chia sẻ dữ
liệu số của cơ quan nhà nước,… Điểm nổi bật trong các văn bản này là đã thể chế hoá
khẳng định tầm quan trọng của dữ liệu số là yếu tố nền tảng trong quá trình xây dựng
Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.

Xây dựng hạ tầng số

Hạ tầng số là yếu tố cơ bản của Chính quyền số, “Hạ tầng số không chỉ bao gồm viễn
thông và Internet, mà là một hạ tầng phức hợp và toàn diện bao gồm kết nối, thiết bị,
dữ liệu, ứng dụng và nghiên cứu phát triển công nghệ. Các thành phần này sẽ hỗ trợ
tạo điều kiện cho nhau để phát triển đồng bộ” 3. Tại báo cáo của Liên hợp quốc năm
2019 về Kinh tế số cũng mô tả các thành phần của hạ tầng số như sau: “Các thành
phần của hạ tầng số bao gồm: (1) Cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông
(thành phần chính phục vụ kết nối của hạ tầng số); (2) Hạ tầng dữ liệu (các Trung tâm
dữ liệu, cáp ngầm và hạ tầng đám mây); (3) Các nền tảng số; (4) Các ứng dụng và thiết
bị số”4. Hạ tầng số là yếu tố cốt lõi để đảm bảo vận hành Chính phủ số và Chính quyền
số. Do đó, các yếu tố của hạ tầng số cần phải được quan tâm đầu tư xây dựng đồng
bộ, đảm bảo đúng tiêu chuẩn chất lượng và đủ mạnh để vận hành hoạt động của Chính
phủ số. Trong đó, trước hết cần đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống hạ tầng viễn
thông như hệ thống mạng cáp quang băng rộng trong các cơ quan hành chính nhà
nước và các hộ gia đình; phát triển hệ thống Internet không dây nhằm phủ sóng thông
tin di động và thông tin di động băng rộng như mạng 3G, 4G, từng bước phát triển
mạng 5G, mạng Wifi công cộng,... nhằm đảm bảo đường truyền mạnh kết nối các cơ
quan chính quyền với các tổ chức, doanh nghiệp và người dân hiệu quả. Đồng thời,
cần phát triển hạ tầng mạng truyền số liệu chuyên dùng để kết nối giữa các hệ thống
thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan nhà nước, được đảm bảo thông suốt, an toàn,
bảo mật. Xây dựng Trung tâm dữ liệu đảm bảo duy trì ổn định, phục vụ cho việc vận
hành các hệ thống dùng chung của cả nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng
khẳng định xây dựng hạ tầng số là nội dung trọng tâm của xây dựng Chính phủ số “Đẩy
mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ
tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng
bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ
liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà
ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân” 5.

Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và các nền tảng ứng dụng của Chính quyền số
Chính phủ số là sự chuyển đổi từ một chính quyền cung cấp các dịch vụ được hỗ trợ
bởi dữ liệu thành một chính quyền phụ thuộc vào chính dữ liệu của mình và chính
quyền không chỉ sử dụng dữ liệu để cung cấp các dịch vụ sẵn có mà còn tạo ra các
dịch vụ mới. Điều đó có nghĩa là Chính phủ và các dịch vụ của Chính phủ ngày càng
phụ thuộc nhiều hơn vào dữ liệu. Do đó, cơ sở dữ liệu được xác định là nguồn lực, là
tài nguyên số quan trọng như dầu mỏ của thời kỳ chuyển đổi số. Tuy nhiên, nguồn lực
này không có sẵn nên việc xây dựng cơ sở dữ liệu trở thành một trong những yêu cầu
và nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng Chính phủ số.

Việc xây dựng cơ sở dữ liệu trước hết cần tập trung đó là các cơ sở dữ liệu quốc gia
đang triển khai thực hiện theo từng ngành, lĩnh vực trong toàn hệ thống các cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương, bởi đây chính là các dữ liệu chủ (master
data) để các cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà nước tham chiếu tạo sự nhất quán và
đồng bộ trong toàn hệ thống các cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà nước. Trong đó bao
gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng như cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư; cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp, cơ sở dữ liệu quốc gia thống kê tổng hợp về dân số; cơ sở dữ liệu quốc gia về
tài chính; cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm. Các loại cơ sở dữ liệu này đã được các
bộ, ngành được giao chủ trì triển khai thực hiện đến nay cơ bản đã hoàn thành. Đồng
thời, cần phải chú ý đến vấn đề kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống
thông tin là đặc biệt quan trọng. Việc này giúp Chính phủ số trao đổi và sử dụng thông
tin một cách đồng bộ, nâng cao chất lượng dịch vụ công cung cấp cho người dân và
doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý và điều hành, giúp hỗ trợ các quyết
định dựa trên việc sử dụng thông tin kịp thời, đầy đủ và nhất quán.

