You are on page 1of 33

Đề cương ôn thi môn Triết học Mác- Lê nin

Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Tại sao nói đó là vấn đề cơ bản của triết
học?
- Vấn đề cơ bản của triết học:
Thế giới xung quanh có thể chia thành hai lĩnh vực lớn tự nhiên và tinh thần, tồn tại và tư
duy, vật chất và ý thức, triết học với nhiệm vụ giải thích thế giới cũng phải đề cập đến hai
lĩnh vực ấy.
Theo F. Ănghen, vấn đề lớn, cơ bản của triết học là vấn đề về mối liên hệ giữa vật chất
và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
- Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mâu thuẫn:
Mặt 1: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào?
Mặt 2: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đó là vấn đề cơ bản
của triết học vì:
Thứ nhất: Căn cứ vào cách trả lời hai câu hỏi trên (cách giải quyết hai hai mặt của một
vấn đề cơ bản của triết học) ta có thể biết được nhà triết học này, hệ thống triết học này là
duy vật hay duy tâm (mặt 1)
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất có trước ý thức, vật chất quyết định ý thức, ý thức
có sau vật chất sinh ra và phụ thuộc vào vật chất.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức có trước vật chất và quyết định vật chất. Chủ nghĩa
duy tâm chia thành hai trường phái:
Duy tâm khách quan ý niệm tuyệt đối quyết định vật chất.
Duy tâm chủ quan ý thức cảm giác của con người quyết định vật chất. Những nhà triết
học thừa nhận hoặc vật chất hoặc tinh thần quyết định được gọi là triết học nhất nguyên.
Còn những nhà triết học thừa nhận cả vật chất và tinh thần quyết định ta gọi là triết học
nhị nguyên. Triết học nhị nguyên cuối cùng sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Cũng căn cứ vào cách trả lời vấn đề cơ bản của triết học (mặt 2) mà ta biết được nhà triết
học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.
+ Thuyết khả tri cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới.
+ Thuyết bất khả tri (không thể không biết) cho rằng con người không có khả năng nhận
thức thế giới.
Thứ 2: Bất cứ nhà triết học nào cũng phải giải đáp vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức khi xây dựng học thuyết của mình, vật chất và ý thức là hai phạm trù của triết học cơ
bản bao quát một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan.
Thứ 3: Đó là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng với con người và xã hội loài người.

Câu 4: Trình bày vai trò của triết học đối với đời sống xã hội nói chung và đối với sự
phát triển của khoa học nói riêng?
Vai trò của triết học đối với xã hội:
Với tư cách là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận, triết học có nhiệm vụ giải
thích thế giới nó cung cấp cho chúng ta cách nhìn nhận, xem xét thế giới từ đó chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, trong các trường phái triết học khác nhau
sẽ có vai trò khác nhau đối với đời sống xã hội. Cụ thể là:
+ Triết học duy tâm nhìn chung do chỗ giải thích không đúng về thế giới hiện thực,
không phản ánh được quy luật khách quan của thế giới do đó nó không có ý nghĩa đối với
đời sống xã hội.
+ Triết học duy vật vì xuất phát từ bản thân thế giới hiện thực để giải thích, nhìn chung
triết học duy vật đã phản ánh được quy luật khách quan, nó có vai trò chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người để cải tạo thế giới phù hợp với quy luật của thế giới hiện thực.
Do đó triết học duy vật có ý nghĩa đối với đời sống xã hội.
+ Triết học Mác- Lênin có ý nghĩa to lớn đối với đời sống xã hội. Vai trò
của triết học đối với sự phát triển của khoa học.
Triết học cũng cung cấp phương pháp nghiên cứu cho các khoa học cụ thể (khoa học tự
2 30
nhiên và khoa học xã hội ). Mặt khác, triết học cũng đưa ra khoa học cụ thể để làm căn
cứ, tài liệu cho sự khái quát lý luận của mình. Vai trò của triết học đối với khoa học ở chỗ
nó cung cấp cho khoa học phương pháp nghiên cứu (có phương pháp chủ yếu, phương
pháp biện chứng, phương pháp siêu hình ). Chỉ phương pháp biện chứng mới có ý nghĩa
to lớn đối với các khoa học, còn phương pháp siêu hình chỉ có ý nghĩa đối với khoa học
phân tích.
Trong các hệ thống triết học, triết học Mác- Lênin có vai trò rất quan trọng đối với khoa
học tự nhiên cũng như khoa học ở chỗ:

3 30
+ Triết học Mác- Lênin cung cấp phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp đúng
đắn nhất giúp các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu các lĩnh vực của thế giới khách quan.
+ Nhờ có phương pháp biện chứng duy vật mà nhiều khoa học liên ngành ra đời. Những
khoa học này là những khoa học giáp ranh nó có nhiệm vụ nghiên cứu những mối liên hệ
giữa các lĩnh vực của thế giới khách quan. Các khoa học liên ngành như Lý- Hoá, Sinh-
Hoá, Hoá- Sinh, điều khiển tâm sinh lý.

Câu 14: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa
ấy?
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” Lênin đã đưa ra
định nghĩa kinh điển về vật chất.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin:
Trước hết ta phải giải thích các thuật ngữ:
- Phạm trù là khái niệm chung phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên
hệ cơ bản nhất của các sự vật hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định.
- Phạm trù triết học là khái niệm chung nhất phản ánh những mối liên hệ bản chất của
các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Thế giới hiện thực được chia làm 2 lĩnh vực:
- Những sự vật thuộc loại vật chất.
- Những hiện tượng thuôc loại tinh thần.
Hai loại ấy được phản ánh trong triết học, đó là hai phạm trù vật chất và ý thức.
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ hiện tại khách quan và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”
Thực tại khách quan là những cái đang tồn tại độc lập với ý thức của con người.
Tồn tại khách quan là thuộc tính chung của tất cả các sự vật hiện tượng, là tiêu chuẩn để
phân biệt cái gì là vật chất. Chính vì vậy, nếu diễn đạt một cách cô đọng thì thực tại
khách quan là vật chất.

4 30
Từ phân tích trên ta rút ra kết luận.
+ Vật chất là tồn tại vĩnh viễn.
+ Vật chất là vô cùng vô tận.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, cái thực tại khách quan tác động
vào giác quan của chúng ta đem lại cho chúng ta cảm giác. Các cảm giác là cơ quan tiếp
xúc với thế giới khách quan bên ngoài truyền thông tin về bộ não và thông tin được xử lý
cho ta cảm giác về nó.
Như vậy là:
Thế giới vật chất có trước
Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
“Vật chất được cảm giác của chúng ta chép lại chụp lại phản ánh…”
Trên cơ sở tác động của sự vật khách quan lên các cơ quan cảm giác ta có được hình ảnh
về nó, hình ảnh của sự vật bên ngoài. Như vậy là bằng các giác quan con người nhận thức
được sự vật bên ngoài thế giới.
Từ việc phân tích định nghĩa vật chất của Lênin rút ra 2 kết luận:
1. Vật chất là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người. Nó
có trước và là nguồn gốc của ý thức.
2. Ý thức là sự phản ánh thế giới và như vậy con người có thể nhận thức được thế giới.
Ý nghĩa của định nghĩa:
+ Định nghĩa ngắn gọn nhưng giải đáp ứng được đầy đủ cả hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường duy vật biện chứng chống lại tất cả cá quan điểm sai làm về vật
chất và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của chủ nghĩa duy tâm, chống thuyết bất khả
tri và thuyết hoài nghi, khắc phục được tính chất máy móc siêu hình trong quan niệm về
vật chất của chủ nghĩa trước Mác.
+ Định nghĩa nêu lên tính khái quát và tính phổ biến rất cao của phạm trù vật chất. Một
khái niệm rộng hơn bao quát tất cả những gì tồn tại trong khách quan.
+ Định nghĩa còn giúp chúng ta tìm ra yếu tố vật chất trong lĩnh vực xã hội, đó là tồn tại
xã hội.
+ Định nghĩa vạch ra cho khoa học con đường vô tận đi sâu nghiên cứu thế giới. Tìm ra
phương pháp cải tạo thế giới ngày càng có hiệu quả.

