Professional Documents
Culture Documents
Cacvan 1
Cacvan 1
1
HANOI MEDICAL UNIVERSITY
DEPARTMENT OF PLASTIC SURGERY
HANDBOOK OF PLASTIC
RECONSTRUCTIVE AESTHETIC SURGERY
(PART TWO – SKIN AND CONGENITAL MALFORMATION)
2
Chủ biên: GS. TS. Trần Thiết Sơn
3
4
LỜI GIỚI THIỆU
Phẫu thuật Tạo hình và Thẩm mỹ là một chuyên ngành được hình thành và phát
triển trong vài thập kỷ gần đây ở nước ta. Mặc dù vẫn được coi là một ngành non trẻ
trong nền y học Việt Nam, nhưng sự tiến bộ cả về chất lượng chuyên môn và số lượng
bác sĩ chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ cho thấy sự lớn mạnh của chuyên
khoa này. Bên cạnh các Phẫu thuật viên thuộc các chuyên ngành Ngoại khoa có làm về
Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, số lượng các bác sĩ chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình
Thẩm mỹ được đào tạo một cách có hệ thống ngày càng nhiều và đây cũng là hạt nhân
cho chuyên ngành này.
Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình của Trường Đại học Y Hà Nội được thành lập từ
năm 1991 và trở thành nơi đào tạo chủ yếu cho nhiều đối tượng thuộc chuyên khoa
Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cấp thiết của các cán bộ
ngành Y về kiến thức Phẫu thuật Tạo hình và Thẩm mỹ, năm tập sách “Các vấn đề cơ
bản trong Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ” được Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình biên
soạn và đây cũng là sách giáo khoa chính thức được sử dụng để giảng dạy cho các đối
tượng như Chuyên khoa định hướng, Bác sĩ nội trú, Thạc sĩ, Tiến sĩ, Bác sĩ Chuyên
khoa cấp 1 và cấp 2 thuộc chuyên ngành Phẫu thuật Tạo hình.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với độc giả và bạn đồng nghiệp tập sách này.
Chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết, chúng tôi mong nhận được
sự góp ý của quí độc giả để ngày càng hoàn thiện hơn.
5
6
LỜI NÓI ĐẦU
Tập một Đại cương Các vấn đề cơ bản trong Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ được
xuất bản trong thời gian vừa qua đã được bạn đọc đón nhận và có nhiều phản hồi đóng
góp tích cực nhằm nâng cao chất lượng của cuốn sách. Với mục đích cung cấp những
khái niệm cơ bản nhất cho các Bác sỹ Phẫu thuật Tạo hình hoặc các Bác sỹ chuyên
ngành Ngoại khoa thực hành Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ, cuốn sách này chỉ giới hạn
các kiến thức chung và không đi sâu vào các kỹ thuật chi tiết, điều này phù hợp với
trình độ và nhu cầu của các Bác sỹ bước đầu làm quen với chuyên ngành Phẫu thuật
Tạo hình Thẩm mỹ. Cuốn sách này cũng chứa đựng một phần lớn chương trình học tập
của lớp Định hướng chuyên khoa Phẫu thuật Tạo hình của Bộ môn. Từ cuốn sách tập 2
đến tập 5 trong bộ sách Các vấn đề cơ bản trong Phẫu thuật tạo hình Thẩm mỹ, nội
dung của mỗi tập sẽ được tập trung vào bệnh lý của từng vùng của cơ thể, đây là
chương trình học tập của các bác sỹ ở trình độ cao hơn như Chuyên khoa I, Cao học,
Nội trú và một phần chương trình của Bác sỹ Chuyên khoa II và Nghiên cứu sinh Phẫu
thuật Tạo hình.
Tập hai có chủ đề “Da và các dị tật bẩm sinh”, trong đó phần đầu cuốn sách giới
thiệu các bệnh lý liên quan đến da, một cơ quan lớn nhất của cơ thể, một hệ thống chức
năng phức tạp với nhiệm vụ che phủ và duy trì tính toàn vẹn của cơ thể con người. Các
bệnh lý ở da do các nguyên nhân như chấn thương, ung thư, bẩm sinh… đã là đối tượng
nghiên cứu từ lâu của các Bác sỹ Phẫu thuật Tạo hình và Thẩm mỹ. Hơn một nửa công
việc hàng ngày của các Bác sỹ Tạo hình Thẩm mỹ liên quan đến bệnh lý của cơ quan
này. Tính đặc thù của Phẫu thuật Tạo hình Da được khái quát trong tập này và sẽ được
tiếp tục đề cập một cách chi tiết ở những tập sau.
Phần tiếp theo của cuốn sách này giới thiệu một số bệnh lý dị tật bẩm sinh cần
đến sự can thiệp của Phẫu thuật Tạo hình. Những bệnh lý này bao gồm những bất
thường về hình thể từ sọ mặt, thân và chi thể. Đây là những bất thường có tính di
truyền hay bẩm sinh, thường dẫn tới những rối loạn nhất định về hình thể và chức
năng, ành hưởng đến đời sống tâm lý, sinh lý và xã hội của bệnh nhân. Những bệnh lý
này thực sự là vấn đề thách thức với các Bác sỹ Ngoại khoa nói chung và các Bác sỹ
Tạo hình nói riêng vì tính phức tạp của bệnh lý, kỹ năng phẫu thuật và sự hợp tác của
nhiều chuyên khoa khác nhau…
Chúng tôi không có ý định giới hạn phạm vi của Phẫu thuật tạo hình liên quan tới
bệnh lý da và dị tật bẩm sinh với các nội dung được nêu trong tập sách này. Và chắc
chắn với từng chủ đề cụ thể sẽ có những vấn đề cần được chỉnh sửa và bổ sung. Những
người tham gia biên soạn tập sách này rất mong nhận được nhiều đóng góp của bạn đọc
cả về hình thức của cuốn sách, chất lượng nội dung các bài viết, các thiếu sót trong quá
trình in ấn…
Trưởng Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình
GS.TS. TRẦN THIẾT SƠN
7
8
MỤC LỤC
9
30. Thiểu năng vòm hầu (Trần Thiết Sơn) 151
31. Tật nhỏ nửa mặt bẩm sinh (Trần Thiết Sơn) 156
32. Hội chứng lép nửa mặt Parry - Rhomberg (Phạm Thị Việt Dung) 161
33. Phân loại dị tật bẩm sinh vành tai (Trần Thiết Sơn) 165
34. Dị tật tai nhỏ (Trần Thiết Sơn) 169
35. Các dị tật vùng mi mắt (Trần Thiết Sơn) 172
36. Các dị dạng lồng ngực (Trần Thiết Sơn) 176
37. Hội chứng Poland (Trần Thiết Sơn) 181
38. Các dị tật bẩm sinh vú (Đỗ Đình Thuận) 184
39. Các dị tật bẩm sinh cơ quan sinh dục (Trần Đức Phấn) 190
40. Dị tật lỗ đái thấp (Trần Thiết Sơn) 195
41. Các dị tật bẩm sinh chi trên (Dương Mạnh Chiến) 199
42. Khe hở bàn tay (Dương Mạnh Chiến) 205
43. Dị tật thừa ngón tay (Dương Mạnh Chiến) 211
44. Dị tật thừa ngón tay cái (Dương Mạnh Chiến) 217
45. Dị tật dính ngón tay (Dương Mạnh Chiến) 222
46. Dị tật ngón tay ngắn (Dương Mạnh Chiến) 228
47. Dị tật ngón tay to (Dương Mạnh Chiến) 230
48. Dị tật ngón tay cái nhỏ (Dương Mạnh Chiến) 238
49. Hội chứng ngấn ối (Dương Mạnh Chiến) 240
50. Các dị tật bẩm sinh vùng bàn chân (Nguyễn Ngọc Hưng) 247
10
CONTENTS
1. Skin wounds
2. Burns sequels
3. Keloids and hypertrophic scarring
4. Radiation wounds
5. Benign cutaneous tumours
6. Congenital melanocytic nevi
7. Neurofibromatosis
8. Malignant cutaneous neoplasms
9. Basal cell carcinoma
10. Squamous cell carcinomas
11. Malignant melanoma
12. Mohs micrographic murgery
13. Laser in skin plastic surgery
14. Vascular anomalies
15. Hemangiomas
16. Capillary malformations
17. Veneous malformations
18. Lymphatic malformations
19. Arteriovenous malformations
20. Craniofacial defomyties
21. Craniofacial clefts
22. Craniosynostosis
23. Clefts lip and palate
24. Unilateral cleft lip
25. Secondary deformities of unilateral cleft lip
26. Bilateral cleft lip
27. Secondary deformities of bilateral cleft lip
28. Cleft palate
29. Palatal fistula
30. Velopharyngeal incompetence
31. Hemifacial microsomia
32. Parry Romberg's disease
33. Classifiacation of congenital auricular deformyties
34. Microtia
35. Congenital eyelid deformyties
36. Chest wall deformities
11
37. Poland’s Syndrome
38. Congenital breast malformations
39. Congenital genital malformations
40. Hypospadias
41. Congenital upper limb anomalies
42. Cleft hand
43. Polydactyly
44. Thumb duplication
45. Syndactyly
46. Brachydactyly
47. Macrodactyly
48. Thumb hypoplasia
49. Amniotic band syndrome
50. Congenital foot anomalies
12
1
13
3. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ CÁC VẾT THƯƠNG PHẦN MỀM
14
3.3. Kháng sinh trị liệu và phòng uốn ván
Bệnh nhân có vết thương phần mềm hở cần được tiêm phòng huyết thanh
chống uốn ván.
Trong hầu hết các vết rách sạch, sử dụng kháng sinh phổ vi khuẩn Gram dương
là đủ.
Một vết thương bẩn hoặc không rõ nguyên nhân nên được điều trị bằng kháng
sinh hiệu quả đối với cả vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Thuốc kháng sinh là một
phương pháp hỗ trợ và không thể thay thế việc chăm sóc và làm sạch vết thương.
15
Vạt tại chỗ: cũng giống như mảnh ghép, các vạt tại chỗ được sử dụng khi vết
thương không thể đóng thì đầu. Cần dùng vạt cho vết thương lộ các phần quan trọng
hay nền tổn thương không đủ điều kiện nhận mảnh ghép da. Vạt tại chỗ được tạo bởi
việc di chuyển một phần mô (da, da cân…).
Vạt lân cận: các mô (da, da cân, da cơ..) được huy động tại một vùng gần với
tổn thương để đóng vết thương khi các vạt tại chỗ không đủ để che phủ một vết thương
có diện tích lớn.
Vạt từ xa: khi các vạt lân cận hay tại chỗ không đủ để che phủ vết thương lớn
và phức tạp, có thể lấy mô từ vùng xa dưới dạng vạt có cuống liền hay vạt tự do. Kỹ
thuật này ít khi được chỉ định cho các vết thương phần mềm thông thường vì tính phức
tạp của kỹ thuật.
16
2
17
Đầu mặt cổ: 9%
Một chi trên: 9%
Một chi dưới: 18%
Lưng mông hay ngực bụng: 18%
Bộ phận sinh dục và tầng sinh môn: 1%
Diện tích bỏng trên 20% (ở người lớn) và trên 10% (ở trẻ em) được coi là bỏng
nặng và cần được điều trị tích cực tại bệnh viện.
Hình 2.1. Phân bố diện tích bề mặt trên từng bộ phận cơ thể
2. DI CHỨNG BỎNG
Các tổn thương bỏng sẽ trở thành sẹo nhanh hay chậm, tùy thuộc vào độ sâu của
tổn thương bỏng cũng như các biện pháp điều trị ngoại khoa kết hợp. Có thể không
18
thành sẹo nếu tổn thương bỏng nông, hay sẹo quá phát, sẹo lồi trong trường hợp tổn
thương bỏng sâu. Các tổn thương bỏng sâu có kèm nhiễm khuẩn, không được điều trị
bằng ghép da hay các phương pháp ngoại khoa khác sẽ tự liền sẹo chậm, khi khỏi
thường để lại những di chứng về chức năng và vận động, hay xuất hiện tổn thương loét
lâu liền (có thể ác tính hóa) trên nền sẹo.
19
2.2.2. Ngoại khoa
Có thể chia phẫu thuật di chứng bỏng thành ba nhóm chính:
Phẫu thuật không thể trì hoãn: như tổn thương vùng mi mắt, mũi, miệng vì có
liên quan trực tiếp đến sự sống của bệnh nhân.
Phẫu thuật trì hoãn: khi có liên quan đến việc giải quyết các rối loạn chức năng.
Phẫu thuật cần cân nhắc: khi vấn đề thẩm mỹ được đặt lên trên yêu cầu giải
quyết chức năng.
2.2.3. Các chỉ định của phẫu thuật tạo hình sẹo di chứng bỏng
Vùng đầu mặt cổ:
Da đầu: vạt tại chỗ được chuẩn bị bằng phương pháp giãn da.
Trán: ghép da xẻ đôi hoặc da dày toàn bộ.
Lông mày: vạt đảo có phần da mang tóc theo một nhánh của cuống mạch thái
dương nông hay ghép da đầu.
Mi trên: ghép da xẻ đôi.
Mi dưới: ghép da dầy toàn bộ.
Vùng môi và cằm: vạt da tại chỗ hoặc ghép da dày toàn bộ.
Mũi: vạt trán hay vạt da kế cận vùng nếp mũi má.
Tai: tạo hình tai hai thì hay tai giả.
Cổ: các tạo hình chữ Z, ghép da dày toàn bộ, vạt da cân tại chỗ, vạt da vi
phẫu, vạt giãn tổ chức...
Bàn ngón tay:
Sẹo da đơn thuần: cắt bỏ sẹo hay tạo hình chữ Z.
Sẹo dính: gỡ dính và dùng vạt ngón bên cạnh hay ghép da dày toàn bộ.
Sẹo co kéo: thường có tổn thương tổ chức phía dưới, phẫu thuật bao gồm việc
phục hồi tổ chức sâu (cân, gân, ổ khớp, xương...) và giải quyết khuyết tổ chức che phủ.
Vùng khớp vận động: sẹo bỏng một số vùng như nách, khuỷu, khoeo, bẹn, cổ
chân có thể để lại di chứng nặng nề, ảnh hưởng đến sinh hoạt của bệnh nhân. Các mức
độ từ hạn chế vận động, bán sai khớp, sai khớp, cứng khớp, co kéo gân và mạch máu
thần kinh... Phẫu thuật phải được tiến hành từng bước tránh những thay đổi đột ngột tại
vùng tổn thương. Các phương pháp bao gồm cắt sẹo, tạo hình khuyết da sau cắt sẹo
bằng vạt tại chỗ, vạt chéo chân hay vạt vi phẫu.
2.2.4. Liệu pháp đa trị liệu điều trị sẹo lồi, sẹo quá phát
Liệu pháp corticoid: tiêm trong sẹo.
Cắt bỏ tổ chức sẹo.
Liệu pháp tia xạ (X nông) với liều 500-700 rad cho một đợt điều trị.
Băng ép tại chỗ.
Vật lý trị liệu: xoa tại chỗ có xử dụng crem chống sẹo lồi.
20
3
1. SẸO DA
21
Các bất thường trong quá trình lành thương của vết sẹo: nhiễm khuẩn vết
thương, tách vết mổ, chồng mép vết khâu, dị vật trong vết mổ, hoại tử mép vết mổ, các
bệnh lý rối loạn liền thương...
Các hình thái sẹo bệnh lý có các triệu chứng.
Khó chịu về lâm sàng như nổi ban đỏ, da đổi màu, ngứa, đau. Sẹo trở nên
cứng chắc, co rút, mất khả năng chuyển động, biến dạng vùng xung quanh.
Khó chịu về tâm lý như hình thức xấu xí, sẹo lộ rõ gồ lên trên mặt da, sẹo phá
vỡ ranh giới thẩm mỹ, thu hút sự chú ý của người khác tới vùng tổn thương dẫn tới sự
mặc cảm, xấu hổ hay lo lắng của người bệnh.
A B
Hình 3.1. A Sẹo xấu. B Sẹo quá phát
2.1. Các giả thuyết giải thích sự hình thành sẹo bệnh lý
Di truyền: Bloom (1956), Omo Dare (1975) đã đưa ra giả thuyết về gen lặn và
gen trội để giải thích sự hình thành và xuất hiện các sẹo bệnh lý.
Hormon sinh dục: Eustrogen (Converse, 1974, Moustafa, 1975) và androgen
(Ford, 1983) là những hormone được cho là có khả năng gây nên sẹo bệnh lý.
Dưỡng bào (mastocyte): trong thực nghiệm, việc sử dụng histamin dẫn tới tăng
sản nguyên bào sợi, đặc biệt với các dòng nguyên bào sợi của sẹo bệnh lý (Topol,
1981). Do vậy, các chất tiết của dưỡng bào, trong đó có histamin trực tiếp liên quan tới
quá trình hình thành sẹo lồi.
Thiếu máu cục bộ: một số tác giả (Hunt, 1972; Kischer, 1982) thấy các nguyên
bào sợi đặc biệt nhạy cảm với thiếu oxy do thiếu máu cục bộ gây nên
Kích thích cơ học: Ehrlich (1983) giải thích quá trình liền sẹo bệnh lý là do vết
thương thiếu da che phủ, sự căng tại các mép vết mổ là tác nhân cơ học tác động trực
tiếp vào các nguyên bào sợi gây nên.
Cơ chế miễn dịch: Cohen (1979), De Limopens (1982), Bloch (1984) đã nhận
định là trong trường hợp khả năng miễn dịch của cơ thể bị suy giảm thì dễ có sẹo bệnh lý.
22
2.2. Những yếu tố toàn thân
Tuổi và giới: trẻ em dễ mắc hơn người lớn, phụ nữ dễ mắc hơn nam giới.
Chủng tộc: chủng người có da sẫm mầu dễ bị sẹo bệnh lý, đặc biệt chủng người
da đen.
Dinh dưỡng: yếu tố dinh dưỡng, nhất là kết hợp với bướu cổ, suy dinh dưỡng...
dễ dẫn tới hình thành sẹo bệnh lý.
Cơ địa: tuỳ theo từng cá thể, nhiễm khuẩn giang mai hoặc lao càng tăng yếu tố
thuận lợi cho việc hình thành sẹo bệnh lý.
Chuyển hoá: calci có tác dụng nhất định, calci huyết cao dễ mắc sẹo lồi. Những
rối loạn nội tiết tuyến giáp (bướu cổ), tăng folliculin trong máu dễ mắc sẹo lồi.
23
A B
Hình 3.2. Sẹo lồi vùng má cằm và vành tai (A) vùng cánh tay (B).
4. SẸO LỒI
Đặc điểm chung: sẹo lồi phát triển nguyên phát như một khối u xơ của da, hay
thứ phát trên nền một tổn thương sẹo khác với hình ảnh sẹo nổi gồ cao lên trên bề mặt
da, ranh giới không rõ rệt với tổ chức lành kế cận, rất dễ tái phát sau phẫu thuật cắt bỏ.
Trong sẹo lồi, tổ chức xơ mọc nhanh chóng và dễ vượt ra ngoài giới hạn của thương tổn
ban đầu.
Dịch tễ học: sẹo này phổ biến nhất ở người dưới 30 tuổi. Tỷ lệ mắc mang tính
gia đình cao đáng kể, sẹo này hay gặp hơn 5-15 lần ở người da đen, gấp đôi ở người
Trung Quốc và Nhật Bản so với ở người da trắng.
Giải phẫu bệnh: khối sẹo lồi nằm trong lớp trung bì của da được cấu tạo bởi
các sợi collagen dày đặc kẹp bên trong những nguyên bào sợi thưa thớt. Dù là sẹo lồi
nguyên phát hay thứ phát sau chấn thương, hình ảnh đặc trưng là sự kết hợp của tổ chức
liên kết non với những mảnh collagen căng phồng.
Nguyên nhân: sự phát triển sẹo lồi có thể là biểu hiện của sự mất cân bằng giữa
quá trình tổng hợp collagen trong đó tăng tổng hợp và giảm thoái hoá collagen. Có mối
quan hệ di truyền, nội tiết (sẹo lồi phát triển nhanh trong thai kỳ và giai đoạn dậy thì,
thoái lui sau khi mãn kinh), tình trạng liền thương kém do nhiễm trùng, tách vết mổ,
tăng sức căng mép vết mổ cũng như sau chấn thương.
Lâm sàng và tiến triển: sẹo lồi điển hình là một khối u da dài hoặc bầu dục, nổi
lên trên bề mặt da, rắn chắc, nhẵn bóng. Sẹo lồi xuất hiện nhiều nhất ở mặt, dái tai và
ngực trước. Bề mặt sẹo có một mạng mao mạch khá dày, ranh giới rõ. Có thể phân biệt
hai loại sẹo lồi: loại non đang phát triển, màu hồng hay đỏ và loại đã lâu ngày ổn định,
màu trắng nhạt. Tiến triển của sẹo lồi thường khó tiên lượng. Sau một thời gian ngừng
phát triển, sẹo lồi sẽ không thoái lui. Một số ít có thoái triển theo thời gian, xẹp đi, thậm
chí hết đau rát. Biến chứng tại chỗ của sẹo lồi hiếm khi xảy ra, va chạm gây lở loét cũng
ít gặp. Chẩn đoán sẹo lồi thường dễ dàng vì tính chất, tiến triển của sẹo khá đặc biệt khó
lầm lẫn với các trạng thái bệnh lý khác. Tuy nhiên cũng cần xem xét để loại những khối
u lành ở vành tai, vùng chũm hoặc thành ngực. Chẩn đoán phân biệt thường được đặt ra
giữa sẹo phì đại và sẹo lồi, đôi khi rất khó tránh khỏi lầm lẫn.
24
5. ĐIỀU TRỊ SẸO BỆNH LÝ
5.2. Điều trị nội khoa các triệu chứng của sẹo bệnh lý
Biện pháp cơ học: năm 1974, Larson và cộng sự đề xuất phương pháp điều trị
sẹo bệnh lý bằng cách đè ép liên tục một thời gian, nhưng kết quả cũng hạn chế và cơ sở
khoa học còn khá mơ hồ. Sloan (1974) cho rằng hiệu quả đè ép trên sẹo là do hiện
tượng thiếu oxy trong khối tổ chức bị ép. Theo kinh nghiệm của Cohen và Mc Coy
(1980) đè ép có hiệu quả đối với sẹo phì đại hơn với sẹo lồi.
Sử dụng áo quần, tất hoặc băng ép đàn hồi cho thân và chi, mặt nạ cho vùng mặt.
Áp lực của băng chun lý tưởng nhất là phải cao hơn áp lực mao mạch bình
thường (24 mmHg). Chỉ sử dụng băng áp lực khi liền vết thương.
Cần phải mang băng 18-24 giờ/ngày trong 4-6 tháng.
Cơ chế tác động có thể là do áp lực làm giảm cấp máu cũng như tăng hoạt
động của collagenase, giảm chuyển hóa tại vết sẹo dẫn tới sẹo trưởng thành sớm.
Tấm gel silicon: các tấm silicon che phủ lên vết thương được chỉ định sau
khi liền thương hoàn toàn, thời gian dùng 12-24 giờ/ngày trong vòng 2-3 tháng thì
mới bắt đầu thấy hiệu quả. Cơ chế tác dụng của loại tấm silicon có thể là tạo áp lực
lên vết thương, gây thiếu oxy vết thương, tăng nhiệt độ của da, tăng độ ẩm hoặc tác
động hóa học trực tiếp của silicon. Tỷ lệ thành công trên 80% đối với sẹo phì đại và
35% cho sẹo lồi.
Băng dính: băng được đặt dọc theo vết thương sau khi đóng vết thương trong
vòng 2 tháng, giúp ngăn ngừa sẹo phì đại. Cơ chế hoạt động được cho là nhờ giảm sức
căng ngang của vết sẹo.
Sử dụng thuốc:
25
Corticosteroid: được Baker và Whitaker đề xuất từ năm 1950, nhưng kết quả
không được như ý muốn. Năm 1965, Maguire lần đầu tiên thành công trong việc gây xẹp
một vết sẹo lồi rộng bằng cách tiêm vào thương tổn triamcinolon acetonid. Sau đó,
Ketchum đề nghị dùng liều triamcinolon theo tuổi bệnh nhân và kích thước sẹo.
2
Triamcinolon acetonid tiêm vào trong tổn thương. Ở người lớn 20 mg/cm
vết sẹo tới liều tối đa 120 mg. Có thể cách tính liều lượng theo kích thước sẹo một cách
đơn giản như sau: 20-40 mg đối với thương tổn đường kính 1-2 cm2 ; 40-80 mg đối với
thương tổn 2-6 cm2 ; 80-120 mg đối với thương tổn 6-10 cm2 và lớn hơn nữa. Ở trẻ em
dưới 5 tuổi, liều tối đa 40 mg và độ tuổi 5-10 liều tối đa là 80 mg. Lưu ý chỉ tiêm
Triamcinolon acetonid vào bên trong sẹo mới có tác dụng, dùng thuốc đường toàn thân
không có tác dụng kìm hãm sự phát triển của sẹo.
Liệu trình gồm 4 lần tiêm, các lần tiêm cách nhau 4-6 tuần. Thay đổi liệu
trình tiêm khi theo dõi chặt chẽ diễn biến triệu chứng của sẹo. Có thể tiêm triamcinolon
acetonid ngay trong lần đầu phẫu thuật và kết hợp với liệu trình như trên.
Tác dụng phụ gồm đau khi tiêm, giảm sắc tố, lắng đọng tinh thể, giãn mao
mạch và teo da.
Cơ chế tác dụng của triamcinolon acetonid là làm giảm lượng collagen: chủ
yếu do giảm hàm lượng α2-macroglobulin dẫn tới tăng hoạt tính collagenase trong vết
thương, bên cạnh đó do giảm lắng đọng collagen nhờ giảm hoạt tính nguyên bào sợi.
Ngoài ra thuốc dạng steroid này cũng làm giảm viêm, giảm ngứa và đau.
Một số thuốc khác
Kháng histamin: Cohen và cộng sự (1972) đã gợi ý dùng các chất kháng
histamin có thể làm giảm hoặc mất hẳn triệu chứng ngứa rát của các sẹo bệnh lý.
Penicillamin: cản trở quá trình hình thành các nhóm aldehyt cần thiết cho sự
liên kết các phân tử collagen, do đó cũng là một loại thuốc điều trị sẹo lồi.
Methotrexat: năm 1980, Onwukwe báo cáo đã sử dụng methotrexat để
phòng ngừa tái phát sau phẫu thuật cắt bỏ sẹo lồi.
Colchicin: dựa vào khả năng kích thích hoạt động của collagenase của
colchicin, Chepil (1980) đề nghị dùng colchicin trong điều trị sẹo bệnh lý.
Thuốc bôi tại chỗ
Madecassol: thường được dùng dưới dạng thuốc mỡ, được dùng ngay sau
khi cắt chỉ vết mổ, mỗi ngày xoa 2 lần, đợt điều trị kéo dài 3-6 tháng. Ngoài ra, còn
được sử dụng dưới dạng thuốc viên để uống và tẩm sẵn vào gạc để đắp lên vết bỏng, vết
loét chậm liền nhằm dự phòng sẹo bệnh lý.
Thuốc: vitamin A bôi tại chỗ (acid retinoic) ức chế sản xuất nguyên bào sợi
và vitamin E làm giảm số lượng nguyên bào sợi. 5-fluorouracil ức chế sự phân chia tế
bào, penicillamin ngăn ngừa collagen liên kết chéo, và colchicin tăng hoạt động
collagenase. Interferon và cyclosporin A cũng được sử dụng.
Vật lý liệu pháp:
26
Áp lạnh cục bộ: tuyết carbonic thường được dùng điều trị sẹo bệnh lý, tuy
nhiên mất nhiều thời gian và hiệu quả thấp, đặc biệt đối với sẹo lồi, có khi còn gây lở
loét trên và xung quanh vết sẹo.
Chiếu tia: tia X có hiệu quả nhất định trong dự phòng nhưng ít tác dụng đối
với các sẹo bệnh lý đã ổn định. Liệu trình chiếu xạ gồm 5 tới 6 liều 15-20 Gy. Thường
sau một thời gian (khoảng 5-10 ngày) bị tấy đỏ tại chỗ, sẹo trở nên mềm mại hơn, xẹp
bớt và nhạt màu dần.
Laser: chủ yếu để điều trị tình trạng tăng sắc tố da và viêm.
27
4
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xạ trị là một phương thức điều trị phổ biến cho nhiều bệnh nhưng thường tác
động tiêu cực lên mô lành và cả quá trình lành thương. Sự hiểu biết về tác dụng lên mô
của tia xạ và các dạng tổn thương xạ trị là yêu cầu đối với các phẫu thuật viên tạo hình
trong việc lựa chọn chất liệu tạo hình.
Bức xạ ion hóa có thể được phân loại thành điện từ hoặc hạt.
Bức xạ điện từ bao gồm sóng năng lượng điện và từ, với bước sóng khác
nhau, từ các bước sóng rất ngắn (X-quang và tia gamma được sử dụng trong y học) đến
bước sóng dài hơn (lò vi sóng và sóng radio). Những tia điều trị có tác dụng độc tế bào
trực tiếp (thay đổi nội bào DNA/RNA) và gián tiếp (sinh oxy gốc tự do).
Bức xạ hạt bao gồm các hạt như electron, proton, các hạt alpha và neutron.
Bức xạ hạt có thể được cung cấp cục bộ bằng cách đặt nguồn trực tiếp trên bệnh nhân
hoặc bên trong bệnh nhân (brachytherapy) hoặc bằng cách sử dụng các chùm tia ngoài
(teletherapy).
Liều bức xạ: là lượng năng lượng bức xạ hấp thụ trên một đơn vị khối lượng
mô được chiếu xạ. Liều bức xạ được đo bằng đơn vị khoa học quốc tế Gy, tương đương
1 jun/kg. Liều dùng thường được diễn tả thành phần trăm của một Gy, centigray (cGY).
Đơn vị bức xạ Rad đã lạc hậu, không theo chuẩn khoa học quốc tế và tương đương 1cG.
Các mức độ tổn thương của tia xạ:
Tổn thương gây chết: là không thể khắc phục và chắc chắn sẽ dẫn đến chết tế bào.
Tổn thương dưới mức gây chết: trong những hoàn cảnh bình thường, có thể
sửa chữa bởi các tế bào sau một số giờ.
Tổn thương có khả năng gây chết: có thể sửa đổi bằng cách thay đổi môi
trường của tế bào sau khi chiếu xạ.
Ảnh hưởng của bức xạ ion hóa lên mô bình thường phụ thuộc vào bốn yếu tố
liên quan đến điều trị: tổng liều, kích thước liều đợt nhỏ (fraction), tổng khối lượng điều
trị, và thời gian nghỉ giữa những đợt xạ trị. Tổn thương mô bình thường có thể do hiệu
ứng bức xạ lên vi mạch máu hoặc mô hỗ trợ. Hầu hết xạ trị lâm sàng được chia thành
liều hàng ngày để giảm thiểu tác dụng phụ trên mô bình thường.
28
Ảnh hưởng của bức xạ trên da có thể được phân loại thành hiệu ứng cấp tính
(xảy ra trong 6 tháng đầu) và hiệu ứng muộn (xảy ra ngoài 6 tháng).
Hiệu ứng cấp tính xảy ra chủ yếu ở mô có hoạt động phân bào mạnh. Chúng
bao gồm ba dấu hiệu điển hình: ban đỏ, bong da khô và bong da ẩm. Ban đỏ xảy ra
muộn sau 24 giờ chủ yếu do hoạt hóa các enzym thủy phân protein và tăng tính thấm
mao mạch tại chỗ. Tiếp theo là giai đoạn phản ứng dữ dội do tổn thương lớp đáy của
biểu bì với biểu hiện ban đỏ vào tuần thứ 6-7 sau khi chiếu xạ. Sự tổn thương lớp biểu
bì hoàn toàn được thể hiện bằng dấu hiệu bong vảy khô hoặc bong vẩy ướt. Thông
thường, các hiệu ứng cấp tính tự giới hạn và mất đi trong vòng 2-4 tuần sau khi kết thúc
xạ trị.
Hiệu ứng muộn được cho là thứ phát sau giảm lượng máu cung cấp do viêm
tiểu động mạch và xơ hóa mô đệm do xạ trị. Hiệu ứng muộn bao gồm tăng hoặc giảm
sắc tố da do tổn thương tế bào tạo hắc tố, da và mô dưới da dày lên và xơ hóa, giãn mao
mạch và rối loạn chức năng của tuyến bã nhờn và tuyến mồ hôi. Những thay đổi này
không thể đảo ngược dẫn tới hoại tử và các vết loét lâu liền. Ung thư có thể phát sinh từ
một tổn thương mạn tính do chiếu xạ.
Những thay đổi của da phụ thuộc liều tia xạ:
100 cGY - ngưỡng gây tổn thương da do bức xạ
200-600 cGY - ban đỏ và rụng tóc tạm thời
1500 cGY-bong da khô
Trên 4000 cGY- rụng tóc dai dẳng, thiểu sản da, xơ hóa, phù nề, bong da ẩm,
ban đỏ mạnh, và có thể có những thay đổi ung thư.
200-1000 cGY có khả năng gây ung thư mạnh hơn so với liều lớn hơn. Ung
thư biểu mô tế bào đáy và tế bào vảy là bệnh ung thư da hay gặp nhất ở da bị chiếu xạ.
29
Bức xạ làm giảm khả năng tăng sinh của nguyên bào sợi.
Hiệu ứng muộn thể hiện trên lâm sàng bằng teo da và xơ hóa.
A B
C D
Hình 4.1. Các dạng tổn thương da và mô sau xạ trị:
A. Tổn thương da vùng má, B. Tổn thương hoại tử da và xương hàm,
C. Tổn thương da và tuyến vú, D. Tổn thương da và hoại tử xương sườn.
30
Tia xạ cũng làm suy yếu sự tăng sinh tế bào nội mô, gây phù nề thành mạch
máu, và tăng huyết khối.
Ảnh hưởng muộn bao gồm một loạt đáp ứng trong động mạch như loét, huyết
khối, xơ hóa trung tâm và hoại tử. Thoát tĩnh mạch cũng bị ảnh hưởng vì xơ hóa do bức
xạ và sự co thắt tĩnh mạch.
Tất cả những thay đổi này dẫn đến suy giảm dòng máu đến hoặc đi hoặc cả hai,
kết quả là dẫn tới tình trạng thiếu oxy mô và sự lành vết thương bị chậm trễ nghiêm trọng.
2.2. Xương
Bức xạ có thể làm nhiễu loạn sự phát triển xương ở xương chi chưa trưởng
thành. Biến chứng ở xương trưởng thành bao gồm hoại tử xương do bức xạ, gãy xương
bệnh lý, và u do bức xạ.
Tủy xương là mô nhạy cảm nhất với phơi nhiễm bức xạ. Chiếu xạ toàn bộ cơ
thể làm ngừng tăng sinh tế bào tủy xương, và sự giảm tủy xương là một nguyên nhân
quan trọng của tử vong do xạ trị. Bạch cầu cấp có thể là biến chứng thường gặp.
3. ĐIỀU TRỊ
31
Tạo môi trường ẩm tại vết thương bằng tưới nước muối sinh lý. Đây là điều
kiện quyết định cho việc lành thương của vết thương chiếu xạ.
Điều trị kháng sinh tại chỗ và toàn thân tích cực là những biện pháp quan
trọng nhất. Ngay cả một ổ nhỏ mô không được tưới máu sẽ cho phép vi khuẩn phát triển
quá mức, với tiềm năng gây hoại tử tiến triển.
Các biện pháp toàn thân: đảm bảo dinh dưỡng tối ưu có tầm quan trọng lớn ở
bệnh nhân chiếu xạ.
Điều trị những thay đổi ở da và mô mềm da: những thay đổi da do tác động cấp
tính được điều trị bằng chăm sóc hỗ trợ tại chỗ. Giảm sắc tố được bảo vệ bằng sử dụng
kem chống nắng hợp lý. Co cứng thứ phát do xơ có thể ngăn ngừa bằng vật lý trị liệu
thích hợp.
3.2. Điều trị vết thương mạn tính hay di chứng của chiếu xạ
Phẫu thuật tạo hình tại các vùng bị chiếu xạ khó khăn hơn so với trường hợp
không chiếu xạ.
Ghép da trên nền tổn thương chiếu xạ không được coi là biện pháp hiệu quả
trong điều trị vết thương chiếu xạ do tỉ lệ thất bại của kỹ thuật này là 100%. Kỹ thuật
hút áp lực âm để tạo mô hạt tại nền vết thương như một bước chuẩn bị cho kỹ thuật
ghép da tiếp theo sau.
Vạt cân, vạt cơ hay cơ da có nhiều lợi thế cho tạo hình ở vùng bị xạ trị. Các vạt
này có nguồn cấp máu tốt là điều kiện thuận lợi để giải quyết tốt tình trạng hoại tử mô
cũng như ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Đây cũng là nguồn cung cấp tổ chức cho tạo hình
độn cho các cơ quan nổi.
Trong tạo hình các vết loét do bức xạ, vạt mạc nối lớn và vạt cơ da đặc biệt
hữu ích, nhất là nếu tổn thương do bức xạ có thể được cắt bỏ hoàn toàn.
Các mạch máu ở vùng từng bị chiếu xạ thường bị tổn thương, gây khó khăn
cho việc tái lập tuần hoàn nếu sử dụng các vạt tự do.