Cùng với việc xây dựng các cơ sở dữ liệu, việc phát triển các nền tảng ứng dụng để
khai thác, chia sẽ dữ liệu cũng rất quan trọng của Chính phủ số như: xây dựng Nền
tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu thành phố (LGSP); Cổng dịch vụ công quốc gia; nền tảng
ứng dụng về họp trực tuyến, Trung tâm thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ số; nền tảng ứng dụng di động du lịch thông minh, ứng dụng di động cho
công dân được triển khai trên Android và trên IOS; nền tảng ứng dụng tích hợp gồm tra
cứu thông tin chuyên ngành, dịch vụ công, một số dịch vụ tiện ích khác.

Hoàn thiện tổ chức bộ máy vận hành Chính phủ số

Xây dựng Chính phủ số là sự chuyển đổi số từ môi trường thực lên môi trường số. Đây
là sự chuyển đổi có tính chất căn bản, toàn diện từ phương thức cung ứng dịch vụ
công đến mô hình quản trị của Chính phủ. Do vậy, để đáp ứng được yêu cầu chuyển
đổi này và có thể vận hành được Chính phủ số, cần phải đổi mới toàn diện tổ chức bộ
máy của Chính phủ. Trước hết, cần đổi mới quy trình nghiệp vụ như phương thức giải
quyết thủ tục hành chính, phương thức ban hành các quyết định, xây dựng và trao đổi
các báo cáo và các văn bản hành chính,… từ trực tiếp sang trực tuyến thông qua đẩy
mạnh ứng dụng cơ sở dữ liệu và các công nghệ số. Tiếp đến cần đổi mới cơ cấu tổ
chức bộ máy của chính phủ theo hướng tinh gọn, linh hoạt phù hợp với đổi mới quy
trình nghiệp vụ. Đặc biệt, cần phát triển đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng đổi mới
tư duy, nhận thức và nâng cao năng lực ứng dụng các công nghệ, các nền tảng số phù
hợp với yêu cầu vận hành Chính phủ số. Từ việc nhận thức rõ phương châm muốn xây
dựng thành công Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số cần có nguồn nhân lực số,
cần thực hiện nhiều giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực ứng dụng công
nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ, công chức. Đặc biệt, cần đảm bảo nguồn nhân lực
trực tiếp phụ trách tham mưu chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số.

Đảm bảo an toàn, an ninh mạng trong vận hành Chính quyền số
Trong xây dựng Chính phủ số, vấn đề an toàn, an ninh mạng là vấn đề sống còn.
Những nguy cơ về mất an toàn, an ninh mạng có thể xảy ra đối với mọi cá nhân, tổ
chức có kết nối vào giao dịch trên mạng. Việc bảo đảm an toàn, an ninh mạng cho các
hệ thống thông tin của Chính phủ số còn đang ở tình thế bị động, chưa được quan tâm
đúng mức. Nguy cơ về mất an toàn, an ninh mạng này có thể làm thiệt hại các tài
nguyên dữ liệu số, giảm hiệu quả tương tác, giao dịch giữa các cơ quan của Chính phủ
số. Đồng thời, việc tương tác giữa người dân, doanh nghiệp đối với Chính phủ thông
qua hình thức trực tuyến còn có những hạn chế, đặc biệt là trong giải quyết các thủ tục
hành chính thông qua các dịch vụ công trực tuyến, trong đó có một phần nguyên nhân
cơ bản là thói quen và tâm lý sợ chưa đảm bảo an toàn thông tin thông qua các giao
dịch trực tuyến. Do đó, để phát triển Chính phủ số, việc nghiên cứu, triển khai áp dụng
các giải pháp để đảm bảo an toàn, an ninh mạng là nhiệm vụ rất quan trọng. Các giải
pháp đảm bảo an toàn, an ninh mạng, trong đó trước hết cần phải đảm bảo an toàn đối
với hệ thống thông tin, dữ liệu của Chính phủ; an toàn, bảo mật thông tin trong các giao
dịch trực tuyến giữa người dân, tổ chức, doanh nghiệp với Chính phủ.