Câu 15: Hãy so sánh quan điểm vật chất của Lênin với quan điểm vật chất của các
nhà khoa học khác?
Quan điểm vật chất của các nhà khoa học khác:
+ Chủ nghĩa duy tâm: Cho vật chất là sản phẩm của ý thức, tinh thần.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng sự vật là sản phẩm của cảm giác con người. Đại
biểu là Bec- cơ- ly (nhà triết học người Anh). Ông cho rằng sự

5 30
vật chẳng qua là sự phức hợp của cảm giác. Như vậy, khi không có cảm giác của chúng
ta thì sự vật không tồn tại.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thế giới là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối. Platon nhà
triết học duy tâm khách quan thời cổ đại cho rằng thế giới như là cái bóng ở trong vách
hang còn ý niệm tuyệt đối ở ngoài cửa hang được ánh sáng chiếu vào in hình lên vách
hang.
Hêghen là nhà triết học người Đức cho rằng: Giới tự nhiên là sản phẩm của sự “tha hoá”
của “ý niệm tuyệt đối”.
Quan điểm đồng nhất vật chất với vật thể:
VD: Talet (624-546 TCN) cho rằng nước là khởi nguyên của thế giới. Hêraclit
(540- 480 TCN) cho rằng đó là lửa.
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: lấy thế giới để giải thích thế giới, đó là những quan điểm
chất phác, thô sơ, mộc mạc về thế giới, cơ bản là đúng nhưng còn hạn chế là đồng nhất
phạm trù vật chất với một dạng tồn tại cụ thể của nó.
Đồng nhất vật chất với những thuộc tính của nó. VD:
đồng nhất vật chất với khối lượng.
+ Một bước phát triển trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác đó là
thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit. Học thuyết nguyên tử dự đoán: nguyên tử là
phần tử nhỏ nhất không thê phân chia được và cấu tạo nên sự vật.
Tóm lại: Theo quan điểm của các nhà duy tâm và trước Mác thì vật chất là những gì cụ
thể, cảm tính hoặc là đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên mọi vật và họ đi tìm cơ sở đầu tiên để
xây dựng những quan điểm giải thích thế giới bắt nguồn từ cơ sở vật chất ấy.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác còn thiếu xót hạn chế nhất định của nó, mang tính trực
quan, máy móc và siêu hình.
Quan điểm vật chất của Lênin:
- Vật chất không phải là sự vật cụ thể, cảm tính mà vật chất chính là phạm trù dùng để
chỉ thực tại khách quan đó là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức của
con người.
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
- Vật chất là vô cùng vô tận.
- Vật chất tồn tại vĩnh viễn.
Quan điểm vật chất của Lênin là khoa học, đúng đắn, nó chống lại quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm và khắc phục được những hạn chế, thiếu xót của chủ nghĩa duy vật trước
Mác.

Câu 16: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức? Ý thức có
nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội: Nguồn gốc tự nhiên:

6 30
- Óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là khí quan vật chất sản sinh ra ý
thức. Hoạt động của ý thức chỉ xảy ra trên cơ sở hoạt động của bộ óc con người. Nếu bộ
óc bị tổn thương một phần hay toàn bộ thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn từng
phần hay toàn bộ. Chỉ có con người mới có ý thức, động vật bậc cao cũng không thể có ý
thức được.
- Sự phản ánh thế giới khách quan bằng ý thức của con người là hình thức phản ánh cao
nhất, hình thức đặc biệt chỉ có ở con người trên cơ sở phản ánh tâm lý ngày càng phát
triển và hoàn thiện. Các sự vật hiện tượng tác động lên các giác quan của con người và
truyền những tác động đó lên trung ương thần kinh đó là bộ óc con người, do đó con
người có một hình ảnh về các sự vật đó. Những “hình ảnh” về sự vật được ghi lại bằng
ngôn ngữ.
Tóm lại: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là phải có bộ óc người và sự tác động của thế
giới khách quan, nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì không thể có ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Khi vượn người sử dụng những vật có sẵn trong tự nhiên cho mục đích kiếm ăn có kết
quả thì nó gặp lại nhiều lần hành động ấy và trở thành phản xạ có điều kiện dần dần hình
thành “thói quen” sử dụng công cụ. Tuy nhiên, “công cụ” đó không phải lúc nào cũng có
sẵn. Do đó, đòi hỏi loài vượn người phải có ý thức “chế tạo công cụ” lao động mới. Việc
“chế tạo công cụ” lao động mới đã làm cho hoạt động kiếm ăn của vượn người là hoạt
động lao động. Đó là cái mốc đánh dấu sự khác biệt giữa con người và con vật.
Qua lao động, nhờ kết quả lao động cơ thể con người, đặc biệt là bộ óc và các giác quan
biến đổi hoàn thiện dần cả về cấu tạo và chức năng để thích nghi với điều kiện thay đổi.
Chế độ ăn thuần tuý thực vật chuyển sang chế độ ăn có thịt có ý nghĩ quan trọng trong
quá trình chuyển biến não làm quen thành bộ não người.
Trong hoạt động lao động, con người cần phải quan hệ với nhau, phối hợp hành động với
nhau tạo ra nhu cầu thoải mái với nhau “một cái gì đấy”. Nhu cầu đó dẫn đến xuất hiện
ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo thành phương tiện để diễn đạt tư tưởng và trao đổi giữa người
với người. Nhờ có “ngôn ngữ”, sự phản ánh giữa con người trở thành sự phản ánh tri
giác. Như vậy, trong lao động và cùng lao động ngôn ngữ đó là hai sức kích thích chủ
yếu để hình thành nên ý thức của con người.
Tóm lại, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội là hai điều kiện cần và đủ cho sự ra đời
của ý thức. Nếu thiếu một trong hai điều kiện đó không thể có ý thức.

Từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc ý xã hội của ý thức rút ra bản chất ý thức như sau:

7 30
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Hoặc cách diễn đạt khác: ý thức là sản phẩm của một cơ quan vật chất sống có tổ chức
cao, đó là bộ óc người.

Câu 17: Phân tích bản chất của ý thức. Vai trò của tri thức khoa học trong thực tiễn?
Bản chất của ý thức: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế nào là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức của con người, chỉ có con người mới có ý thức, động vật bậc cao cũng không có
ý thức.
Ý thức của con người có được là do sự tác động của sự vật lên các giác quan của con
người, con người có được hình ảnh về sự vật đó. “Hình ảnh” về vật đó con người thu
được qua sự tác động ấy không phải là hình ảnh vật lý mà là hình ảnh tinh thần, hình ảnh
chủ quan, hình ảnh đó được cải biến.
Ý thức không chỉ phụ thuộc vào tác động của thế giới bên ngoài mà còn chịu ảnh hưởng
hoạt động của các giác quan cũng như hoạt động của bộ óc con người. Vì vậy, ý thức của
chúng ta là sự phản ánh tương đối đúng đắn thế giới bên ngoài.
Do ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên mỗi cá nhân có một ý thức
riêng, nó do sự phản ánh khác nhau, do năng lực, do sự nhạy cảm của các giác quan của
mỗi cá nhân đó quy định.
Từ sự phân tích trên rút ra 3 tính chất sau:
Một là: Ý thức có tính trừu tượng, ý thức là hình ảnh của các sự vật hiện tượng của thế
giới khách quan nhưng đó không phải là hình ảnh vật lý, hình ảnh cụ thể nhìn thấy, cầm
nắm được, nó là hình ảnh tinh thần, hình ảnh trừu tượng.
Hai là: Tính tự giác:
Một mặt ý thức không chỉ là sự phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan
trên cơ sở tác động trực tiếp của các sự vật hiện tượng đó lên các cơ quan thông qua hoạt
động thực tiễn của con người mà làm các sự vật hiện tượng bộc lộ ra các thuộc tính tính
chất để con người nhận thức.
Ba là: Tính sáng tạo:
Ý thức là hình ảnh của con người về thế giới khách quan nhưng hình ảnh ấy không phải
là hình ảnh nguyên vẹn như các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan mà trên cơ sở
những hình ảnh của sự vật hiện tượng đó ý thức tạo ra những hình ảnh mới, những hình
ảnh của sự vật không có sẵn trong tự nhiên.
Chú ý: Trong mỗi tính chất hãy lấy ví dụ minh hoạ. Vai trò của
ý thức khoa học trong hoạt động thực tiễn:

8 30
+ Tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực, đã được kiểm nghiệm
trong hoạt động thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội và được chứng minh ở logic học,
phản ánh hiện thực một cách tương ứng trong đầu óc con người dưới dạng các quan
niệm, khái niệm, phán đoán lý luận.
+ Trong ý thức, tri thức là thành phần quan trọng nhất, là cái lõi của ý thức. Tri thức là
phương tiện tồn tại của ý thức, đặc biệt là tri thức khoa học đóng vai trò rất quan trọng
trong việc quyết định hành động của con người. Tri thức khoa học có hướng dẫn, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn đúng đắn, có hiệu quả cao. Trên cơ sở tri thức khoa học mà sự tác
động của con người vào thế giới khách quan theo đúng quy luật của nó và đúng đắn nhất
do đó có hiệu quả nhất. Nhờ có tri thức khoa học mà con người ngày càng trở thành
người làm chủ giới tự nhiên và làm chủ bản thân mình.

Câu 18: Phân tích quan điểm của triết học Mác- Lênin về sự vận động của vật chất?
Vận động là gì:
Theo F.Ănghen vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
Thế giới vật chất nằm trong sự vận động biến đổi không ngừng. Quan
điểm của triết học Mác- Lênin về vận động của vật chất:
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính vốn có của vật chất, gắn liền
với vật chất, không thể có vật chất không có vận động và không thể có vận động vật chất.
+ Phải có vận động mà sự vật mới tồn tại được và biểu hiện sự tồn tại của nó.
+ Nhờ có sự vận động của sự vật mà con người mới có thể nhận biết được chúng.
- Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vận động là thuộc tính cơ bản bên trong
vốn có của sự vật, không phải do tác động của bê ngoài, nó là kết quả của sự tác động và
chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong sự vật.
- Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn không do ai sáng tạo ra và cũng không bị tiêu diệt.
- Có 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất.
+ Vận động cơ học: là hình thức vận động đơn giản nhất, là sự di chuyển vị trí của các
vật thể.
+ Vận động lý học: vận động của các phần tử, hạt cơ bản, điện nhiệt.
+ Vận động hoá học: sự hoá hợp và phân giải của các chất.
+ Vận động sinh học: sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với mỗi trường.
+ Vận động xã hội: sự hoạt động của con người làm xã hội biến đổi từ giai đoạn này sang
giai đoạn khác.
Trong các luận điểm trình bày ở trên hãy tự tìm ví dụ minh hoạ.

9 30
Chú ý:
+ Các hình thức vận động có mối quan hệ với nhau trong đó hình thức vận động cao bao
hàm hình thức vận động thấp.
+ Không được quy hình thức vận động thấp về hình thức vận động cao và ngược lại.

Câu 20: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chép lại và chụp lại độc lập với ý
thức con người. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt
động thực tiễn.
Ý thức là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người gồm những tình cảm, tâm
trạng, tư tưởng và ý chí, những quan điểm lý luận đưa tiễn sự suy nghĩ bằng ngôn ngữ
bằng khả năng nó trong bộ óc con người.
Xác định yếu tố vật chất trong hoạt động thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn bao gồm ba hình thức cơ bản. Hoạt động sản xuất ra của cải vật chất,
đấu tranh chính trị xã hội, hoạt động nghiên cứu thực nghiệm

10 30
khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất đóng vai trò quan trọng.
Trong hoạt động thực tiễn yếu tố vật chất chính là phương tiện, công cụ, điều kiện mà
con người dùng để tác động vào thế giới khách quan và cải tạo nó.
Vật chất và ý thức có mối liên hệ biện chứng, vật chất đóng vai trò quyết định ý thức.
Ngược lại, ý thức có vai trò quan trọng tác động trở lại yếu tố vật chất.
Yếu tố vật chất quyết định yếu tố ý thức trong hoạt động thực tiễn, thể hiện ở những điểm
sau:
+ Mọi mục đích dự kiến của con người đặt ra đều phải dựa trên cơ sở những điều kiện,
hoàn cảnh vật chất cho phép, những điều kiện khách quan.
+ Để đạt được mục đích, kế hoạch đặt ra con người phải lựa chọn đúng những phương
tiện vật chất sẵn có để tác động vào các đối tượng tạo ra sự biến đổi theo kế hoạch.
Yếu tố ý thức có vai trò to lớn với yếu tố vật chất thể hiện:
+ Ý thức có thể làm biến đổi hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Bản thân ý thức không thể tự thay đổi một chút nào hiện thực song ý thức có vai
trò vô cùng to lớn, nó được thể hiện trong hai trường hợp:
Thứ nhất: Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Ý thức tiến bộ khoa học nó
chỉ hoạt động thực tiễn của con người theo đúng quy luật của hiện thực do đó nó thúc đẩy
sự phát triển của hiện thực khách quan.
Thứ hai: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, nó chỉ hoạt động thực tiễn
của con người không đúng quy luật do đó nó sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của hiện
thực khách quan.