Vấn đề tạo hình vú sau xạ trị: mô vú được chiếu xạ thường trở nên chắc, với
giãn mao mạch và những dấu hiệu khác của teo da xuất hiện cùng thời gian, thậm chí
xuất hiện loét mạn tính lâu liền. Giãn tổ chức và túi độn ngực được sử dụng trong tạo
hình vú ở bệnh nhân chiếu xạ, tuy nhiên có nhiều biến chứng liên quan tới chất lượng da
bị chiếu xạ. Phổ biến là sử dụng vạt da cơ lưng rộng hay vạt da cơ cơ ngang bụng
(TRAM). Tuy nhiên, xạ trị sau vạt này có thể dẫn đến tăng hoại tử mỡ, khiến tuyến vú
bị cứng, giảm thể tích, mất đường viền và không cân đối. Một số vạt tự do cho điều trị
xạ trị vú được đề cập tới như vạt thượng vị sâu dưới, vạt đùi trước ngoài, vạt da cơ
mông dưới…
32
5
33
Là những nang chắc, di động, trong nang có thể chứa lông, xương...
Tiến triển: nang to dần, có thể chuyển thành ác tính.
Điều trị: chỉ định mổ tuyệt đối.
3.1.1. U biểu bì
Lâm sàng: khối u tập hợp của nhóm các nốt sần màu da hoặc màu nâu, xắp xếp
gần nhau thành dải. Tổn thương xuất hiện tại thời điểm sinh hoặc rất sớm sau khi sinh.
Tiến triển: nếu tổn thương rất lớn, có thể có những bất thường trong phát triển
ở những hệ khác.
Điều trị: cắt bỏ là phương pháp tin cậy nhất. Bớt biểu bì phải được cắt bỏ dưới
lớp trung bị sâu để tránh tái phát.
3.1.2. U tuyến bã
Lâm sàng: một tổn thương đơn lẻ xuất hiện khi sinh như một miếng bớt hoặc
một mảng màu vàng, đặc biệt hay gặp ở da đầu. Thường gặp u riêng lẻ. Nếu xuất hiện
nhiều tổn thương, có thể kèm theo những tổn thương hệ thống khác.
Tiến triển: tổn thương khi mới sinh nổi gồ trên da, sau đó dẹt dần cho tới tuổi
dậy thì trở thành những hột cơm (verrucous). Từ nền tổn thương ban đầu có thể phát
triển các tổn thương thứ phát như u nang mỡ có nhú (steatocystoma pailliferun) (8-19%)
và ung thư biểu mô tế bào đáy (5-7%).
Điều trị: nên cắt bỏ trước tuổi dậy thì vì nguy cơ tiềm ẩn phát triển ung thư
biểu mô tế bào đáy.
34
Điều trị: chỉ dùng liệu pháp áp lạnh cho người da sáng màu, còn với người da
sẫm màu biện pháp này sẽ dẫn tới thay đổi sắc tố thứ phát. Những liệu pháp khác bao
gồm đốt điệt, nạo vét, laser, cắt.
35
Điều trị: bệnh thường tái phát với tất cả các biện pháp điều trị. Liệu pháp
Corticoid là phương pháp điều trị chính. Băng silicon tại chỗ mang lại hiệu quả. Với
những tổn thương lớn hơn, việc cắt có thể thực hiện nhưng cần phối hợp với tiêm vào
tổn thương sau phẫu thuật steroid, interferon- α2b hay tia xạ.
36
Lâm sàng: u tròn, có vỏ bao bọc, nhưng cũng có thể xâm nhập vào các mô kế
cận, kích thước nhỏ, màu vàng tươi, có thể kết hợp được với các thành phần khác (cơ,
mạch, lympho,...)
Giải phẫu bệnh: thành phần u là các tế bào mỡ gần như bình thường, bào tương
sáng, màng tế bào không rõ, tế bào mỡ hợp thành đám phân tách bởi mô sợi keo.
Tiến triển: chậm, 1% tái phát sau khi cắt bỏ.
Điều trị: phẫu thuật lấy bỏ hoặc dùng phương pháp hút mỡ (Liposuction).
37
Lâm sàng: nốt sần đơn lẻ màu hồng hay màu da, không cuống hoặc hơi có
cuống. Hay gặp nhất ở lòng bàn chân.
Tiến triển: rất hiếm khi một khối ung thư ác tính lỗ chân lông bài xuất lại
phát triển từ một u lỗ chân lông bài xuất lành tính lâu dài.
Điều trị: cắt bỏ
U tuyến mồ hôi (Syringoma)
Lâm sàng: nốt sần đơn lẻ hoặc nhiều, kích thước 1-3 mm màu vàng nhẹ,
thường gặp trên mí mắt, hố nách, rốn và vùng xương mu. Có thể bị vỡ ở cổ, nách, ngực,
hoặc bụng.
Tiến triển: lành tính
Điều trị: điều trị thẩm mỹ bao gồm đốt điện hoặc laser.
U nang tuyến mồ hôi đầu tiết (Apocrine hidrocystoma)
Lâm sàng: nốt nang màu xanh đơn lẻ hoặc nhiều, kích thước dao động từ vài
mm đến 1,5 cm. Thường gặp nhất ở mặt.
Tiến triển: lành tính
Điều trị: cắt bằng lưỡi dao 11 và đốt điện.
38
Tiến triển: tồn tại vĩnh viễn kể cả khi không có ánh sáng.
Điều trị: dùng kem chống nắng, kem làm trắng da, nitơ lỏng nhẹ hoặc laser.
4.3. U Becker
Lâm sàng: vết ban hoặc mảng màu nâu kích thước vài cm và thường mắc phải
ở gần giai đoạn dậy thì. Hay gặp nhất ở vai và lưng. Nam giới gặp nhiều hơn nữ giới 5
lần. Rậm lông ở mức độ khác nhau.
Tiến triển: lành tính.
Điều trị: điều trị laser cho thành phần nâu và loại bỏ lông cho rậm lông.
5. U LẮNG ĐỌNG
39
Giải phẫu bệnh: tổn thương bao gồm một vùng viêm giàu đại thực bào và đại
bào dị vật xếp thành nang dạng củ giống nang lao nhưng không có chất bã đậu, bao
quanh là mô sợi, có thể có cả thoái bào gần giống tế bào biểu mô, các đại bào có thể
chứa các dị vật (hạt silicon, hạt silicat). Tổn thương hình thành sau một thời gian dài
mang dị vật và mang phản ứng quá mẫn đối với dị vật.
Điều trị: chỉ định phẫu thuật khi xuất hiện đau loét. Khi phẫu thuật cần lấy hết
dị vật (nhiều khi không dễ) nếu không, dễ gây sẹo thô, sẹo lồi.
6.2. Nơ vi
Là một loại u của da có các tế bào đặc biệt, gọi là tế bào Unna với đặc điểm tế bào
lớn, nhân to, nguyên sinh chất đồng nhất. Thường các tế bào nhuộm sắc tố đen, đôi khi
kết thành từng ổ. Nguồn gốc tế bào Unna chưa rõ (có thể từ tế bào thần kinh hoặc tế bào
biểu mô). Có hai loại Noevi theo đặc điểm giải phẫu bệnh:
Nơ vi có tế bào Unna, thường dễ ác tính hoá (thành Noevo- carcinoma).
Nơ vi không có tế bào Unna, dù vẫn có sự tăng sinh của các tế bào cấu tạo nên
da. Loại này thường lành tính, gọi là Nơ vi giả.
40
6
2. MÔ HỌC
Tế bào Nơ vi được phân biệt với các tế bào hắc tố bởi thiếu gai. Nơ vi bẩm
sinh được cho là sự rối loại quá trình di cư của melanoblasts. Nơ vi hắc tố bẩm sinh
(CMN) chứa tế bào Nơ vi lúc mới sinh. Các tế bào này được hình thành giữa tuần thứ 5
và 24 của thai nhi.
Nơ vi hắc tố bẩm sinh đặc trưng bởi các tế bào Nơ vi sắp xếp thành từng tấm
hoặc từng ổ trong thượng bì hay trung bì. Các tế bào thường biệt hóa hướng thần kinh
giống với u thần kinh sợi hay u tế bào Schwanna.
Phân loại theo mô học gồm 2 loại nông và dày.
Dạng nông:
Hay gặp nhất
41
Tìm thấy ở mặt, thân và chi.
Dạng sâu:
Tổn thương không đều trải tới các lớp và cấu trúc sâu, bao gồm dây thần
kinh, mạch máu và cơ.
Tổn thương sẫm màu hơn, phần lớn xuất hiện ở lưng, da đầu và mông.
42
Sau khi sinh, Nơ vi hắc tố bẩm sinh không dừng lại mà phát triển tỷ lệ với sự
tăng kích thước cơ thể nói chung.
4. ĐIỀU TRỊ
Việc cắt bỏ có thể được cân nhắc càng sớm càng tốt, đảm bảo chức năng và
thẩm mỹ cũng như ngăn ngừa khả năng ác tính hóa của tổn thương.
Những chỉ định đặc biệt để cắt bỏ nơ vi bao gồm:
Vị trí ở đường giữa lưng.
Xuất hiện loét trên nền tổn thương.
Ngứa.
Có các ổ nhiễm khuẩn ở tổn thương.
Các nguyên tắc điều trị.
Tất cả các tổn thương cần được chụp ảnh và đo đạc khi mới sinh. Ghi nhận
tiền sử gia đình về nơ vi hắc tố bẩm sinh.
Những tổn thương nhỏ vẻ lành tính không cần cắt bỏ ở trẻ nhỏ nếu cần gây
mê toàn thân. Tất cả những tổn thương nhỏ cần được cân nhắc cắt bỏ dự phòng trước
tuổi 12, lúc đó nguy cơ phát triển ung thư sắc tố tăng nhanh chóng.
Những tổn thương không điển hình cần được cắt bỏ ngay. Những nốt nổi gồ
trên bề mặt da có thể là biến thể của sarcoma, cần điều trị ngay tức khắc.
Phương pháp cắt không toàn bộ thường gây tái phát.
Các kỹ thuật tạo hình đóng khuyết tổ chức sau khi cắt bỏ Nơ vi bao gồm:
Với các nơ vi kích thước nhỏ: đóng trực tiếp sau khi cắt, ghép da tự thân, sử
dụng vạt tại chỗ hoặc vạt lân cận.
Với các Nơ vi khổng lồ: cắt u thành nhiều lần, kỹ thuật giãn da tự nhiên, giãn
tổ chức, sử dụng vạt tự do...
43
7
44
Có người thân cấp 1 bị bệnh này (cha mẹ, anh chị em ruột).
Có trên 6 nốt cà phê sữa kích thước hơn 5 mm ở trẻ dưới 10 tuổi, hoặc
15 mm hoặc lớn hơn ở người trưởng thành.
Các đặc điểm bệnh lý có xu hướng xuất hiện dần dần, nếu một người có các
yếu tố nguy cơ nhưng không biểu hiện đặc trưng khi đến 10 tuổi thì được coi là không
bị bệnh.
U thần kinh đệm dây thần kinh thị giác thường thể hiện bằng mất thị lực trước
5 tuổi, nhưng không tiến triển cấp tính như các u thần kinh đệm ở bệnh nhân không bị
bệnh u xơ thần kinh.
Tàn nhang ở nách và bẹn thường xuất hiện sau này trong thời thơ ấu.
Các nốt Lisch (u mô thừa mống mắt - iris hamartomas).
Hai hoặc nhiều u thần kinh sợi điển hình, hoặc một u thần kinh sợi dạng đám
rối. U thần kinh sợi điển hình xuất hiện ở tuổi dậy thì, thường là các tổn thương biệt
hóa, thỉnh thoảng mới ác tính hóa thành sacom.
U thần kinh sợi dạng đám rối thường xuất hiện ở trẻ em nhỏ tuổi hơn và có
xu hướng thâm nhiễm và xâm lấn cục bộ. Chúng có thể gây đau hoặc mòn xương.
Những tổn thương này có thể cần được cắt bỏ nhưng thường gặp vấn đề về lành vết
thương sau đó.
Loạn sản xương bướm (thường không có triệu chứng). Các bất thường xương
khác như u xơ trong tủy sống và vỏ xương bị mỏng. Các bất thường xương dài như
xương chày bị cong (bowing) do các khớp giả thường dẫn đến phải cắt cụt chi, nhưng
hiếm gặp hơn.
Hình ảnh giải phẫu bệnh: tế bào u xếp song song hoặc có hình xoắn, chìm lẫn
trong vùng mô có thoái hoá nhầy, thoái hoá trong.
10% bệnh nhân u thần kinh sợi có biểu hiện của u vỏ thần kinh ác tính hay
neurosarcomas. Các khối u ác tính thường xuyên phát sinh từ khối u thần kinh sợi lớn
hoặc tổn thương thần kinh ngoại vi rộng. Bên cạnh khối u lớn có nhiều u vệ tinh bị ác
tính hóa cùng một nguồn gốc. Tiên lượng kém ở bệnh nhân này.
45
Xạ trị, hóa trị liệu, hoặc cả hai có thể được sử dụng để điều trị các khối u ung thư.
Phẫu thuật có thể được sử dụng để loại bỏ khối u gây đau hoặc mất chức năng,
khi u to vướng, cản trở các chức năng sống như nhìn, thở và ăn uống. Giải quyết vấn đề
thẩm mỹ là chính.
Can thiệp chỉnh hình được chỉ định cho vẹo cột sống tiến triển nhanh và cho
một số khiếm khuyết xương nghiêm trọng.
Các kỹ thuật chính là cắt bỏ u và tạo hình phục hồi chức năng của phần cơ
quan liên quan.
Khả năng tái phát của u cao.
46
Bệnh hiếm khi thể hiện ở trẻ nhỏ, nhưng có thể xuất hiện các triệu chứng bất
thường của mắt.
Đa số bệnh nhân cần được phẫu thuật ít nhất 1 lần trong cuộc đời, xạ trị là lựa
chọn thay thế nếu không thể phẫu thuật.
Tỷ lệ ác tính hóa thấp (dưới 1%).
47
8
CÁC U DA ÁC TÍNH
1. U HẮC TỐ ÁC TÍNH
48
Giai đoạn toàn thân: tế bào ung thư xâm nhập vào bạch huyết, máu, nó giải
phóng hắc tố vào máu, xâm nhập các cơ quan như tạng và da. Gan, lách, tạng to, nhuốm
Melanlin, chủ yếu là Melanodermie. Nhiều khi bệnh nhân có thể đái ra Melanlin.
Cơ quan bị di căn: tuỳ sự di căn vào các tạng, lâm sàng có thể thấy:
Gan: to, đau.
Não: hôn mê từ từ, liệt bán thân.
Phổi: ho, xẹp phổi.
Xương: hay gặp, gây biến dạng, gẫy xương.
49
1.6. Điều trị
Diễn biến u rất phức tạp, nên chỉ định điều trị rất khó, cần chú ý cân nhắc khi điều
trị, đặc biệt cần biết đây là loại bệnh lý ác tính của da, can thiệp đúng lúc có ý nghĩa rất
lớn. Mặt khác, cần phải chú ý đây là loại tổ chức kháng tia, phát triển qua nhiều giai
đoạn, đặc biệt di căn vào hạch.
Tác động đúng chỗ.
Phẫu thuật cắt bỏ u đủ rộng và sâu. Cắt xung quanh u 3 cm (đường kính lấy
bỏ = 6 cm + đường kính u). Phải lấy sâu đến cân mạc, tối thiểu phải lấy hết mỡ dưới da.
Sau khi cắt bỏ u, có thể để liền tự do, hoặc tạo hình che phủ bằng các vạt tổ chức.
Có thể kết hợp chạy tia, nếu tổ chức ghép có có mạng mạch nuôi tốt. Hoặc
chạy tia + phẫu thuật theo phác đồ Sandwich: Tia + Phẫu thuật + Tia.
Tác động xa.
Khi có nghi vấn, bao giờ cũng phải phẫu thuật + nạo vét hạch. Thực tế khi đã
lan xa vào hạch, khó vét sạch hạch.
Phẫu thuật tại chỗ + nạo vét hạch theo khả năng + các biện pháp khác (hoá
chất, miễn dịch).
2. UNG THƯ DA
Ung thư da gồm ung thư liên kết (Sarcoma) hoặc biểu mô (Epithelioma), từ những
phần cấu tạo da. Đây là loại loại ung thư hay gặp. Ngoài ra còn có thể gặp ung thư trên
nền sẹo.
50
Giải phẫu bệnh: u cấu trúc bởi các tế bào hình thoi, nhân to, ít nguyên sinh
chất, nhiều nhân quái, nhân chia.
Chẩn đoán: thường khó chẩn đoán. Nhiều khi nguyên căn ở sâu (thực chất là di
căn tới da). Cần làm xét nghiệm giải phẫu bệnh lí để xác định nguyên căn.
2.1.4. U Danien
Thực tế còn một loại Fibrosarcoma da (ít gặp, là loại ranh giới giữa lành và ác
tính). Hình ảnh mô học giống như Sarcoma khác, nghĩa là gồm những tế bào hình thoi,
nhân quái, nhân chia, nhưng chỉ phát triển tại chỗ, không lan, dễ tái phát. Thường u tạo
thành từng mảng ở ngực, ở bụng. Lúc đầu những nhân cứng nằm ở trung bì, sau đó phát
triển thành những tấm xơ, nổi sùi, không đều về mật độ.
Điều trị: cần phẫu thuật triệt để vì u dễ tái phát, lại rất trơ, không chịu tác dụng
của tia X. Người ta cũng gọi đây là Sarcoma giả của da. Phương pháp điều trị hy vọng
nhất là phát hiện sớm, cắt bỏ rộng sau đó tạo hình, đóng kín khuyết da.
51
có khi u có nhiễm sắc tố, người ta dễ nhầm với Nevocarcinoma, hoặc có biểu hiện loét
(loét kéo dài, không liền, bờ rõ, gờ cao, đáy đỏ).
Nếu can thiệp không triệt để dễ xâm lấn vào sâu, phá huỷ phần mềm, lại rụng
từng mảng tổ chức, gây đau đớn, chảy máu kéo dài. Tuy nhiên, loại này hiếm gặp.
52
Radiom tiếp xúc (cắm kim) tia xâm nhập vào toàn bộ da, có tác dụng trực tiếp.
Thường cắm 3-10 ngày.
Đặt ống Radiom chiếu trực tiếp vào khu vực có u.
Nói chung các biện pháp vật lí không đem lại kết quả triệt để.
53
9
54
Hội chứng ung thư biểu mô tế bào đáy dạng bớt hay hội chứng Gorlin, là rối
loạn truyền theo kiểu trội qua nhiễm sắc thể thường với khả năng thâm nhập tốt.
Nguyên nhân được cho là sự đột biết của gen ức chế khối u nằm tại 9q23.1 -q21. Đột
biến tại vị trí này có thể liên quan tới các trường hợp ung thư biểu mô tế bào đáy tản
mát. Biểu hiện đầu tiên của hội chứng Gorlin, ngoài ung thư biểu mô tế bào đáy, là nang
răng sừng hóa, loạn sừng, rỗ ở bàn tay và bàn chân và calci hóa trong sọ. Tuổi khởi phát
trung bình của bệnh là 20 tuổi, mặt và lưng là vị trí bị ảnh hưởng đầu tiên.
Hội chứng Bazex cũng là rối loạn di truyền trội theo nhiễm sắc thể thường
dẫn tới nhiều ung thư biểu mô tế bào đáy nhỏ ở mặt, thường phát hiện lần đầu ở tuổi vị
thành niên hoặc thanh niên.
Hội chứng Rombo di truyền theo nhiễm sắc thể thường cũng liên quan tới
ung thư biểu mô tế bào đáy. Bệnh có xu hướng xuất hiện muộn, quanh 35 tuổi, liên
quan tới những bệnh da khác và tình trạng ít lông.
Cuối cùng, những rối loại di truyền khác như bệnh da sừng hóa sắc tố, bạch
tạng, bớt tế bào đáy thành dải một bên và bớt tuyến bã Jadas-sohn liên quan tới sự gia
tăng nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào đáy.
Tổn thương bắt đầu như các nốt nhú nhỏ màu hồng hoặc đỏ, sau đó phát
triển thành các u lớn hơn, bề mặt có giãn mạch. Có thể loét giữa u xuất hiện khi khối u
lớn lên, tạo ra một đường viền xơ chai nổi cao lên khỏi trung tâm và ổ loét được che đi
bởi vảy tiết.
Phần lớn các khối u có tiến triển tiên đoán được và phát triển từ từ.
Đôi khi, thể u còn tiết ra chất nhầy tạo thành dạng nang.
Mô bệnh học: dưới sự phóng đại của kính hiển vi, BCC có hình ảnh là những
đảo tế bào ưa base mạnh, có ranh giới rõ ràng.
55
Hình 9.1. Ung thư biểu mô tế bào đáy thể sần
Tổn thương là một mảng màu hồng, trên bề mặt có thể có vảy da, một vài
trường hợp có viền nổi gờ lên.
Tổn thương của thể nông không ăn sâu nhưng lại có xu hướng lan rộng. Có
khi kích thước tổn thương đến vài cm.
Loét nông hay đóng vảy có thể xuất hiện ở phần trung tâm, dễ bị nhầm với
chàm, bệnh vảy nến, bệnh nấm da, hoặc bệnh Bowen.
Mô bệnh học: BCC thể nông có một hoặc nhiều dải u ưa base ở lớp dưới của
thượng bì, thường không bao giờ thâm nhiễm xuống lớp chân bì.
56
Dạng xơ cứng là dạng ác tính nhất của ung thư biểu mô tế bào đáy. Những
tổn thương này có dạng những mảng dẹt hoặc hơi lõm màu vàng có bờ không rõ. Loét
hiếm gặp và thường nằm ở mặt.
Thường khó phát hiện, khi xác định được thì đã ở giai đoạn muộn, phát triển
khá rộng.
Mô bệnh học
BCC thể xơ cứng có hình ảnh mô bệnh học là các dải tế bào đáy nằm xen
lẫn trong sự tăng sinh sợi xơ.
Khác với các thể khác, thể xơ thường không có ranh giới khối ung thư rõ ràng.
Có thể lan xuống đến lớp chân bì và dễ bị nhầm lẫn với các tổn thương da khác.
4. ĐIỀU TRỊ
4.1. Cắt bỏ
Phẫu thuật cắt bỏ là kỹ thuật phổ biến nhất trong điều trị ung thư biểu mô tế
bào đáy.
Đường rạch da cách bờ tổn thương khoảng từ 2 mm (đối với các tổn thương có
chu vi rõ ràng, đặc biệt là trên mặt) tới 5 mm (đối với các tổn thương không có ranh giới
rõ rệt). Chiều rộng 4 mm cho tỷ lệ khỏi bệnh 94-96% theo Zitelli.
57
Khoảng 80% UTBM tế bào đáy có kích thước nhỏ, vết thương sau cắt bỏ có
thể đóng trực tiếp, nên sinh thiết cắt bỏ và đóng kín khuyết da và có thể thực hiện trong
một lần duy nhất. Tổn thương cần được cắt theo hình elip với trục dài chạy dọc theo
đường Langer. Mẫu mô cần được đánh dấu theo vị trí ban đầu của nó tại chỗ và gửi đi
giải phẫu bệnh để đánh giá ranh giới.
58
đã được FDA chấp thuận cho điều trị của các khối u nông, cùng với dày sừng do nắng
và mụn cóc sinh dục.
Hóa trị liệu chỉ được áp dụng cho ung thư biểu mô tế bào đáy:
5-fluorouracil (5-FU) là một tác nhân hóa trị liệu được sử dụng tại chỗ để
điều trị ung thư biểu mô tế bào đáy. Ứng dụng cho tổn thương và lề nhỏ của mô bình
thường. Việc điều trị thường được thực hiện hàng đêm và tiếp tục trong 4-12 tuần cho
đến khi tổn thương trở nên đỏ và loét. Các tổn thương sau đó sẽ tróc và cuối cùng là
lành sau 1-2 tháng.
Isotretinoin và các liệu pháp dựa vào vitamin A khác đã thể hiện hiệu ứng
chống ung thư trên cơ thể. Điều trị tại chỗ bằng acid retinoic khiến biểu mô dày lên
đáng kể với sự gia tăng số lượng lớp tế bào, thể hiện dấu hiệu của sự biệt hóa. Trên lâm
sàng, bệnh dày sừng do ánh sáng thoái lui nhờ điểu trị bằng retinoid tại chỗ. Hiệu quả
có thể được tăng cường bằng cách kết hợp điều trị với 5-FU. Retinoid tại chỗ cũng có
thể hữu ích trong phòng ngừa ung thư biểu mô tế bào đáy.
Trong các nghiên cứu sơ bộ, alpha-interferon tỏ ra hiệu quả trong điều trị ung
thư tế bào đáy u sần và nông. Cơ chế hoạt động của alpha interferon liên quan tới sự
kích hoạt không đặc hiệu của các đại thực bào và các tế bào diệt tự nhiên (NK) trong
khu vực khối u, tăng cường độ đáp ứng chống ung thư của cơ thể chủ.
59
10
60
3. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
61
5. ĐIỀU TRỊ
Ở đa số bệnh nhân, phẫu thuật cắt bỏ u là phương pháp điều trị chính. Thông
thường, đường rạch da cách bờ u được lấy là 0,5 mm ở mặt và 1 cm ở những nơi khác.
Zitelli đề xuất cắt rộng 4 mm cho các tổn thương có nguy cơ thấp và 6 mm cho các tổn
thương có nguy cơ cao.
Kiểm soát khối u và bảo tồn mô lành bằng phẫu thuật Mohs, rất hữu ích cho
các khối u nguy cơ cao và tái phát.
Áp lạnh cho người cao tuổi hoặc cho bệnh tại chỗ /dày sừng do ánh sang.
Nạo vét và đốt điện.
Không nên sử dụng chiếu xạ như phương thức điều trị chính, nhưng có thể
dùng như điều trị hỗ trợ.
62
11
U HẮC TỐ ÁC TÍNH
63
3. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
64
Tiêu chuẩn phụ: khi không có ba tiêu chuẩn sau, tổn thương ít khả năng là u
hắc tố ác tính.
Viêm (51%).
Chảy máu/thay đổi cảm giác (46%).
Đóng vảy hay chảy nước (31%).
Đường kính >7mm.
4. ĐIỀU TRỊ
65
4.2. Phẫu thuật thì hai
Sau khi có kết quả mô bệnh học về chiều dày của u hắc tố, tiến hành phẫu thuật
cắt bỏ tổn thương. Chiều rộng của da cắt bỏ cách tổn thương được quyết định bởi chiều
dày của u hắc tố trên mẫu cắt mô học.
Độ rộng của da cắt bỏ được khuyến cáo như sau:
U hắc tố tại chỗ: cắt toàn bộ khối u trong biên độ 5-10 mm.
U hắc tố với độ sâu dưới 1 mm: cắt trong biên độ 1 cm.
U hắc tố với độ sâu tối đa 1-2 mm: cắt trong biên độ tối thiểu 1 cm và tối đa 2 cm.
U hắc tố với độ sâu > 2 mm: cắt trong biên độ tối thiểu 2 cm.
Khi đã xác định được biên độ cắt, da và mô dưới da cần được cắt theo chiều
thẳng đứng. Tất cả mô nằm phía trên lớp cân cơ sâu cần được loại bỏ.
Tiến hành tạo hình che phủ khuyết da sau cắt u hắc tố bằng một trong các
phương pháp sau:
Đóng trực tiếp.
Ghép da.
Tạo vạt.
66
Tái phát tại chỗ thường được biểu hiện bằng một nốt dưới da màu xanh, phát
sinh gần (trong vòng 2-5 cm) vết cắt cũ của u hắc tố nguyên phát (di căn vệ tinh) hoặc
trên đường tới hạch bạch huyết khu vực (di căn chuyển tiếp). Bất kỳ hạch dưới da nào
phát sinh trong vùng lân cận vị trí cắt u hắc tố cần được coi là bệnh tái phát hoặc tiến
triển cho đến khi được chứng minh ngược lại.
Chẩn đoán được thực hiện nhanh chóng và chính xác nhờ sinh thiết kim nhỏ
(FNA). Đôi khi có thể cần sinh thiết để xác nhận chẩn đoán.
Đối với các tổn thương duy nhất, cắt bỏ vành da rộng tại chỗ rộng rãi. Bệnh
nhân với nhiều di căn vệ tinh hoặc di căn rộng lớn ở chi là ứng cử viên cho phác đồ hóa
trị với melphalan truyền cục bộ vào chi.
Ở những bệnh nhân không có chỉ định truyền thuốc cục bộ ở chi, có thể tiêm
trực tiếp vào hạch di căn thuốc kích thích miễn dịch cytokine như BCG hoặc
interleukin-2, hoặc các tác nhân hóa trị liệu điều tra như gel chứa cisplatin.
67
12
2.1. Cắt mô
Sau khi giải thích về quy trình cho bệnh nhân, bao gồm cả rủi ro và các phương
án điều trị, quy trình Mohs được bắt đầu trên khối u được xác nhận bằng sinh thiết. Các
vùng liên quan với khối u được đánh dấu ra và rửa sạch với cồn hoặc betadine.
Gây tê tại chỗ: phẫu thuật Mohs thường sử dụng gây tê tại chỗ với lidocain 0,5 - 1%
được hòa với adrenalin 1/100.000. Thuốc tê được tiêm xung quanh và đáy thương tổn.
Mục đích của thuốc tê là để giảm đau và hạn chế chảy máu trong lúc phẫu thuật.
Cắt bỏ khối u: khối u được cắt bỏ một phần bằng thìa nạo hay dao mổ theo
hình lòng chảo để bộc lộ ranh giới khối u về mặt lâm sàng.
Độ dày lớp Mohs: sau đó khối u được cắt bỏ hoàn toàn với mép cách bờ u
khoảng 1-3 mm (lớp Mohs). Độ dày lớp Mohs phụ thuộc vào từng thương tổn và quyết
định của phẫu thuật viên. Thông thường lớp Mohs dày 1- 2 mm. Lớp Mohs thường
mỏng ở các vị trí như mi mắt, cánh mũi vì cần tiết kiệm tối đa tổ chức lành. Tuy nhiên,
lớp Mohs càng mỏng thì khả năng phải phẫu thuật nhiều lớp càng tăng. Lớp Mohs phải
đảm bảo lấy hết toàn bộ bề mặt đáy thương tổn, không bị thủng, rách hoặc khuyết.
Đánh dấu bờ tổn thương: bờ thương tổn được đánh dấu phù hợp với vị trí, kích
thước của từng loại tổn thương. Các dấu thường được thực hiện ở cạnh da tại 3 điểm
như 9, 12 và 3 giờ để định hướng. Mục đích để không bị nhầm hướng của thương tổn.
Cầm máu: việc cầm máu đối với phẫu thuật Mohs phải nhẹ nhàng vì có thể đốt
cháy tế bào ung thư ở lớp đáy dẫn đến khó đánh giá kết quả, nhất là trong khi làm giảm
khối u. Nên cầm máu bằng ép và bệnh nhân được đưa vào phòng chờ.
68
2.2. Xử lý mẫu xét nghiệm
Việc xử lý tốt mẫu xét nghiệm là rất quan trọng, nó được thực hiện trong
khuôn khổ đơn vị Mohs.
Kỹ thuật viên lấy mẫu và vẽ bản đồ phẫu thuật của mô trên thẻ, chỉ rõ định
hướng của các cấu trúc giải phẫu và các dấu.
Mẫu bệnh phẩm được xử lý toàn bộ hoặc chia thành nhiều phần.
Các cạnh được đánh dấu trên mô và trên bản đồ bằng thuốc nhuộm theo mã
màu. Sau đó mẫu mô được lật ngược (phần sâu lên trên) và đặt vào máy cryostat. Phần
sâu ở ngoài cùng được san phẳng bằng một phiên bản kính.
Khối mô được đông lạnh và sau đó dùng dao cắt những lát ngang bao gồm toàn
bộ đáy của mẫu cũng như rìa thượng bì.
Mô mỏng này được đưa lên phiên bản kính và nhuộm, thường là với
hematoxylin và eosin stain hoặc với toluidine màu xanh. Rất ít khi sử dụng hóa mô
miễn dịch trong phẫu thuật Mohs.
3. CHỈ ĐỊNH
Vị trí: vùng hay tái phát ung thư như vùng trán, giữa mặt, mũi, tai. Vùng có cấu
trúc đặc biệt như mắt, ngón tay ngón chân, sinh dục.
Ung thư hay tái phát hoặc dai dẳng.
Ung thư không rõ ranh giới.
Ung thư xâm lấn tổ chức như ung thư tế bào đáy thể xơ, thể xâm lấn, ung
thư quanh thần kinh, thể hỗn hợp. Ung thư tế bào vảy kém biệt hóa, xâm lấn, quanh
thần kinh.
Cơ địa đặc biệt: bệnh nhân bị khô da sắc tố, giảm miễn dịch, hội chứng ung thư
tế bào đáy.
69
Các khối u khác điều trị thành công bằng phương pháp Mohs, bao gồm ung thư
tế bào đáy, ung thư tế bào gai, u gai sừng hóa (Keratoacanthoma), ung thư sùi, hồng sản
Queyrat, bệnh Bowen, Paget ngoài vú, u hắc tố ác tính tại chỗ, sarcom xơ da lồi
(Dermatofibrosarcoma protuberans), u vàng xơ không điển hình, ung thư phần phụ vi ổ,
ung thư tuyến bã, u cơ trơn, u tế bào hạt ác tính, ung thư tế bào merkel, ung thư tuyến
Eccrine/apocrine, ung thư mạch máu (Angiosarcoma), ung thư nang lông.
4. ƯU NHƯỢC ĐIỂM
4.1. Ưu điểm
Tỷ lệ khỏi cao.
Bảo vệ tối đa tổ chức lành.
Quy trình làm và đọc trên tiêu bản nhanh.
Nguy cơ tai biến phẫu thuật thấp (ít nguy cơ cho bệnh nhân tim, phổi).
Mở rộng khả năng phẫu thuật cho những bệnh nhân không thể điều trị với
phương pháp khác.
Có thể điều trị ngoại trú.
70
Graham Colver 2002 đã tổng hợp phân tích từ nhiều nghiên cứu chỉ ra 3 vấn
đề cần quan tâm về ung thư biểu mô tế bào đáy tái phát.
Thời gian: 30% tái phát trong năm đầu tiên; 20% tái phát trong năm thứ 2; 16%
tái phát trong năm thứ 3; 8% tái phát trong năm thứ tư; 8% tái phát trong năm thứ 5.
Tái phát liên quan với các phương pháp tạo hình: phần lớn ung thư biểu mô
tế bào đáy tái phát vào cuối năm thứ nhất nếu khuyết tổ chức được tạo hình bằng ghép
da dày toàn bộ, vào cuối năm thứ hai nếu khuyết da được tạo hình bằng ghép da xẻ đôi,
vào cuối năm thứ ba nếu khuyết da được tạo hình bằng các vạt da.
Yếu tố nguy cơ: ung thư ở vùng chữ H có nguy cơ tái phát cao vì ở vùng
này có nhiều bó mạch thần kinh và ung thư có xu hướng xâm lấn sâu ở giai đoạn sớm.
Vincent A. Muscarella 1999 cho rằng tỷ lệ tái phát phụ thuộc vào kích thước,
vị trí, và loại ung thư theo mô bệnh học.
Hruza qua nghiên cứu phẫu thuật Mohs cho 2414 bệnh nhân ung thư da đã
kết luận rằng lý do giải thích cho tái phát ung thư da gồm: yếu tố kỹ thuật, đặc điểm u,
đặc điểm bệnh nhân. Hơn 75% ung thư tái phát là do lỗi kỹ thuật, bao gồm: đọc slide sai
chiếm hơn 25% các trường hợp, kỹ thuật labo sai chiếm 40%, thất bại trong việc lấy
hoàn toàn phần còn lại của u chiếm 10%.
71
13
Nhiệm vụ của phẫu thuật tạo hình là tái tạo (phần mô bị mất hoặc các dị dạng bẩm
sinh…), phục hồi (phần mô bị biến dạng như di chứng bỏng…), trả lại sự toàn vẹn của
da (sau khi cắt bỏ u và các khuyết da và mô mềm do nhiều nguyên nhân)… Da vùng
hàm mặt là những nơi được chú ý nhiều vì lý do hình thái, chức năng và thẩm mỹ. Kể từ
khi ra đời (1960), laser đã sớm được áp dụng trên da và đến nay đã trờ thành một trong
những phương pháp điều trị có hiệu quả cao trong điều trị nhiều bệnh lý ở da và vùng
hàm mặt.
72
2. TƯƠNG TÁC GIỮA LASER VÀ TỔ CHỨC SỐNG
Quá trình tương tác giữa laser và tổ chức sống phụ thuộc vào các yếu tố của laser
gồm: bước sóng, công xuất, thiết diện tác động của chùm tia, thời gian chiếu và các tính
chất của tổ chức sống như tỉ lệ của nước, các chromophore có trong đó...
2.1. Các hiện tượng quang học xảy ra khi laser chiếu vào tổ chức
Khi chiếu laser vào bề mặt mô sống sẽ xảy ra các hiện tượng: phản xạ, tán xạ, hấp
thu và xuyên qua. Tuỳ theo các yếu tố của laser và của tổ chức sống được chiếu laser
mà các hịên tượng trên xảy ra ít hay nhiều.