Sự cần thiết phải xây dựng Chính phủ số

Xây dựng Chính phủ số nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra một thời đại mới trong tiến trình phát
triển của nhân loại - thời đại số, tác động ngày càng mạnh mẽ lên mọi mặt hoạt động
của xã hội, trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia tiến hành chuyển đổi số để phát
triển. Để thích ứng với tình hình mới và tận dụng cơ hội mà cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư mang lại, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày
27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến
năm 2030,… trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi
số. Việc xây dựng Chính phủ số - một trong ba trọng tâm của chuyển đổi số quốc gia sẽ
giúp Việt Nam tận dụng được những cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, tạo
ra sự bứt phá để thu hẹp khoảng cách, giúp chúng ta mau chóng tiến kịp với các nước
phát triển trên thế giới.

Xây dựng Chính quyền số góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Chính phủ

Một là, Chính quyền số góp phần nâng cao năng lực quản lý điều hành và xử lý công
việc của Chính phủ hiệu quả hơn. Chính phủ với chức năng chính là quản lý hành
chính nhà nước, hoạch định và tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách,
pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn; ban hành các quyết định quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực để kịp thời giải quyết các vấn đề đặt ra ở đất nước. Chính phủ số hoạt
động dựa trên dữ liệu, sử dụng dữ liệu để ra quyết định, cùng với việc sử dụng các
công nghệ mới của cuộc Cách mạng 4.0 như điện toán đám mây, Internet vạn vật, trí
tuệ nhân tạo, đặc biệt là các trung tâm xử lý dữ liệu giúp cho việc ban hành quyết định
quản lý và xử lý công việc của các cơ quan hành chính nhanh hơn, kịp thời và hiệu quả
hơn. Đồng thời, Chính phủ số cho phép thực hiện việc giao ban điện tử, họp trực tuyến,
hệ thống thông tin báo cáo trực tuyến,… nên giảm được tối đa việc sử dụng giấy tờ
hành chính, đi lại tốn kém chi phí. Với những tiện ích đó, chi phí hoạt động của Chính
phủ sẽ được giảm đi đáng kể, trong khi đó năng lực quản lý của Chính phủ được nâng
lên. Chẳng hạn, khi điện tử hóa các văn bản, báo cáo, ước tính tiết kiệm được cho
ngân sách của Nhà nước hàng chục tỷ đồng mỗi năm.
Hai là, Chính quyền số góp phần nâng cao hiệu quả cung ứng các dịch vụ công. Chính
phủ số hướng tới đảm bảo cung ứng 100 % dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 4 (các
thủ tục hành chính sẽ hoàn toàn được thực hiện qua môi trường mạng). Các dịch vụ
công của cơ quan nhà nước sẽ được cung cấp tự động 24/24 phục vụ người dân, tổ
chức và doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính. Do đó, Chính phủ số được
xác định là một giải pháp quan trọng đối với cải cách hành chính công, tạo thuận lợi,
tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí rất lớn cho cả các cơ quan hành chính, người dân,
tổ chức và doanh nghiệp.

Ba là, Chính phủ số có vai trò đầu tàu dẫn dắt xây dựng kinh tế số, xã hội số, thúc đẩy
phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Chuyển đổi số quốc gia diễn ra với tốc độ
nhanh chóng theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Trong công cuộc
chuyển đổi này, xây dựng Chính phủ số là trọng tâm, có vai trò dẫn dắt xây dựng kinh
tế số và xã hội số nên phải đi trước nhằm định hướng và tạo không gian phát triển cho
kinh tế số, xã hội số. Qua đó, thúc đẩy chuyển đổi số sâu rộng trên tất cả các ngành,
lĩnh vực của đời sống xã hội (từ kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh,
…) góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo
hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, tăng khả
năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công của người dân. Đồng thời, xây dựng
Chính phủ số còn góp phần mở ra những cơ hội mới cho người dân và doanh nghiệp
trong phát triển kinh tế. Chẳng hạn, Chính phủ số mở ra nhiều cơ hội kinh doanh mới
trên các lĩnh vực thông tin, kỹ thuật công nghệ, dịch vụ phục vụ cho xây dựng Chính
quyền số, kinh tế số và xã hội số. Thực hiện mục tiêu kép vừa phát triển Chính phủ số
vừa phát triển doanh nghiệp công nghệ số, coi Chính phủ số là thị trường phát triển
công nghệ.