Câu 21: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa của nó
đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta?
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: Vai trò
quyết định của vật chất đối với ý thức:
Vật chất quyết định sự thay đổi của ý thức vì vật chất có trước, ý thức có sau, ý thức chỉ
là sự phản ánh vật chất.
Vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
não người, là hình ảnh của thế giới khách quan, vật chất là nguồn gốc có ý thức quyết
định nội dung của ý thức.
Ý thức tác động ngược trở lại vật chất:
Ý thức do vật chất quyết định nhưng nó không phụ thuộc hoàn toàn vào mà ý thức có
tính độc lập tương đối với vật chất do có tính năng động sáng tạo

11 30
nên ý thức có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông
qua hoạt động của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn
của con người trong quá trình cải tạo thế giới khách quan.
(Ý thức thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người nhưng sự tác động đó
của ý thức phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người).
Tuy có vai trò quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người nhưng vai trò ấy cuối
cùng bao giờ cũng phải đủ những điều kiện vật chất cho phép suy cho cùng vật chất vẫn
quyết định ý thức.
Ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với sự nghiệp đổi mới ở
nước ta:
Từ nguyên lý vật chất quyết định ý thức, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng
ta rút ra bài học phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hoạt động tuân theo
quy luật khách quan. Trong một thời gian dài chúng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí,
xa rời thực tế khách quan. Cơ sở vật chất còn thấp kém nhưng lại muốn đốt cháy giai
đoạn vì vậy đã phải trả giá cho những sai lầm đó. Muốn xây dựng thành công CNXH
phải có cơ sở hạ tầng của CNXH, phải có cơ sở vật chất phát triển. Để có được điều này
Đảng ta chủ trương:
+ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, các thành
phần kinh tế được tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ pháp luật, được bình
đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể đóng
vai trò quan trọng.
+ Mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài, trong khu vực và quốc tế.
+ Tận dụng mọi nguồn lực, tài lực trong nước để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
+ Thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng.
Nắm vững nguyên lý ý thức có tác động trở lại đối với vật chất, Đảng ta đã đề ra chủ
trương đổi mới và phải đổi mới trước hết là phải đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy làm
điều kiện tiền đề cho đổi mới trong hoạt động thực tiễn:
+) Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng HCM làm kim chỉ nam cho hành động.
+) Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người.
Vai trò tích cực của ý thức là ở chỗ. Ý thức quyết định sự thành bại của con người trong
hoạt động thực tiễn do đó phải:
+ Khắc phục thái độ trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh.

12 30
+ Cần hình thành ý thức đúng, tổ chức hoạt động theo quy luật, triệt để khai thác điều
kiện khách quan.
+ Trong hoạt động thực tiễn phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học của
nhân dân nói chung, nâng cao trình độ cán bộ, Đảng viên nhất là trong điều kiện hiện
nay.