Hiện tượng hấp thu xảy ra khi năng lượng của laser được các nguyên tử, ion, phân
tử, các gốc tự do của mô sống hấp thu và chuyển thành các dạng năng lượng khác tạo ra
những biến đổi trong tổ chức (tức hiệu ứng đặc trưng của tác động laser). Các nguyên
tử, ion, phân tử, các gốc tự do này được gọi là các sắc thể (Chromophore). Các mô sống
khác nhau có sự hấp thu khác nhau với các bước sóng. Khi không có hấp thu sẽ không
có phản ứng xảy ra ở mô sống.
73
không sinh ra nhiệt. Các liên kết này bị phá vỡ dẫn đến phá huỷ tổ chức ở nơi laser
chiếu vào. Hiệu ứng này còn gọi là quang hoá tách (photochemolysis). Ví dụ: laser
Excimer trong điều trị tật khúc xạ (cận thị)…
74
3. NHỮNG ỨNG DỤNG CHÍNH CỦA LASER TRONG LĨNH VỰC TẠO HÌNH VÀ DA
Điều trị các u nhỏ ở bề mặt da: U sắc tố thông thường, mắc phải hay nốt ruồi
(Common Acquired Melanocytic nevi), U gai, hạt cơm (Verruca, Warts), U ống tiết mồ
hôi (Syringoma), U xơ mạch máu tuyến bã (Angiofibroma), Mảng mỡ vàng mi mắt
(Xanthelasma), U biểu mô lông (Trichoepithelioma), Mũi sư tử (Rhinophyma), U sắc tố
bẩm sinh (Congenital melanocytic nevi), Sùi mào gà (Condyloma Acuminata)…
Điều trị các tổn thương sắc tố lành tính của da: đồi mồi, tàn nhang (Solar
Lentigines, Freckles), Mảng sắc tố nâu (Café-aut lait macules), Nám da nông (Melasma),
Nám da sâu (Hori’s nevi hay Acquired bilateral nevus of Ota-like macules: ABNOM), U
sắc tố thẻ Ota (Nevus of Ota), U sắc tố thể Oto (Nevus of Oto), U sắc tố dạng Spilus (Nevus
Spilus), Tăng sắc tố sau viêm (Postinflammatory Hyperpigmentation: PIH)…
Điều trị các bất thường mạch máu ở da và trong khoang miệng: các u mạch
máu (Hemangiomas), Dị dạng mao mạch da (Port wine stains), Giãn mạch nhỏ ở da
(Telangiectasia), Dị dạng tĩnh mạch (Venous malformations), Giãn hệ tĩnh mạch hiển ở
chân (Varicose)…
Điều trị các loại sẹo và sẹo lồi: sẹo lõm, rỗ sau trứng cá (Atrophic acne scars), sẹo
phì đại (Hypertrophic scars), sẹo xấu thông thường như sẹo gồ, cầu sẹo, sẹo vón cục… Các
vết dãn da (Striae distensae). Sẹo lồi (Keloide scars) và sửa sẹo (Scar revision).
Điều trị da lão hóa nhằm tăng cường chất lượng da để trẻ hóa da: da nhăn, da
nhão, da thô, lỗ chân lông to…
Triệt lông thẩm mỹ (Hair removal), điều trị bệnh rậm lông ở phụ nữ
(Hirsutism), điều trị viêm nang lông (Pseudofolliculitis).
Xóa xăm (Tattoos removal).
Điều trị các tổn thương viêm ở da như trứng cá… Làm nhanh liền vết thương
kì đầu. Điều trị các vết thương lâu liền. Điều trị bỏng độ II-III nông.
Điều trị vẩy nến (Psoriasis), bạch biến (Vitiligo)
Điều trị các tổn thương tiền ung thư và ung thư da như u tế bào đáy (Basal cell
carcinoma)…
Trong mổ mở: Laser thay dao mổ kim loại dùng để cắt rạch trong mổ mở như
mổ tạo hình mi mắt bằng laser CO2…
Trong can thiệp nội soi: sử dụng các laser truyền qua dây dẫn sáng như laser
Nd: YAG, laser bán dẫn để phá hủy mô mỡ trong hút mỡ…
Hàn nối mạch vi phẫu bằng laser (Laser assisted microvascular anastomosis)…
75
4. ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA ĐIỀU TRỊ LASER
4.1. Ưu điểm
Trong phẫu thuật (dùng cắt rạch, đốt bốc bay) chủ yếu bằng laser CO2
Chính xác, tinh tế, ít sang chấn.
Vùng tổn thương ngoài ý muốn nhỏ.
Cầm máu tốt, có thể mổ khi có rối loạn đông chảy máu.
Không ảnh hưởng đến bệnh tim và máy tạo nhịp.
Sau mổ ít đau, ít phù nề, ít xuất tiết, phục hồi nhanh…
Trong điều trị bệnh do có thể gây tổn thương chọn lọc chính xác vào mô bệnh
ở mức dưới tế bào, tế bào và cấu trúc vi thể của mô bệnh nên các laser đặc trị có thể trở
thành phương pháp điều trị mới, đặc hiệu so với các phương pháp thông thường hoặc
đem lại kết quả điều trị tốt hơn với quá trình điều trị nhẹ nhàng hơn, ít tổn thương hơn
và không độc hại.
76
Laser Bước sóng Dẫn truyền Phát tia Chromophore
6. AN TOÀN LASER
Laser là một loại tác nhân vật lý có tính đặc thù mang năng lượng cao nên khi sử
dụng cần tuân thủ chặt chẽ chế độ an toàn laser.
An toàn với mắt: vì chùm tia laser là một chùm bức xạ có mật độ năng lượng
cao cho dù là laser công xuất thấp vì thế nếu chiếu thẳng vào mặt sẽ có thể gây tổn
thương không hồi phục cho võng mạc mắt (của cả bệnh nhân và nhân viên y tế trong
phòng điều trị) phải được bảo vệ bằng cách che chắn hay đeo kính chuyên dụng có tác
dụng ngăn bước sóng của laser đang được dùng.
Chống cháy, nổ, bỏng: với các laser có công xuất cao dùng để phẫu thuật rất dễ
xảy ra các tai biến bỏng da quanh vết mổ hay da nơi khác do tia phản xạ nên cần che
chắn tốt vùng mổ (bằng đồ ướt) và vùng không mổ, không chiếu laser vào dụng cụ kim
loại. Cháy nổ dễ xảy ra khi laser chiếu vào các đồ và các chất dễ cháy có trong phòng
mổ như ether, oxy…
An toàn với khói sinh ra khi phẫu thuật bằng laser đặc biệt là laser CO2. Khói
sinh ra do sự bay hơi tổ chức nên không chỉ gây cản trở tầm nhìn ở trường mổ, gây mùi
khó chịu mà còn độc hại do các chất hữu cơ bị cháy dở dang và nhất là người ta còn
thấy các mẩu phân tử AND của HPV (Humanpapiloma virus) còn nguyên vẹn có trong
khói khi điều trị bốc bay các u gai. Vì thế cần loại bỏ khói càng sớm càng tốt bằng cách
hút triệt để và khói phải được khử mùi và lọc kỹ càng, tiêu chuẩn là phải lọc được các
phần tử có kích thước ≥5 μm.
An toàn với điện cao áp vì các máy laser thường có bộ phận cao áp nhất là
laser có công xuất càng cao để tránh bị điện giật.
Cuối cùng bên ngoài phòng điều trị laser cần có tín hiệu cảnh báo nguy hiểm khi
laaser làm việc như logo, đèn cảnh báo…
77
14
Các bất thường mạch máu là bệnh lý rất hay gặp, cho đến hiện nay việc chẩn đoán
và điều trị các tổn thương này vẫn luôn là một thách thức đối với nhiều bác sĩ của nhiều
chuyên khoa khác nhau, một phần do sự không thống nhất về thuật ngữ.
Trong suốt một thời gian dài, nhiều hệ thống phân loại của các tổn thương này đã
được đề nghị.
Những phân loại đầu tiên về những bất thường mạch máu là phân loại mô tả, dựa
vào sự tương đồng của tổn thương với những gì thường gặp trong sinh hoạt, như
“strawberry hemangioma”, “cherry angioma”, “port-wine stain”, “salmon patch”,
hoặc các từ Latinh như “macula materna”, “naevus maternus”....
Vào giữa thế kỷ 19, Virchow đề nghị một sự phân loại theo mô bệnh học, dựa trên
kích thước và đặc điểm của những mạch máu cấu tạo nên, phân chia những bất thường
mạch máu thành:
U mạch máu đơn giản (Angioma simplex): bao gồm các mao mạch.
U mạch máu hang (Angioma cavernosum): thay thế những cấu trúc mạch máu
bình thường bằng những lòng mạch rộng.
U mạch máu thể chùm (Angioma racemosum): bao gồm những mạch máu giãn
rộng được nối thông với nhau.
Wegner (1877) đã đề nghị một phân loại tương tự cho những tổn thương bạch mạch.
Phân loại của Virchow đã được phổ biến trong các sách giáo khoa cho đến thế kỷ
20. “U mạch đơn giản” (“Angioma simplex”) của Virchow đã trở nên đồng nghĩa với
“vết dâu tây” (“strawberry mark”) hoặc “u máu mao mạch” (“capillary hemangioma”).
Tuy nhiên, thuật ngữ “capilarry hemangioma” còn được dùng cho cả “vết rượu vang”
(“port-wine stain”) và các tổn thương mạch máu mắc phải khác.
Về sau, các phân loại theo bệnh học, phôi thai học cũng đã được đề nghị. Tuy
nhiên, các hệ thống phân loại này đều không thiết lập được sự tương quan với những quan sát
lâm sàng.
Năm 1976, Edgerton đề nghị phân loại theo lâm sàng dựa trên sự tiến triển tự nhiên
của tổn thương, phân chia các bất thường mạch máu (Angiomas) thành các nhóm lớn:
Nhóm về cơ bản không thay đổi nếu không điều trị.
Nhóm có thể trông đợi sự biến mất tự phát.
Nhóm vẫn phát triển hoặc gây nên sự tăng trưởng của các tổ chức kế cận.
Mặc dù với phân loại này tác giả đã ghi nhận phạm vi của những kết quả lâm
sàng, nhưng không nhận biết được nền tảng cơ bản giải thích cho sự khác nhau trong
tiến triển tự nhiên của các bất thường mạch máu.
78
Năm 1982, Mulliken và Glowacki đã đề xuất một phân loại mới dựa trên nghiên
cứu về các nét đặc trưng tế bào và sự liên quan với đặc điểm lâm sàng và tiến triển của
các loại bất thường mạch máu khác nhau. Các tác giả phân chia các bất thường mạch
máu thành 2 nhóm khác nhau gồm u mạch máu (hemangiomas) và dị dạng mạch máu
(vascular malformations). Thuật ngữ “Angiomas” đã được thay thế bằng “Hemangiomas
and Vascular Malformations”.
U mạch máu (hemangiomas) là những tổn thương tăng sinh các tế bào nội mô,
thường xuất hiện sau sinh, phát triển nhanh trong những tháng đầu của đời sống và thoái
lui qua nhiều năm. Những tế bào nội mô với một tốc độ phân chia cao là nguyên nhân
gây ra sự tăng thể tích của khối u trong giai đoạn tăng sinh.
Dị dạng mạch máu (vascular malformation) là sự phát triển bất bình thường cấu
trúc hình thể của các mạch máu trong quá trình phát triển phôi thai (giãn rộng, thành
mỏng, có hoặc không các shunt…), với những tế bào nội mô mạch máu trưởng thành và
ổn định. Mặc dù không phải lúc nào cũng rõ ràng, những tổn thương này xuất hiện vào
lúc sinh, lớn lên tỉ lệ thuận với sự tăng trưởng của trẻ và không bao giờ thoái triển. Tốc
độ phân chia của các tế bào nội mô luôn luôn bình thường.
Không giống các phân loại trước đây, phân loại mới này là hệ thống phân loại
thực hành, có thể áp dụng dễ dàng trong chẩn đoán và giúp định hướng cho sự điều trị.
Với những sự thay đổi nhỏ, phân loại của Mulliken và Glowacki đã trở thành hệ thống
phân loại các bất thường mạch máu được chấp nhận rộng rãi nhất trong y văn.
Năm 1996, Hiệp hội quốc tế nghiên cứu các bất thường mạch máu gọi tắt là ISSVA
(International Society for the Study of Vascular Anomalies) đã chấp nhận và bổ sung phân
loại của Mulliken và Glowacki, xem đó như khung sườn chính thức cho việc phân loại
và nghiên cứu các bất thường mạch máu.
Trong sơ đồ phân loại được bổ sung này, các bất thường mạch máu (vascular
anomalies, hoặc vascular birthmarks) được phân chia thành các u mạch máu (vascular
tumors) và các dị dạng mạch máu (vascular malformations).
Trong đó, nhóm u mạch máu bao gồm cả các khối u khác hiếm gặp hơn như u hạt
sinh mủ, u mạch dạng búi, u mạch nội mô dạng kaposi… (pyogenic granuloma, tufted
angioma, kaposiform hemangioendothelioma, congenital hemangioma…). Thuật ngữ u
mạch máu trẻ em (infantile hemangioma hoặc hemangioma of infancy) đã được đề nghị
cho các u mạch máu thông thường ở trẻ em để phân biệt với các khối u mạch máu khác.
Các dị dạng mạch máu bao gồm dị dạng mao mạch, dị dạng tĩnh mạch, dị dạng bạch
mạch, dị dạng động mạch, và các thể phối hợp như dị dạng tĩnh mạch - bạch mạch, mao
mạch - tĩnh mạch….
Các dị dạng mạch máu còn được phân chia thành nhóm dị dạng mạch máu dòng chảy
chậm (slow-flow): CM, VM, LM và các dị dạng mạch máu dòng chảy nhanh (fast-flow):
AM, AVM, AVF.
79
Bảng 14.1. Phân loại của ISSVA (Worshop, Rome, 1996) về các bất thường
mạch máu (Vascular Anomalies)
Các u mạch máu (Vascular tumors) Dị dạng mạch máu (Vascular malformations)
Phân loại của ISSVA có thể được áp dụng cho tất cả các chuyên ngành có liên
quan đến các bệnh lý bất thường mạch máu từ nhi khoa, da liễu, chẩn đoán hình ảnh,
ngoại khoa đặc biệt là phẫu thuật hàm mặt, tạo hình và là ngôn ngữ chung cho phép
đánh giá, so sánh các kết quả, các phương pháp điều trị.
Mặc dù sự chấp nhận ngày càng tăng của sơ đồ phân loại này, sự lẫn lộn trong y
văn vẫn còn phổ biến.
80
15
Hình 15.1. Hình ảnh điển hình của các u mạch máu trẻ em:
Thể nông (trái), thể sâu (giữa), thể hỗn hợp (phải).
81
Hình 15.2. U mạch máu trẻ em lúc 1 tháng (trái) và hình ảnh thoái lui lúc 3 tuổi (phải)
82
Được phát hiện năm 1967 và hiện nay đã trở thành phương pháp điều trị hàng đầu
đối với những u mạch máu trẻ em lớn biến chứng đe dọa sự sống hoặc chức năng.
Prednisolon hoặc prednison 2-3 mg/kg/ngày được uống trong 3-4 tuần, sau đó giảm liều
dần trong vài tuần đến vài tháng. Các tác dụng phụ bao gồm: vẻ mặt Cushing, dễ bị kích
thích, kích ứng dạ dày, giảm phát triển chiều cao và cân nặng...
Corticosteroids tiêm trong u:
Điển hình triamcinolone hoặc/và bethametason được tiêm trong khối u. Việc tiêm
tại chỗ có mục đích khu trú tác dụng của steroid tại tổn thương và làm giảm thiểu những
tác dụng toàn thân không mong muốn.
Interferon (IFR)
Interferon-alfa đã được sử dụng từ năm 1992 để điều trị các u mạch máu trẻ em
lớn, biến chứng không đáp ứng với corticosteroides. Interferon được tiêm dưới da với
liều khởi đầu là 1 million U/m²/ngày, sau đó tăng dần cho đến 2-3 million U/m²/ ngày trong
thời gian 9-12 tháng. Sự thoái lui nhận thấy trong 50-84% các trường hợp. Tác dụng phụ
thường gặp: sốt, đau cơ, tăng men gan, giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, thiếu máu, trầm cảm
và thiểu năng tuyến giáp, đặc biệt là liệt co cứng hai bên (spastic diplegia) không hồi phục.
Vì vậy nhiều tác giả cho rằng Interferon chỉ nên dùng cho trẻ dưới 1 tuổi khi u đe dọa tính
mạng mà không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác.
Vincristine, Bléomycine đã được đề nghị để thay thế interferon.
Propranolol
Hiệu quả của propranolol trong điều trị các u mạch máu trẻ em đã được phát hiện
tình cờ vào năm 2008. Tuy nhiên, hiệu quả và tính an toàn của propranolol so sánh với
corticosteroid chưa được nghiên cứu. Các tác dụng phụ của propranolol cũng đã được
báo cáo như co thắt phế quản, chậm nhịp tim, hạ huyết áp, hạ đường huyết, co giật, tăng
kali máu, ỉa chảy. Hạ đường huyết, hạ huyết áp, co giật ở trẻ nhỏ có thể gây ra các biến
chứng thần kinh có hại vĩnh viễn. Trẻ với bệnh hen, bất thường glucose máu, bệnh tim
bẩm sinh, và các dị dạng mạch máu não (hội chứng PHACE…) được xem không thích
hợp cho propranolol.
Laser
Laser màu (PDL) đã được sử dụng trong điều trị các UMMTE thể nông, các giãn
mao mạch còn lại của những u đã thoái lui, hoặc các u bị loét.
Phương pháp làm nghẽn mạch: rất hiếm khi được sử dụng.
Các phương pháp khác như áp lạnh, tiêm xơ, xạ trị hiện nay hầu như không
còn được áp dụng do các biến chứng nặng như sẹo xấu, teo tổ chức, giảm sắc tố, giãn
mao mạch, sự đóng sớm của vùng cốt hoá....
Phẫu thuật
Phẫu thuật thường được thực hiện muộn (sau 7 tuổi), cho các di tích còn sót lại
sau khi UMMTE thoái lui.
83
Có thể phẫu thuật sớm hơn cho một số u ở đầu mặt cổ (mũi, môi, vành tai...). Phẫu
thuật “cấp cứu” cũng được đề nghị trong các tình huống nguy hiểm cho sự sống (u ở hạ
thanh môn, chảy máu nặng hoặc kéo dài...), hoặc ảnh hưởng chức năng trầm trọng (đe dọa
thị lực, tắc nghẽn lỗ mũi...), loét - bội nhiễm, mà không đáp ứng với điều trị nội khoa.
Hình 15.3. U mạch máu bẩm sinh thoái triển nhanh: lúc mới sinh (trái)
và lúc 10 tháng sau khi thoái lui hoàn toàn với đốm teo bì còn sót lại (phải).
U mạch máu bẩm sinh không thoái triển (NICH: non involuting congenital
hemangioma)
Đó là một u mạch máu đặc biệt được Enjolras mô tả và gọi tên lần đầu tiên vào
năm 2001 để phân biệt với các UMMTE thông thường, xuất hiện dưới dạng một mảng ít
gồ, màu xanh lơ, nóng, giãn mao mạch và thường được bao bọc bởi một quầng sáng
nhạt màu hơn. U không thoái triển, điều trị là phẫu thuật.
Hình 15.4. Mảng gồ lên điển hình của u mạch máu bẩm sinh không thoái triển
với bề mặt có các mao mạch giãn to
84
3. CÁC U MẠCH MÁU LÀNH TÍNH MẮC PHẢI KHÁC
U mạch dạng búi (tufted angioma hay angioblastoma)
U mạch nội mô dạng kaposi (kaposiforme Hemangioendothelioma)
Hai dạng u mạch máu này đều có đặc tính thâm nhiễm và xơ. Bệnh nặng hơn vì
có thể tiến triển đến một sự giảm tiểu cầu nặng (hiện tượng Kasabach-Merritt).
Hình 15.5. U mạch nội mô dạng Kaposi (trái). Hiện tượng Kasabach-Merritt mới xuất hiện với
khối u trở nên đột ngột bầm tím và láng bóng (phải).
85
16
Dị dạng mao mạch là một loại dị dạng mạch máu với sự giãn rộng bất thường của
giường mao mạch ở lớp bì nông, trước kia hay gọi là “u máu phẳng” hoặc “vết rượu
vang” (port-wine stains). Dị dạng mao mạch gặp ở khoảng 0,3-0,5% các trẻ, ở cả nam
và nữ với tỉ lệ như nhau, xuất hiện rải rác và không có yếu tố di truyền. Về phương diện
huyết động học, đây là loại dị dạng mạch máu với dòng chảy chậm.
1. LÂM SÀNG
Biểu hiện dưới dạng một vết ở da màu hồng, đỏ hoặc tím, bề mặt phẳng, mịn, luôn
hiện diện lúc sinh, không bao giờ thoái lui, phân bố không cân xứng, có thể gặp ở mọi
nơi. Tổn thương lớn lên cùng tỉ lệ với sự phát triển của cơ thể trẻ, có xu hướng dày lên,
đậm màu hơn và đôi khi hình thành các nốt “mạch” phì đại nổi gồ lên bề mặt da (chủ
yếu gặp ở mặt), có thể gây phì đại tổ chức dưới da hoặc niêm mạc.
Tổn thương ở mặt rất hay gặp, khu trú thường theo đường đi của 3 nhánh dây thần
kinh tam thoa. Trường hợp tổn thương ở vùng V1 (trán và mi trên), cần phải khám mắt
để tìm bệnh tăng nhãn áp để loại trừ hội chứng Sturge-Weber, với bộ ba triệu chứng như
sau: dị dạng mao mạch vùng V1, bệnh tăng nhãn áp, một dị dạng mạch máu não - màng
não (thường gây nên động kinh sớm và nặng với sự chậm phát triển tinh thần -vận
động). Tổn thương của nhánh V2 (hàm trên) liên quan đến vùng mi dưới, má và môi
trên. Nhánh V3 (hàm dưới) liên quan đến vùng hàm dưới, cằm và môi dưới. Tổn thương
theo chỉ một nhánh của dây thần kinh tam thoa gặp trong khoảng 45% các trường hợp,
nhưng những tổn thương liên quan cùng một lúc cả 3 nhánh cũng có thể gặp, thậm chí
chiếm nửa mặt hoặc toàn bộ khuôn mặt.
Hình 16.1. Hình ảnh lâm sàng các dị dạng mao mạch.
86
2. CẬN LÂM SÀNG
Dị dạng mao mạch không cần xét nghiệm gì ngoại trừ:
Tổn thương ở vùng V1: cần chụp cộng hưởng từ não và khám mắt.
3. BIẾN CHỨNG
Dị dạng mao mạch không gây đau, chủ yếu gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tâm lý
cho trẻ.
Tùy thuộc vào vị trí, tổn thương có thể gây nên các rối loạn dinh dưỡng hoặc tăng
trưởng. Các u ở vùng đầu mặt cổ có thể gây nên sự mất cân xứng khuôn mặt, nhất là khi
có tổn thương lan rộng trong má hoặc ở lợi. Thường gặp phì đại một bên môi hoặc rối
loạn khớp cắn. Các dị dạng mao mạch mặt khu trú ở các vùng V2 và/hoặc V3 thường
kèm sự phì đại xương hàm trên và/hoặc xương hàm dưới cùng bên. Các nốt mao - tĩnh
mạch phì đại có thể xuất hiện và chảy máu khi bị chấn thương nhẹ như cạo râu…
Ở các chi, một dị dạng mao mạch có thể phối hợp với phì đại chi trên hoặc chi
dưới cùng bên. Sự phì đại này liên quan đến tất cả các cấu trúc của chi tổn thương
(xương, cơ, mỡ và lớp bì). Sự khác nhau về chiều dài chi thì hiếm gặp.
Một dị dạng mao mạch ở vùng cột sống thắt lưng cũng là một chỉ điểm cho bệnh
lý hở ống thần kinh thắt lưng (dysraphism)
4. ĐIỀU TRỊ
Ngoại trừ phì đại lợi hoặc môi, đôi khi gặp trong trường hợp tổn thương ở vùng
này, các biến chứng thường chỉ là ảnh hưởng thẩm mỹ-tâm lý.
Nhiều loại laser đã được sử dụng trong điều trị các dị dạng mao mạch. Điều trị lựa
chọn hiện nay là laser màu (PDL-Pulse Dye Laser) sử dụng bước sóng ánh sáng vàng
(585-600nm), được hấp thụ chọn lọc bởi oxyhemoglobin và deoxyhemoglobin, cho
phép làm nhạt màu tổn thương sau nhiều lần điều trị. Phần lớn các tổn thương có sự cải
thiện sau điều trị nhưng sự biến mất hoàn toàn của tổn thương là hiếm gặp. Laser có thể
thực hiện dưới gây mê toàn thân khi diện tích lớn.
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ với lớp da mỏng có xu hướng đáp ứng tốt với loại laser này,
ở các tổn thương dày và đậm màu hơn, sự đáp ứng có thể thấp hơn.
Các loại laser khác với sự đâm xuyên tổ chức lớn hơn và sự hấp thụ hemoglobin
kém hơn được sử dụng cho các tổn thương phì đại như laser Nd-YAG với bước sóng dài
1064 nm hoặc laser Alexandrite với bước sóng 755nm. Laser CO2 và laser Argon cũng
đã được sử dụng trong quá khứ nhưng hiện nay ít được sử dụng do nguy cơ để lại sẹo.
Một sự lựa chọn khác là IPL (Intense Pulsed Light), bao gồm các bước sóng chọn lọc
oxyhemoglobin và các bước sóng dài hơn cho phép đâm xuyên sâu hơn vào trong lớp bì.
Trong một số trường hợp, điều trị phẫu thuật có thể được cân nhắc (nhất là khi
không đáp ứng với laser hoặc phì đại tổ chức phần mềm kèm theo). Cắt - khâu đơn giản
một hoặc nhiều thì, cắt tổn thương và tạo hình bằng các vạt tại chỗ, kỹ thuật giãn da
hoặc ghép da có thể được sử dụng. Tuy nhiên, tất cả các kỹ thuật này đều ít nhiều để lại
di chứng sẹo cho bệnh nhân và nên được thảo luận kỹ cho từng trường hợp.
87
17
Các dị dạng bạch mạch, trước kia thường được gọi là u bạch mạch, là các dị dạng
của các mạch bạch huyết với sự hình thành các nang chứa bạch huyết. Chúng có thể là
các nang lớn hoặc các nang bé hoặc hỗn hợp. Dị dạng bạch mạch thể nang lớn bao gồm
một hoặc nhiều nang có kích thước từ 2 cm³ trở lên và thể nang bé gồm các nang có
kích thước nhỏ hơn.
Hình 17.1. Hình ảnh lâm sàng của các dị dạng bạch mạch rất thay đổi từ những tổn thương da
rất nông giới hạn rõ (A), tới những tổn thương nang bé trên xương móng của khoang miệng với
sự phát triển quá mức của xương (B và C), những tổn thương nang lớn khu trú (D), hoặc bệnh
lý phức tạp hỗn hợp nang lớn và nang bé ở nhiều vị trí (cổ, mặt, ổ mắt) (E).
Hình 17.2. Hình ảnh dị dạng bạch mạch với những ổ nhỏ không tín hiệu
và nhiều vách ngăn trên siêu âm
88
Vị trí hay gặp là các hố nách và cổ, nhưng có thể gặp ở bất cứ vị trí nào trên cơ
thể. Có thể xuất hiện các đợt viêm nhiễm được khởi phát bởi một nhiễm trùng ở gần
(nhiễm trùng tai mũi họng, nhiễm trùng răng…). Chảy máu trong tổn thương cũng
thường gặp gây nên sự tăng thể tích đột ngột.
Tiến triển lâm sàng thay đổi từ những tổn thương tương đối vô hại đến những vấn
đề chức năng trầm trọng do các tổn thương ở lưỡi, ổ mắt, hoặc đường thở và gây nên sự
tăng trưởng quá mức hoặc phá hủy xương. Sự giảm số lượng tế bào lymphô và giảm
proteine máu có thể gặp với những tổn thương lớn.
Giống như các dị dạng khác, tiến triển lâm sàng của phần lớn các dị dạng bạch
mạch là sự tăng trưởng không ngừng với các đợt trầm trọng cấp tính do nhiễm trùng và
chấn thương.
3. BIẾN CHỨNG
Các tổn thương ở da có thể xuất hiện sự rò rỉ dịch bạch huyết từ các nang bệnh lý.
Vi khuẩn có thể đi vào các nang này và nhanh chóng lan tỏa vào các tổ chức, gây nên sự
viêm mô tế bào cấp tính có thể dẫn đến sự nhiễm trùng đe dọa sự sống. Vì vậy một liệu
trình điều trị chống nhiểm khuẩn mạnh là bắt buộc.
Một biến chứng nặng khác của các dị dạng bạch mạch lớn ở vùng đầu và cổ là sự
tắc nghẽn đường thở ở vùng thanh quản và khí quản. Việc điều trị rất khó khăn đòi hỏi
nhiều lần phẫu thuật, điều trị thể chất và ngôn ngữ, và một sự theo dõi lâu dài tốt nhất
bởi một nhóm bác sĩ đa chuyên ngành.
Ít gặp hơn, chứng khó nuốt có thể gặp do các tổn thương liên quan đến vùng hạ
hầu và thực quản.
Các biến chứng khác bao gồm chảy máu trong nang, chèn ép thần kinh có thể gây
dị cảm và đau.
4. ĐIỀU TRỊ
Việc điều trị tùy thuộc vào biểu hiện lâm sàng, kích thước, vị trí của tổn thương
và mức độ ảnh hưởng chức năng và biến dạng thẩm mỹ. Điều trị có thể là nội khoa khi
không có ảnh hưởng chức năng, hoặc xâm lấn (phẫu thuật và/hoặc X-quang can thiệp)
trong trường hợp ảnh hưởng chức năng hoặc các đợt viêm nhiễm quá thường xuyên.
Điều trị nội khoa:
Băng ép trong trường hợp phù bạch mạch đôi khi phối hợp với dẫn lưu bạch huyết.
89
Điều trị các đợt viêm nhiễm: liệu pháp corticoid và kháng sinh.
Đề phòng các nhiễm trùng (vệ sinh răng miệng, tiêm chủng, tránh nhiễm virus).
Điều trị xâm lấn:
Laser CO2 có thể được sử dụng cho thể nông ở da dưới dạng các mụn nước nhỏ.
X-quang can thiệp: liệu pháp gây xơ qua da dưới sự hướng dẫn của X - quang
là một phương thức quan trọng để điều trị các tổn thương thể nang lớn và như phương
thức hỗ trợ cho phẫu thuật cắt gần toàn bộ các dị dạng bạch mạch thể hỗn hợp. Một vài
chất gây xơ đã được sử dụng thành công ở những tổn thương này như Ethanol,
Bleomycin, OK-432 và những chất khác.
Những báo cáo gần đây đã chỉ ra rằng dị dạng bạch mạch thể nang bé có thể đáp
ứng tốt với doxycyclin. Một báo cáo gần đây thử nghiệm với rapamycin (hoặc
sirolimus) (một thuốc được sử dụng trong thải trừ mảnh ghép đồng loài) cho việc điều
trị các dị dạng bạch mạch đe dọa sự sống cũng đã chỉ ra kết quả tốt.
Phẫu thuật: cắt và tạo hình khi cần thiết. Cần chú ý các biến chứng có thể xảy
ra khi cố gắng cắt bỏ toàn bộ tổn thương lớn, phức tạp có liên quan đến các cấu trúc
thần kinh mạch máu. Thông thường, cắt gần toàn bộ tổn thương có thể cho các kết quả
hợp lý trong khi chuẩn bị giai đoạn phẫu thuật tiếp theo hoặc liệu pháp gây xơ dưới
hướng dẫn của X-quang.
90
18
Đây là loại dị dạng mạch máu hay gặp nhất (50% các dị dạng mạch máu) và
thường bị chẩn đoán nhầm lẫn với các u mạch máu dẫn đến việc điều trị nhầm lẫn.
1. LÂM SÀNG
Dị dạng tĩnh mạch điển hình hiện diện như là một khối màu hơi xanh của da hoặc
niêm mạc, ít nhiều gồ lên hoặc như một mạng lưới nông các tĩnh mạch giống như các
búi giãn tĩnh mạch (varices). Tổn thương mềm, có thể bị ấn xẹp dễ dàng, phồng trở lại
khi thả ép, tăng thể tích ở tư thế dốc xuống và khi gắng sức. Đôi khi có thể sờ thấy các
nốt vôi hóa được gọi là sỏi tĩnh mạch.
Dị dạng tĩnh mạch luôn luôn xuất hiện vào lúc sinh, nhưng có thể không được
nhận thấy và trở nên có triệu chứng trong thời thơ ấu hoặc tuổi thiếu niên. Tổn thương
có thể nhỏ, khu trú và không gây hậu quả gì trong một thời gian dài, hoặc phát triển vào
trong các cơ, các tạng và xâm chiếm nhiều cấu trúc giải phẫu dẫn đến ảnh hưởng chức
năng hoặc biến dạng thẫm mỹ trầm trọng.
Hình 18.1. Hình ảnh lâm sàng các dị dạng tĩnh mạch
Hình 18.2. Sự tăng thể tích của một dị dạng tĩnh mạch ở tư thế dốc xuống
91
2. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG
Có thể bao gồm:
Các giai đoạn nghẽn mạch do huyết khối (thrombosis): thường hay gặp, hình
thành các nốt sưng, đau, viêm, giảm trong vài ngày, dẫn đến sự hình thành các sỏi tĩnh
mạch (calci hóa các cục máu đông).
Một sự đông máu khu trú trong lòng mạch (LIC): thường ở những dị dạng tĩnh
mạch lớn, biểu hiện bởi các cơn đau và sự tăng các D-dimer (một mảnh protein nhỏ
hiện diện trong máu sau khi cục máu đông rã ra bởi sự phá hủy fibrin). Cần phải phát
hiện sớm vì có thể tiến triển thành đông máu rải rác trong lòng mạch (DIC) khởi phát
bởi một thủ thuật xâm lấn thậm chí ngay cả khi thủ thuật này không liên quan đến dị
dạng tĩnh mạch (phẫu thuật amygdale, viêm ruột thừa…).
Cơn đau trở nên kịch phát bởi sự thay đổi hormon, sự hành kinh, thai nghén, dùng
thuốc ngừa thai…
Những tổn thương ở vùng đầu và cổ có thể gây chảy máu niêm mạc hoặc biến
dạng dần dần gây tổn thương hốc mắt hoặc chèn ép đường thở.
Những dị dạng tĩnh mạch vùng chi có thể gây khác nhau về chiều dài chi, giảm
sản do không sử dụng đến, gãy xương bệnh lý, chảy máu trong khớp hoặc viêm khớp
thoái hóa. Dị dạng tĩnh mạch cơ có thể gây chứng xơ hóa, đau và tàn tật.
4. ĐIỀU TRỊ
Việc điều trị thường được thực hiện bởi một ê kíp đa chuyên ngành. Điều trị có
thể là nội khoa, X-quang can thiệp hoặc phẫu thuật.
Điều trị nội khoa:
Khi không có ảnh hưởng chức năng, việc điều trị thường là triệu chứng, dựa trên
sự nén ép bởi băng chun hoặc bộ quần áo nén (chủ yếu ở các chi) và điều trị nội khoa
các giai đoạn đau:
Điều trị các giai đoạn đau: aspirin 100mg/ngày trong khoảng 10 ngày.
Đề phòng một DIC trong trường hợp có LIC (D-dimer > 500ng/ml) trước một
thủ thuật xâm lấn: heparin trọng lượng phân tử thấp 1/2 liều điều trị (chẳng hạn
Lovenox 1mg/kg/ngày trong 20 ngày kết hợp với mang áo nén ép).
Điều trị xâm lấn:
Trong trường hợp khối u gây ảnh hưởng chức năng hoặc biến dạng thẩm mỹ nặng,
sự điều trị phụ thuộc vào vị trí, kích thước, tính chất khu trú hay lan tỏa của tổn thương,
sự liên quan đến các cấu trúc quan trọng…
92
Điều trị X-quang can thiệp: liệu pháp tiêm xơ qua da (Percutaneous sclerotherapy)
đã trở thành chủ đạo trong việc điều trị các dị dạng tĩnh mạch, là phương thức điều trị
đầu tiên hoặc hỗ trợ cho phẫu thuật. Thủ thuật bao gồm sự tiêm dưới hướng dẫn của X -
quang (gây xơ dưới sự theo dõi trực tiếp qua màng huỳnh quang) các hóa chất gây
tổn thương tế bào nội mô, gây viêm, gây nghẽn mạch và xơ hóa trong lòng mạch.
Thủ thuật bao gồm sự đâm kim trực tiếp qua da và tiêm các chất cản quang để đánh
giá phạm vi của tổn thương. Thông thường nhiều lần tiêm ở các vị trí khác nhau là
cần thiết để xác định các phần nhỏ riêng biệt khác nhau của tổn thương. Sau đó dưới
sự theo dõi trực tiếp qua màn huỳnh quang, các chất gây xơ được tiêm qua một
catheter ở trong tổn thương.
Nhiều chất gây xơ như Ethanol (95-98%), Polidocanol (Aetoxysclerol 3%),
Sodium Tetracyl Sulfate (Thrombovar 3%), Sodium Tetradecyl Sulfate (Sotradecol),
Ethibloc, Bleomycin… đã được chứng minh tương đối an toàn và hiệu quả trong việc
kiểm soát sự phát triển của dị dạng tĩnh mạch.