Bốn là, Chính phủ số đảm bảo sự minh bạch hơn, hạn chế tiêu cực trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước . Minh bạch hóa nền hành chính quốc gia là đặc tính của
nền hành chính hiện đại nên cải cách hành chính nhà nước hướng tới mục tiêu đó.
Chính phủ số góp phần đem lại sự minh bạch cho hệ thống chính quyền thông qua việc
trao cho công dân quyền truy cập dữ liệu thông qua hệ thống dữ liệu mở của Chính phủ
và các cơ quan hành chính nhà nước của Thành phố. Với khối lượng thông tin công
khai, minh bạch của Chính quyền số, người dân có điều kiện thực hiện tốt hơn quyền
dân chủ, đóng góp ý kiến xây dựng và triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật; đồng thời, có thể tham gia giám sát, phản biện, tố cáo các hành vi sai trái của đội
ngũ cán bộ, công chức, qua đó sẽ hạn chế các hành vi phiền hà, sách nhiễu và các
việc làm tiêu cực của cán bộ, công chức, nhất là hành vi tham nhũng, lãng phí nhằm
xây dựng các cơ quan hành chính nhà nước đảm bảo liêm chính và hoạt động hiệu lực,
hiệu quả hơn. Khi Nhân dân nắm được và hiểu rõ về các chủ trương, chính sách và
các hoạt động của chính quyền, họ sẽ chủ động và tích cực hơn trong việc thực hiện
quyền giám sát, phản biện của mình. Hơn nữa, phương thức để Nhân dân tham gia
vào hoạt động của các cơ quan chính quyền cũng rất thuận lợi qua môi trường số.
Thông qua đó khuyến khích người dân tham gia nhiều hơn vào hoạt động của cơ quan
nhà nước nhằm phát huy được trí tuệ và sức mạnh của Nhân dân.

Về điểm yếu:
– Việt Nam vẫn là nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, nên nguồn lực đầu tư hạn chế;
– Thể chế, khung pháp lý, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế, doanh nghiệp chưa đáp ứng vai
trò kiến tạo cho phát triển kinh tế số;
– Đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới công nghệ, sáng tạo chưa cao;
– Đào tạo nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
chưa đáp ứng nhu cầu;
– Tỷ lệ doanh nghiệp, người dân hiểu biết, sử dụng ICT còn thấp.
– Những mối quan hệ mới chưa có tiền lệ phát sinh, những mối quan hệ truyền thống có thể bị gián
đoạn hoặc chấm dứt, tổ chức, doanh nghiệp có thể bị phá sản hoặc bị thay thế;
– Nhân lực chuyển đổi số thiếu hụt, từ nhà quản lý đến chuyên gia, kỹ sư, công nhân công nghệ số.
Người dân chưa có đủ kỹ năng số cần thiết. Nguy cơ mất việc làm khi người lao động không được
đào tạo lại, đào tạo nâng cao kịp thời để bắt kịp các yêu cầu về kỹ năng mới;
– An toàn, an ninh mạng, dữ liệu, dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư cá nhân của con người trên không
gian mạng bị đe dọa.
Như vậy, chuyển đổi số mở ra cơ hội chưa từng có cho Việt Nam. Đây là một sự thay đổi mang tính
toàn diện, đến từng doanh nghiệp, từng tổ chức, đến từng người dân, đến mọi lĩnh vực, một sự
chuyển dịch mang tính lịch sử. Việt Nam muốn thay đổi thứ hạng trên thế giới thì phải đi nhanh và đi
đầu để có lợi thế cạnh tranh.
Chuyển đổi số không cần nhiều cơ sở vật chất mà cái cần chính là thay đổi tư duy, để đi nhanh và
đi đầu, tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn lực, huy động sức mạnh toàn dân trong thực hiện
chuyển đổi số, thay đổi thứ hạng quốc gia trên thế giới.
Chuyển đổi số là một quá trình lâu dài, phức tạp, thực hiện trong nhiều năm, bao gồm nhiều bước. Vì
vậy, cần có tầm nhìn xa nhưng chia mục tiêu và lộ trình thành nhiều phần nhỏ, bước nhỏ để thực hiện.
Không nên phức tạp hóa, trìu tượng hóa, nhưng cũng không được đơn giản hóa chuyển đổi số, các yếu
tố tác động đến chuyển đổi số có sự liên quan mật thiết và tác động đen xen, phức tạp.