Câu 22: Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và ý thức và ý nghĩa
phương pháp luận của nguyên lý đó?
Liên hệ là sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng tương tác và chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật và hiện tượng trong thế giới hoặc giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của
mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến: nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế giới (cả tự
nhiên xã hội và tư duy) dù phong phú đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ với các
sự vật hiện tượng khác, đều chịu sự tác động sự quy định của các hiện tượng và sự vật
khác.
Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, các yếu tố, các giai đoạn phát triển
khác nhau của mỗi sự vật đều có sự tác động, quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm
tiền đề tồn tại cho mình.
Mối liên hệ phổ biến gồm những đặc điểm sau:
+ Tính khách quan liên hệ là vốn có của các sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại phát triển của các sự vật hiện tượng.
Con người không thể tạo ra được mối liên hệ của các sự vật mà chỉ có thể nhận thức và
vận dụng các mối liên hệ đó.
+ Tính đa dạng nhiều vẻ: các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng, phong phú, do
đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể hiện ở: có mối liên hệ chung-
riêng, bên trong- bên ngoài, trực tiếp- gián tiếp, tất nhiên- ngẫu nhiên, cơ bản- không cơ
bản.
Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Sự vật không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng
khác. Nếu muốn nhận thức sự vật phải nhận thức được các mối liên hệ của nó. Trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan
niệm phiến diện một chiều.
+ Có nhiều loại mối liên hệ và chúng có vai trò khác nhau trong sự vật, do đó để thúc đẩy
sự vật phát triển phải phân loại các mối liên hệ, nhận thức được mối liên hệ cơ bản quy
định bản chất của sự vật từ đó giải quyết mối liên hệ đó.

Câu 30: Phân tích nội dung cơ bản của các cặp phạm trù cái chung và cái riêng, ý
nghĩa của việc nghiên cứu của cặp phạm trù này.
Khái niệm:
+ Cái riêng là một cặp phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng đê chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối
quan hệ giống nhau được lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.
+ Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính vốn có chỉ
ở mọi sự vật hiện tượng không lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác. Nhờ cái đơn nhất mà
con người có thể phân biệt được cái riêng này với cái riêng khác.
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mối quan hệ biện chứng giữa cái
13 30
riêng và cái chung thể hiện như sau:
Thứ nhất: “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái riêng”. Điều đó có nghĩa là
cái chung thực sự tồn tại, nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ
không tồn tại biệt lập, bên ngoài cái riêng.
Thứ hai: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung”. Điều đó có nghĩa là
cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa “cái riêng” hoàn toàn
cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới
cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà
thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá, nó còn liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác.
Thứ ba: Cái chung là bộ phận của cái riêng còn cái riêng không gia nhập hết vào cái
chung vì bên cạnh các thuộc tính được lặp lại các sự vật khác, tức là bên cạnh cái chung
bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái riêng đơn nhất, tức là những nét,
những mặt, những thuộc tính...chỉ vốn có ở nó và

14 30
không tồn tại ở bất kỳ một sự vật nào khác. Cái riêng phong phù hơn cái chung, còn cái
chung (cái chung bản chất) sâu sắc hơn cái riêng.
Thứ tư: Trong quá trình phát triển khách quan, trong những điều kiện nhất định cái đơn
nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại. Sự chuyển hoá từ cái đơn nhất
thành cái chung đó là sự ra đời của cái mới. Sự chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn
nhất đó là sự mất dần đi cái cũ.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này. Cái chung và cái riêng gắn bó chặt chẽ
không thể tách rời nên:
+ Không được tách cái chung ra khỏi cái riêng. Không được tuyệt đóio hoá cái chung.
Nếu tuyệt đối hoá cái chung sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả khuynh giáo điều. Muốn
tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng, thông qua cái riêng. Phê phán quan điểm
sai lầm của phái duy thực: cho rằng chỉ tồn tại cái chung không phụ thuộc vào cái riêng
và sinh ra cái riêng. Cái riêng sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất
đi, cái chung mới là cái tồn tại vĩnh viễn.
+ Không được tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hoá cái riêng.
Nếu tuyệt đối hoá cái riêng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm hữu khuynh xét lại, phê phán
quan điểm sai lầm của phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng là tồn tại thực sự còn cái
chung chẳng qua chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn chúng ta phải biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng vì
cái chung gắn liền với bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật.
+ Phải phát hiện ra cái mới tiêu biểu cho sự phát triển và tạo điều kiện cho nó phát triển
trở thành cái chung. Ngược lại, hạn chế và đi đến xoá bỏ dần những cái cũ, cái đã lỗi
thời, lạc hậu.

Câu 31: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.Ý nghĩa
của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật với nhau gây ra một biến đổi nào
đó.
Kết quả là một hiện tượng mới xuất hiện do một hoặc nhiều nguyên nhân gây ra.
Điều kiện: không trực tiếp sinh ra kết quả nhưng lại không thể thiếu được cho sự xuất
hiện của kết quả, điều kiện tham gia một cách tất yếu vào quá trình sinh ra kết quả.
Nguyên cớ là hiện tượng gây ra kết quả nhưng xúc tiến việc xuất hiện kết quả có liên hệ
bề ngoài giả tạo với kết quả.
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ ngay trong trong sự vật độc lập với ý thức của con
người.