Các bất thường đông máu trong quá trình can thiệp đã được báo cáo khi tiêm
Ethanol và Sodium Tetradecyl Sulfate và nên lưu ý đối với các tổn thương rộng lớn.
Điều trị phẫu thuật: cắt bỏ tổn thương ± tạo hình khuyết hổng.
Các tổn thương nhỏ và khu trú rõ có thể được phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ và bệnh
nhân được chữa khỏi mà không cần điều trị gì thêm.
Tuy nhiên, phần lớn các dị dạng tĩnh mạch lan tỏa hơn, xâm lấn vào các tổ chức
kế cận và các cấu trúc xung quanh, điều này có thể làm giảm khả năng cắt toàn bộ do
các biến chứng kèm theo. Do dị dạng bao gồm các cấu trúc mạch máu bất bình thường,
bất cứ phần còn lại nào sau phẫu thuật sẽ tiếp tục phát triển.
Các phẫu thuật loại này thử thách về mặt kỹ thuật và phải được thực hiện với sự
chú ý nghiêm túc về bệnh lý đông máu và nguy cơ mất máu. Heparin trọng lượng phân
tử thấp nên được cân nhắc trước các thủ thuật can thiệp hoặc phẫu thuật lớn ở các bệnh
nhân với các tổn thương nguy cơ cao.
Các phương pháp tạo hình bao gồm toàn bộ các kỹ thuật tạo hình từ vạt tại chỗ
đến các vạt tự do vi phẫu. Các phẫu thuật cắt bán phần nên được thiết kế cẩn thận và
một kế hoạch điều trị tiếp theo nên được xem xét cho phần tổn thương còn lại.
Ngoài ra, các tổn thương da nông hoặc phần da niêm mạc của các tổn thương
phức tạp có thể quang đông với laser màu (PDL), Nd:YAG hoặc laser KTP. Laser
Nd:YAG đặc biệt hữu ích cho các tổn thương ở niêm mạc môi, lưỡi, miệng, hạ hầu và
các tổn thương ở đường thở. Số lần điều trị phụ thuộc vào đáp ứng lâm sàng và lặp lại
trong suốt cuộc đời của phần lớn các bệnh nhân.
Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị khác nhau, các dị dạng tĩnh mạch ít khi
được chữa khỏi hoàn toàn. Mục tiêu thực tế cho phần lớn các bệnh nhân là làm giảm
nhẹ các triệu chứng và hạn chế sự phát triển của tổn thương.
Biến chứng của điều trị: tái phát (hoặc tiến triển) của tổn thương, chủ yếu trong
trường hợp gây xơ hoặc cắt bán phần, loét hoặc hoại tử do tiêm xơ, tổn thương thần
kinh tạm thời hoặc vĩnh viễn (gây xơ với ethanol), chảy máu trong mổ, tổn thương các
cấu trúc quan trọng (thần kinh, mạch máu) hoặc biến dạng do phẫu thuật, đông máu rải
rác trong lòng mạch (DIC) sau mổ….
93
19
Dị dạng động - tĩnh mạch là các dị dạng dòng chảy cao hiếm gặp, bao gồm nhiều
shunt động - tĩnh mạch (là sự thông nối trực tiếp giữa hệ thống động mạch và tĩnh
mạch). Mạng lưới bất thường các ống mạch máu bắt cầu giữa các hệ thống động mạch
và tĩnh mạch thông thường được biết như “ổ bệnh” (nidus). Dị dạng động - tĩnh mạch
lúc đầu có lưu lượng thấp, sau đó tăng nhanh đột ngột với sự thay đổi hormon (dậy thì,
thuốc ngừa thai, sự có thai) hoặc sau một chấn thương (tai nạn hoặc phẫu thuật). Đó là
các dị dạng mạch máu nguy hiểm nhất.
1. LÂM SÀNG
Hình ảnh lâm sàng của dị dạng động - tĩnh mạch phụ thuộc vào giai đoạn tiến
triển của chúng (phân loại của Schobinger):
Giai đoạn 1 (yên lặng- “quiescent”): đó là một vết màu hồng, hơi xanh, nóng
và shunt động - tĩnh mạch được phát hiện qua siêu âm Doppler.
Giai đoạn 2 (phát triển-“expansion”): giống giai đoạn 1 nhưng tăng kích thước,
xuất hiện tiếng mạch đập, tiếng rung miu, hoặc nghe một tiếng thổi liên tục, mạng lưới
tĩnh mạch giãn nở xung quanh tổn thương.
Giai đoạn 3 (phá hủy-“destruction”): xuất hiện các dấu hiệu loạn dưỡng da
(“loét” da), hoại tử tổ chức, chảy máu thường xuyên và nặng, đau liên tục.
Giai đoạn 4 (mất bù- “decompensation”): giống giai đoạn 3 nhưng suy tim mất
bù, thường gặp ở những tổn thương lớn (ít gặp ở những tổn thương đầu và cổ).
Hình 19.1. A: Dị dạng động-tĩnh mạch (giai đoạn 1) vùng giữa mặt bị nhầm lẫn với một dị dạng
mao mạch. B: loét và hoại tử vùng môi trên và môi dưới (giai đoạn 3).
C: hình ảnh chụp mạch với các shunt động-tĩnh mạch.
94
2. CẬN LÂM SÀNG
Bao gồm các xét nghiệm sau:
Siêu âm Doppler: khối ranh giới kém, dòng chảy nhanh với chỉ số sức cản
thấp, có thể thấy sự nối thông trực tiếp giữa hệ thống động mạch và tĩnh mạch.
Cộng hưởng từ với các lớp chụp mạch: xác định ranh giới của tổn thương, các
mạch máu nuôi. Chụp cắt lớp vi tính (CT) có ý nghĩa trong việc xác định các tổn thương
ở xương.
Chụp mạch máu số hóa: được thực hiện cùng lúc với một thủ thuật điều trị (gây
nút mạch) do chụp mạch có nguy cơ làm khởi phát sự trầm trọng thêm của dị dạng động
- tĩnh mạch; cho phép đánh giá tốt hình ảnh các động mạch đi vào và đi ra.
3. ĐIỀU TRỊ
Việc điều trị chỉ nên được thực hiện với một ê kíp chuyên sâu. Điều trị có thể là
bảo tồn khi không gây khó chịu hoặc không biến chứng, hoặc xâm lấn (phẫu thuật ± X-
quang can thiệp) trong trường hợp gây ảnh hưởng chức năng hoặc biến chứng (loét,
chảy máu).
Điều trị bảo tồn:
Bao gồm một sự theo dõi thường xuyên (hàng năm), phòng ngừa các yếu tố khởi phát
sự trầm trọng thêm của tổn thương (chấn thương, thay đổi hormon, thuốc ngừa thai…)
Điều trị xâm lấn:
Chỉ được đặt ra khi có thể điều trị triệt để (cắt toàn bộ tổn thương).
Điều trị được lựa chọn là gây nút mạch (embolisation) qua đường trong mạch máu
và cắt toàn bộ tổn thương trong vòng 24 giờ sau đó. Đó là một phẫu thuật phá hủy hầu
như luôn luôn cần thiết một sự tạo hình và có thể gây chảy máu nặng. Một sự truyền
máu tự thân thường được dự tính trước.
Sự cắt bán phần hoặc thủ thuật thắt mạch có thể dẫn đến sự trầm trọng hơn của
tổn thương.
Sự nút mạch có thể hiệu quả ở những tổn thương nhỏ, là biện pháp tạm thời ở
những tổn thương có biến chứng hoặc không thể cắt bỏ được, hoặc là liệu pháp trước
phẫu thuật để giảm chảy máu.
4. BIẾN CHỨNG
Tái phát thường gặp, chủ yếu khi phẫu thuật cắt bỏ không toàn bộ.
Chảy máu nặng.
Loét, hoại tử.
Suy tim.
95
CÁC DỊ DẠNG PHỐI HỢP
Các dị dạng phối hợp có thể hoặc không nằm trong các hội chứng đã được xác
định, có thể phối hợp tất cả các dị dạng mạch máu với nhau (dị dạng mao mạch - tĩnh
mạch, dị dạng tĩnh mạch - bạch mạch…).
Hội chứng Klippel-Trenaunay: phối hợp các dị dạng mao mạch, dị dạng tĩnh
mạch và phì đại tổ chức phần mềm, gây nên một sự mất cân xứng chiều dài của chi.
Hội chứng Proteus: phối hợp một phì đại chi hoặc một phần của chi
(macrodactylie) với những khối u dưới da và xương, những nơ-vi, và những dị dạng
mao mạch, tĩnh mạch và bạch mạch của chi bị phì đại.
Hội chứng Maffucci: phối hợp các khối u sụn lành tính (endochondromes) và các
dị dạng tĩnh mạch và bạch mạch.
96
20
97
Biểu hiện lâm sàng: hở hàm ếch điển hình có hình chữ V. Hàm dưới thường có
kích thước bình thường.
98
Bệnh nhân có thể có khe hở vòm miệng, cận thị độ cao, tầng mặt giữa bằng
phẳng và mất thính lực.
Các bệnh về khớp có thể xuất hiện khi ngoài 30 tuổi.
Sa van hai lá xảy ra ở hơn nửa số bệnh nhân và phải cân nhắc để điều trị
kháng sinh dự phòng khi điều trị nha khoa.
Tất cả trẻ em bị hội chứng Pierre Robin cần được đánh giá di truyền và kiểm
tra mắt để loại trừ hội chứng Stickler, vì hội chứng này liên quan tới cận thị cao, bong
võng mạc và mất thị lực. Có thể phòng ngừa mất thị lực bằng kiểm tra mắt thường kỳ.
99
3. KHE HỞ DO TÁC NHÂN GÂY QUÁI THAI
Một phần quan trọng của tiền sử bệnh ở bệnh nhân bị khe hở là việc phơi
nhiễm với thuốc, rượu và ma túy trước tuần thứ 10 của thai kỳ. Có một số thuốc, nếu
dùng ở thời kỳ đầu của thai kỳ, có thể gây khe hở và các dị tật khác.
Hội chứng hydantoin bào thai: thai nhi phơi nhiễm trong 10 tuần đầu của thai
kỳ với dilantin và các loại thuốc liên quan để kiểm soát các cơn co giật của mẹ có thể
gây ra hội chứng đặc trưng bởi khe hở môi vòm miệng, các ngón tay ngắn với móng tay
giảm sản. Trẻ có trí tuệ bình thường và nguy cơ truyền biểu hiện lâm sàng cho thế hệ
sau không cao.
Hội chứng rượu bào thai: thai nhi phơi nhiễm với rượu trong thai kỳ có thể gây
hội chứng lâm sàng bao gồm chậm tăng trưởng và phát triển, rãnh mi mắt ngắn, nhân
trung mịn dài, viền môi mỏng, bệnh tim bẩm sinh (chủ yếu là khuyết tật vách ngăn thất)
và đôi khi hở vòm miệng.
Các tác nhân gây ung thư khác liên quan tới khe hở:
Acid retinoic thường được sử dụng cho điều trị mụn trứng cá và nếp nhăn có
liên quan tới khe hở. Các dị tật khác liên quan tới sử dụng acid retinoic đầu thai kỳ bao
gồm tật khe mắt.
Sử dụng steroid và hút thuốc lá cũng liên quan tới khe hở.
100
Hội chứng Apert: còn được gọi là tật đầu hình tháp dính ngón tay, do đột
biến ở FGFR2 không mang tính di truyền. Bệnh nhân có đầu hình tháp, vòm miệng
cao, thiểu sản tầng giữa mặt và dị tật bàn tay bàn chân. Nhiều bệnh nhân có rối loạn
phát triển.
Hội chứng Saethre Chotzen: là một hội chứng liền khớp sọ sớm di truyền trội
theo nhiễm sắc thể thường ở TWIST và FGFR2, đặc trưng bởi đầu ngắn, dính khớp sọ
đỉnh trán, trán, đỉnh chẩm. Biểu hiện ở chi bao gồm các ngón tay ngắn, ngón tay cái bất
thường, ngón quẹo, ngón chân cái rộng, và hạn chế duỗi ở khuỷu tay. Bệnh nhân có
biểu hiện sụp mi.
Liền khớp trán đỉnh đơn độc: liền khớp trán đỉnh đơn độc với dị dạng bàn tay,
bản chất liên quan tới đột biến trội theo nhiễm sắc thể thường. Đây còn được gọi là liền
khớp sớm Muenke.
101
Dị tật cả tai hai bên cũng phổ biến.
Biểu hiện mắt (hội chứng Goldenhar)
Nang dạng da trên mí mắt. Những khối mô mềm này có màu trắng hoặc hồng
nhạt và thường xuất hiện trên phần dưới ngoài của mí mắt. Các nang này không ảnh
hưởng tới thị lực trừ khi chúng xâm phạm giác mạc.
Những biểu hiện khác ở mắt bao gồm mắt lồi, khuyết nhãn cầu hay mí mắt,
mắt nhỏ hoặc nang mắt.
Đôi khi, xuất hiện khe mi mắt bị ngắn ở nửa mặt bị ảnh hưởng.
Biểu hiện hàm miệng
Bệnh nhân có thể có tật miệng rộng hoặc khe hở mặt rõ ở phía bị ảnh hưởng.
Khe hở môi vòm miệng ở 7-15% bệnh nhân.
Thiểu năng vòm hầu.
Luỡi có thể mất cân đối ở bên bị ảnh hưởng.
Biểu hiện xương:
Bất thường cột sống cổ ở 1/3 số bệnh nhân.
Dị tật xương quay.
Các hệ cơ quan khác
Phần lớn bệnh nhân có trí thông minh bình thường.
Liệt dây thần kinh sọ không phải là hiếm.
Dị tật tim mạch cũng đã được ghi nhận.
102
Tai có thể nhỏ, lệch ở phần dưới hoặc thiếu hoàn toàn. Khi thiếu tai, các cấu
trúc tai giữa có thể bị dị thường hoặc không có.
Hàm dưới nhỏ với lồi cầu giảm sản.
Ở khoảng 25% bệnh nhân, một mớ tóc mọc trên mặt về phía má.
Có thể có khe hở môi vòm miệng.
Tay chân và các hệ cơ quan khác không bị ảnh hưởng.
103
21
1. ĐẠI CƯƠNG
Khe hở sọ mặt là một trong những bất thường ở mặt gây biến dạng nhiều nhất.
Phần lớn khe hở sọ mặt xuất hiện dọc theo những đường phôi dự đoán được.
Tần suất khoảng 1,4-4,9/100.000 ca sinh sống.
Tỷ lệ các khe sọ mặt hiếm gặp so với các khe thông thường là khoảng 9,5-34/ 1000.
Phần lớn trường hợp không rõ nguyên nhân. Các yếu tố môi trường bức xạ,
nhiễm khuẩn, sự mất cân bằng trao đổi chất của mẹ, và các loại thuốc (chống co giật,
các tác nhân hóa trị liệu, steroid và thuốc an thần) có liên quan.
A B
Hình 21.1. Phân loại khe hở sọ mặt Tessier. A: Các đường thể hiện khe hở mô mềm.
B: Các đường thể hiện khe hở khung xương.
Được đánh số từ 0-14, các loại khe hở này tuân thủ "múi giờ" rõ ràng.
Mi mắt và hốc mắt xác định trục phân loại và phân chia mặt thành nửa trên và
nửa dưới.
Các tổ hợp quan sát được trên lâm sàng: 0 và 14, 1 và 13, 2 và 12, 3 và 11, 4 và
10, 5 và 9, 6 và 8. Lưu ý rằng các tổ hợp cộng với nhau thường được số 14.
Khe hở Tessier số 7 là khe hở sọ mặt nằm ở ngoài nhất.
104
Hình 21.2. Trường hợp lâm sàng tồn tại nhiều khe hở mặt (số 0, 4, 7, 12, 14)
2.1. Khe hở số 0
Khe hở nằm giữa mặt, đối diện với khe hở sọ mặt giữa số 14, có hiện tượng dị
dạng và thiểu sản mặt.
Đặc điểm mô mềm: khe hở phần mềm nằm ở đường giữa mặt tách đôi môi
trên. Các gờ nhân trung rộng.
Đặc điểm xương: khe hở xương chạy theo đường giữa, bắt đầu từ ổ răng cửa
qua cung răng, ra phía sau khe hở chạy theo đường giữa trước xương hàm trên qua
xương khẩu cái. Khớp cắn hở trước.
2.2. Khe hở số 1
Khe hở chéo mặt bao gồm khe hở phần mềm hoặc khe hở xương riêng lẻ hay
kết hợp. Đối diện với khe hở số 1 là khe hở số 13.
105
Đặc điểm mô mềm: khe hở phần mềm bắt đầu từ môi trên tại vùng nhân trung,
chạy hướng tới đỉnh cánh mũi, qua sống mũi và đến góc mắt trong.
Đặc điểm xương: khe hở xương bắt đầu từ cung răng cửa chạy qua xương hàm
trên và xương khẩu cái, xương bướm, xương sàng và xương trán. Khe hở không chạy
qua xương chính mũi. Xương hàm trên hình sống tàu với răng hướng vào giữa.
2.3. Khe hở số 2
Khe hở chéo mặt chạy từ khoang miệng xiên lên trên ra ngoài qua 1/3 giữa của
môi trên, mũi và trán, bao gồm khe hở phần mềm hoặc khe hở xương riêng lẻ hay kết
hợp. Đối diện với khe hở số 2 là khe hở số 12.
Đặc điểm mô mềm: khe hở bắt đầu từ nhân trung chạy xuyên ra ngoài hơn so
với khe hở số 1. Qua 1/3 giữa lỗ mũi ngoài, góc mắt trong, hệ thống tuyến nước mắt,
khe nhãn cầu và chân mày.
Đặc điểm xương: khe hở xương bắt đầu từ cung răng cửa chạy chếch ra ngoài
hơn so với khe hở số 12. Chia đôi xoang hàm trên, xuyên qua điểm tiếp giáp trán mũi
của xương hàm trên mà không bao gồm sàn ổ mắt. Góc mắt trong và nhãn cầu có khi
không có, xương hàm trên hở toàn bộ phần sau.
2.4. Khe hở số 3
Khe hở chéo mặt Tessier phổ biến nhất. Khe hở này có thể xảy ra đơn lẻ phần
mềm và xương hoặc kết hợp cả hai. Đối diện với khe hở số 3 là khe hở số 11.
Đặc điểm mô mềm: bắt đầu từ khe hở môi chạy qua điểm tiếp giáp giữa cánh
mũi và má, chạy dọc theo bờ mũi ngoài đến phần trong mí mắt dưới tại điểm lệ mũi. Hệ
thống góc mắt trong bị biến dạng, lệ đạo bị đứt, đứt dây chằng góc mắt trong. Kết quả là
thiếu tổ chức phần mềm theo chiều dọc theo viền môi đến cánh mũi và mí mắt dưới.
Đặc điểm xương: là một hình thái đặc trưng của khe hở cung răng. Khe hở cắt
đứt bờ ngoài và bờ trong của xoang hàm trên. Khác với khe hở số 2, khe hở số 3 chạy
nông tới mỏn trán xương hàm trên và rãnh lệ gồm nền và bờ của ổ mắt trong. Chia đôi
miệng, mũi, xoang hàm trên, ổ mắt.
106
Hình 21.5. Khe hở số 3
2.5. Khe hở số 4
Khe hở chéo mặt có thể xảy ra đơn lẻ phần mềm và xương hoặc kết hợp cả hai.
Đối diện với khe hở số 4 là khe hở số 10.
Đặc điểm mô mềm: khe hở phần mềm chạy hướng lên trên và xiên trực tiếp từ
khoang miệng qua 1/3 trong và 1/3 giữa môi trên, qua rãnh mũi má, 1/3 giữa của mi trên
và mi dưới, 1/3 trong và 1/3 giữa của trán.
Đặc điểm xương: bắt đầu từ bờ ngoài răng cửa bên qua bờ trước xương hàm
trên, bờ trong xương ổ mắt. Khác với khe hở số 3, khe hở số 4 chỉ qua khoang miệng,
xoang hàm trên và ổ mắt.
2.6. Khe hở số 5
Khe hở chéo sọ mặt này có thể xảy ra đơn lẻ phần mềm và xương hoặc kết hợp
cả hai. Đối diện với khe hở số 5 là khe hở số 9.
107
Đặc điểm mô mềm: khe hở phần mềm chạy hướng lên trên và xiên trực tiếp từ
khoang miệng qua môi trên tại điểm 1/3 giữa và ngoài, ở mặt qua rãnh mũi má, 1/3 giữa
của mi trên mi dưới và 1/3 giữa của xương trán.
Đặc điểm xương: khe hở xương đi giữa răng nanh, sau đó đi bên ngoài so với
dây thần kinh dưới hốc mắt và xoang hàm trên, vào sàn và thành bên hốc mắt. Xoang
hàm trên bị thiểu sản.
.
Hình 21.7. Khe hở số 5
2.7. Khe hở số 6
Khe hở chéo sọ mặt này tương tự như hội chứng Treacher – Collins, có thể xảy
ra đơn lẻ phần mềm và xương hoặc kết hợp cả hai. Đối diện với khe hở số 6 là khe hở
số 8.
Đặc điểm mô mềm: khe hở phần mềm chạy lên trên và xiên trực tiếp từ khoang
miệng qua 1/3 ngoài môi trên, mặt, 1/3 ngoài mi trên và dưới, 1/3 ngoài của trán đỉnh. Biến
dạng tai và mất thính lực là phổ biến. Vẻ mặt bên ngoài trái với hội chứng Down.
Đặc điểm xương: khe hở xương chạy từ miệng lên trên và xiên trực tiếp qua
xương gò má, xương thái dương và xương đỉnh. Đặc trưng bởi giảm sản xương gò má.
108
2.8. Khe hở số 7
Khe hở giống như chứng nhỏ nửa mặt và hội chứng Goldenhar, có thể xảy ra
đơn lẻ phần mềm và xương hoặc kết hợp cả hai. Đây được coi là khe hở ngang mặt và
nằm ngoài các khe hở sọ mặt.
Đặc điểm mô mềm: chạy ngang từ mép môi đến gờ bình tai. Dị tật có thể xảy
ra với tật miệng rộng hay là chỉ khe hở vùng gờ bình tai. Nhiều tổ chức phần mềm lẫn
lộn nhau, có thể là hở lưỡi hay là tổ chức phần mềm vùng vòm hầu. Ông tuyến nước bọt
mang tai không có hay thiểu sản. Liệt thần kinh số V và VII. Kém phát triển các cơ nhai
như cơ thái dương, cơ cắn, cơ chân bướm. Không chỉ biến dạng vùng tai ngoài mà còn
biến dạng ống tai và tai trong.
Đặc điểm xương: khe hở xương chạy lên trên xiên trực tiếp qua xương gò má,
xương thái dương, xương đỉnh. Khe hở đi qua chỗ nối chân bướm hàm trên. Giảm sản
cành sau hàm dưới và hàm trên. Lồi cầu và mỏm vẹt bị thiểu sản. Gò má và cung tiếp bị
biến dạng nặng. Đáy sọ không đối xứng nền sọ và hõm khớp. Xương bướm bất thường.
2.9. Khe hở số 8
Hiếm khi có khe hở đơn độc, thường là một phần của hội chứng Treacher
Collins. Khe hở có thể đơn lẻ vùng góc mép và mặt được mô tả như dị tật miệng rộng
hoặc có thể kết hợp góc mép, mặt, tai ngoài. Khe hở này có thể xảy ra đơn lẻ phần mềm
và xương hoặc kết hợp cả hai.
Đặc điểm mô mềm: khe hở phần mềm chạy từ góc mắt ngoài ra sau tới vùng
thái dương. Da vùng mí mắt trên và mí mắt dưới bị cài ngược vào nhau, xoá đi mất
cùng đồ kết mạc. Khe hở ngăn cản sự liên tục của cơ vòng mi và cố định cơ vòng mi
vào dây chằng góc mắt ngoài.
Đặc điểm xương: khe hở xương chạy tử khoang miệng hướng lên trên và xiên
trực tiếp qua ngành lên xương hàm dưới.
109
2.10. Khe hở số 9
Đây là khe hở phần mềm cực kỳ hiếm, chạy ngang trực tiếp từ vùng bờ trên ổ
mắt và vùng sọ - trán mắt trong đến đường giữa, khe hở đi qua 1/3 bên của mi trên và
lông mày, góc mắt ngoài bị méo mó. Liệt dây thần kinh sọ là phổ biến. Khe hở này
được xem như là khe hở số 5 nối dài.
Khe hở xương đi qua góc trên bên của hốc mắt, qua cánh lớn của xương bướm
tới xương thái dương. Bất thường đáy sọ.
2.11. Khe hở số 10
Khe hở phần mềm chạy ngang từ vùng mắt ngoài đến vùng thái dương qua tổ
chức phần mềm nằm ở giữa mắt của góc mắt ngoài và thái dương. Khe mi kéo dài. Có
thể giảm thị lực. Có thể có khuyết mi mắt.
Khe hở xương chạy ngang trực tiếp trong vùng góc mắt ngoài đến vùng thái
dương qua các xương: gò má, xương trán, xương thái dương. Thoát vị não là phổ biến.
Hai mắt xa nhau.
110
2.12. Khe hở số 11
Khe hở phần mềm đi qua phần giữa mi mắt và lông mày, chạy tiếp theo của
khe hở số 3. Khe hở nằm dưới của ống tai, bên ngoài dọc theo bờ trước cơ ức đòn chũm,
bên trong mở vào xoang khẩu cái hoặc vòm miệng hầu.
Khe hở xương nằm ở bên so với các xương sàng và đi qua bờ trên hốc mắt,
hoặc đi qua xoang sàng gây ra chứng hai mắt xa nhau. Đáy sọ bình thường.
2.13. Khe hở số 12
Khe hở phần mềm nằm ở trong so với khóe mắt trong. Khuyết lông mày. Khóe
mắt trong bị di chuyển ra ngoài.
Khe hở xương đi qua mấu trán đã bị dẹt của xương hàm trên, qua xoang sàng
phì đại tạo nên chứng hai hốc mắt xa nhau và hai khóe mắt xa nhau. Xoang trán và
xoang bướm rộng ra.
2.14. Khe hở số 13
Khe hở phần mềm nằm ở bên trong so với mi mắt và lông mày. Thoát vị não.
Phần trong của chân mày bị loạn sản và không nhìn rõ, và đường chân tóc bị biến dạng
hình Omega khi khe hở xương đi vào trong sọ.
111
Khe hở xương chạy tiếp về hướng tiếp theo của khe hở số 1. Nằm trên điểm
giữa của xương mũi và xương trán, qua khối bên của xương sàng và rãnh khứu giác.
Bản xương sàng bị mở rộng. Xoang sàng bị phì đại. Hai mắt xa nhau. Hốc mắt lệch chỗ.
2.15. Khe hở số 14
Não trước không phân chia, đầu nhỏ, hai mắt gần nhau, dị tật não trước.
Khe hở xương chạy theo đường giữa, đối điện với khe hở số 0, loạn sản sọ mặt
gồm khe hở sọ mặt giữa. Thoát vị sọ mặt chia ra nhiều độ. Không có đáy sọ giữa.
Xương trán bị dẹt, xoang trán không có không khí.
3. ĐIỀU TRỊ
Kế hoạch điều trị không thể tiêu chuẩn hóa một cách cứng nhắc.
Thời gian được điều chỉnh bởi mức độ nghiêm trọng của dị tật. Phẫu thuật sẽ
được trì hoãn nếu dị tật nhẹ, phẫu thuật cần được thực hiện sớm nếu biến dạng nặng
hoặc ảnh hưởng tới chức năng.
Khe hở mô mềm và các tổn khuyết sọ được sửa chữa khi bệnh nhân còn nhỏ.
Ghép xương tầng giữa mặt được thực hiện ở trẻ lớn hơn, và phẫu thuật chỉnh nha được
thực hiện ở người lớn.
Khe hở mô mềm được đóng với tạo hình chữ Z và các vạt tại chỗ. Khi có thể
nên đặt đường sẹo nằm theo đường thẩm mỹ.
Căn chỉnh phần môi đỏ giống như trong hở môi thông thường và phục hồi sự
liên tục của cơ. Nếu khe hở nằm ở bên so với gờ nhân trung, cắt bỏ mô can thiệp.
Khôi phục khe hở: ở phía bên bằng đường thẳng và ở phía giữa bằng tạo hình
chữ Z. Đặt vết sẹo dọc theo nếp mũi môi.
Mũi: sửa chữa sụn mũi, ghép vạt tại chỗ và tạo hình chữ Z cho cánh mũi bị co
kéo, ghép sụn hay ghép phức hợp nếu cần. Niêm mạc mũi được lấy từ vách ngăn mũi.
112
Hốc mắt: tạo hình bằng ghép xương để khôi phục lại sự liên tục và sửa chữa
lệch chỗ.
Mí mắt: định vị chính xác khóe mắt trong và cố định bằng các dây ngang qua
mũi. Tạo hình khóe mắt ngoài nếu cần thiết. Vạt chuyển được thực hiện cho thiếu da mi
mắt; ghép niêm mạc miệng cho thiếu kết mạc; tạo hình chữ Z để sửa chữa khe hở mô
mềm số 8.
Mắt: can thiệp ngoại khoa khẩn cấp nếu mắt bị bộc lộ từ chỗ khuyết để tránh
loét giác mạc.
Hệ thống lệ đạo: khi khe hở phá vỡ hệ thống lệ quản, sửa chữa bằng các ống
silicone hoặc phẫu thuật tiếp khẩu túi lệ khi cần thiết.
Chứng hai mắt xa nhau trầm trọng được sửa chữa bằng phân đôi mặt hoặc cắt
xương Le Fort III và ghép xương.
Tạo hình trán và hốc mắt với ghép xương sọ, nếu có thể.
Lựa chọn thay thế xương sọ là xương sườn, mào chậu, hoặc các vật liệu tổng
hợp (alloplastic). Vật liệu tổng hợp bao gồm polymethylmethacrylate, hydroxyapatite,
Tricalcium phosphate tự tiêu, silicon, và thay thế mô cứng (Walter Lorenz).
Chống chỉ định cho vật liệu tổng hợp bao gồm đặt vật liệu gần xoang, tiền sử
nhiễm trùng sọ mặt, và sự che phủ mô mềm không đầy đủ.
Nhược điểm của vật liệu tổng hợp: tăng tỷ lệ nhiễm trùng, lộ chất liệu và phản
ứng mô tại chỗ.
Môi dưới: cắt bỏ hình chữ V với khe hở và đóng từng lớp. Tạo hình chữ Z
được thực hiện để giải phóng hãm. Lưỡi chẻ đôi được cắt và đóng theo nhiều lớp.
Hàm dưới giữa: sửa chữa khe hở hàm dưới khi đứa trẻ đã lớn và ghép xương
khi cần thiết.
Hàm dưới bên: sửa chữa những biến dạng nghiêm trọng với ghép xương sụn.
Sửa chữa biến dạng vừa bằng kéo giãn tạo xương. Biến dạng nhẹ có thể theo dõi cho
đến khi bệnh nhân trưởng thành, rồi sửa chữa bằng phẫu thuật chỉnh hàm (cắt xương
hàm trên Le Fort I và cắt xương tách hàm dưới theo đường dọc giữa).
Sửa chữa tổn khuyết mô mềm lớn và trầm trọng lần cuối cùng thường được
thực hiện với vạt tự do cân da.
113
22
114
Hốc mắt nông có thể dẫn tới sụp mi nhiều hơn. Chứng mắt lồi có thể trầm
trọng và dẫn tới loét hay thoát vị giác mạc.
Chậm phát triển tinh thần.
Nhiễm trùng tai giữa tái phát và mất thính lực dần.
Bàn tay bình thường, ít gặp khe hở vòm miệng.
115
hội chứng Apert, với giảm sản hàm trên, lồi mắt và tật khớp cắn ngược. Hai mắt xa
nhau và khe mi dốc xuống cũng hay gặp. Dấu hiệu đặc trưng là ngón tay cái rộng và
ngón chân cái to. Trí tuệ thường bình thường.
Hội chứng Saethre-Chotzen: lần đầu tiên được mô tả bởi Saethre vào năm 1931
và Chotzen vào năm 1932. Di truyền trội theo NST thường. Các đặc điểm kiểu hình bao
gồm sọ ngắn với đường tóc trán thấp, mặt không cân đối, sụp mi mắt, giảm sản hàm
trên và tầm vóc thấp. Dính ngón một phần thường gặp và liên quan tới ngón 2 và ngón
3. Trí tuệ thường là bình thường.
116
Bệnh lý này xuất hiện ở khoảng 1/25.000 ca sinh sống. Tỷ lệ nam và nữ là 3:1,
chiếm khoảng 10% trường hợp hẹp sọ.
Dính sớm khớp trán thường không mang tính hội chứng và được cho là kết quả
của áp lực cơ học lên khớp sọ đang phát triển. Tuy nhiên, tình trạng này cũng xuất hiện
ở những hội chứng không di truyền khác.
Do các khớp sọ liên quan phát triển kém nên trán sẽ có hình tam giác, lông
mày phát triển không đầy đủ. Hai mắt tương đối gần nhau. Về tổng thể, hộp sọ có hình
tam giác, mở rộng ở phía sau. Từ đó có thuật ngữ sọ hình tam giác.
Chẩn đoán X - quang thường dựa trên các dấu hiệu thứ phát như sự kéo dài về
phía trên và xoay về trung tâm của hố mắt cũng như hai mắt gần nhau.
117
3.5. Dính khớp đỉnh chẩm một bên sớm
Đây là bệnh lý hiếm gặp nhất trong các dính khớp sọ đơn độc. Một trong các
khớp đỉnh chẩm hợp nhất chậm ở hộp sọ sau. Bệnh xảy ra ở khoảng 1/250.000 trẻ sinh
sống và chiếm 1% trường hợp hẹp sọ.
Sự kém phát triển của khớp sọ liên quan và tăng trưởng bù của khớp sọ không
tổn thương dẫn tới biến dạng điển hình phần sau hộp sọ, về nhiều phương diện, giống
với những thay đổi xuất hiện trong dính sớm khớp sọ trán đỉnh một bên ở hộp sọ phía
trước. Có sự dẹt điển hình ở vùng có khớp sọ không hoạt động. Tai ở phía bị tổn thương
hơi lệch về phía sau so với bên đối diện. Xương chũm phát triển bù trừ quá mức, tạo
nên chỗ lồi phía sau tai bị tổn thương. Sự phát triển bù trừ quá mức tại khớp đỉnh chẩm
đối diện và các khớp dọc giữa dẫn tới sự lồi thái dương – đỉnh ở phía đối diện. Kết quả
là khi nhìn từ sau, sẽ thấy hộp sọ bị lệch xa khỏi phía có khớp dính sớm.
118
Thời điểm phẫu thuật còn gây tranh cãi. Một số bác sĩ phẫu thuật chủ trương
điều trị sớm (4-7 năm tuổi) để cải thiện khuôn mặt, góp phần vào sự phát triển tâm lý
bình thường. Tuy nhiên điều trị sớm cần thực hiện lại kỹ thuật đẩy Le Fort III sau khi
xương trưởng thành. Quan niệm khác cho rằng chờ tới khi xương trưởng thành (14-18
tuổi), trừ khi bắt buộc phải can thiệp sớm như tắc nghẽn đường hô hấp hay lồi mắt trầm
trọng mặc dù đã đẩy trán - hốc mắt về phía trước.
119
23
120
Tỉ lệ nam nữ 1:2.
60% khe hở vòm kết hợp với các dị tật bẩm sinh khác (khe hở vòm hội
chứng): nhiễm sắc thể 21 (hội chứng Down), hội chứng Treacher Collins (nhiễm sắc thể
5), hội chứng Van de Woude (nhiễm sắc thể số 1), hội chứng Klippel-Feil, hội chứng
Pierre Robin.
Các yếu tố nguy cơ: thiếu vitamin A, riboflavin hoặc acid folic), rượu, thuốc
lá và các thuốc chống co giật.
Yếu tố gia đình ít có vai trò tác động đến tần xuất bệnh:
Không có tiền sử gia đình: 0,04%.
3. PHÂN LOẠI
121
Hình 23.1. Phân loại chữ Y
4. ĐIỀU TRỊ
Cần có một đội ngũ các chuyên gia y tế thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau
cùng tham gia điều trị cho trẻ bị khe hở môi vòm miệng bẩm sinh. Bao gồm bác sỹ sản
khoa, chuyên gia dinh dưỡng, chuyên gia thính lực học, bác sĩ phẫu thuật tai mũi họng,
chuyên gia di truyền học, bác sĩ phẫu thuật hàm mặt, bác sĩ chỉnh nha, bác sĩ nhi khoa,
bác sĩ phẫu thuật tạo hình, bác sỹ tâm lý học, chuyên gia ngôn ngữ trị liệu.
Chẩn đoán trước sinh có thể được đặt ra, nhưng kết quả chẩn đoán không phải
là lý do đưa ra quyết định phá thai vì dị tật môi vòm hoàn toàn có thể được giải quyết
bình thường.
122
Các vấn đề về tắc nghẽn đường hô hấp, nguy cơ sặc hay gặp khó khăn khi nuôi
dưỡng trẻ trong giai đoạn đầu đời cần được chú ý.
3-6 tháng tuổi tiến hành phẫu thuật khe hở môi.
9-18 tháng tuổi: phẫu thuật khe hở vòm miệng và đặt ống thông trong tai.
4-5 tuổi: phẫu thuật sửa chữa sẹo khe hở môi và mũi.