Ở cấp độ địa phương, chuyển đổi số là chuyển đổi sang chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa
bàn của địa phương đó. Địa phương chuyển đổi số thành công sẽ đóng góp vào thành công chung của
chuyển đổi số quốc gia. Do vậy, chuyển đổi số là nhiệm vụ cần sự vào cuộc quyết tâm của toàn hệ thống
chính trị, triển khai xuyên suốt, đồng bộ từ cấp Trung ương đến địa phương. Trong quá trình chỉ đạo,
điều hành thực hiện chuyển đổi số, để thành công, các cấp chính quyền, các cơ quan, đơn vị cần nhận
thức đầy đủ và tập trung giải quyết những vấn đề sau:

Thứ nhất, chuyển đổi nhận thức (nhận thức số) . Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số,
muốn chuyển đổi số trước hết phải chuyển đổi nhận thức. Tham gia vào tiến trình chuyển đổi số, mỗi
cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp cần cảm nhận, thấy rõ, nhận thức rõ về vai
trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyển đổi số trước khi có hành động cụ thể để thực hiện. Chuyển đổi
số không phải là một khái niệm trìu tượng, xa vời, không thiết thực với bản thân. Trên thực tế chúng ta
đang sống trong thời kỳ mà chuyển đổi số là xu thế tất yếu; nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân
đã và đang tham gia vào quá trình chuyển đổi số trên các lĩnh vực quản lý, giáo dục, y tế, kinh tế…
nhưng vẫn chưa ý thức được những gì đang diễn ra chính là biểu hiện của thực hiện chuyển đổi số và
mình đã và đang làm gì ở đâu, trong quá trình chuyển đổi số. Tuy nhiên, giữa tham gia quá trình chuyển
đối số và tiến tới đạt được các mục tiêu Chương trình chuyển đổi số đặt ra là quá trình lâu dài, việc nâng
cao nhận thức, chuyển đổi nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, mỗi người dân,
doanh nghiệp về chuyển đổi số vẫn cần triển khai ngay những giải pháp cụ thể. Chìa khóa để đẩy nhanh
sự chuyển đổi nhận thức nằm ở trong “nhận thức”, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu.
Thứ hai, phát triển hạ tầng số, nền tảng số . Tập trung phát triển hạ tầng số, nền tảng số là nhiệm vụ
hàng đầu, là giải pháp đột phá thúc đẩy sự phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số đẩy nhanh
tiến trình chuyển đổi số. Các thành phần của hạ tầng số phục vụ chính phủ số liên quan và tác động lẫn
nhau, như kết nối liên thông phải đi cùng chia sẻ dữ liệu và phải được bảo đảm bởi pháp luật. Công tác
xây dựng hạ tầng số là việc cần kiên trì, sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp và
người dân từ trung ương đến địa phương.
Trong quá trình triển khai thực hiện chuyển đổi số ở các địa phương, hạ tầng số phải được xem là yếu tố
nền tảng cần được quan tâm, ưu tiên đầu tư sớm đảm bảo sự đồng bộ, hiện đại. Kế hoạch xây dựng hạ
tầng số phục vụ chuyển đổi số ở từng địa  phương phải trên cơ sở kế thừa, phát triển từ các nền tảng hạ
tầng sẵn có; xác định rõ mục tiêu, ưu tiên bố trí nguồn lực để tập trung thực hiện đồng bộ nền tảng hạ
tầng công nghệ thông tin trọng yếu, như: hạ tầng băng thông rộng, hạ tầng Internet vạn vật (IoT); hạ
tầng điện toán đám mây; ứng dụng địa chỉ giao thức Internet thế hệ mới (IPv6) Trung tâm tích hợp dữ
liệu, Trung tâm điều hành thông minh, Trung tâm giám sát an toàn thông tin; nền tảng tích hợp, chia sẻ
dữ liệu cấp tỉnh; Hệ thống Trung tâm giám sát, điều hành an toàn, an ninh mạng; nền tảng thanh toán
trực tuyến, di động…