6-10 tuổi: chỉnh nha và ghép xương ổ răng.
11-20 tuổi: chỉnh hình răng và chăm sóc nha khoa phục hồi. Có thể phẫu
thuật xương.
Giải quyết các vấn đề về phát triển ngôn ngữ, các vấn đề chỉnh hình răng, sự
rối loạn phát triển của tầng giữa mặt.
123
24
124
Ngoài ra, trong khe hở môi một bên còn có sự biến đổi thường gặp của hệ
thống xương sụn như sự dịch chuyển ra ngoài của khối tiền hàm, sai lệch cung răng
hàm trên, biến dạng và lệch sụn vách ngăn sang bên khe hở môi, biến dạng và thiểu
sản sụn vách mũi…
Hình 24.1. Giải phẫu hệ thống cơ ở trẻ bình thường và trong khe hở môi một bên bẩm sinh.
125
A B
C D
Hình 24.2. Khe hở môi một bên (A. Khe hở màng phải, B. Khe hở môi không toàn bộ trái,
C Khe hở toàn bộ trái, D Khe hở môi toàn bộ trái và khe hở cung răng)
4. ĐIỀU TRỊ
126
phẫu thuật). Kỹ thuật này thường được sử dụng kết hợp với nẹp răng giúp ngăn ngừa
lưỡi khỏi ép vào khe hở và đoạn cung răng khỏi bị sụp. Dính môi, đưa cơ lại gần theo
đường thẳng, không phải là sửa khe hở môi theo đúng nghĩa. Tuy nhiên, đó là kỹ thuật
được sử dụng để căn chỉnh tốt hơn cung hàm trên và đoạn ổ răng. Phương pháp này
đóng hiệu quả nền mũi và 2/3 trên của môi. Kỹ thuật này thường được sử dụng để biến
khe hở toàn bộ rộng thành khe hở không hoàn toàn, giúp việc phẫu thuật sau này đơn
giản hơn và dễ dàng hơn. Tại các khu vực kém phát triển của thế giới, kỹ thuật này
được sử dụng phổ biến.
Hình 24.3. Dính môi. Làm gần hai nửa của môi sẽ biến khe hở
toàn bộ thành khe hở môi không hoàn toàn.
Phẫu thuật ở trẻ sơ sinh vẫn còn là một thách thức. Không có định nghĩa về
“thời gian sơ sinh” nhưng thường được thực hiện trước 48 giờ. Người ta cho rằng việc
lành thương sẽ tốt hơn và có thể giúp cải thiện sự phát triển của mũi. Ngoài ra còn có
những lợi ích về mặt tâm lý, và cha mẹ thích cách sửa chữa sớm này. Tuy nhiên, lựa
chọn này không phải là tối ưu nhất. Sự thích nghi của trẻ với gây mê, đặc biệt giải quyết
các vấn đề rối loạn hô hấp trong và sau khi mổ là quan trọng. Lựa chọn được kíp mổ
phối hợp tốt trong thời gian ngắn là một khó khăn. Vì vậy chỉ có một số nhỏ bác sĩ phẫu
thuật sử dụng phương án này.
Theo truyền thống, người ta áp dụng các quy tắc số 10 cho phẫu thuật khe hở
môi một bên khi cân nặng của trẻ > 10 pound (4,5 kg), có Hb> 10 g /dl, và > 10 tuần
tuổi. Do các lo ngại về gây mê, phần lớn các trung tâm đợi tới khi trẻ được 3 tháng tuổi.
Phẫu thuật khe hở môi trong bào thai hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm và đã thu
được một số thành công ở nghiên cứu trên động vật. Tuy nhiên, hiện tại các ưu điểm
như sự lành vết thương không sẹo không vượt trội so với các nguy cơ tiềm ẩn. Tạo hình
khe hở thì một thường được thực hiện đồng thời và trẻ có thể cần cùng lúc đặt ống
thông tai (grommets).
4.3. Các kỹ thuật tạo hình khe hở môi một bên bẩm sinh
Khe hở môi phải được tạo hình theo 3 lớp: da, cơ, niêm mạc. Có nhiều phương
pháp để đóng khe hở môi, các phương pháp này cơ bản là khác nhau về cách đóng da
của và mức độ can thiệp vào lớp cơ.
127
4.3.1. Nguyên tắc phẫu thuật
Đưa các mép của khe hở lại gần nhau, bảo tồn các mốc tự nhiên và tạo sự cân
đối của hai bên môi.
Kéo dài môi bị ngắn bên phía khe hở.
Tạo sự liên tục và cân đối của cung Cupidon.
Khôi phục lại sự liên tục của cơ và trả lại điểm bám của cơ về đúng giải phẫu.
Tạo hình môi đỏ có chiều dày đồng đều.
4.3.2. Các mốc giải phẫu trong tạo hình khe hở môi một bên
Xác định các mốc giải phẫu trước khi gây tê tại chỗ. Dùng compa để đo các
kích thước một cách chính xác. Chìa khóa cho phẫu thuật thành công là tạo lại cung
Cupidon và tăng chiều dài của gờ nhân trung bên khe hở.
Xác định các mốc giải phẫu của cung Cupidon (điểm 1,2 và 3), điểm mốc chân
cánh mũi (điểm 7 và 9), điểm mốc chân trụ mũi (điểm 5,6 và 8), điểm mốc của mép
(điểm 10 và 11) và điểm đỉnh cung Cupidon hay là điểm chân gờ nhân trung bên khe hở
(điểm 4).
Điểm 2 là đỉnh của cung Cupidon ở phía lành, từ đây xác định điểm 3 tương
ứng với đỉnh cung Cupidon bên khe hở. Điểm 3 đối xứng với điểm 2 qua điểm 1, điểm
thấp nhất của nhân trung.
Điểm 4 nằm trên gờ môi bên ngoài khe hở được xác định bằng nhiều cách.
Khoảng cách giữa điểm 11-4 bằng khoảng cách giữa điểm 10-2, khoảng cách giữa điểm
4-9 bằng khoảng cách 7-2).
Hình 24.4. Các mốc giải phẫu trong phẫu thuật khe hở môi đơn
128
Tạo hình chữ Z ở nửa dưới môi: Tennison- Randall, Le Mesurier.
Tạo hình chữ Z ở toàn bộ môi: Skoog, Trauner.
Trong đó phương pháp thông dụng nhất là Millard và Tennison Randall.
Phẫu thuật theo đường thẳng (kỹ thuật Rose-Thompson).
Hình 24.4. Tạo hình môi theo kỹ thuật đường thẳng Rose-Thompson.
Cắt mép của khe hở rồi đóng thì một không sử dụng vạt.
Kỹ thuật Rose-Thompson được sử dụng cho các trường hợp có khe hở nhỏ
(không điển hình).
Việc chỉnh sửa này có lợi thế là dễ thực hiện với hình học đơn giản. Kỹ thuật
này bao gồm cắt góc mép khe hở với đóng thì một không sử dụng bất kỳ vạt nào.
Kỹ thuật này cũng có một vài nhược điểm như co rút sẹo, mất đường viền
trên của môi, các nhô của phần môi đỏ không cân đối và không có sự chỉnh phục hồi hệ
thống cơ vòng môi nằm phía dưới.
Phẫu thuật dùng vạt chèn tam giác (kỹ thuật Tennison-Randall)
Phương pháp tạo hình chữ Z hay dùng vạt chèn tam giác bao gồm việc thiết
kế vạt tam giác cân ở phía khe hở, chèn vào khoảng trống ở bờ trong của khe hở môi.
Việc đo đạc chính xác là quan trọng giúp thực hiện kỹ thuật này tốt hơn.
129
Ưu điểm: phương pháp này cần đo đạc chính xác trước phẫu thuật do đó phẫu
thuật khá thuận lợi theo thiết kế có sẵn. Kéo dài chiều cao môi từ cung Cupid đến nền
cánh mũi khá hiệu quả. Tạo hình chữ Z tạo được viền trên môi đỏ khá tự nhiên.
Nhược điểm: tạo ra một vết sẹo ngoằn ngoèo ở phần dễ nhận thấy nhất của
môi. Sẹo đi qua phần dưới của nhân trung và làm dẹt 1/3 dưới của nhân trung. Đôi
khi tăng quá mức chiều cao bên khe hở nếu tính toán không chính xác, khó điều
chỉnh chiều cao môi trong khi mổ nếu cần. Tạo hình mũi không được tính đến trong
lần phẫu thuật môi.
Phương pháp tạo vạt xoay đẩy (kỹ thuật Millard)
Kỹ thuật xoay - đẩy Millard (1960) khá phổ biến, được coi là tiêu chuẩn vàng
cho tạo hình môi một bên.
Kỹ thuật có sử dụng ba vạt: vạt xoay dưới (R) của thành phần môi giữa, vạt
đẩy giữa (A) của thành phần môi ngoài và vạt gốc chân trụ mũi (C) cũng phát sinh từ
thành phần giữa của môi. Vạt C được sử dụng để tái tạo nền lỗ mũi. Các vết sẹo nằm
trong khuôn khổ gờ nhân trung và được giấu kỹ ngoại trừ phần trên. Chiều cao của gờ
nhân trung mới bên có khe hở được điều chỉnh bởi chiều dài của vạt R, và cân đối với
chiều dài của gờ nhân trung bên lành.
Ưu điểm của phương pháp này bao gồm trả lại mô về vị trí giải phẫu bình
thường, tạo nên đường viền môi trên cân đối, tạo sẹo dọc theo trục nhân trung, giữ được
hõm nhân trung. Đường rạch da có thể được điều chỉnh trong khi phẫu thuật, vì vậy
chiều cao môi có thể được thay đổi (cut as you go), khác với kỹ thuật Tennison-Randall.
Tạo hình mũi trong cùng thì tạo hình môi.
Nhược điểm: kỹ thuật này khó. Để lại sẹo ở gốc mũi. Có thể bị sẹo thẳng gây
co kéo với vết lõm hình chữ V trên môi đỏ. Không hiếm gặp trường hợp nhỏ lỗ mũi quá
mức do co kéo sẹo ngang qua lỗ mũi bên khe hở. Nếu không kết hợp tạo hình cơ thì để
lại những di chứng khó khắc phục như: xẹp cánh mũi, lõm nền mũi.
Hình 24.6. Kỹ thuật tạo hình khe hở môi một bên Millard
130
Đầu bám tận của cơ ngang mũi: do cơ ngang mũi bên khe hở bám lạc chỗ vào
chân cánh mũi nên cần giải phóng đầu cơ, khâu đầu cơ này vào gai mũi trước trên của
xương hàm trên.
Phục hồi sự liên tục của cơ vòng môi: do cơ vòng môi gồm hai bó chéo và
ngang, khi phục hồi lại cơ này cần tính đến vị trí giải phẫu của từng bó cơ. Sau khi tách
khỏi nơi bám tận lạc chỗ ở chân cánh mũi, bó cơ chéo phải được khâu đính vào gai mũi
trước, bó ngang cần được khâu vào đầu bó ngang ở bên đối diện.
Kỹ thuật tạo hình cho niêm mạc
Để giảm sự co kéo của môi đỏ, có thể tạo một vạt chèn tam giác từ phía khe
hở sang bên lành hoặc tạo hình chữ Z trên niêm mạc môi khô.
Trong trường hợp khe hở rộng, có thể dùng vạt đẩy tại vùng ngách tiền đình
bên ngoài lỗ mũi để đóng được nền lỗ mũi và toàn bộ khe hở.
131
25
A B C
Hình 25.1. Các biến dạng môi và mũi trong khe hở môi một bên
132
Phẫu thuật khe hở môi một bên được thực hiện lần đầu vào 3-6 tháng tuổi,
phẫu thuật sửa các biến dạng thứ phát ngay trước 6 tuổi khi trẻ chuẩn bị đi học.
Phẫu thuật sửa lần cuối được thực hiện ở tuổi vị thành niên sau khi sự phát
triển của mặt gần như hoàn chỉnh và ý thức của bệnh nhân về dị tật rõ nét hơn.
2.2. Thiếu gờ nhân trung và thiếu sự liên kết của cơ vòng môi
Thiếu sự hợp nhất của các sợi cơ vòng môi trong lần phẫu thuật đầu tiên sẽ dẫn
tới những biến dạng của môi trắng, khuyết phần môi đỏ, dấu hiệu mặt kính đồng hồ bên
môi bệnh. Các dấu hiệu này càng rõ khi bệnh nhân chụm môi hay huýt sáo.
Việc sửa sẹo xấu kết hợp với việc giải phóng chỗ bám lạc chỗ cơ vòng môi, tái
lập lại sự liên kết bình thường của các cơ vòng môi.
Có thể tạo gờ nhân trung và chỗ lõm nhân trung bằng cách khâu cuộn cơ ở
phần gờ nhân trung.
Sử dụng vạt Abbe ở môi dưới tái tạo lại nhân trung và các gờ nhân trung qua
hai lần phẫu thuật.
Hình 25.2. Vạt Abbe môi dưới để tái tạo lại nhân trung và gờ nhân trung
ở phần trung tâm môi trên.
133
2.3. Viền môi không cân đối và khuyết môi đỏ
Viền môi gián đoạn hay không cân đối do việc đặt sai vị trí của các vạt da niêm
mạc trong lần phẫu thuật đầu tiên. Khuyết môi đỏ thể hiện bằng khía ngang môi hình
chữ V và lép toàn bộ môi đỏ.
Khía hình chữ V ở môi đỏ có thể được sửa bằng tạo hình chữ Z để điều chỉnh
lại viền môi cũng như phần môi đỏ.
Tạo các đường sẹo không cắt ngang qua viền môi bằng cách sử dụng các vạt
tam giác chêm vào đường viền môi, tránh được các đường sẹo vắt ngang qua viền môi
gây co kéo.
Viền môi trên rất khó tái tạo nếu hoàn toàn thiếu. Một phương pháp tạo viền
môi bằng cách rạch cắt bỏ một dải hình chêm ở phần niêm mạc và khâu lệch mép theo
kỹ thuật Gillies.
Bờ tự do của môi đỏ có hai xu hướng, phình quá mức hoặc lép. Nếu tình trạng
thừa của môi đỏ xảy ra, có thể điều chỉnh bằng cách thực hiện một đường cắt hình elip
dọc theo ranh giới của môi khô và môi ướt. Nếu môi đỏ bị lép, có thể được sửa chữa
bằng các cách sau:
Dồn đẩy niêm mạc từ thành sau của môi bị lép với kỹ thuật V-Y.
Tạo hình chữ Z để chuyển phần mô bị thừa vào vùng thiếu niêm mạc.
Dùng các vạt niêm mạc hay vạt cân từ vùng lân cận xoay đến phần môi bị khuyết.
Sử dụng các chất làm đầy hay ghép mỡ tự thân.
Cắt niêm mạc môi đỏ bên đối diện để tạo sự cân bằng hai bên.
Thiếu mấu lồi môi: dùng vạt đẩy V-Y tại phần trung tâm của niêm mạc môi
trên để tạo chỗ lồi của niêm mạc môi ướt.
134
Kỹ thuật rút ngắn chiều cao môi đi liền với việc sửa sẹo, điều chỉnh lại sự liên
kết của cơ, rút ngắn đường sẹo thẳng bằng cách sử dụng vạt xoay nằm dưới chân cánh
mũi và nền mũi.
Hình 25.3. Biến dạng mũi thứ phát ở khe hở môi bên trái: nhìn từ trước và từ dưới lên.
Phẫu thuật thì hai được thực hiện sớm ở trẻ độ tuổi mầm non nếu có biến dạng
nghiêm trọng liên quan đến sụn cánh mũi. Hoặc trì hoãn cho đến lứa tuổi 14-16 khi mũi
phát triển đầy đủ, sự can thiệp vào sụn cánh mũi cũng như sụn vách ngăn hay xương lá
mía đều không ảnh hưởng đến sự phát triển của mũi nói chung. Ở người lớn, tăng
trưởng hàm trên đã hoàn tất. Vì vậy, trong trường hợp giảm sản tầng giữa mặt đáng kể,
kỹ thuật Le Fort I có thể tiến hành trước khi thực hiện tạo hình mũi.
Các kỹ thuật tạo hình mũi mở luôn thích hợp cho việc sửa biến dạng sụn cánh
mũi hai bên, điều chỉnh sự lêch của trụ mũi, thiểu sản sụn cánh mũi bên khe hở, sự lệch
về bên bệnh của sụn vách ngăn, sự sụp của đỉnh cánh mũi bên bệnh. Ghép sụn vành tai
được thực hiện cho cánh mũi bên bệnh lý. Giải quyết tình trạng thừa niêm mạc mũi ở
vùng đỉnh mũi bên bệnh góp phần tạo sự cân đối của lỗ mũi.
Tuy nhiên cần phải thấy rằng tất cả những can thiệp vào cánh mũi không bền
vững nếu không giải quyết được tình trạng bám lệch chỗ của hệ thống cơ vòng môi
trong khi sửa chữa các biến dạng của môi.
135
26
A B
Hình 26.1. Khe hở môi hai bên không toàn bộ (A), khe hở môi hai bên toàn bộ (B)
136
Do tác động kết hợp sự phát triển của sụn và áp lực phía trước của lưỡi, khối
tiền hàm có thể nhô lên cao, nhưng trở nên giảm sản tương đối khi trẻ lớn lên. Cung
hàm trên kém phát triển và chuyển dịch vào trong hay ra ngoài.
Mũi to và dẹt kèm với sự tách rộng của hai vòm mũi, nếu không điều chỉnh tại thời
điểm phẫu thuật chỉnh sửa thì một, có thể dẫn tới biến dạng mũi thứ phát nặng nề. Không có
trụ mũi, do trụ nằm ẩn giấu trong lỗ mũi và vì cánh mũi lệch và xiên về phía dưới.
Trong khe hở môi hai bên không toàn bộ, nhiều khi khối tiền hàm ở vị trí bình
thường, mũi và nền mũi bình thường, khe hở chỉ liên quan tới phần môi. Nhiều bệnh
nhân có bệnh cảnh của khe hở môi toàn bộ một bên, bên kia là khe hở không toàn bộ,
các biến dạng của môi và mũi giống như trong khe hở môi một bên toàn bộ.
4. ĐIỀU TRỊ
137
4.2. Các kỹ thuật tạo hình khe hở môi hai bên bẩm sinh
138
Các bó cơ vòng môi từ bờ ngoài khe hở được phẫu tích và khâu đính vào
nhau qua đường giữa.
Phần giữa của vùng trung tâm môi được dùng để tái tạo nhân trung.
Hình 26.2. Kỹ thuật tạo hình Millard cho khe hở môi toàn bộ hai bên
Kỹ thuật Manchester
Kỹ thuật này thường được dùng khi mỏm môi tương đối nhỏ.
Thực hiện vết cắt thẳng từ trên xuống ở hai bên mỏm môi.
4.2.3. Các kỹ thuật tạo hình cho các dạng khác của khe hở môi hai bên
Khe hở môi hai bên không hoàn toàn và biến dạng mũi
Các bước thực hiện cũng giống như với khe hở môi hai bên toàn bộ. Nếu khe
hở môi hai bên nhỏ, các yếu tố giải phẫu môi gần bình thường thì có thể đóng bờ môi
với phần da trung tâm.
Ngược lại, nếu các yếu tố giải phẫu không đầy đủ (như viền môi không rõ
ràng, thiếu niêm mạc môi đỏ, thiếu cung viền môi trên…) thì phải xử lý như khe hở môi
toàn bộ.
Nên tránh định vị sụn cánh mũi nếu chúng không bị xiên hoặc lệch về phần
đuôi quá rõ rệt. Nếu trụ mũi ngắn (dưới 3 mm), cần chỉnh sửa mũi đầy đủ.
Khe hở môi hai bên không đối xứng và biến dạng mũi
Khe hở không hoàn toàn (không có khe hở cung răng) có thể được thực hiện
việc dính môi - mũi trước khi phẫu thuật đóng khe hở môi hai bên.
Cần phẫu thuật bên khe hở toàn bộ trước, chỉnh sửa quá mức và làm cơ sở
cho việc chỉnh sửa bên không toàn bộ tiếp theo.
Bên khe hở không hoàn toàn, cầu da nhỏ bị cắt rời và khe hở được xử lý như
biến dạng hoàn toàn cả từ hai bên khe hở.
139
4.3. Biến chứng
Chảy máu trong 24 giờ đầu hoặc ngày thứ 5 sau phẫu thuật.
Tách vết mổ do quá căng hoặc thiếu tổ chức hai bên môi.
Nhiễm trùng vết mổ, hoặc tuột chỉ.
Không đóng được môi trắng.
Mất cân đối giữa hai môi hoặc hai bên mũi.
Môi trên quá hẹp và chặt.
140
27
141
A B
Hình 27.1. Các biến dạng môi hai bên thứ phát
142
Hình 27.2. Thiết kế để kéo dài trụ mũi bị ngắn sau áp dụng vạt hai chân
cho sẹo khe hở môi hai bên.
143
28
144
Khe hở vòm miệng một bên hoặc hai bên.
Khe hở vòm màng.
Tam chứng Calnan: bệnh lý này đặc trưng bởi lưỡi gà chẻ đôi ở các mức độ
khác nhau, vết khía hình chữ V có thể sờ được và "đường xanh" trung tâm ở vòm mềm,
cho thấy sự phân tách của cơ vòm.
20% trường hợp có thiểu năng vòm hầu.
Bệnh nhân cần được theo dõi phát hiện các vấn đề ngôn ngữ.
Khe hở vòm miệng có thể được mô tả theo bảng phân loại Y của Kernahan
thành liên quan đến 1/3,2/3, hoặc toàn bộ vòm cứng và 1/3, 2/3 hoặc toàn bộ vòm mềm.
4. ĐIỀU TRỊ
145
Tạo hình khe hở cung răng, xu hướng hiện nay không tạo hình cùng thì với
khe hở môi nhằm giảm rối loạn phát triển tầng giữa mặt.
Thủ thuật chọc màng nhĩ và đặt ống grommet thường được thực hiện khi có
vấn đề về thính lực liên quan tới các đợt viêm tai giữa.
Khi 10-14 tháng tuổi: phẫu thuật tạo hình vòm miệng được thực hiện trước khi
ngôn ngữ phát triển. Lứa tuổi này đứa trẻ không quá bé để tiến hành một phẫu thuật và
cũng là lúc đứa trẻ bắt đầu tập phát âm. Vòm miệng được phục hồi tốt trẻ sẽ ít bị ngọng,
sau mổ được luyện tập tốt về tiếng nói thì kết quả phát âm sẽ rất cao.
Khi 8-12 tuổi:
Chỉnh nha để mở rộng hàm trên.
Ghép xương cho khe hở răng lấy từ mào chậu được thực hiện khi răng vĩnh
viễn liền kề mọc.
Độ tuổi trưởng thành của xương mặt (15-16 tuổi ở nữ, 17-18 tuổi ở nam)
Chỉnh nha để sửa khớp cắn.
Cắt và đẩy xương hàm trên được thực hiện để chỉnh sửa giảm sản tầng giữa mặt.
Hình 28.1. Kỹ thuật tạo hình vòm miệng pushback Veau-Kilner Wardillđể chỉnh sửa khe hở vòm
toàn bộ bên trái (A) Các vạt niêm cốt mạc dựa trên động mạch khẩu cái lớn được nâng lên.
(B) Sàn mũi được đóng ở phía trước bằng vạt xương lá mía. Tạo hình cơ nâng màn hầu được
thực hiện bằng cách đưa các cơ này lại gần ở đường giữa sau khi chúng được giải phóng khỏi
niêm mạc miệng và mũi và giải phóng khỏi cơ khẩu cái và cơ nâng vòm màng nhĩ. (C) Các mũi
khâu đệm thẳng đứng được sử dụng để đóng niêm mạc miệng.
146
Kỹ thuật pushback Veau-Kilner Wardill cho khe hở vòm toàn bộ.
Các vạt niêm cốt mạc hình tam giác dựa trên các động mạch khẩu cái lớn
được nâng lên, đẩy về sau và xoay ở phía giữa để gặp nhau ở đường giữa. Bề mặt xương
nơi cho vạt không được che phủ và thường được che bằng chất liệu cầm máu như
Surgicel. Xương mới được hình thành dưới màng xương.
Điểm yếu lớn nhất của kỹ thuật này là một vùng lớn xương màng bị bộc lộ và
để cho tổ chức hạt mọc, điều này có thể dẫn tới rối loạn phát triển xương hàm trên.
Kỹ thuật Von Lagenbeck cho khe hở vòm miệng toàn bộ.
Kỹ thuật tạo ra các vạt niêm cốt mạc hai cuống dựa trên động mạch khẩu cái
lớn bằng các đường rạch dọc theo bờ khe hở và cung răng, các vạt sau đó được nâng lên
và đóng ở đường trung tâm.
Vòm mềm không được kéo dài trong kỹ thuật này.
Ưu điểm của kỹ thuật này là tránh rối loạn vòm cứng giảm thiểu các rối loạn
phát triển của tầng giữa mặt.
Đối với các khe hở rất hẹp, đóng trực tiếp không cần tạo vạt niêm cốt mạc có thể
được thực hiện, nhưng vì mô hơi bị căng, các lỗ rò sau mổ không phải là hiếm gặp.
Tạo hình chữ Z kép (kỹ thuật Furlow) cho khe hở vòm mềm.
Nguyên tắc tương tự như trên, ngoại trừ vòm mềm được kéo dài với hai tạo
hình chữ Z, một ở phía miệng và một ngược lại ở phía mũi.
Các cơ nâng màn hầu ở một phía được đưa vào vạt niêm mạc miệng, còn cơ
nâng màn hầu ở phía bên kia được đưa vào vạt niêm mạc mũi. Vòm mềm được đóng
kín hai lớp và được đẩy lùi ra sau.
Nếu có khe hở vòm cứng kèm theo, vòm cứng được đóng tương tự như hai
tạo hình Von Lagenbeck và với vạt niêm mạc xương lá mía nếu cần.
Hình 28.2. Kỹ thuật tạo hình chữ Z kép (Furlow) để đóng khe hở vòm mềm. (A) Thiết kế đường
rạch bao gồm các vạt vòm mềm ở vùng cơ nâng màn hầu bám lạc chỗ. (B) Cơ nâng vòm nằm
trong các vạt. Niêm mạc mũi được đóng bằng tạo hình chữ Z. (C) Đóng niêm mạc miệng đồng
thời với việc tạo vòng nối của cơ nâng màn hầu.
147
4.4. Biến chứng
Trong khi mổ
Tắc nghẽn hô hấp do các lỗi đặt ống nội khí quản hoặc dịch xuất tiết. Đây có thể
là nguy cơ đe dọa tính mạng, đặc biệt là ở bệnh nhân với hội chứng Pierre Robin vì chứng
thụt hàm và lưỡi to. Đảm bảo bệnh nhân tỉnh hoàn toàn trước khi rút nội khí quản.
Chảy máu ồ ạt trong lúc mổ. Cần lưu ý cầm máu ngay bằng cách khâu cầm máu.
Trật khớp cổ 3, 4 do sai tư thế cần nắn lại ngay phòng chèn tuỷ gây tử vong.
Sau khi mổ
Chảy máu sau mổ trong 24g đầu: chèn Méches, hoặc chèn Surgicel mà không
cầm máu thì phải đưa lại phòng mổ để khâu cầm máu.
Nhiễm trùng: đề phòng nhiễm trùng sau mổ bằng cách cho bệnh nhân dùng
kháng sinh toàn thân và vệ sinh miệng tốt. Nếu có hoại tử tổ chức, cần phải làm sạch để
tổ chức hạt mọc.
Toác vết mổ: do đứt chỉ, hoặc hoại tử làm đường khâu hoác rộng, sẹo sẽ
không liền lại được. Trường hợp này cần chờ để mổ lại sau 1 năm.
Các biến chứng muộn
Thông mũi miệng: không có triệu chứng, hoặc có rối loạn ngôn ngữ hoặc khó
khăn trong ăn uống và vệ sinh răng miệng.
Rối loạn phát triển tầng mặt giữa.
Thiểu năng vòm hầu tỉ lệ xuất hiện khoảng 1-30%.
148
29
149
Các lỗ thông mũi miệng hay lỗ rò lớn có thể dẫn tới những khó khăn đáng kể
ở trẻ, bao gồm trào ngược dịch và thức ăn vào khoang mũi và liệt màng hầu. Thức ăn có
thể nằm lại trong lỗ rò gây ra vấn đề về vệ sinh răng miệng.
3. ĐIỀU TRỊ
Lỗ rò nhỏ không triệu chứng không đòi hỏi đóng bằng phẫu thuật. Lỗ rò lớn hơn
có triệu chứng có thể được đóng bằng vạt cơ-màng xương tại chỗ.
Giống như với phẫu thuật vòm thì một, điều quan trọng nhất là phải đóng được hai
lớp tại lỗ thủng vòm miệng. Có thể sử dụng các vạt niêm mạc lật tại chỗ, hoặc nếu sẹo quá
cứng, có thể sử dụng vạt niêm mạc của xương lá mía. Khi đóng lỗ thủng phải đảm bảo các
vạt không bị căng,đường khâu của từng lớp miệng và mũi không được chồng nhau để giảm
thiểu nguy cơ tái phát lỗ thủng nếu một trong các lớp bị tách đường khâu.
Trong trường hợp tái phát, các vạt hầu có thể được sử dụng, đặc biệt là cho lỗ
thông sau ở trẻ em có biểu hiện thiểu năng vòm hầu. Một lựa chọn khác là sử dụng vạt
lưỡi có cuống trì hoãn, cắt cuống thực hiện sau ba tuần. Cố định hàm là bắt buộc để
giảm thiểu nguy cơ vạt bong khỏi vị trí nhận.
Lựa chọn cuối cùng là sử dụng các vạt tự do như vạt cẳng tay quay hoặc sử dụng
phương pháp giãn tổ chức dưới niêm cốt mạc.
Trong các trường hợp khó khăn, đặc biệt là khi bệnh nhân có rối loạn phát âm
nhưng lại tránh các phẫu thuật tiếp theo, máng bịt vòm có thể được chỉ định.
150
30
2. NGUYÊN NHÂN
Các nguyên nhân liên quan tới khe hở vòm miệng bẩm sinh.
Khe hở vòm miệng bẩm sinh chưa được phẫu thuật
Khe hở vòm miệng bẩm sinh đã phẫu thuật: vòm miệng bị thiếu mô và ngắn,
hoặc bị sẹo cứng, hoặc vòm mềm không di chuyển tốt.
Khe hở vòm miệng màng: cơ căng màn hầu không thể hợp nhất tại đường
giữa. Khi nâng vòm miệng, khe hở trung tâm rộng ra và dẫn tới liệt màn hầu ở một số
bệnh nhân.
Thông mũi miệng.
Sau khi tạo hình họng hoặc tạo vạt họng: vạt không đủ rộng để đóng kín vòm
hầu.
Các bệnh lý của Amidan.
Amiđan phì đại gây cản trở việc đóng màn hầu.
Sau nạo VA, không có mô lympho phía sau này, vòm mềm không thể vươn
tới thành sau họng hoặc sự thoái triển của tổ chức VA ở tuổi dậy thì.
Sau phẫu thuật chỉnh nha hoặc sau khi đẩy tầng giữa mặt.
Rối loạn chức năng thần kinh cơ (ví dụ như tai biến mạch máu, loạn dưỡng
trương lực cơ, bệnh xơ cứng rải rác, bệnh Parkinson).
Thiểu năng tự phát của hệ cơ: tất cả thành phần của cơ thắt đều hoạt động
nhưng không thể đóng chặt do bị yếu.
Suy giảm chức năng vòm miệng bẩm sinh: vòm mềm quá ngắn nên không
chạm tới thành họng sau hoặc họng quá lớn.
151
Nguyên nhân thần kinh: liệt nhẹ màn hầu, giảm chuyển động thành hầu.
Tăng giọng mũi chức năng: những xáo trộn cảm xúc ức chế khiến người bệnh
không nói tốt được, mặc dù các cơ chế chịu trách nhiệm về phát âm đều tốt.
3. CHẨN ĐOÁN
4. ĐIỀU TRỊ
152
Phẫu thuật tạo hình thành hầu sau được chỉ định với thiểu năng vòm hầu ở khe
hở vòm chưa được phẫu thuật, phẫu thuật được tiến hành cùng lúc với phẫu thuật đóng
khe hở vòm miệng dù ở lứa tuổi nào. Nguyên tắc cơ bản của tất cả các phẫu thuật tạo
hình thành hầu là làm giảm diện tích khoang hầu họng hay hầu mũi, tăng độ đóng mở
của vòm thắt hầu họng.
Thiểu năng vòm hầu ở trẻ đã phẫu thuật đóng khe hở vòm miệng được thực
hiện sau 5 tuổi nhưng trước 12 tuổi (vì khả năng tập luyện ngôn ngữ giảm).
Cắt amiđan hoặc nạo VA thường được yêu cầu trước khi điều trị ngoại khoa
chính thức. VA có thể cản trở việc đưa vạt tạo hình hầu, trong khi amiđan to có thể cản
trở việc nâng các vạt trụ amiđan sau.
Sau phẫu thuật tạo hình thành hầu, vấn đề theo dõi và đánh giá các lỗi ngôn
ngữ tiếp tục tiến hành cho đến khi trẻ trưởng thành.
153
4.3. Các kỹ thuật tạo hình vòng thắt hầu họng (sphincter pharyngoplasty)
Các kỹ thuật đẩy lùi vòm miệng: tạo hình chữ Z kép (Furlow) cho các tổn
khuyết trung tâm nhỏ của vòm mềm. Đây là phương pháp làm giảm diện tích khoang
hầu họng nhưng tác động chủ yếu đến vòng thắt hầu họng.
Vạt thành hầu bên cuống nuôi trên
Được chỉ định trong những trường hợp thành hầu bên co thắt ít hay không
tốt, khe hở rộng vừa phải (từ khoảng 10-15 mm), cộng hưởng mũi miệng không nhiều,
đặc biệt những trường hợp đã được phẫu thuật tạo hình vòm miệng trước đó nhưng vẫn
còn dấu hiệu thiểu năng vòm hầu.
Đây là kỹ thuật được coi là có nhiều ưu điểm và hợp lý hơn so với tất cả các
phương pháp tạo hình thành hầu khác. Vạt thành hầu bên bao gồm niêm mạc và một
phần cơ vòm hầu và được nuôi dưỡng bằng nhánh động mạch vòm hầu nên tỷ lệ sống
của vạt có trục mạch cao hơn hẳn những vạt thành hầu sau cuống nuôi trên và dưới. Mặt
khác hai vạt thành hầu bên sau khi cố định vào thành hầu sau vẫn có khả năng đóng mở
trong các động tác phát âm mà không cản trở sự di động của vòm mềm.
Những biến chứng hoặc các triệu chứng phụ thấp hơn so với phương pháp
Honig, rõ nhất là những nguy cơ đe doạ tính mạng bệnh nhân như phù nề thanh quản,
khó thở hầu như không thấy ở những bệnh nhân này. Việc truyền máu không được tính
đến vì lượng máu mất không đáng kể ở tất cả bệnh nhân.
Kỹ thuật vạt thành hầu bên cuống nuôi trên (Hynes, 1953): sử dụng các vạt
niêm mạc trụ sau amidan cuống nuôi trên (superiorly based), các vạt này được xoay 90°
và ghép vào thành sau họng. Kỹ thuật này giảm hiện tượng khí thoát mũi trong 95%
bệnh nhân.
Kỹ thuật Orticochea cải tiến (1968) thay đổi chỗ bám của hai vạt thành hầu
bên thấp hơn tại thành hầu sau, các vạt được ghép vào một vạt hầu sau cuống nuôi dưới
để tạo cơ co thắt linh hoạt.
154
Hình 30.2a. Kỹ thuật tạo hình thành hầu sau cuống nuôi trên theo Honig
(1. Vạt thành hầu sau 2. Thành hầu sau 3. Vòm mềm 4. Lưỡi 5. Vòm cứng).
Hình 30.2b: Kỹ thuật tạo hình thành hầu bên theo Orticochea cải tiến
(1. Vạt thành hầu bên 2. Thành hầu sau 3. Vạt thành hầu sau 4. Lưỡi 5. Vòm cứng)
155
31
3. PHÂN LOẠI
Các biến dạng trong tật nhỏ nửa mặt dao động theo nhiều mức độ, tùy theo
mức độ tham gia của cung mang thứ nhất và cung mang thứ hai và các cấu trúc xương
liền kề. Ở các dạng bệnh nặng, tất cả cấu trúc xuất phát từ cung mang thứ nhất và cung
thứ hai đều bị giảm sản. Ở các dạng bệnh nhẹ hơn, giảm sản tai ngoài hay hàm có thể
nổi trội hơn. Do bản chất không đồng nhất của nhỏ nửa mặt, khó phân loại những biến
dạng riêng lẻ.
Mặc dù đa phần chứng nhỏ mặt được chẩn đoán là tổn thương một bên mặt,
nhưng thực chất nếu khám xét kỹ lưỡng bên lành cũng có thể phát hiện những bất
thường rất nhỏ mà trên lâm sàng bị bỏ qua và coi là bình thường.
156
Phân loại tật nhỏ nửa mặt bẩm sinh của Harold, Vargervik, và Chierici
Dạng I (A): dạng điển hình đặc trưng bởi sự kém phát triển một bên của mặt
không kèm theo tật mắt nhỏ hay nang dạng da ở mi mắt. Bệnh nhân có thể có hoặc
không có dị tật cột cống, tim hay thận.