Thứ ba, xây dựng, phát triển dữ liệu số . Yếu tố quan trọng đầu tiên của bất kỳ quá trình chuyển đổi số
nào chính là dữ liệu số. Nếu không có dữ liệu số, sẽ không thể xác định mô hình hoạt động số và tiến
hành chuyển đổi số. Để công cuộc chuyển đổi số thành công, mỗi địa phương trong quá trình triển khai
xây dựng dữ liệu phải có chiến lược cụ thể, phù hợp với chiến lược dữ liệu quốc gia, tuân thủ nguyên tắc
thu thập dữ liệu một lần (once-only) nghĩa là, khi dữ liệu đã được cơ quan nhà nước thu thập, quản lý và
chia sẻ thì cơ quan nhà nước sẽ không được yêu cầu người dân, doanh nghiệp cung cấp lại.
Quá trình triển khai, xây dựng, phát triển dữ liệu số bao gồm: xác định mục đích sử dụng dữ liệu, thu
thập nguồn dữ liệu, số hóa dữ liệu; triển khai kết nối liên thông dữ liệu từ các hệ thống, chuẩn hóa, tái
cấu trúc cơ sở dữ liệu đang hoạt động (trong và ngoài địa phương) thông qua các hệ thống, nền tảng
chia sẻ tích hợp dữ liệu của địa phương (LGSP), của quốc gia (NGSP); hình thành, xây dựng Kho dữ liệu
dùng chung của địa phương trên cơ sở vừa cung cấp dữ liệu phục vụ chuyển đổi số ở các lĩnh vực đang
triển khai, cũng như khai thác trực tiếp để phục chuyển đổi số ở các lĩnh vực mới.

Thứ tư, phát triển ứng dụng số hóa (hoạt động số) . Sự biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển đổi số ở
mỗi lĩnh vực chính là việc xác định mô hình chuyển đổi, lựa chọn các ứng dụng số (các phần mềm, dịch
vụ CNTT, công cụ hỗ trợ…) để tổ chức hoạt số dựa trên các yếu tố hạ tầng số, nền tảng số, nguồn dữ
liệu số, cơ sở pháp lý, đảm bảo an toàn, anh ninh thông tin, nguồn nhân lực…Việc phát triển ứng dụng
số - hoạt động số cần được quan tâm triển khai thực hiện trên cả 3 trụ cột: Chính quyền số, kinh tế số
và xã hội số. Trong đó, tập trung ưu tiên cho phát triển các ứng dụng số hóa trong hoạt động của chính
quyền để đẩy nhanh tiến trình xây dựng Chính quyền điện tử hướng tới Chính quyền số ở các địa
phương.
Ngoài những vấn đề cơ bản nêu trên, để công cuộc chuyển đổi số ở các địa phương thành công còn phụ
thuộc vào các yếu tố: Hoàn thiện cơ sở pháp lý, nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi số; đảm bảo an toàn
và an ninh thông tin; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, xây dựng, hình thành văn hóa số…

Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi số đang trở thành động lực lớn nhất tạo ra sự phát triển đột phá
trên các mặt quản lý, kinh tế, xã hội. Chuyển đổi số tạo ra sự thay đổi mang tính tổng thể và toàn diện
từ Chính phủ đến các địa phương, đến từng doanh nghiệp, từng tổ chức, người dân và trong mọi lĩnh
vực. Trên cơ sở nhận diện những vấn đề cơ bản, một số nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình chuyển
đối số. Mỗi địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần nhanh chóng hoạch định cho mình một
chiến lược và kế hoạch hành động thực hiện chuyển đổi số phù hợp. Người đứng đầu mỗi cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp hãy là người tư duy, lựa chọn định hướng, xác định mục tiêu, ra đề bài về chuyển
đổi số và quan trọng hơn là luôn đồng hành trên hành trình chuyển đổi số.

You might also like