Dạng I (B): tương tự như dạng I (A), kèm thêm tật mắt nhỏ.
Dạng I (C): dạng mất cân đối hai bên, một bên bị nặng hơn.
Dạng I (D): dạng phức tạp, không phù hợp với các dạng I (A, C). Những bệnh
nhân này không bị thiếu chi, không có kiểu hình trán mũi hay u nang dạng da ở mắt.
Dạng II: dạng thiếu chi. Có thể một bên hoặc hai bên, có không hay không có
dị tật mắt.
Dạng III: kiểu hình trán mũi. Kém phát triển tương đối ở một bên mặt, kèm
hai mắt xa nhau. Bệnh nhân có thể có u nang dạng da ở mi mắt hay dị tật cột sống, tim
hay thận.
Dạng IV (A): tổn thương một bên mặt. Dạng Goldenhar: kém phát triển mặt
kết hợp u nạng dạng da, có hoặc không có khuyết bờ mi mắt.
Dạng IV (B): tổn thương cả hai bên mặt.
4. LÂM SÀNG
157
Hình 31.1. Phân loại Pruzansky. Hàm dưới bình thường - đường liên tục,
hàm dưới bị ảnh hưởng - đường ngắt quãng. (A) Độ I, (B) Độ II, (C) Độ III.
Các biến dạng của xương khác cùng phía tổn thương:
Giảm sản xương hàm trên.
Mỏm trâm trở nên nhỏ và ngắn hơn bình thường.
Mỏm chũm: bị dẹt với khoang khí giảm hoặc không có.
Xương gò má: kém phát triển với gò má bị dẹt.
Xương trán dẹt ở phía bị ảnh hưởng, với bề ngoài tương tự như tật sọ nghiêng.
Các biến dạng xương sống như đốt sống kém phát triển một bên, dính đốt sống,
đốt sống chẻ đôi, vẹo cột sống hoặc dị tật xương sườn là phổ biến.
158
Liệt mặt (phổ biến nhất): do dị tật của hệ thống cơ bám da mặt, đường dẫn
của dây thần kinh mặt qua xương thái dương, hoặc giảm sản phần trong sọ của thần
kinh mặt và các nhân ở thân não.
Điếc bẩm sinh có thể do tai trong bị dị tật, giảm sản dây thần kinh ốc tai, và
các nhân thính giác của thân não. Cũng có thể có giảm sản các dây thần kinh sọ 9-12.
Không phổ biến, nhưng những dị tật sau đây đã được báo cáo:
Không có khứu não một bên hoặc hai bên.
Thiểu sản hoặc không có dây thần kinh thị giác một bên.
Liệt cơ vận nhãn bẩm sinh.
Giảm sản dây thần kinh ốc tai.
Giảm sản dây thần kinh vận nhãn ngoài.
Thoái hóa dây thần kinh số V bẩm sinh.
5. ĐIỀU TRỊ
159
Được điều chỉnh bằng kéo giãn hàm dưới ở bệnh nhân nhỏ tuổi. Trẻ lớn hơn
có thể cần điều trị chỉnh hình răng sau kéo giãn.
Phẫu thuật cắt xương kiểu LeFort I được tiến hành ở lứa tuổi 16-18 khi các
răng hàm trên đã mọc, phát triển sọ mặt đã hoàn tất.
Mũi thường vẹo về bên bị ảnh hưởng. Thường phải tạo hình vách ngăn mũi sau
khi chỉnh xương hàm trên vào vị trí phù hợp.
Cằm: các biến dạng cằm thường thực hiện cùng lúc với tạo hình mũi ở độ tuổi
15-17.
160
32
161
Tai có thể bị biến dạng, nhỏ hơn tai bình thường hoặc như tai dơi.
Biểu hiện ở miệng bao gồm: sự teo lép của môi trên và lưỡi. Vòm mềm và vòm
cứng cũng bị thiếu hụt theo mọi hướng dẫn đến lõm mặt. Mô mềm trong miệng và cơ
cắn có thể bị tổn thương bởi sự tiến triển của bệnh nhưng không làm rối loạn chức năng
vận động, nói, nuốt.
Có thể có rối loạn về chức năng tai mũi họng: mất nghe một bên, teo tuyến
nước bọt mang tai, biến dạng xoang trán…
Răng mọc chậm, lộ chân răng hoặc bị tiêu hủy, mủn nát.
A B C
Hình 32.1. Một số dấu hiệu lâm sàng của hội chứng Parry Rhomberg. (A: Nửa mặt trái bị tạo
lép. B: Lưỡi và môi mép bị teo lép, C: Rang bị ngắn và bị tiêu huỷ)
Da và mô liên kết biến đổi đa dạng: ban đầu, da bị biến đổi sắc tố với những
mảng màu trắng, nâu hoặc màu xanh. Quá trình này có thể diễn ra trong vài tháng hoặc
vài năm. Trong suốt thời gian này, da trở nên khô và mỏng dần nhưng lỏng lẻo, dễ di
động hơn. Các tuyến phụ thuộc da như mồ hôi và tuyến bã bị rối loạn. Da đầu bên bệnh
có thể bị hói. Có thể rụng lông mi và lông mày. 20% bị tăng đậm hoặc mất sắc tố của
lông, tóc. Sự biến đổi về da cùng với sự teo lép tổ chức dưới da, cơ, sụn, xương gây ra
hình ảnh già nua điển hình của bệnh.
Khoảng 25% có đường ranh giới ở nơi tiếp giáp giữa vùng mô bị bệnh với
vùng mô lành. Đây là một vệt da bị xơ cứng hơi lõm do teo lép mô ở sâu bên dưới chạy
thẳng hay chéo ở trên trán, giống như vệt dao lam cạo. Những đường này có khuynh
hướng trùng với đường Blaschko’s, đường thẳng hay chéo ở trêntrán mà hay gặp trong
một số bệnh về da.
Biến chứng thần kinh:
Đau nửa đầu và nửa mặt là biến chứng thần kinh hay gặp nhất (45%). 10%
động kinh và đôi khi liên quan trực tiếp đến bất thường thực thể ở não bên tổn thương
da. Tổn thương này chỉ có thể nhìn thấy trên MRI như là tổn thương vùng dưới vỏ hoặc
chất trắng. Hiếm khi gặp co thắt cơ cắn nửa mặt.
Các dấu hiệu liệt thần kinh sọ, kém nhận thức, liệt nửa người.
Có trường hợp bệnh nhân bị vi chảy máu não cùng bên với bên mặt teo lép,
gợi ý rằng hội chứng này có thể thứ phát sau một bệnh lý về vi mạch- thần kinh.
162
A B
Hình 32.2. Các tổn thương tại ranh giới với vùng da lành
(A: Đường ranh giới giữa vùng lành và tổn thương, B: Đường Blaschko).
Rối loạn tâm thần là triệu chứng mắc phải, thường là trong trường hợp rất nặng.
Teo lép thân và chi thể: 20% số trường hợp hội chứng này có liên quan đến
tình trạng teo lép một bên não, vú, chi thể hay nửa người cùng bên hay bên đối diện.
163
teo một bên não, dày màng não, loạn sản vỏ não, calci hóa, phình mạch, dị dạng mạch
máu não…
4. ĐIỀU TRỊ
Thông thường, bệnh nhân cần được phẫu thuật tạo hình bồi phụ lại phần tổ chức bị
teo lép. Các chất liệu có thể là ghép mỡ, ghép xương, độn silicon, dùng vạt da, cơ…
Nên khuyến cáo cho bệnh nhân nguy cơ teo lép trở lại do bệnh vẫn tiến triển.
Trong những trường hợp nặng có thể dùng thuốc ức chế miễn dịch: methotrexat,
corticoid, cyclophosphamid, azathioprin… nhưng hiệu quả chưa được chứng minh
rõ ràng.
164
33
165
Vành tai được cấu tạo bởi hai phần, phần trên là một vành có cấu tạo đặc biệt,
phía giữa là một bản sụn mỏng có hình dáng lồi lõm, bao phủ hai mặt sụn là lớp da
mỏng có tổ chức mỡ kém phát triển. Phần dưới vành tai là dái tai, thực chất là một nếp
da không có khung sụn ở trong. Một phần trước của vành tai dính liền với xương sọ,
phần còn lại tự do và tạo với xương chũm một góc mở ra sau.
Trục của vành tai thường song song với sống mũi và lệch 20o với đường cắt
qua đỉnh. Mặt sau vành tai được ngăn cách với vùng thái dương và vùng xương chũm
bằng rãnh tai. Độ nhô của tai với xương chũm trung bình khoảng 17-21mm. Mặt sau tai
làm một góc 90o với mặt xương chũm. Ở người lớn chiều cao tai trung bình từ 58 - 62
mm, chiều rộng trung bình từ 34 - 36 mm.
Mắt trước của vành tai được cấu tạo từ nhiều đường gờ lồi và vùng lõm kế tiếp
nhau: gờ luân, hõm thuyền, gờ đối luân, hõm tam giác, gờ bình, gờ đối bình, xoăn tai.
Dái tai được tiếp nối với gờ đối bình và nằm ở phần dưới của vành tai, là một nếp da có
hình dáng thay đổi ở từng người và chiếm khỏang 1/5 chiều cao của vành tai.
Máu cung cấp cho vành tai từ hai nguồn: ở phía trước có động mạch thái dương
nông cấp máu cho dái tai, gờ bình và một phần gờ luân, ở phía sau có động mạch tai sau
cấp máu cho phần lớn mặt sau vành tai. Các tĩnh mạch thường đi tùy hành với động
mạch. Chi phối cảm giác của vành tai do nhánh tai của đám rối cổ nông đảm nhiệm.
Hình 33.1. Giải phẫu vành tai 1.Gờ luân 2. Hõm tam giác 3.Gờ đối luân 4. Hõm thuyền
5. Gờ đối bình 6. Dái tai 7. Gốc gờ luân 8. Rãnh xoăn 9. Xoăn tai 10. Hõm xoăn 11. Gờ bình
166
Thiểu sản vành tai hoàn toàn (Complete hypoplasia) thể tai nhỏ microtia đi kèm.
Không ống tai ngoài.
Có ống tai ngoài.
Thiểu sản 1/3 giữa vành tai.
Thiểu sản 1/3 trên vành tai với ba mức độ từ nhẹ đến nặng như sau:
Tai quắt (Constricted ear).
Tai nắp (Cryptotia).
Thiểu sản hoàn toàn 1/3 trên vành tai.
Tai vểnh (Prominent ear).
A B C D
Hình 33.2. Một số dạng dị tật của vành tai: Colomboma
(A), Cup ear (B), Cryptotia (C), Lop ear (D).
167
Typ 2: mức độ khum nhiều hơn ở cực trên của vành tai.
Loạn sản độ 2: một số phần của vành tai vẫn bình thường, sửa chữa một phần
các biến dạng trên vành tai cần đến những chất liệu như da, sụn). Loại này tương ứng
với tai nhỏ độ II.
Biến dạng tai khum độ 3: tai khum ở tất cả các chiều của vành tai. Còn gọi là
tai vỏ ốc, tai ốc sên…
Tai thu nhỏ (Mini ear).
Loạn sản độ 3: không tồn tại bất cứ cấu trúc bình thường nào của vành tai, sửa
chữa toàn bộ những biến dạng này cần nhiều đến các chất liệu như da, sụn… Dị dạng
này còn được gọi là tai hạt lạc, tai thiểu sản toàn bộ, tai nhỏ độ III.
168
34
2. NGUYÊN NHÂN
Còn chưa hiểu rõ nguồn gốc của dị tật. Các thuyết bao gồm thiếu máu cục bộ
trong tử cung gây ra bởi tắc một động mạch hoặc xuất huyết cục bộ.
Không nhận thấy liên quan tới di truyền.
Thuốc liên quan với dị tật tai bao gồm thalidomid, clomiphene citrate và acid retinoic.
5% các trường hợp tai nhỏ có một thành viên trực tiếp trong gia đình bị các dị
tật tai. Cha mẹ có hai con bị dị tật tai có nguy cơ tái xuất hiện dị tật cao tới 15% trong
các lần mang thai tiếp theo.
169
Không có tai.
Tai nhỏ không điển hình – tất cả các trường hợp khác.
A B C D
Hình 34.1. Các hình thái lâm sàng tai nhỏ: Loại hõm xoăn
(A), loại dái tai (B), loại hõm xoăn nhỏ (C), loại không có tai (D)
4. ĐIỀU TRỊ
4.3. Các chất liệu tạo hình khung sụn vành tai
Vật liệu tổng hợp không được đón nhận tốt và có nhiều biến chứng, bao gồm
loét da, nhiễm trùng, đào thải chất liệu.
170
Ghép sụn đồng loại (Homograft) (mẹ, cha, hoặc sụn lưu trữ trong ngân hàng)
bị tiêu, biến dạng hoặc biến mất trong vòng 18 tháng.
Chất liệu được ưa thích là sụn sườn tự thân. Nó mang lại kết quả tốt, ít biến
chứng và chịu được chấn thương.
Đặt ống dẫn lưu để hút, ngăn ngừa tích tụ khối máu tụ và tạo áp lực âm
trong túi, tạo điều kiện thuận lợi cho vạt da phía trên thích ứng với khung.
Giai đoạn II- Dái tai được chuyển tới vị trí bình thường hơn so với khung.
Giai đoạn III- Tai mới được nâng lên khỏi da đầu và một vạt da sau vành tai
được dựng lên:
Vành tai mới được nâng khỏi đầu và mảnh ghép da được đặt ở phía sau
vành tai nhằm tạo nên rãnh sau tai.
Độ nhô của tai được duy trì bằng việc chèn một mảnh sụn sườn ở phía sau.
Một vạt cân thái dương hay vạt cân chẩm xoay ngược từ phía sau tai sẽ che phủ mảnh
sụn để làm nền cho mảnh da ghép nằm trên.
Giai đoạn IV- Tái tạo gờ bình tai: gờ bình tai có thể được tạo hình lại bằng mô
ghép từ tai đối diện. Nó cũng có thể được tạo ngay từ khung sụn trong giai đoạn ban đầu.
Kỹ thuật Nagata (năm 1993) tái tạo vành tai gồm 2 giai đoạn:
Trong giai đoạn 1, một khung hoàn chỉnh bao gồm gờ bình tai được chèn vào
khoang dưới da trước tai và dái tai được dịch chuyển.
Trong giai đoạn 2, vành tai được nâng và cho nhô lên khỏi da đầu.
171
35
A B
Hình 35.1. Sụp mi trên bẩm sinh. Sụp mi mắt trái (A), Sụp mi hai bên (B)
Cho tới nay có rất nhiều phương pháp phẫu thuật áp dụng điều trị bệnh sụp mi,
nhưng cũng chỉ cần đề cập đến hai phương pháp giá trị nhất có thể giải quyết tốt tình
trạng bất thường của mi trên: phương pháp treo tĩnh mi trên và thu ngắn cơ nâng mi.
172
3. TẬT KHUYẾT BỜ MI TỰ DO (colobome)
Dị tật khuyết bờ mi tự do là tình trạng thiếu một đoạn phần mềm của bờ tự do
mi mắt. Đoạn khuyết này không có lông mi và khuyết phần mềm không vượt quá mếp
mi. Nguyên nhân do sự thiếu phần sụn mi mắt tại vùng đó dẫn tới khuyết phần mềm.
Khuyết bờ mi đơn thuần hay gặp nhất ở 1/3 trong của mi trên. Tổn thương này
cũng hay kết hợp với các dị tật khác như khe hở sọ mặt số 3,4,5,6 với mi dưới, khe hở
9,10,11 với mi trên. Hay nằm trong hội chứng Goldenhar (hội chứng mắt - tai - cột
sống) hoặc chứng nhỏ nửa mặt .
Tất cả các khuyết ở bờ mi trên không bao giờ lớn trên 4mm, chính vì vậy việc
phẫu thuật khá đơn giản, cắt hình chêm tam giác toàn bộ chiều dày mi và khâu hai mép
theo đúng lớp giải phẫu là giải quyết tốt biến dạng này.
Các khuyết bờ mi dưới thường kết hợp với các hội chứng, tổn khuyết lớn hơn
và bao giờ cũng thiếu cả ba chiều của mi mắt (thiếu bờ mi tự do, thiếu chiều cao và
chiều dày toàn bộ mi. Các khuyết này chủ yếu nằm ở 1/3 ngoài mi mắt và kèm theo dấu
hiệu hạ thấp nếp da chân vịt. Điều trị khuyết bờ mi dưới khá phức tạp, thường kết hợp
vạt da sụn kết mạc mi trên hoặc ghép da và niêm mạc.
A B
Hình 35.2. Khuyết bờ mi trên và mi dưới
(A), khuyết bờ mi dưới hai bên trong khe hở mặt số 5 (B)
173
5. TẬT DÍNH MI (cryptophtalmos)
Là một dị tật hiếm gặp, da che phủ toàn bộ nhãn cầu và không có mi mắt rõ
ràng. Thường dị tật gặp ở cả hai mắt. Sự thất bại của tách mi mắt trong thời kỳ bào thai
đi cùng với các dấu hiệu kém phát triển giác mạc và nhãn cầu nhỏ.
Có ba loại dính mi tùy theo mức dộ hai mi mắt tách rời nhau không hoàn toàn
hoặc cả hai mi dính với nhau bằng một lớp da mỏng.
Dính mi hoàn toàn: da mỏng che phủ nhãn cầu, không có cùng đồ mắt và
giác mạc dính vào da.
Dính mi không hoàn toàn: hai mi tách và có cùng đồ ở 1/3 ngoài mắt.
Dính củng mạc vào 2/3 trên của kết mạc.
Điều trị chỉ đơn thuần vì mục dích thẩm mỹ kết hợp với tạo hình cùng đồ cả
hai mi mắt.
A B
Hình 35.3. Tật dính mi hoàn toàn (A), dính mi không hoàn toàn (B)
174
A B
Hình 35.4. Nếp da chân vịt xuất phát từ mi trên (A) và nếp da chân vịt ngược (B)
Hình 35.5. Hẹp khe mi hai bên kết hợp tật xa góc mắt trong, sụp mi trên, mi trên nhỏ.
175
36
176
Tim bị đẩy về phía ngực trái.
Phổi dãn nở khi hít vào tương đối bị hạn chế.
Cơ hoành phải di chuyển nhiều hơn để thông khí khi gắng sức.
Các bệnh lý có thể gặp trong quá trình phát triển:
Có một tỷ lệ đáng kể viêm phế quản mạn tính, hen và giãn phế quản.
Nhiễm trùng hô hấp phổ biến ở hơn 1/3 bệnh nhân.
Ít nhất 1/4 bệnh nhân có cảm giác đè nén khó chịu ở lồng ngực.
177
Một thanh thép không gỉ mỏng làm giá đỡ được đặt ngang ngực và cố định
mỗi đầu vào xương sườn. Thanh đỡ tạo sự ổn định tức thì cho lồng ngực, giảm đau, cho
phép hít thở sâu hơn và xuất viện sớm hơn. Loại bỏ thanh đỡ sau 6 tháng.
Khoang màng phổi bên phải thường được mở rộng để dẫn lưu trong 24 giờ.
Phẫu thuật tối thiểu (kỹ thuật Nuss) là một thay thế cho phẫu thuật mở.
Kỹ thuật này bao gồm việc đặt một thanh đỡ cong xuyên qua ngực, giữa
xương ức và tim, thông qua hai đường rạch bên dài 2,5 cm ở đường nách và xoay mạnh
nó về phía trước để nâng xương ức bị lõm. Thanh đỡ xương ức được giữ nguyên trong ít
nhất 2 năm.
Ưu điểm của kỹ thuật này là không rạch thành ngực trước, tránh cắt bỏ sụn
sườn, tránh cắt xương ức.
Đau nhiều hơn và thời gian nằm viện cũng lâu hơn so với phẫu thuật mở.
Khoảng 15-20% yêu cầu loại bỏ thanh đỡ trong vòng vài tuần vì đau.
Khoảng 9-33% bệnh nhân phải mổ lại liên quan tới biến chứng thanh đỡ:
thanh đỡ bị lật và biến dạng nhô lồng ngực quá mức hình ức gà.
Tỷ lệ biến chứng và tử vong cao hơn so với kỹ thuật mở.
178
Các biến dạng lồi xảy ra ít hơn 6 lần so với dị tật lõm ngực.
Biến dạng thường nhẹ hoặc không nhận thấy trong những năm đầu đời và trở
nên rõ nét trong giai đoạn đầu thời kỳ trưởng thành ở 90% bệnh nhân. Chỉ có khoảng
10% trường hợp, chứng lồi lồng ngực trở nên rõ ràng và có triêu chứng trong thời gian
2-3 năm đầu đời và liên quan tới sự biến dạng phần trên xương ức.
Bệnh sinh: bắt nguồn từ một sự tăng trưởng sai lệch của sụn sườn. Sụn biến
dạng đẩy xương ức và hõm ức ra ngoài. Hai loại biến dạng gồ xương chính:
Sụn hõm ức (Chondromanubrial) gặp dưới 10% trường hợp. Phần trên xương
ức nhô ra nhiều nhất, phần dưới của xương này hướng về sau.
Sụn thân ức (Chondrogladiolar) gặp hơn 90% trường hợp. Phần dưới xương
ức nhô ra nhiều nhất.
179
4. DỊ TẬT KHUNG XƯƠNG SƯỜN
4.1. Các hình thái biến dạng của khung xương sườn đối xứng.
Loạn dưỡng lồng ngực do ngạt thở ở trẻ sơ sinh (bệnh Jeune) là một dạng nặng
của chứng lồng ngực bị hẹp và kém linh hoạt với nhiều bất thường sụn, bệnh nhân bị
suy hô hấp tiến triển. Bệnh lý này thường dẫn đến tử vong.
Trẻ nhũ nhi với xương sườn hay sụn bị hợp nhất, hay không có xương sườn,
thường bị hạn chế động tác hô hấp trầm trọng. Kết hợp với các dị tật tim và cột sống
trầm trọng, bệnh thường dẫn tới tỷ lệ tử vong cao. Phẫu thuật nói chung không có hiệu
quả. Hỗ trợ hô hấp lâu dài là cách điều trị duy nhất cần thiết. Những trẻ này có xu
hướng viêm phổi tái phát, với xơ kẽ, tăng huyết áp động mạch phổi và tử vong.
180
37
2. LÂM SÀNG
A B
Hình 37.1. Hội chứng Poland. Thiểu sản vú và ngực phải, cụt ngón bàn tay phải ở nữ giới
(A). Thiểu sản cơ ngực lớn bên phải ở nam giới (B).
181
Dị tật vùng bả vai xương đòn thường rõ ràng hơn:
Giảm sản cẳng tay hoặc cánh tay.
Khuyết một phần tại bờ trong cơ ngực lớn.
Thiếu hoặc không có cơ ngực nhỏ, cơ lưng rộng, cơ răng trước và các cơ vai khác.
Ngực:
Giảm sản hay bất sản tuyến vú và phức hợp núm quầng vú cùng bên.
Xương sườn và sụn sườn bất thường.
Thiếu mỡ dưới da và lông nách.
Xương ức quay về phía bị tổn thương, gây biến dạng gờ bên đối diện.
Hội chứng Poland kết hợp với các biểu hiện bệnh lý khác:
Bệnh Moebius với dấu hiệu liệt hai bên các dây thần kinh sọ não số VI và VII.
Hội chứng Poland bên trái cũng liên quan tới bệnh bạch cầu, u lympho không
Hodgkin và tim nằm bên phải.
182
Thiếu hoặc thiểu sản một phần lớn cơ ngực ở đầu bám tận với xương ức hay
xương sườn.
Thiếu mỡ dưới da hõm nách và vùng dưới đòn.
Biến dạng nặng:
Những dị dạng phức tạp được đặc trưng bởi hình ảnh không có vú cũng như
quầng núm vú.
Không có cơ ngực cũng như các biến dạng của xương sườn và xương ức.
Da vùng ngực và hõm nách ít di động.
3. ĐIÈU TRỊ
Vấn đề điều trị được đặt ra liên quan tới từng cơ quan bị tổn thương.
Chỉnh sửa dính ngón.
Ngón ngắn dính có thể được cải thiện bằng làm sâu kẽ để tạo cảm giác ngón
tay dài hơn.
Tách ngón khi có dính ngón.
Chỉnh sửa khung sườn
Thường không đòi hỏi can thiệp.
Thực hiện ghép xương sườn lấy từ bên đối diện khi thiếu xương sườn.
Tái tạo nếp gấp nách
Tái tạo cơ ngực lớn, sử dụng cơ lưng rộng chuyển ra trước để tạo nếp gấp
nách trước (Hester và Bostwick).
Chuyển vạt tự do cơ lưng rộng sang phía ngực đối diện.
Tuyến vú
Nam giới: có thể được tái tạo bằng cách sử dụng cơ lưng rộng và túi độn
ngực được chế tạo riêng cho phù hợp.
Nữ giới: cần tiến hành kỹ thuật giãn tổ chức trong suốt thời gian dậy thì cho
ngực tổn thương, sau đó thay thế bằng túi đặt ngực vĩnh viễn. Có thể chuyển cơ lưng
rộng trong trường hợp mô dưới da mỏng. Có thể sử dụng các vạt da cơ có cuống liền
hay tự do như vạt da cơ lưng rộng hay thẳng bụng để tái tạo vú tổn thương. Thủ thuật
treo vú bên lành có thể được thực hiện nhằm tạo sự cân đối của hai vú.
183
38
2.1. Các núm vú thừa hay tật nhiều núm vú (Supernumerary Nipples, Polythelia)
Những dấu vết còn lại của nụ vú hình thành một đường từ nách đến bẹn, dọc theo
đó các núm vú thừa có thể hình thành sau khi thiếu khả năng thoái lui vào giai đoạn 3
tháng của sự phát triển bào thai. Sự bất thường này không phải hiếm gặp, có tần suất
0,2-2,5%.
Những núm vú này thường được nhận thấy nhiều nhất phía dưới vú và phía trên
da bụng dưới, gặp ở 2 bên trong 50% các trường hợp, và đôi khi cũng được tìm thấy ở
những vị trí như bả vai, sau đùi, đầu và cổ.
Mặc dù đã có vài báo cáo về các bất thường bẩm sinh phối hợp, không có hội
chứng nào được mô tả.
Điều trị thích hợp nhất trong phần lớn các bệnh nhân là sự cắt bỏ đơn giản.
184
2.2. Tuyến vú phụ hay tật nhiều vú (Supernumerary Breasts, Polymastia)
Tuyến vú phụ là sự phát triển của nhu mô tuyến vú lạc chỗ có hoặc không hiện
diện của một núm vú. Một tuyến vú phụ có thể phát triển từ tổ chức nụ tuyến vú còn sót
lại với sự kích thích của hormon.
Dị tật này có tần suất xấp xỉ 0,1-1%, với vị trí hay gặp nhất là vùng nách. Hầu hết
các vị trí khác của các vú phụ là cũng dọc theo các đường phôi thai của vú.
Tổ chức tuyến vú lạc chỗ có cùng các nguy cơ cho các bệnh lý lành tính và ác tính
như tổ chức tuyến vú bình thường.
Hình 38.2. (Trái): Tuyến vú phụ ở nách phải, (Phải): Tuyến vú phụ dưới vú trái.
Hơn nữa, tuyến vú phụ có tính gia đình đã được báo cáo và có thể phối hợp với
các bất thường nhiễm sắc thể và các khối u ác tính của hệ thống niệu-sinh dục. Sự cắt bỏ
theo hình ellip đơn giản thông thường là phương thức điều trị đầu tiên cho tuyến vú phụ.
185
Hình 38.3. Hình ảnh vú tăng sản hay phì đại.
186
Nhiều kỹ thuật tái tạo vú có thể được sử dụng, bao gồm vạt da cơ thẳng bụng
ngang, vạt da cơ lưng to và một túi độn. Sự giãn tổ chức với đặt một túi độn silicone sau
đó cũng là một sự lựa chọn. Có thể đặt một túi giãn tổ chức và giữ nhịp độ với sự phát
triển của vú bên lành. Trong trường hợp 2 bên, nên bắt đầu sự giãn khi các bạn cùng lớp
khác đang bắt đầu phát triển tuyến vú và sau đó giữ nhịp độ để đạt được kết quả phù
hợp với chiều cao và cân nặng. Điều này đóng một vai trò quyết định trong việc phát
triển tâm lý xã hội của những trẻ này. Việc điều trị các bệnh nhân với các túi độn một
bên ở lứa tuổi sớm cần được theo dõi lâu dài. Hình thể tuyến vú bình thường sẽ thay đổi
theo thời gian và các kỳ thai nghén, và các thủ thuật ngoại khoa bổ sung có thể cần thiết
để duy trì sự cân xứng.
187
bình thường. Ở những trường hợp nặng hơn, sự biến dạng cơ ngực có thể được cải thiện
bằng việc sử dụng vạt cơ lưng to, lưu ý rằng cơ này có thể bị thiểu sản trong hội chứng
Poland và có thể không thích hợp. Nếu bệnh nhân lớn tuổi hơn và có tổ chức bụng dưới
đáng kể, một vạt TRAM, thậm chí vạt DIEP, hoặc một vạt động mạch thượng vị nông
dưới (SIEA flap) có thể được sử dụng. Cuối cùng, một phức hợp quầng núm vú bị lệch
chỗ có thể cần thiết được di chuyển hoặc trên một cuống vạt hoặc như một mảnh ghép
tự do. Hơn nữa, sự sữa chữa bổ sung có thể cần thiết về sau, khi các thay đổi sinh lý xảy
ra với tuổi, thay đổi cân nặng và các thời kỳ thai nghén.
188
Sự thoát vị phức hợp quầng núm vú có thể được sửa chữa với một đường mổ
quanh quầng vú, cho phép giảm kích thước quầng vú và giải phóng vòng co thắt. Có thể
bóc tách rộng đường mổ để điều chỉnh vị trí và hình thể của tuyến vú. Qua một đường
rạch dưới vú, vú hình củ được nâng lên khỏi cân cơ ngực bên dưới, sau đó được cắt tỏa
ra như hình tia từ trung tâm để mở rộng đáy vú, dễ dàng cho việc đặt của một túi giãn.
Có thể đặt một túi giãn tổ chức để mở rộng thể tích vú và phức hợp quầng núm vú. Sau
đó túi giãn có thể được thay thế bằng mô cấy vĩnh viễn. Các phẫu thuật sữa chữa ở vú
đối diện cũng có thể được thực hiện khi có chỉ định. Nếu nếp gấp dưới vú quá cao hoặc
không có, có thể tiến hành tạo hình nếp lằn vú mới.
189
39
190
Dị dạng lỗ đái lệch thấp còn là một biểu hiện của hơn 100 hội chứng, bệnh có
nguyên nhân di truyền gồm:
Bất thường nhiễm sắc thể như trong hội chứng Down, mất đoạn nhánh ngắn
nhiễm sắc thể số 4 (4p-), Klinefelter, hội chứng 47,XYY.
Một số hội chứng khác như Smith-Lenmli-Opitz, Silver-Russell, hội chứng
có nếp da cổ (Pterygium syndrome), hội chứng nhãn cầu nhỏ Lenz (Lenz
microphthalmia syndrome).
Khi phát hiện trẻ có tật lỗ đái lệch thấp, nên sớm cho trẻ đi khám ở các cơ sở
Phẫu thuật tạo hình, Nhi khoa, làm xét nghiệm di truyền để điều trị và phòng tái phát
bệnh ở các trẻ tiếp theo trong gia đình.
Điều trị: đây là tật có thể khắc phục bằng phẫu thuật tạo hình nối dài niệu đạo
dương vật, đưa lỗ đái về đầu dương vật, nếu được khắc phục sớm thì trẻ có thể đi tiểu
bình thường, chức năng sinh sản không bị ảnh hưởng.
191
4. TINH HOÀN CHƯA XUỐNG BÌU
Tinh hoàn chưa xuống bìu còn được gọi là tinh hoàn ẩn là một loại dị dạng ở
nam giới, trong đó tinh hoàn không nằm ở bìu mà nằm trên đường đi bình thường của
tinh hoàn trong giai đoạn phát triển phôi thai như ở trong ổ bụng hoặc lỗ bẹn nông gần
bìu. Cần phân biệt với khái niệm tinh hoàn lạc chỗ là trường hợp tinh hoàn không nằm
trên đường đi bình thường của tinh hoàn trong giai đoạn phát triển phôi thai như ở trên
mà nằm lạc chỗ, ví dụ như ở đáy chậu, nằm ở trong ổ bụng bên cạnh thận.
Tinh hoàn chưa xuống bìu chiếm tỷ lệ cao ở trẻ sơ sinh nam, tuy nhiên, khoảng
3/4 các trường hợp tinh hoàn sẽ tự xuống trong năm đầu, số còn lại không tự xuống
được dẫn đến nguy cơ vô sinh do tinh hoàn nằm trong ổ bụng hoặc ống bẹn có nhiệt độ
không thích hợp cho quá trình tạo tinh hoặc gây ung thư tinh hoàn. Nguy cơ vô sinh của
tinh hoàn chưa xuống bìu 1 bên nếu không đưa tinh hoàn xuống là 25 - 70%, trường hợp
tinh hoàn chưa xuống bìu 2 bên là 54 - 90%.
Tinh hoàn chưa xuống bìu có thể biểu hiện đơn phát, song trong nhiều trường
hợp tinh hoàn chưa xuống bìu chỉ là một biểu hiện của một số bệnh tật di truyền. Có các
mức độ khác nhau của tinh hoàn chưa xuống bìu:
Chỉ có 1 tinh hoàn chưa xuống bìu.
Cả 2 tinh hoàn chưa xuống bìu.
Tinh hoàn chưa xuống bìu có thể kèm theo tinh hoàn nhỏ, các biểu hiện về giới
tính không rõ, hormon sinh dục nam giảm. Tinh hoàn chưa xuống bìu thường có kèm
thoát vị bẹn bẩm sinh. Khi tinh hoàn chưa xuống bìu, quá trình tạo tinh bị ảnh hưởng
gây giảm số lượng tinh trùng, tỷ lệ chết tăng, tinh trùng kém di động, nội tiết tố nam
thường thấp.
Cơ chế bệnh sinh là do trong phát triển phôi thai, tinh hoàn được tạo ra ở trong
ổ bụng, sau đó nó di chuyển theo ống bẹn để xuống bìu. Nếu quá trình di chuyển không
hoàn thiện dẫn đến tật tinh hoàn chưa xuống bìu. Trong dị tật này, ống bẹn cũng có thể
không bịt lại nên tinh hoàn chưa xuống bìu thường kèm theo thoát vị bẹn bẩm sinh.
Chẩn đoán tật này cần dựa vào thăm khám lâm sàng thấy tinh hoàn trong ống
bẹn, nếu không thấy có thể phải siêu âm thấy tinh hoàn trong ổ bụng. Đây là tật cần
được chẩn đoán sớm, can thiệp sớm bằng dùng hormon, hoặc bằng phẫu thuật để tránh
hậu quả vô sinh và ung thư hóa tinh hoàn.
192
Thực tế thì buồng tử cung vẫn có kinh nhưng kinh nguyệt không ra được. Việc
bế kinh dẫn đến đau bụng. Sờ có thể thấy một khối xuất hiện ở vùng tử cung. Một số ít
trường hợp thấy có bất thường ở thận kèm theo.
Để chẩn đoán người ta dựa vào triệu chứng bế kinh, thăm khám thấy âm đạo
dưới bị tắc. Để điều trị, người ta cắt bỏ tổ chức xơ. Nếu được điều trị tốt bệnh nhân có
khả năng sinh đẻ.
7. DỊ TẬT TỬ CUNG
Tử cung không phát triển
Tử cung không phát triển 2 bên: tử cung không phát triển bao giờ cũng kèm
theo các bất thường khác như bất thường vòi tử cung, buồng trứng. Trẻ có tử cung
không phát triển thường được phát hiện do các bất thường kèm theo như bất thường
buồng trứng dẫn đến biểu hiện nữ không rõ, tử cung, âm đạo không phát triển. Chẩn
đoán dựa vào chụp X - quang. Điều trị tạo hình âm đạo để có hoạt động tình dục gần
như bình thường.
Tử cung không phát triển một bên bên kia có thể hoàn toàn không có gì hoặc
bên kia vẫn có biểu hiện tử cung giả một sừng. Nếu bên tử cung không phát triển vẫn có
lỗ thông với buồng tử cung thì cần phải thắt vòi bên này lại tránh trường hợp thai phát
triển trong sừng không phát triển trong sừng không phát triển của tử cung.
Tử cung kép, tử cung hai sừng, tử cung và âm đạo đều kép
Tử cung kép, tử cung hai sừng, tử cung và âm đạo đều kép là trường hợp
người phụ nữ có đáy tử cung trẽ đôi, có 2 thân tử cung hoặc có 2 thân tử cung và 2 âm
đạo. Vòi tử cung và buồng trứng bình thường.
Triệu chứng hay gặp là bế kinh, đau bụng kinh. Tuy nhiên nếu cổ tử cung và
âm đạo không bị hẹp thì bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng.
Thiếu vòi tử cung và tịt vòi tử cung
193
Thiếu vòi tử cung và tịt vòi tử cung là trường hợp vòi tử cung ở 1 hoặc cả 2 bên
không có hoặc bị tắc. Nếu không có các dị tật khác phối hợp thì bệnh nhân không có biểu
hiện lâm sàng. Nếu tắc cả 2 bên, bệnh nhân sẽ vô sinh mặc dù vẫn có kinh bình thường.
194
40
3. PHÂN LOẠI
Bên cạnh tiêu chuẩn về vị trí của lỗ đái trên dương vật, các đặc điểm khác của sự
bất thường của qui đầu, dương vật, bìu cũng cần được tính đến khi phân loại.
Thể rãnh qui đầu: lỗ đái nằm ở chỗ thấp của quy đầu hoặc rãnh quy đầu, chiếm
50% trường hợp.
Thể dương vật: lỗ đái nằm ở mặt dưới dương vật và phần gốc dương vật, chiếm
20% các trường hợp.
Thể bìu.
195
Thể đáy chậu.
Thể ẩn. Ba thể này được xếp vào lỗ đái lệch thấp ở và chiếm 30% các trường hợp.
Qui đầu: thường thiểu sản ở phần bụng và có hình thể dẹt, với một đường rãnh
đại diện cho rãnh niệu đạo. Bao qui đầu thường thiếu ở mặt bụng và chỉ che phủ các mặt
còn lại của qui đầu, tạo ra hình ảnh tạp dề hay mũ ni của qui đầu. Niêm mạc qui đầu có
thể dính vào da bao qui đầu.
Bìu có thể có hình dáng bình thường với lỗ đái gần qui đầu, trong những
trường hợp nặng, bìu nứt đôi trong trường hợp lỗ đái lệch gần đáy chậu. Trong trường
hợp này bìu trông giống như hai môi lớn, tinh hoàn chưa xuống hay tinh hoàn bé, dương
vật nhỏ như âm vật, đẽ chẩn đoán lưỡng giới.
196
9% trường hợp liên quan đến thoát vị bẹn và 9% có tinh hoàn lạc chỗ. Tỷ lệ
này tăng thành 20% và 30% đối với lỗ đái lệch thấp đoạn sau. Các dị tật khác có thể gặp
như thoát vị bẹn, không hậu môn, khoèo chân, dị tật tim và mắt..
Dị tật của đường tiết niệu trên thường hiếm, trừ khi có những dị tật bẩm sinh
khác. Trào ngược bàng quang niệu quản không phổ biến, nhưng không cần điều trị nếu
không có triệu chứng (nhiễm trùng tiết niệu tái phát).
5. ĐIỀU TRỊ
197
Cương cứng.
Biến chứng muộn.
Lỗ rò.
Hẹp lỗ niệu đạo.
Hẹp niệu đạo.
Túi thừa niệu đạo: do tắc nghẽn dòng chảy ra ở đầu xa hoặc thiếu mô nâng đỡ
cho niệu đạo mới.
Cong dương vật tái phát.
Lông ở niệu đạo: không được sử dụng da mang lông để tạo niệu đạo mới vì
nó có xu hướng bị nhiễm trùng. Lông phải được cắt bỏ, hoặc cắt bỏ da và thay thế.
Viêm bao quy đầu xơ tắc là bệnh xơ cứng của cơ quan sinh dục nam, không
rõ nguyên nhân. Nó biểu hiện bởi loét, tiến triển thành hẹp bao quy đầu và hẹp lỗ niệu
đạo. Đó là tiền ác tính của ung thư tế bào gai. Điều trị bằng cắt bỏ da bị tổn thương,
nhưng luôn tái phát nếu da bộ phận sinh dục được sử dụng để tạo hình. Da vùng sau tai
cho thấy tỷ lệ tái phát nhất định, niêm mạc miệng là mảnh ghép bền nhất cho bệnh nhân
viêm bao quy đầu xơ tắc.
198
41
1. ĐẠI CƯƠNG
Dịch tễ: dị tật bẩm sinh chiếm tỉ lệ từ 1 đến 2% ở trẻ được sinh ra, khoảng 10%
trong số đó là dị tật bẩm sinh ở chi trên, đứng thứ 2 sau các dị tật vùng đầu mặt cổ. Tỉ lệ
này không thay đổi đáng kể trong vài thập kỉ gần đây. Hầu hết các dị tật bẩm sinh xuất
hiện tự phát hoặc có tính di truyền.
Phôi thai học: sự phát triển về hình thái học của chi trên được tính từ khi thụ
thai đến khi hình thành các cấu trúc cơ bản của chi. Ở người thời gian này kéo dài đến 8
tuần sau khi thụ tinh. Trong đó giai đoạn tạo cơ quan là từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 8.
Giai đoạn này rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác nhân gây quái thai gây nên các dị tật bẩm
sinh ở chi trên. Tại tuần thứ 4 của thai kỳ, mầm chi trên được hình thành từ bụng bên
của phôi. Mầm chi trên mở rộng từ đoạn cơ thứ 8 đến thứ 12 tương ứng với đốt sống cổ
6 tới đốt sống ngực thứ 2. Từ tuần thứ 5 chi phát triển, duỗi thẳng ra để tạo thành hố
nách. Vào ngày thứ 37 đĩa bàn tay hình thành mỏng dẹt như mái chèo, với các nhú nhỏ
mọc ra các ngón. Mạch đi vào cấp máu cho bề mặt ngoại bì và thần kinh đi kèm. Không
lâu sau mầm sụn mọc xung quanh và các khớp được tạo thành. Tuần thứ 8 sự phân chia
các ngón tay được hình thành, ngón cái tách ra so với các ngón khác và sự phát triển về
hình thái của chi trên hoàn thành với chiều dài khoảng 3 cm.
2. PHÂN LOẠI
Năm 1968 Hội Phẫu thuật bàn tay Hoa Kỳ và Liên đoàn Phẫu thuật bàn tay quốc
tế (IFSSH) đưa ra bảng phân loại dị tật bẩm sinh chi trên. Bảng phân loại này dựa trên
nguồn gốc phôi thai học và đặc điểm lâm sàng.
I. Bất thường về hình thái
1. Theo trục ngang
2. Theo trục dọc
Khuyết xương quay
Bàn tay chẻ đôi
Khuyết xương trụ
Tật ngắn chi
II. Bất thường về sự biệt hóa các phần của chi
1. Dính xương
2. Trật khớp đầu xương quay
3. Dính đốt ngón
199
4. Dính ngón
5. Co ngón
Chứng co cứng khớp
Ngón tay cò súng
Ngón cái hình móc
Ngón tay cong
Ngón tay quẹo
Bàn tay gió thổi
Biến dạng kiểu Kirner
III. Sự nhân đôi chi
Thừa ngón
IV. Phì đại chi
Phì đại ngón
V. Sự thiểu sản
1. Thiểu sản ngón cái
2. Biến dạng kiểu Madelung
VI. Hội chứng vòng thắt bẩm sinh
VII. Hội chứng toàn thân.
3.1.2. Thiếu hụt xen vào giữa chi hay “tay hải cẩu”
Được đặc trưng bởi sự thiếu hụt một phần chi ở giữa phần trên cánh tay và
cẳng tay.
Dịch tễ: chiếm 0,8% trong số các dị tật bẩm sinh ở chi trên, thường bị cả 2 tay.
Phân loại: tay hải cẩu được chia làm 3 loại, đặc trưng bởi đoạn chi bị thiếu hụt.
Loại I: loại nghiêm trọng nhất, thiếu hụt cả xương cánh tay và xương cẳng
tay, bàn tay gắn trực tiếp vào xương bả vai.
200
Loại II: nhẹ hơn loại I, thiếu hụt một phần trên hoặc toàn bộ xương cánh tay,
cẳng tay và bàn tay gắn trực tiếp vào xương bả vai.
Loại III: loại nhẹ nhất, thiếu hụt một phần cẳng tay, bàn tay gắn vào cánh tay.
Cánh tay, cẳng tay và bàn tay thường thiểu sản trong loại II và loại III.
201
3.2.2. Bàn tay chẻ đôi
Dịch tễ: ở thể điển hình tỉ lệ mắc bàn tay chẻ đôi từ 1/100.000 đến 4/100.000.
Lâm sàng: gồm thể điển hình và thể không điển hình.
Thể điển hình: bàn tay chẻ đôi với tổn khuyết ở trung tâm hình chữ V sâu
kèm theo thiểu sản các ngón dài. Thường bị hai bên và kèm theo bàn chân chẻ đôi, có
tính chất gia đình.
Thể không điển hình: tổn khuyết hình chữ U kèm theo không có ngón trỏ,
ngón giữa và ngón nhẫn. Thường bị một bên, không có tính chất gia đình, hiếm khi kèm
theo dị tật bàn chân chẻ đôi.
202
Tính di truyền: không có báo cáo nào cho thấy có mối liên quan giữa hội chứng
ngấu ối với di truyền. Tuy nhiên một số báo cáo chỉ ra hội chứng này liên quan đến việc
sử dụng các chất gây quái thai trong quá trình mang thai.
Các dị tật kèm theo: từ 40% đến 80% hội chứng ngấu ối có kèm theo các dị tật
khác như: không có não, khe hở sọ mặt, khe hở môi và vòm, dị tật tai, biến dạng chi trên
và chi dưới (dính ngón, cụt chi, phù bạch mạch, bàn chân vẹo, khớp giả chày mác, thiểu
sản xương trụ, thiểu sản xương quay), khuyết thành bụng, khuyết thành thực quản, gù
vẹo cột sống, thiểu sản hoặc không có thận, thoát vị rốn, không hậu môn, thiếu máu, bất
thường về tim…
203
Phân loại: hệ thống phân loại đầu tiên được Blauth giới thiệu vào năm 1981
dựa trên các chỉ tiêu: cấu trúc dây chằng, cơ, xương, khớp, tổ chức phần mềm của ô mô
cái và kẽ ngón I – II.
Độ I: ngón có kích thước nhỏ, nhưng đầy đủ về cấu trúc và chức năng
Độ II: cấu trúc xương của ngón đều mảnh, khe khớp hẹp, khớp bàn - ngón
không vững, hẹp kẽ ngón I - II, thiểu sản cơ khép và dạng ngón.
Độ III: có đầy đủ các đặc điểm của độ II và kèm theo
Độ IIIA: bất thường về gân cơ nội tại ô mô cái, thiểu sản xương bàn I, khớp
tụ cốt - bàn vững.
Độ IIIB: bất thường về gân cơ nội tại ô mô cái, ngừng phát triển một phần
xương bàn I, khớp tụ cốt - bàn không vững.
Độ IV: ngón cái lơ lửng (floating thumb), không có toàn bộ cấu trúc gân cơ
nội tại ô mô cái (trừ nguyên ủy cơ gian cốt mu tay thứ nhất), ngón bám vào bàn tay qua
cuống da.
Độ V: hoàn toàn không có ngón cái. Thường không có cơ gian cốt mu tay thứ
nhất. Thường có dấu hiệu cắt chéo (ngón trỏ ngửa, kẽ ngón II - III rộng hơn và trục
ngón trỏ uốn cong).
204
42
2. PHÂN LOẠI
Có nhiều cách phân loại khe hở bàn tay. Trên lâm sàng chia khe hở bàn tay làm
2 thể là thể điển hình và thể không điển hình.
Thể điển hình: khe hở bàn tay với tổn khuyết ở trung tâm hình chữ V sâu
kèm theo thiểu sản các ngón dài. Thường bị hai bên và kèm theo khe hở bàn chân, có
tính chất gia đình.
Thể không điển hình: tổn khuyết hình chữ U kèm theo không có ngón trỏ,
ngón giữa và ngón nhẫn. Thường bị một bên, không có tính chất gia đình, hiếm khi kèm
theo dị tật khe hở bàn chân. Bàn tay chẻ không điển hình ngày nay được xếp vào dính
ngón và ngón ngắn (symbrachydactyly).
German chia khe hở bàn tay làm 3 nhóm: nhóm I khe hở bàn tay và thiểu sản, nhóm
II khe hở bàn tay và dính xương, nhóm III khe hở bàn tay và thiểu sản kèm dính xương.
205
Ogino chia khe hở bàn tay chi tiết nhất dựa vào khe hở, mức độ dính ngón và
mức độ thừa ngón. Dựa vào mức độ dính ngón ông chia làm 5 loại: S-0, không dính
ngón; S-1, dính ngón ngang mức đốt xa; S-2, dính ngón ngang mức đốt giữa; S-3, dính
ngón ngang mức đốt gần; S-4, dính ngón ngang mức đốt bàn. Tương tự dựa vào mức độ
thừa ngón cũng chia làm 5 loại: P-0, không thừa ngón; P-1, thừa ngón ngang mức đốt
xa; P-2, thừa ngón ngang mức đốt giữa; P-3, thừa ngón ngang mức đốt gần; P-4, thừa
ngón ngang mức đốt bàn. Theo tác giả khe hở bàn tay hay gặp nhất ở thể thiểu sản hoặc
không có ngón III kèm theo có hoặc không có thừa ngón, dính ngón. Khe hở bàn tay
giữa ngón IV và ngón V là ít gặp nhất.
Manske chia khe hở bàn tay làm 5 loại dựa trên chất lượng của ngón tay cái và
kẽ ngón 1 vì điều này quan trọng hơn cho chức năng của bàn tay so với khe hở.
3. LÂM SÀNG
Khe hở bàn tay có thể bị 1 hoặc 2 bên. Hầu hết bị 1 bên nhưng khi bị 2 bên
kèm theo khe hở bàn chân thường liên quan đến hội chứng.
206
Hình thể: ở thể điển hình khe hở thường sâu ở vị trí trung tâm làm cho bàn tay
có hình chữ V. Dính hoàn toàn ngón cái với ngón trỏ hoặc ngón giữa, kẽ ngón hẹp và
không có ngón III. Ngón bờ bên khe hở thường to và dài hơn ngón bình thường (siêu
ngón) do có sự dính nhiều ngón vào với nhau. Bàn tay có thể không bị thiểu sản nhưng
ngón cái thường bị thiểu sản do ngón cái bị dính vào ngón trỏ.
Xương: có đoạn xương nằm ngang ở đáy khe hở kèm theo dính một phần hay
hoàn toàn các ngón ở bờ khe hở. Xương đốt bàn III thường thiểu sản và dính vào xương
đốt bàn II hay xương đốt bàn IV, dạng nặng hơn không có ngón II hoặc ngón III.
Phần mềm: phần mềm bất thường kèm theo sự bất thường của xương, khi
xương đốt bàn III bình thường thì cơ khép ngón cái cũng bình thường. Khi không có
xương đốt bàn, gân, cơ nội tại ở bàn tay thiểu sản và tạo nên một vòng gân ở đáy khe
hở, thường xảy ra ở loại V theo Manske khi không có ngón bờ quay. Mức độ dính ngón
rất thay đổi và luôn có một dải xơ dày bên trong phần mềm của các ngón dính
Khớp: khi thiểu sản 1 phần xương đốt bàn, thiếu ngón giữa, các gân cơ nội tại
ở bàn tay đến bám tập trung vào ngón ở bờ khe hở gây có kéo quá mức khớp liên đốt
làm cho ngón bị biến dạng cong.
Mạch máu, thần kinh: trên phim chụp mạch có chỉ ra mạch máu đi vào ngón
bình thường đủ để nuôi dưỡng cho ngón. Mặc dù cơ ô mô cái và cơ ô mô út có bị thiểu
sản thì vẫn tìm thấy nhánh của thần kinh giữa và thần kinh trụ đi vào.
4. ĐIỀU TRỊ
207
Cải thiện chuyển động tại khớp xương bàn tay-ngón tay bằng cách cắt bỏ
hoặc giải phóng xương dính chéo.
Giải phóng co rút khớp gian đốt gần bằng tạo hình chữ Z, và giải phóng mô mềm.
Đục xương bàn tay để chỉnh thẳng ngón.
Cải thiện động tác giạng ngón và đối chiếu của ngón cái, tạo ngón hay vị trí
đối diện nếu thiếu.
208
Ngón trỏ thường ở kề bên khe hở và lệch về phía bờ quay. Cần phẫu thuật chuyển
vị trí của ngón trỏ qua khe hở về phía ngón nhẫn để làm tăng độ rộng kẽ ngón I giúp cải
thiện chức năng của bàn tay. Ngón trỏ có thể bị thiểu sản nặng và mất chức năng, có thể
phẫu thuật cắt bỏ ngón. Tuy nhiên cần hết sức cân nhắc với chỉ định này. Ở bệnh nhân
có khe hở sâu, xương đốt bàn của ngón trỏ thường dài hơn xương đốt bàn ngón nhẫn.
Do vậy cần làm ngắn xương đốt bàn ngón trỏ sao cho phù hợp. Cùng với việc chuyển vị
trí của ngón trỏ ta phải xoay ngón sao cho khả năng tạo gọng kìm với ngón cái tốt nhất.
Tạo hình dây chằng liên ngón
Đinh Kirschnerr
Hình 42.3. Chuyển vị trí ngón trỏ, tạo hình dây chằng liên ngón
Sau khi ngón trỏ được chuyển vị trí về phía ngón nhẫn, khâu dây chằng bên của
xương đốt bàn ngón trỏ với xương đốt bàn ngón nhẫn ở đầu xa của xương sao cho ngón
trỏ gần ngón nhẫn nhất có thể. Khi khâu cần hết sức cẩn thận vì dễ gây cản trở sự vận
động của khớp bàn ngón. Cách thứ 2 có thể dùng mũi khâu vòng để cố định 2 xương đốt
bàn vào với nhau.
Cơ khép ngón cái và xương đốt bàn III
Tất cả các cơ khép ngón cái cần được bảo tồn tối đa. Bất kỳ một sự can thiệp, xâm
nhập gây tổn hại nào cho cơ đều làm cho chức năng khép, nhón nhặt, đối chiếu của
ngón cái bị ảnh hưởng. Đặc điểm của cơ khép ngón cái có liên quan chặt chẽ đến đặc
điểm của xương đốt bàn III. Khi xương đốt bàn III bình thường, cơ khép ngón cái được
bảo tồn, ngón trỏ được chuyển vị trí tới đầu xa xương đốt bàn III. Khi xương đốt bàn III
thiểu sản, ngón trỏ được chuyển vị trí kèm theo cả xương đốt bàn, cơ khép ngón cái
được chuyển, gắn vào màng xương bao quanh xương đốt bàn của ngón trỏ.
Trong một số trường hợp khe hở bàn tay, cơ khép ngón cái có điểm bám tại xương
đốt bàn ngón IV. Các tác giả chưa thấy trường hợp nào nguyên ủy của cơ bám vào
xương đốt bàn ngón V. Đoạn xương đốt bàn nằm ngang cần phải lấy bỏ trước khi
chuyển vị trí của ngón trỏ để tránh gây cản trở vận động của khớp bàn ngón.
209
Cơ gian cốt mu tay I có hình lồng chim với nguyên ủy có 2 đầu bám vào xương
đốt bàn của ngón cái và ngón trỏ. Khi chuyển vị trí ngón trỏ cần cắt bỏ đầu bám của cơ
vào xương đốt bàn ngón cái.
Sự co gấp ngón
Sự co gấp quá mức của ngón kề bên khe hở là do mất cân bằng của các gân cơ gấp
đến bám tập trung vào ngón này. Phẫu thuật cần giải phóng tất cả các yếu tố gây co gấp
để ngón có thể duỗi tối đa. Thường phải ghép da bổ sung vào khuyết da mặt gan sau khi
giải phóng co ngón.
Kẽ ngón I
Sau khi các thành phần như xương, gân, cơ được tạo hình, vạt da được thiết kế từ
khe hở sẽ được chuyển đến để tạo hình kẽ ngón I. Trường hợp khe hở sâu, vạt da nhỏ
không đủ tạo hình kẽ ngón cần ghép da dày toàn bộ bổ sung. Sử dụng đường khâu vòng
từ cả 2 phía của ngón trỏ. Để tăng độ rộng và thay đổi hướng sẹo tránh co kéo ở kẽ ngón
I ta có thể tạo hình chữ Z hoặc sử dụng các vạt tại chỗ như vạt xoay, vạt chuyển.
210
43
1. ĐẠI CƯƠNG
Dị tật thừa ngón tay (polydactyly) là tình trạng có nhiều hơn 5 ngón trên một
bàn tay, là dị tật có tỉ lệ cao nhất trong các dị tật bẩm sinh ở chi trên. Mặc dù phổ biến
nhưng tại Việt Nam chưa có một thống kê nào cho biết tỉ lệ chính xác gặp trong cộng
đồng. Các dị tật thừa ngón phía bờ quay thường gặp ở cộng đồng người da trắng
(1/3000 trẻ) hơn là người da đen. Trái lại dị tật thừa ngón phía bờ trụ hay gặp ở trẻ da
đen với tỉ lệ 1,3% với tần suất 10/1 so với trẻ không da đen. Ở một số nơi như Nam Phi,
tỉ lệ dị tật thừa ngón bờ trụ lớn hơn 10/1000 trẻ.
Phân loại: hiện nay bảng phân loại dị tật bẩm sinh thừa các ngón tay của
Thomas JG và Andrew MR được sử dụng phổ biến
Dị tật thừa ngón của ngón tay cái.
Dị tật thừa ngón tay của các ngón dài:
Thừa ngón của ngón trỏ.
Thừa ngón của ngón giữa và ngón nhẫn.
Thừa ngón ở bờ trụ bàn tay và ngón út.
Dị tật thừa ngón phức tạp:
Bàn tay soi gương.
Bàn tay có 5 ngón dài.
Nhiều đốt ngón
Vị trí tách của ngón thừa được chia thành 3 mức:
Mức cao: ngón thừa tách ở trên khớp bàn – ngón, các xương bàn hoặc khối
xương tụ cốt.
Mức trung gian: ngón thừa tách ở giữa khớp bàn – ngón và khớp liên đốt gần,
hoặc ở mức đốt gần.
Mức thấp: ngón thừa tách ở dưới khớp liên đốt gần, hoặc đốt giữa hoặc đốt xa.
Về độ phát triển của ngón thừa phân làm 3 loại:
Loại 1: ngón thừa là những khối đơn giản không cấu trúc.
Loại 2: ngón thừa gần hoàn thiện với một số cấu trúc bình thường, tiếp khớp
hoặc chia đôi ở mức xương bàn.
Loại 3: ngón thừa có cấu trúc hoàn thiện từ xương bàn tới búp ngón.
211
2. DỊ TẬT THỪA NGÓN CỦA CÁC NGÓN DÀI
212
A B
Hình 43.1. Thừa ngón nhẫn kèm theo dính ngón giữa - ngón nhẫn
A. Hình ảnh lâm sàng B. Hình ảnh X - quang
213
Loại I: ngón thừa nhỏ, teo và gắn vào phía bờ trụ của bàn tay bởi một cầu da, trong
cầu da có bó mạch, thần kinh. Không có diện khớp giữa ngón thừa với ngón chính.
Loại II: ngón thừa có cấu trúc bình thường, ngón thừa và ngón chính tiếp khớp
với 2 chỏm cầu của 1 xương bàn ngón.
Loại III: ngón thừa có cấu trúc hoàn chỉnh với đầy đủ xương đốt và xương bàn
ngón.
A B C
Hình 43.2. Phân loại thừa ngón phía bờ trụ theo Stelling và Turek
A. Loại I B. Loại II C. Loại III
Temtamy và McKusik lại chia thừa ngón tay phía bờ trụ làm 2 nhóm nhỏ
Nhóm A: ngón thừa bị thiểu sản nhưng phát triển hoàn thiện, tiếp khớp với
xương bàn V (hoặc tách ra từ xương bàn V).
Nhóm B: ngón thừa chỉ là một núm, một chồi da hoặc tổ chức có cuống da
không có cấu trúc xương, gân, móng.
214
Với ngón thừa thiểu sản, ngón chính ít bị giảm chức năng, phẫu thuật thường là
cắt bỏ ngón thừa phía bờ trụ. Nếu ngón thừa tách ở mức đốt giữa hoặc đốt gần, dây
chằng bờ trụ cần được phẫu tích và tách cùng với một mẩu xương nhỏ ở nền ngón thừa
rồi được cố định lại vào ngón phía bờ quay. Nếu các cơ ô mô út bám tận vào bờ trụ của
ngón thừa phía trụ thì phải chuyển điểm bám này vào bờ trụ của ngón được giữ lại sau
khi cắt bỏ ngón thừa. Nếu ngón thừa tách ở trên khớp bàn ngón thì cần thực hiện thêm
chuyển gân của các cơ nội tại bàn tay cho ngón bờ quay được giữ lại.
Hình 43.3. Bàn tay soi gương với 7 ngón dài và không có ngón cái
215
Loại 3: bàn tay có nhiều ngón với 1 xương trụ và 1 xương quay.
Loại A: xương quay có hình dáng bình thường.
Loại B: xương quay thiểu sản.
Loại 4: bàn tay soi gương nằm trong hội chứng với các dị tật khác: bàn chân
soi gương 2 bên, các dị tật ở mũi.
Loại A: hội chứng Sandraw – có 2 xương trụ.
Loại B: hội chứng Martin – có 1 xương trụ và 1 xương quay.
Loại 5: thừa ngón phức tạp ở bàn tay bao gồm cả ngón cái.
216
44
1. ĐẠI CƯƠNG
Thừa ngón tay cái bẩm sinh (thumb polydactyly/ thumb duplication) là bệnh lý
hay gặp, đứng thứ 2 sau dị tật bẩm sinh dính ngón tay. Tỉ lệ gặp khoảng 1/3000 trẻ sơ
sinh. Tỉ lệ gặp ở trẻ trai gấp 2,5 lần trẻ gái. Phần lớn thừa ngón tay cái xuất hiện ở một
bên tay với căn nguyên chưa xác định. Tuy nhiên thừa ngón tay cái 3 đốt có thể có liên
quan đến di truyền gen trội trên nhiễm sắc thể thường.
Năm 1969 Wassel đưa ra bảng phân loại thừa ngón tay cái làm 7 loại theo mức
độ chia đôi của xương ngón tay cái:
Hình 44.1. Phân loại thừa ngón tay cái theo Wassel
Loại I: xương đốt xa tách đôi một phần.
Loại II: đốt xa tách đôi hoàn toàn, có hai đốt xa riêng biệt tiếp khớp với một đốt gần.
Loại III: đốt xa tách đôi hoàn toàn, đốt gần tách đôi tiếp khớp với hai đốt xa.
Loại IV: đốt gần tách đôi hoàn toàn, hai ngón cái có đốt gần, xa riêng cùng khớp
với đốt bàn.
Loại V: đốt gần thừa hoàn toàn, đốt bàn tách đôi kiểu chữ Y, mỗi nhánh của chữ
Y tiếp khớp với một ngón cái riêng.
Loại VI: đốt bàn thừa hoàn toàn, mỗi ngón có đốt bàn, đốt gần và xa riêng.
Loại VII: hai ngón cái với ngón cái 3 đốt
Năm 1992 Islam có bổ sung loại VIII thừa ngón cái phụ.
Năm 1996 HungL tiếp tục chia loại IV thành bốn nhóm nhỏ:
217
Loại IVa: (hypoplastic type) ngón bờ quay thiểu sản hoặc chỉ ở dạng vết.
Loại IVb: (ulnar deviated type) ngón bờ quay thiểu sản nhẹ, hai ngón cái có trục
hướng về phía bờ trụ.
Loại IVc: (divergent type) hai ngón cái có kích thước đều nhau.
Loại IVd: (complex type) hai ngón cái tách xa nhau, xương đốt xa hướng vào nhau
như càng cua, khớp liên đốt biến dạng uốn, gập góc và xoay
Dị tật thừa ngón tay cái bẩm sinh biểu hiện trên lâm sàng rất đa dạng và có
nhiều phương pháp điều trị. Điều trị theo nguyên tắc cắt bỏ ngón thừa, giữ lại ngón có
chức năng tốt hơn, tận dụng tối đa tổ chức của ngón cắt bỏ để tạo hình mang lại hiệu
quả cao nhất về giải phẫu, chức năng và thẩm mỹ.
2. LÂM SÀNG
Tất cả các loại thừa ngón tay cái bẩm sinh đều có những thay đổi về mặt giải phẫu
và hạn chế về mặt chức năng từ ít đến nhiều.
Kích thước: ngón cái phía bờ quay thường thiểu sản tùy mức độ, nhiều (loại
IVa), ít (loại IVb) hoặc kích thước hai ngón đều nhau, hơn 90% thừa ngón cái ở thể
không đối xứng. Dù ở loại nào thì kích thước ngón cái cũng nhỏ hơn bình thường.
Móng: với loại I, ngón cái thường có 1 móng duy nhất, khi đó móng thường to
hơn bình thường, móng phẳng hoặc có ụ dọc giữa lồi lên. Ở loại II có rãnh giữa ấn
xuống ở giữa 2 ngón. Với những thừa ngón tay cái loại khác đều có 2 móng đi theo 2
ngón, móng thường nhỏ hơn bình thường và bị biến dạng.
Xương: xương của ngón cái bị chia đôi ngang mức với xương đốt xa, đốt gần
hay xương bàn ngón tùy từng loại. Xương của ngón thừa bờ quay thường thiểu sản hơn
ngón bờ trụ.
Khớp: cứng khớp ở nhiều mức độ, thiểu sản, cốt hóa khớp. Mặt khớp dẹt gây
hạn chế vận động. Một số trường hợp khớp gian đốt hoặc khớp bàn ngón bị cứng do
khớp bán động sụn. Diện khớp to hoặc có 2 diện khớp. Dây chằng bên đảm bảo cho bao
khớp vững và thẳng trục. Trường hợp thừa ngón tay cái loại II hoặc loại IV chỉ có 2 dây
chằng bên giữ 2 ngón cái. Ngón phía bờ quay có 1 dây chằng bên quay, ngón phía bờ
trụ có 1 dây chằng bên trụ. Hai ngón được giữ với nhau ở giữa do sự cốt hóa thứ phát,
chỗ này thường ở trong khớp.
Gân, cơ: không có gân, thiểu sản hoặc bất thường về vị trí, số lượng của gân
nội tại và ngoại lai. Gân bám lệch tâm và vào hai bờ xương nên thường thấy nghiêng
các đốt sang 2 bên. Cơ dạng ngắn, đối chiếu, bó nông cơ gấp ngắn thường bám vào
ngón bờ quay. Bó sâu cơ gấp ngắn, cơ khép, cơ liên đốt mu tay 1 bám vào phía bờ trụ.
Các gân gấp và duỗi từ cẳng tay xuống bám vào nhau hoặc bám vào vị trí bất thường.
Gân gấp dài thường bám vào ngón bờ trụ. Gân giạng dài, duỗi dài thường bám vào ngón
phía bờ quay. Giữa gân gấp và gân duỗi có dải cân chung khiến cho khớp nghiêng và
phát triển bất thường gây biến dạng ngón cái.
218
Mạch máu, thần kinh: thay đổi tuy theo mức độ thiểu sản. Có thể có một hệ
thống mạch máu thần kinh chung cho cả hai ngón hoặc mỗi ngón có một hệ thống mạch
máu thần kinh riêng biệt.
3. ĐIỀU TRỊ
219
Phẫu thuật nên được tiến hành từ giữa 1 - 2 tuổi. Mặt khác phẫu thuật trong
thời gian này làm giảm nguy cơ chảy máu từ xương, một biến chứng rất hay gặp khi mổ
ở trẻ nhỏ.
Hình 44.2. Phương pháp Bilhaut- Cloquet điều trị thừa ngón cái loại II
Chỉ định: khi ngón cái thừa có kích thước bằng với ngón cái chính.
Ưu điểm: có thể tạo ra một ngón có kích thước gần như bình thường, phẫu
thuật dễ nếu hai ngón cân xứng về hình dáng, kích thước và sự sai lệch các đoạn nhỏ.
Nhược điểm: rối loạn phát triển của đốt ngón (do hai đầu xương không cân
xứng), co cứng khớp gian đốt (do mặt khớp không tương xứng, dần dần mặt khớp bị
mài mòn gây ra viêm bao hoạt dịch và thoái hóa khớp)
Hình 44.3. Phương pháp cắt bỏ ngón thừa điều trị thừa ngón tay cái loại II
A. Cắt ngón thừa bờ quay B. Sau mổ
220
Chỉ định:
Cắt ngón bờ quay nếu ngón bờ quay thiểu sản hơn.
Với thừa ngón cái loại VI nếu hai ngón cân xứng, nên giữ lại ngón bờ
quay vì kẽ ngón 1-2 được rộng hơn, nếu giữ lại ngón bờ trụ có thể mở rộng khoảng
này bằng cách tạo hình 4 vạt chữ Z khi co hẹp nhẹ và vừa hoặc vạt xoay từ mu tay
khi có hẹp nặng.
Với thừa ngón cái ba đốt thì ngón cái ba đốt được cắt bỏ.
Ưu điểm: thuận lợi hơn kỹ thuật Bihaut-Cloquet trong trường hợp kích thước
hai ngón không đều nhau.
Nhược điểm: trường hợp hai ngón tay cái có kích thước đều nhau nếu cắt bỏ
ngón thừa bờ quay sẽ làm cho ngón cái được tạo hình nhỏ hơn bình thường.
A B
Hình 44.4. Phương pháp Bilhaut cải tiến điều trị thừa ngón tay cái
A. Loại II B. Loại III
Tạo hình ngón tay cái bằng việc sử dụng phần mềm của một ngón với một
phần xương đốt xa của ngón khác. Phương pháp này không làm tổn thương diện khớp
liên đốt nên đem lại hiệu quả cao cả về mặt thẩm mỹ và chức năng của ngón tay cái.
Chỉ định: thừa ngón tay cái loại II hoặc loại III, ngón tay cái chia đôi với kích
thước hai ngón đều nhau.
Chống chỉ định: ngón tay cái chia đôi với kích thước hai ngón không đều nhau,
ngón tay cái cắt bỏ có kích thước nhỏ, loại I (có thể sử dụng kỹ thuật Bilhaut - Cloquet
kinh điển mà không làm tổn hại đến khớp liên đốt ngón tay), các loại khác (Wassel IV,
V, VI, VII) vì không mang lại hiệu quả cao.
Ưu điểm: phương pháp đem lại hiệu quả cao, cải thiện được chức năng của
ngón tay, tăng tầm vận động của khớp liên đốt, không gây biến dạng và hạn chế phát
triển của móng tay sau mổ. Xương đốt ngón xa phát triển bình thường.
Nhược điểm: chỉ định hạn chế, chỉ áp dụng cho thừa ngón cái loại II, III khi hai
ngón tách đôi đều nhau.
221
45
2. PHÂN LOẠI
Có nhiều cách phân loại của nhiều tác giả khác nhau.
Theo mức độ chia ra dính ngón hoàn toàn và dính ngón không hoàn toàn. Dính
ngón hoàn toàn là dính ngón đến điểm tận cùng của đầu ngón. Dính ngón không hoàn
toàn có thể dính ở bất cứ điểm nào của bờ ngón trừ đầu ngón.
Theo giải phẫu chia ra dính ngón đơn giản và dính ngón phức tạp. Dính ngón
đơn giản là các ngón dính nhau da và tổ chức liên kết còn dính ngón phức tạp là khi các
ngón có chung phần xương hay sụn.
Hình 45.1. Phân loại dính ngón: A. Dính ngón đơn giản, không hoàn toàn B. Dính ngón đơn
giản, hoàn toàn C. Dính ngón phức hợp D. Dính ngón phức tạp phối hợp với thừa ngón,
bất thường xương đốt ngón, khớp.
222
3. LÂM SÀNG
223
A B
Hình 45.2. Hội chứng Apert
A. Hình ảnh lâm sàng B. Hình ảnh X-quang
224
hưởng đến thẩm mỹ, từ đó tác động xấu đến tâm lý của trẻ. Bệnh nhân có xu hướng che
dấu bệnh tật của mình, thu mình lại, tự ti và hạn chế trong việc hòa nhập cộng đồng.
4. ĐIỀU TRỊ
225
Hình 45.3. Kỹ thuật Brown và kỹ thuật Hentz
Sử dụng các vạt hình thang ở mặt mu kẽ ngón và các vạt chữ T ở mặt gan kẽ
ngón. Việc các vạt mu kẽ ngón thiết kế nhỏ, ngắn, nhất là phần đầu vạt đã không mang
lại được một kẽ ngón tự nhiên.
Kỹ thuật Blauth (1981) và kỹ thuật Upton (1984).
226
Sử dụng vạt Omega ở mặt mu và vạt hình mỏ neo ở mặt gan. Mục tiêu là tạo nên
một kẽ ngón có hình dáng thỏa đáng và tránh được co kéo thứ phát.
227
46
228
4. XỬ TRÍ
Nguyên tắc chung
Chức năng ngón tay còn tốt chỉ cần chỉ cần can thiệp tối thiểu.
Các dị tật kéo dài đã ảnh hưởng tới chức năng có thể sửa chữa bằng các
phương pháp đục xương.
Kéo dài ngón có thể được thực hiện bằng phương pháp kéo giãn xương.
Chỉ định phẫu thuật
Điều trị các bệnh liên quan như dính ngón.
Rối loạn chức năng (ví dụ đầu xương bàn tay ngắn và đau).
Mất thẩm mỹ hình dạng bàn tay.
Hầu hết các bệnh nhân không cần phải phẫu thuật.
Phương án phẫu thuật
Đục xương hình nêm mở cho các đốt ngón hình tam giác gập góc.
Kéo dài ngay lập tức hoặc một thì, thường kết hợp với ghép xương tại phần
giữa đốt.
Kéo giãn xương.
229
47
230
2.2. Giải phẫu bệnh
Ở thể điển hình, mặt gan thường hay bị hơn mặt mu, đầu xa ngón hay bị hơn
đầu gần. Gân có hình dáng bình thường mặc dù bao gân gấp có thể bị dày lên.
Nghiên cứu trên đại thể thấy có sự tăng lượng lớn lớp mỡ dưới da, thần kinh
ngón phát triển, xương tăng trưởng về kích thước.
Mô học của ngón cho thấy da dày lên với sự tăng số lượng tuyến mồ hôi, mỡ
dưới da nhiều, tăng các chất đệm, thâm nhiễm mỡ vào bên trong và xung quanh các sợi
thần kinh, động mạch ngón cũng giãn rộng.
Cấu trúc xương, ống tủy xương mở rộng, bè xương không đều, dày màng xương.
Với bệnh lý ngón tay to liên quan đến u xơ thần kinh thì cấu trúc cũng tương
tự, mặc dù có sự tăng các cấu trúc xơ mạch và xuất hiện nốt hay gặp hơn u xơ mỡ.
3. LÂM SÀNG
231
Tiên phát:
Không rõ nguyên nhân.
Bẩm sinh.
Thường thấy có sự tăng kích thước chung, nhất là tăng kích thước mô mềm
của mô xơ-mỡ xung quanh dây thần kinh ngón.
Thường tuân theo phân bổ giống như của thần kinh và do đó có thể thấy ảnh
hưởng tới một bên của ngón hoặc thường tuân thủ sự phân bổ thần kinh giữa medial nerve.
Thứ phát
Ngón tay to nằm trong bệnh lý hay hội chứng khác.
U xơ thần kinh
Dòng chảy chậm mao mạch-tĩnh mạch như trong hội chứng Klippel-
Trenaunay-Weber hoặc hội chứng Maffucci.
Loạn sản sụn (bệnh u nội sụn) Enchondromatosis như trong bệnh Ollier.
Xương to ra trong loạn sản xơ đa xương Albright hay trong bệnh to cực.
232
các biến dạng ngón rõ, phần mềm thường dày lên ở mặt gan có thể do sự xâm nhiễm mỡ
vào thần kinh giữa hoặc thần kinh trụ.
Hình 47.1. Ngón tay to ở hai ngón liền nhau. Hai ngón có trục tách xa nhau
A. Hình ảnh lâm sàng B. Hình ảnh X - quang
Các hình thái lâm sàng ngón tay to kết hợp với bệnh lý khác
Ngón tay to liên quan đến u xơ thần kinh được chẩn đoán nhờ có các vết đốm
thay đổi màu sắc trên da (tổn thương nhuốm màu da, tổn thương màu cà phê), nhiều
khối u xơ thần kinh, u da có cuống và các tổn thương ở mắt.
Ngón tay to do phì đại xương là loại hiếm gặp và có thể chẩn đoán được nhờ
thăm khám lâm sàng, có sự xuất hiện các nốt lớn ở ngón và hình thành các u xương sụn
xung quanh khớp gây giảm vận động ngón. Mặc dù hiếm gặp nhưng đôi khi u xơ mỡ
thần kinh ngoại biên cũng có thể đi kèm với ngón tay to do phì đại xương. Trên phim
chụp X - quang thấy các u xương sụn xung quanh khớp sẽ có giá trị cho chẩn đoán.
Ngón tay to có thể nằm trong bệnh cảnh của phì đại chi hoặc phì đại một
phần cơ thể. Chứng phì đại này có thể là phì đại một đoạn chi với một đoạn chi bị ảnh
hưởng, phì đại nửa người với một bên người bị ảnh hưởng (liên quan đến bệnh u xơ
thần kinh hoặc hội chứng Klippel-Trenaunay) hoặc phì đại một đoạn cơ thể với một
đoạn cơ thể ở cả 2 phía bị ảnh hưởng. Đôi khi triệu chứng phì đại nửa người nhẹ, không
rõ ràng nhưng có to ngón tay ở tất cả các ngón, ta cần phải khám cẩn thận ở toàn bộ chi
để phát hiện phì đại phối hợp.
Các hội chứng khác có kèm theo ngón tay to là bệnh Ollier’s (bệnh đa sinh
sụn), hội chứng Maffucci’s (đa u máu và đa sinh sụn), hội chứng Klippel – Trenaunay –
Weber (u máu da, giãn tĩnh mạch điển hình và phì đại nửa người). Hội chứng Proteus
(loạn sản u mô thừa đặc chưng với ngón tay to, novi sắc tố, và u mô thừa dưới da).
233
4. ĐIỀU TRỊ
234
hiện đồng thời trong một lần phẫu thuật hay được làm nhiều lần. Ngoài ra giải phóng
ống cổ tay là cần thiết ở những bệnh nhân bị hẹp ống cổ tay.
Hình 47.2. Phương pháp cắt đầu xương để hạn chế sự tăng trưởng của ngón
235
Hình 47.3. Giảm kích thước của ngón trỏ bằng cách kết hợp cắt xương chỉnh trục,
lấy bỏ phần mềm và mỡ, làm nhỏ móng.
Phương pháp làm ngắn ngón của Barsky là lọc bỏ xương đốt xa, cắt bỏ da
mặt mu đốt ngón giữa, đặt lại móng lên đốt ngón giữa.
Hình 47.4. Phương pháp làm ngắn chiều dài ngón của Tsuge’s.
A. Phần gan xương đốt xa và phần mu xương đốt giữa được lấy bỏ.
B. Cắt bỏ da và búp ngón mặt gan đốt xa.
C. Móng và vạt da mu đốt xa được bảo tồn, gắn vào đốt giữa. Phần da thừa mặt
mu được cắt bỏ lần phẫu thuật sau.
236
Flatt cải tiến kỹ thuật bằng cách bảo tồn phần xa của xương đốt xa và gắn
nó vào xương đốt giữa sau khi đã cắt ngắn một phần xương. Sau cắt ngắn xương sẽ có
một phần da thừa mặt gan, da thừa này sẽ được cắt bỏ ở lần phẫu thuật sau. Nhờ việc
sử dụng vạt mặt gan có cuống mạch, thần kinh giúp cho đầu ngón có sức sống và cảm
giác tốt.
Ngược lại, phương pháp của Tsuge bảo tồn móng trên vạt da mặt mu có
cuống nuôi. Ngón được làm ngắn bằng việc cắt búp ngón và một phần gan đốt ngón xa.
Móng được gắn trên mặt mu của đốt giữa. Một phần da thừa mặt mu sẽ được cắt bỏ
trong lần phẫu thuật sau.
Kỹ thuật của Rosenberg và cộng sự là móng được chuyển xa bằng việc trồng
một đơn vị móng như là vạt đảo trên cuống mạch thần kinh ngón. Sau khi cắt bỏ đót xa
và búp ngón, móng được đặt lại trên mu của đốt giữa.
237
48
2. LÂM SÀNG
Thông thường các tổn thương của ngón cái dễ dàng phát hiện ngay sau khi sinh.
Trong một số trường hợp giảm sản nhẹ ngón tay cái có thể không được phát hiện trong
nhiều năm hoặc không bao giờ được phát hiện. Các mức độ thiểu sản của ngón cái
được thể hiện dưới 5 mức độ như sau:
Nhóm I: ngón tay cái nhỏ hơn, đầy đủ mọi thành phẩn.
Nhóm II: cơ ô mô ngón cái kém phát triển, đồng thời giảm sản xương bàn tay,
đốt, và xương cổ tay quay của ngón cái. Có thể chỉ có 1 bó thần kinh mạch máu.
Nhóm III: không có cơ ô mô ngón cái, kẽ thứ nhất giảm rất nhiều, sự không ổn
định của dây chằng bên xương trụ của khớp bàn tay – đốt. Mức độ khác nhau của thiểu
sản một phần xương bàn tay gần của ngón tay cái, và các cơ ngoài ngón tay cái.
IIIa: còn khớp cổ tay - bàn tay CMCJ, giảm sản nhóm cơ ngoài.
IIIb: không có khớp cổ tay-bàn tay, không có cơ duỗi ngoài ngón tay cái.
Nhóm IV: ngón cái lỏng lẻo cùng với không có xương bàn tay hoặc cấu trúc cơ gân.
Nhóm V: không có ngón tay cái.
3. ĐIỀU TRỊ
Chỉ định phẫu thuật
Loại I: không cần can thiệp.
Loại II và IIIa: cần mở rộng kẽ ngón thứ nhất, ổn định khớp bàn – đốt, cải
thiện động tác đối chiếu, cải thiện gấp và duỗi tại khớp gian đốt.
Loại IIIb: hoặc tái tạo hoặc cắt bỏ và cái hóa ngón cái.
Loại IV và V: cái hóa mang lại kết quả tốt nhất.
238
Nguyên tắc phẫu thuật
Cải thiện chức năng đi cùng hình thể ngón cái.
Cần tái tạo lại tất cả những cấu trúc thiếu sót của ngón tay trong khả năng có thể.
Thời gian phẫu thuật thích hợp nhất là trước trước 9 tháng tuổi, vì đó là lúc
chức năng hoàn chỉnh của ngón tay cái bắt đầu.
Phẫu thuật
Các kỹ thuật tăng chiều rộng và chiều sâu của kẽ ngón thứ nhất:
Tạo hình chữ Z đơn hoặc tạo hình 4 chữ Z, tạo hình theo kỹ thuật Jumpingman.
Vạt chuyển ngược dòng từ ngón trỏ (Spinner) hoặc từ ngón tay cái (Strauch).
Ổn định khớp đốt bàn (tạo hình dây chằng bên xương trụ):
Gấp nếp dây chằng bên xương trụ.
Tái tạo dây chằng với ghép gân (gân gấp dài ngón hoặc gân duỗi ngón út.
Tái tạo dây chằng với phần cuối của gân được sử dụng cho tạo hình cơ đối.
Chuyển một dải gân gấp nông ngón bốn nối bờ quay của khớp bàn ngón của ngón cái.
Tái tạo động tác đối chiếu và duỗi gấp của ngón cái.
Cái hóa.
239
49
1. ĐẠI CƯƠNG
Hội chứng ngấn ối hay hội chứng vòng thắt bẩm sinh (Amniotic band
syndrome/ Constriction Ring Syndrome) là dị tật bẩm sinh thương gặp ở chi trên nhưng
đến nay vẫn có nhiều giả thiết được đưa ra để giải thích nguyên nhân của bệnh.
Dịch tễ học: tỉ lệ mắc khác nhau tùy từng nơi trên thế giới, ở Anh là 1/15.000
trẻ được sinh ra, ở Singapore là 1/4.000. Thống kê trên 1,2 triệu trẻ thì tỉ lệ mắc ở Tây
Australia là 2,03/10.000.
Tính di truyền: không có báo cáo nào cho thấy có mối liên quan giữa hội chứng
vòng thắt với di truyền. Tuy nhiên một số báo cáo có chỉ ra hội chứng này liên quan đến
chế độ dinh dưỡng, điều kiện sống hay việc sử dụng các chất gây quái thai của mẹ.
Sinh bệnh học: hiện có 3 giả thuyết được đưa ra để giải thích nguyên nhân gây
nên hội chứng ngấn ối:
Thuyết nội sinh: Streeter cho rằng có sự thiếu hụt chất nền của tổ chức dưới
da, phần mềm bị trợt lóc và hiện tượng liền từ phía ngoài dẫn đến hình thành vòng thắt.
Nghiên cứu trên thực nghiệm của Clavert khi tiêm dung dịch ưu trương vào buồng ối
trong giai đoạn phát triển của chi làm tổn thương lớp thượng bì và trung bì cũng đã gây
nên hiện tượng ngấn ối. Thuyết nội sinh cũng đã giải thích được bất thường của các cơ
quan khác đi kèm như tật không hậu môn, bàng quang lạc chỗ hay các bất thường ở cơ
hoành, Những dị tật này có thể có cùng cơ chế với hội chứng ngấn ối.
Thuyết ngoại sinh: Torpi nghiên cứu đầy đủ về rau thai và các bất thường ở
trẻ mới sinh và cho rằng những tổn thương sớm của màng ối có thể gây nên tình trạng
thiểu ối, hình thành các dải màng ối, các dải màng ối này đến lượt nó quấn quanh chi
thể tạo nên ngấn ối. Trong tử cung, các dải ối quấn vào chi thể có thể thấy được dưới
siêu âm trong 3 tháng đầu của thai kỳ và khi chọc rò xét nghiệm dịch ối. Cơ sở của giả
thuyết này dựa vào tỉ lệ cao dị tật bàn chân khoèo gặp ở trẻ có hội chứng ngấn ối bẩm
sinh. Nguyên nhân của bàn chân khoèo là tình trạng thiểu ối làm buồng tử cung nhỏ,
dẫn đến bàn chân bị đè ép liên tục
Thuyết chấn thương trong tử cung: Kino chứng minh trên mô hình thực
nghiệm ở chuột là những chấn thương trong tử cung gây chảy máu hõm kẽ của đĩa bàn
tay sẽ gây nên tình trạng dính các ngón ở đầu xa rất hay gặp trong hội chứng ngấn ối.
Phân loại: Patterson chia hội chứng ngấn ối làm 4 độ
Độ 1: ngấn ối đơn giản.
Độ 2: ngấn ối phối hợp với biến dạng ở phần xa, có hoặc không có phù bạch mạch.
Độ 3: ngấn ối kèm theo dính phần mềm ở đầu xa. Trong đó độ 3 lại được chia
làm 3 dạng dựa vào đặc điểm dính phần mềm đầu xa:
240
Dạng I: các đầu ngón dính vào nhau với các kẽ ngón có độ sâu thỏa đáng.
Dạng II: các đầu ngón dính nhưng các kẽ ngón có độ sau không thỏa đáng.
Dạng III: các đầu ngón dính, có đường hầm giữa các ngón nhưng không có
kẽ ngón.
Độ 4: cụt ngón trong tử cung.
241
Đôi khi rất khó khăn để xác định các hội chứng ngấn ối bẩm sinh.
Hội chứng ADAM: ngấn ối ở chi kèm theo khe hở sọ mặt.
Hội chứng Adams-Oliver: ngấn ối kèm theo bất sản da đầu cạnh đường giữa.
Hội chứng “limb - body wall”: ngấn ối kèm theo thoát vị não, thoát vị thành
ngực hay thoát vị thành bụng.
3. LÂM SÀNG
Vị trí tổn thương: trong buồng tử cung, ở những bệnh nhân thiểu ối dễ hình
thành các dải dây xơ, các dải này sau đó mắc, quấn quanh chi thể gây nên ngấn ối. Bàn
tay với 5 ngón thì ngón dài nhất (ngón giữa) dễ bị các dải quấn quanh nhất do đó ngấn
ối hay gặp nhất ở ngón này. Ngược lại, ngón cái của thai nhi có xu hướng gấp và khép
vào trong lòng bàn tay nên ít khi bị các dải xơ quấn quanh do đó ngấn ối ít khi gặp ở
ngón cái. Cùng với sự phát triển của thai nhi thì màng ối ngày càng dày hơn, các dải xơ
cũng ngày càng dày hơn, dài hơn, cuộn lại tạo thành dây lớn. Dây này cũng có thể quấn
vào vùng đầu thai nhi gây nên khe hở sọ mặt; quấn quanh dây rốn làm thắt nghẹt dây
rốn gây chết thai; hoặc quấn quanh cánh tay, cẳng tay, thân mình.
Cụt chi bẩm sinh cũng nằm trong phân loại hội chứng ngấn ối và có thể bị ở
mọi mức độ. Đầu mỏm cụt thường có hình thon và có hoặc không dính với mỏm cụt với
ngón kế cận ngang mức. Thường thì khi sinh ra mỏm cụt đã bị phù nề và không được
che phủ bởi biểu bì. Cảm giác của mỏm cụt luôn bình thường. Về mặt giải phẫu mỏm
cụt luôn có các u thần kinh bên trong nhưng bệnh nhân không có triệu chứng. Và mặc
dù mỏm cụt thường nhỏ nhưng chức năng vẫn khá tốt.
Điểm đặc trưng của hội chứng ngấn ối là dính ngón đầu xa. Các ngón dính vào
ngón kế cận ở mặt bên bởi sẹo hoặc xương. Vị trí dính ngón tương ứng với vị trí của
ngấn ối, xuất hiện ngay sau sinh và là nguyên nhân gây biến dạng chi. Sự dính của các
ngón, thay đổi giải phẫu từng ngón tương ứng chỉ ra đây là hậu quả của việc các ngón
đã bị bó chặt bởi một bó sợi xơ ở bên ngoài. Trong những trường hợp này thì ngón giữa
và ngón út luôn nằm trong lòng bàn tay. Hiện tượng dính ngón đầu xa xảy ra sau khi các
ngón đã tách nên có thể thấy những đường hầm di tích của kẽ ngón, đường hầm thông
từ mặt gan ra mặt mu. Phần mềm và xương của ngón có cấu trúc bình thường ngang
mức đường hầm này.
Phù nề phần mềm đầu chi phía trên vị trí ngấn ối thường có ở nhiều mức độ.
Với đầu chi bị phù nề to thì thành phần chủ yếu là dịch tiết, với những đầu chi bị phù nề
ít hơn thường cứng hơn, chứa dịch kẽ và tổ chức mỡ do vậy có màu sáng hơn nếu được
nhìn từ mặt mu. Cấu trúc mạch máu, thần kinh thường bị tổn thương gây nên giảm cảm
giác nhưng ít khi bị mất cảm giác hoàn toàn. Số lượng mao mạch giảm làm cho nhiệt độ
đầu chi thấp hơn bình thường.
Khó khăn trong việc chẩn đoán hội chứng ngấn ối là dễ nhầm lẫn với bệnh có
dính, ngắn ngón tay. Bệnh này trước đây được gọi là khe hở bàn tay không điển hình,
phần trung tâm ngón teo hoặc chỉ là một núm nhỏ, bị một bên và không có cụt chi bẩm
sinh. Đây không được gọi là ngấn ối.
242
4. ĐIỀU TRỊ
4.3. Kỹ thuật
Với ngấn ối nông, đường rạch da với nhiều chữ Z được thực hiện. Một số tác giả
cho rằng chỉ nên phẫu thuật cắt bỏ 50% ngấn ối trong một lần phẫu thuật để tránh cản
243
trở tuần hoàn tới đầu chi. Các tác giả khác lại cho rằng có thể phẫu thuật cắt bỏ giải
phóng toàn bộ ngấn ối ngay một lần dựa trên cơ sở rằng tuần hoàn máu ở cốt mạc và
trong xương của trẻ sơ sinh đủ để nuôi dưỡng phần xa dưới ngấn ối. Với ngấn ối sâu có
thể sử dụng kỹ thuật tạo hình chữ W và V-Y. Hầu hết tác giả đều thống nhất rằng ngấn
ối nên được cắt bỏ, không nên sử dụng nó như một phần của vạt tạo hình.
Phương pháp tạo hình bằng đường rạch da giảm căng mặt mu có thể được áp dụng
cho cả ngấn ối sâu hay nông. Khi có sự phù nề đầu chi phía trên ngấn ối, da vùng đó trở
nên dư thừa. Dùng bút đánh dấu đường rạch ngang ở mặt mu cả hai bên của ngấn ối.
Rach da ở phía gần và phía xa 2 bên ngấn ối, toàn bộ da giữa 2 đường rạch được loại
bỏ. Bảo tồn tối đa da lành 2 bên mép của đường rạch. Hai lớp của mô mềm được bóc
tách: đầu tiên là da và tổ chức mỡ ngay dưới da, thứ 2 là lớp mỡ sâu và mô liên kết, lớp
này dễ dàng di chuyển trên bề mặt của gân duỗi mặt mu hoặc ống gân gấp mặt gan. Mỡ
thừa dưới da được lấy bỏ, giải phóng tổ chức mỡ còn lại rồi trượt tới để làm dầy khuyết
tổn. Vạt da được thiết kề phù hợp để che khuyết tổn, cắt lọc và khâu đóng trực tiếp. Với
những khuyết tổn lớn ở cẳng chân, đùi, cánh tay, thân mình hay ở bụng cần phải khâu
lớp dưới da.
Tất cả mô sẹo bên trong ngấn ối sâu cần được loại bỏ, cố gắng bảo tồn các tĩnh
mạch lớn mặt mu và thần kinh phía gan, động mạch, gân gấp. Đối với những ngấn ối
sâu, kỹ thuật tạo hình chữ W và V-Y có thể được sử dụng. Trường hợp ngấn ối rộng, cắt
và tạo hình chữ Z không khả thi thì có thể sử dụng các vạt tại chỗ như vạt chéo ngón.
Trường hợp bị nhiều ngón có thể cân nhắc sử dụng vạt bẹn.
Hình 49.2. Kỹ thuật tạo hình cho ngấn ối nông và sâu. Cắt ngấn ối và tạo hình chữ Z
A. Cắt bỏ da ở hai thành
B. Lấy bớt tổ chức mỡ thừa
C. Bóc tách da và tổ chức dưới da
D. Đóng da theo vạt chữ Z ở bên ngón và đường thẳng ngang ở mu ngón
244
5. CÁC TỔN THƯƠNG LÂM SÀNG ĐẶC BIỆT
245
Trường hợp ngón cái hay nhiều ngón bị cụt bẩm sinh thì phẫu thuật chuyển
ngón chân tạo hình ngón tay là lựa chọn tốt. Nhiều tác giả thích chuyển ngón chân thứ 2
hơn là ngón chân cái để tạo hình ngón tay cái. Cũng có thể chuyển đồng thời ngón chân
thứ 2 và thứ 3 để tạo thành 2 ngón tay. Vi phẫu thuật chuyển ngón là phẫu thuật chuyên
sâu nhưng sẽ đem lại những kết quả tốt. Trước khi chuyển ngón tạo hình ngón cái ta nên
phẫu thuật tạo hình mở rộng kẽ ngón I.
Lựa chọn thứ 2 để điều trị cụt ngón cái ngang mức đốt bàn hay đốt ngón là
phẫu thuật kéo dài ngón. Nguồn gốc của kỹ thuật này bắt nguồn từ việc điều trị cụt ngón
sau chấn thương ở người lớn. Một dụng cụ cố định xương sẽ được đặt phía ngoài ngón
trong nhiều tháng cho đến khi xương được phục hồi và trở nên cứng hơn. Sau khi thực
hiện phẫu thuật cắt xương, xương sẽ phát triển từ màng xương và ống tủy ở 2 phía lan
dần vào trung tâm để lấp đầy khoảng trống giữa 2 đầu xương bị cắt. Ở trẻ nhỏ sẽ khó
khăn trong hợp tác điều trị khi sử dụng phương tiện cố định ngoài, do đó ta có thể ghép
xương vào khoảng trống giữa 2 đầu xương để làm nhanh hơn tiến trình liền xương. Do
thời gian điều trị lâu và sử dụng phương tiện cố định xương phức tạp nên phương pháp
này không được ưu tiên lựa chọn. Thường chỉ áp dụng để kéo dài xương ngang mức
cẳng tay hay bàn tay, ít áp dụng cho ngón tay.
Phương pháp thứ 3 để điều trị ngắn ngón tay là đồng thời làm dài xương và
chuyển đầu xương như chuyển một phần ngón. Thường một phần ngón trỏ được
chuyển cho ngón cái hoặc ngón giữa. Khi đó phẫu thuật thực hiện nhiệm vụ kéo dài
ngón và mở rộng kẽ ngón I. Điểm chú ý nhất là kỹ thuật đảm bảo được sự sống của
phần được chuyển.
246
50
X-quang là một phần rất quan trọng trong đánh giá bàn chân khoèo trước, trong
thời gian điều trị và sau phẫu thuật. X-quang xác định mối tương quan với lâm sàng của
bàn chân và với kết quả có hoặc không điều trị phẫu thuật. X-quang đủ sẽ thu được
trong khi điều trị đảm bảo chắc chắn bàn chân đã được sửa chữa không chỉ trên lâm
sàng mà cũng cả trên X-quang. Nếu biến dạng một bên, bàn chân chân bình thường
được sử dụng như một tiêu chuẩn X-quang so sánh mức độ sửa chữa.
Có hai phương pháp điều trị bàn chân khoèo bẩm sinh: điều trị bảo tồn bằng
nắn, băng bột và phẫu thuật.
247
Điều trị bảo tồn bằng nắn, băng bột: ngay từ đầu, bàn chân khoèo không điều
trị phẫu thuật. Nhiều chế độ điều trị đã được giới thiệu, bao gồm sử dụng nẹp, dây đeo,
và bột. Điều trị gồm hàng tuần với nhóm kéo nắn và bột trong 6 tuần đầu tiên, tiếp sau
đó bằng kéo nắn và bột nhiều tuần, sau nữa cho tới khi thấy được bàn chân trên lâm
sàng và X-quang được sửa chữa. Bằng kinh nghiệm, trên lâm sàng có khả năng thấy
được bàn chân sẽ đáp ứng với điều trị không phẫu thuật. Với biến dạng ngay từ đầu với
bàn chân rất cứng nhắc, phẫu thuật được chỉ định.
Điều trị phẫu thuật với các nguyên tắc:
Điều trị nắn chỉnh và băng bột thất bại hoặc biến dạng bàn chân đáp ứng
kém, chậm.
Phẫu thuật được thực hiện càng sớm (theo tuổi) kết quả càng tốt, kỹ thuật
càng đơn giản.
Thực hiện phẫu thuật nhẹ nhàng tránh tổn thương mặt sụn khớp và tâm cốt hoá.
Đánh giá mức độ biến dạng và tổn thương giải phẫu bệnh cần được kết hợp
giữa lâm sàng và X-quang. Trên cơ sở tổn thương này lựa chọn kỹ thuật thích hợp cho
từng bệnh nhân cụ thể.
Lưạ chọn kỹ thuật thực hiện trên trẻ cần hạn chế mức độ tối đa thực hiện
trên xương.
Làm dài gân cơ, chuyển gân cơ tránh quá mức; tạo cân bằng lực cơ, không
gây biến dạng ngược lại biến dạng ban đầu.
Bất động bột trong 4-6 tháng, sau bỏ bột trẻ cần được đi giầy chỉnh hình,
điều trị vật lý phục hồi chức năng bàn chân.
Thực hiện kỹ thuật tuân thủ theo phân chia nhóm tuổi theo tình trạng cốt
hoá xương tụ cốt bàn chân.
248
Cho tới nay với tổn thương bệnh lý bàn chân lồi xoay ngoài bẩm sinh còn có nhiều
ý kiến khác nhau. Nguyên nhân do bàn chân chịu lực ép khi trẻ còn trong bào thai. Nguyên
nhân di truyền có thể cũng là một trong những nguyên nhân của biến dạng này.
Là một dị tật hiếm gặp nên việc chẩn đoán cần thận trọng. Thông thường, một
khi có biến dạng bẩm sinh phải được khẳng định biến dạng đó có ngay sau khi trẻ ra đời
và đây là tiêu chuẩn đầu tiên để xếp biến dạng đó là bẩm sinh. Tuy vậy, bàn chân lồi
xoay ngoài bẩm sinh có thể chẩn đoán lầm với một số nguyên nhân cần được phân biệt:
Bàn chân vẹo, gót xoay ngoài (Talipes Calcaneovalgus), xương gót trong
trạng thái gấp mu và biến dạng này nhanh chóng được sửa chữa.
Dính xương tụ cốt bàn chân (Tarsal Coalition), đây là biến dạng cứng nhắc
nhưng không bao giờ thấy sai khớp sên-thuyền. Xương sên không ở vị trí thẳng đứng và
gót chân không bao giờ ở vị trí thuổng trong cả trạng thái nghỉ cũng như trạng thái bàn
chân được mang trọng lượng. Chẩn đoán X-quang bằng việc chụp bàn chân ở những tư
thế thông thường cũng đã phần nào cho thấy được bất thường của khối tụ cốt bàn chân
và nhất là xương sên, xương thuyền và xương gót.
Điều trị bảo tồn trong biến dạng bàn chân bẹt và bàn chân lồi xoay ngoài là cần
được thực hiện sớm, ngay sau khi trẻ ra đời và nếu chẩn đoán chậm hoặc không được
điều trị sẽ đưa tới biến dạng ngày càng tăng tình trạng cứng nhắc, từ biến dạng gân cơ
bao khớp và sau nữa là biến dạng xương khớp. Nếu trẻ được phát hiện ở ngoài tháng
thứ 6 nên đựơc phẫu thuật ngăn ngừa những biến dạng tiếp theo.
Nguyên tắc phẫu thuật:
Làm thẳng lại tia trong (xương bàn I, xương chêm I, xương thuyền và xương sên).
Làm thẳng lại tia ngoài (xương bàn V, xương hộp và xương gót).
Phẫu thuật: một số phương pháp cơ bản thực hiện phẫu thuật bàn chân lồi,
xoay ngoài:
Đặt lại khớp sên-thuyền và tạo hình lại bao khớp
Chuyển bám tận chày sau về mặt trong xương chêm 1
Cắt dây chằng hàng rào
Làm dài gân cơ mác ngắn, mác dài
Tạo lại tia trong và tia ngoài bàn chân, cố định bằng một đinh Kirschner
Cố đinh khớp sên - gót bằng đinh Kirschner
Cắt và mở rộng khớp gót – hộp
249
Hình 50.3. Bàn chân càng cua
Nếu xương bàn mất một phần hoặc toàn bộ sẽ cho thấy ngón chân cũng bị mất.
Blauth và Borisch đã phân loại biến dạng thành 6 nhóm dựa trên số xương bàn chân
hiện có.
Nhóm I và II là chia tách có số thiếu hụt ít, cả hai nhóm đều có 5 xương bàn.
Xương bàn tất cả bình thường trong nhóm I và giảm sản một phần trong nhóm II.
Nhóm III có số xương bàn giống nhau và có 4 xương bàn chân.
Nhóm IV có 3 xương bàn.
Nhóm V có 2 xương bàn.
Nhóm VI có một xương bàn.
Những phẫu thuật cho bàn chân càng cua sẽ giúp cho cải thiện chức năng và
hình dáng bên ngoài.
Khi bàn chân chia kéo dài phía trên giữa xương bàn, da nơi chia tách được
cắt bỏ, nhưng nắp da mặt mu và mặt gan còn lại sẽ được được làm kín lại khi chúng
được khâu cùng với nhau.
Nếu một xương bàn không có ngón chân tương ứng, nó được cắt bỏ và nơi
chia tách được khâu lại
Xương hoặc khớp của tia một hoặc năm biến dạng sẽ được sửa chữa có thể
phải cắt bao khớp và cắt xương của những tia còn giữ lại. Nếu sử dụng pin để cố định,
pin và bột cẳng chân được lấy bỏ 6 tuần sau phẫu thuật, một bột đi cẳng chân ngắn có
thể được mang thêm 4 tới 6 tuần.
250
Ngón chân vẹo trong bẩm sinh thường chỉ một bên và kết hợp với một hoặc
nhiều các biến dạng sau: (1) ngắn, dầy xương bàn thứ nhất, (2) thêm xương hoặc
ngón chân, (3) biến dạng xoay trong của một hoặc nhiều trong bốn xương bàn chân
bên ngoài, (4) một dải sợi chắc kéo dài từ mặt trong của ngón I tới nền của xương
bàn thứ nhất.
Giải thích cho dị tật này là ở đó hai ngón I trong tử cung chung một ngón, ngón
bên trong hoặc ngón thêm vào thất bại trong sự phát triển. Muộn hơn, khi mới phôi thai
ngón chân bên trong, cùng với một dải tổ chức sợi, kéo căng dây cung và dần dần kéo
cho sự phát triển quá mức ngón chân cho tới vị trí xoay trong.
Việc điều trị thích hợp cho ngón I bàn chân khép bẩm sinh dựa trên tình trạng
biến dạng và và tình trạng co cứng của cấu trúc phần mềm. Kỹ thuật Farmer là có kết
quả trong sửa chữa biến dạng trung bình, vừa phải. Phẫu thuật của Kelikian và cộng sự
thích hợp với biến dạng nặng với một xương bàn thứ nhất ngắn quá mức. Khi biến dạng
trở nên phức tạp bởi viêm khớp chấn thương khớp bàn ngón, đóng cứng khớp này được
chỉ định. Trong những trường hợp hiếm gặp, khi biến dạng nặng hoặc là sửa chữa hoặc
đóng cứng khớp, cắt cụt được chỉ định.
251
Điều trị ban đầu với một ngón chân phì đại và không may mắn, tỷ lệ tái phát
trở lại với kỹ thuật này gần như là 100%.
Cần lưu ý rằng một ngón hoặc nhiều ngón có bàn chân phì đại, sự phì đại này
không riêng cho tổ chức phần mềm mà cả tổ chức xương. Hệ thống mạch máu và thần
kinh nằm trong tổ chức phần mềm phì đại nên việc bảo tồn là rất khó khăn nhất là khi
tiến hành lấy bỏ tổ chức bệnh lý này. Việc cắt bỏ tổ chức phần mềm, một phần xương
với hy vọng cải thiện thẩm mỹ, cải thiện chức năng ngón và bàn chân là rất khó khăn.
X-quang trước phẫu thuật phát hiện khớp xương bên ngoài ngón chân.
Kỹ thuật cắt cụt ngón ngoài: tại nền ngón chân được cắt cụt, rạch da theo hình
vợt hoặc hình oval, qua da và cân kéo gân xuống dưới và chia tách chúng. Rạch bao
khớp bàn - ngón chân và cắt ngón phụ, cắt theo khớp. Dùng kìm cắt xương cắt xương có
thể đưa ra được từ đầu xương bàn chân, giúp cho thấy rõ xương đốt ngón được cắt cụt.
Nếu X-quang đã cho thấy xương bên ngoài, cắt nó sau khi tiếp tục cắt ở đầu trên, trên
mặt ngoài hoặc mu của ngón chân.
252
Hình 50.7. Phân loại tật thừa ngón của Venn-Watson
253
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brown D. L., Borschel G.H. (2004). Michigan Manual of Plastic Surgery, 1st
Edition 2004 Lippincott Williams & Wilkins.
2. Bullocks J. (2007). Plastic surgery emergencies. Thieme New York Dolan
R.W. (2007). Facial Plastic reconstructive and trauma surgery. Marcel
Dekker Inc.
3. Eisenmann-Klein M., Neuhann-Lorenz C. (2008). Innovations in Plastic
and Aesthetic Surgery. Springer-Verlag Berlin Heidelberg
4. Gary P. Lask; Ronald L. May (1996), Principles and Techniques of
Cutaneous Surgery. 235 - 238,301- 401, 561 - 576, 605 - 616.
5. Gloster H.M. (2008). Complications in Cutaneous Surgery.Springer
6. Graham Colver (2002), Skin cancer A practical guide to management, Martin
Dunitz Ltd, 25 - 43, 93 - 152, 174 - 180.
7. Greer S.E. (2004). Handbook of plastic surgery. 2004 Marcel Dekker.
8. Mathes, S.,Plastic and surgery (2006). The hand and upper limb. Vol. VIII.
Philadelphia: Saunders Elsevier.
9. Nguyễn Bắc Hùng (2005). Phẫu thuật Tạo hình. NXB Y học, Hà Nội.
10. Nguyễn Việt Tiến (2011). Dị tật bẩm sinh ở chi trên. NXB Y học Hà nội.
11. Karen H. Kim, Roy G. Geronemus (2007), Mohs micrographic surgery,
Grabb and Smith’s plastic surgery, chapter 14, 134-138.
12. Kenneth G. Gross et al (1999), Mohs surgery, Mosby, 1- 287.
13. Kryger Z.B. (2007). Practical Plastic Surgery. Landes Bioscience.
14. Mang W.L. (2006). Manual of Aesthetic Surgery. Springer-Verlag Berlin Heidelberg.
15. Mathes S.J. Nahai F. (1982). Clinical applications for muscle and
musculocutaneuos flaps. C.V. Mosby Company
16. Mattei P. (2011). Fundamentals of Pediatric Surgery. Springer
17. McCarthy J.G., Galiano R.D., Boutros. S.G. (2006). Current therapy in
plastic surgery. 1st ed., Elservier.
18. McGregor A. D. (1995). Fundamental priciples of plastic surgery. Churchill
Livingstone.
19. Đoàn Hữu Nghị (2001), Ung thư da,Ung thư học, Nhà xuất bản y học,
223-229.
20. Richards A.M. (2002). Key notes on plastic surgery. Blackwell Science Ltd
254
21. Riden K. (1998). Key topics in oral and maxilofacial surgery. BIOS
Scientific Publishers Ltd
22. Sajjad Rajpar,Jerry Marsden (2008), Basal cell carcinoma,ABC of Skin
cancer, Blackwell, 23-26.
23. Siemionow M.Z., Eisenmann-Klein.M. (2010). Plastic and Reconstructive
Surgery. Springer
24. Taub P.J. (2009). Plastic Surgery Clinical problem solving. Mc Graw Hill
25. Thorne C.H. (2007). Grabb and Smith's Plastic Surgery, Lippincott Williams
& Wilkins.
26. Samarasinghe V., Madan V., Lear John T. (2011), Focus on Basal Cell
Carcinoma. Journal of Skin Cancer. 2011. 1-5.
27. Warwick D. (2009). Hand surgery, Oxford specialist Handbooks in surgery.
Oxford university press.
28. Wei I. , Fu-Chan. (2009). Flaps and reconstructive surgery. Elsevier.
29. Wolfe, S., et al., (2011) Green's Operative Hand Surgery. Vol. 1. , United
States of America: Elsevier Churchill Livingstore.
255
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
Địa chỉ: Số 352 - Đội Cấn - Ba Đình - Hà Nội
Email: xuatbanyhoc@fpt.com.vn; xbyh@xuatbanyhoc.vn
Số điện thoại: 024.37625934 - Fax: 024.37625923
256