15 30
Quan hệ nhân quả đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định kết quả ra đời sau khi
nguyên nhân đã phát triển đến một mức nhất định.
Mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết qủa:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân phải có trước kết qủa.
Một nguyên nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây ra kết quả
nhất định và một kết quả nhất định bao giờ cũng được sinh ra bởi một nguyên nhân xác
định nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do
chúng gây nên cũng càng ít khác nhau bấy nhiêu.
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ phức tạp.
Thứ nhất: Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai: cùng một kết quả có thể gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động
riêng lẻ hay tác động cùng một lúc. Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự
vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân với sự hình thành kết quả sẽ khác nhau
tuỳ vào hướng tác động của nó.
+ Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật cùng một hướng thì chúng sẽ gây nên
ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết qủa.
+ Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác
nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn tiêu diệt tác dụng của nhau.
Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân, kết quả có thể tạo được nguyên nhân.
Mối quan hệ nhân quả là một chuỗi những sự nối tiếp giữa nguyên nhân và kết qủa.
Không có nguyên nhân đầu tiên và không có kết qủa cuối cùng.
Trong những điều kiện nhất định nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá cho nhau cái
trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược
lại.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Tính nhân qủa là tính khách quan và quy luật con người có thể nhận thức, vận dụng nó để
đạt được mục đích của mình, tạo điều kiện cho nguyên nhân đi đến kết qủa và ngược lại,
đồng thời hạn chế hoặc tiêu diệt những nguyên nhân tạo điều kiện sinh ra những hiện
tượng xấu.
Cải tạo sự vật hay xoá bỏ sự vật chính là cải tạo hay xoá bỏ nguyên nhân sinh ra nó.
Mỗi sự vật hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có
vị trí rất khác nhau trong việc hình thành kết qủa. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn
chúng ta cần phải phân loại, xác định vai trò, vị trí của từng loại nguyên nhân để có
những biện pháp giải quyết đúng đắn.

16 30
Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó phải tìm trong chính hiện tượng
đó và phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có trước đó.

Câu 32: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, ý nghĩa
của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên:
Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn từ những mối liên hệ bên ngoài của sự
vật, không phải từ qúa trình phát triển có tính quy luật bên trong của sự vật do đó nó có
thể xảy ra.
Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn một cách hợp quy luật từ những mối liên
hệ cơ bản ở bên trong sự vật, là do toàn bộ sự phát triển trước đó quy định và do đó nhất
định xảy ra.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại một cách khách quan quá trình phát triển của sự
vật, không phải chỉ có tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả cái ngẫu nhiên cũng
có vai trò của nó. Tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật còn ngẫu nhiên
có ảnh hưởng đến sự phát triển đó, có thể làm cho sự phát triển đó diễn ra nhanh hay
chậm. Nhưng tác dụng chi phối của tất nhiên trong lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau.
Trong tự nhiên, tính tất nhiên được thể hiện một cách tự phát.
Trong xã hội, tính tất nhiên được thể hiện thông qua hành động có ý thức của con người.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại một cách biệt lập dưới dạng thuần tuý mà bao
giờ cũng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ. Sự thống nhất hữu cơ đó được
thể hiện ở chỗ:
+ Không có cái tất nhiên thuần tuý tồn tại rách rời với những cái ngẫu nhiên, cái tất nhiên
bao giờ cũng vạch đường cho mình qua vô số ngẫu nhiên.
+ Không có cái ngẫu nhiên thuần tuý tách rời cái tất nhiên.
+ Bất cứ cái ngẫu nhiên nào cũng là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái
bổ xung cho tất nhiên. Mọi cái ngẫu nhiên đều có yếu tố của tất nhiên.
Trong những điều kiện nhất định, tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau.
Cùng một sự kiện nào đó trong mối liên hệ này nó được coi là tất nhiên, xét trong mối
liên hệ khác nó lại là ngẫu nhiên.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không được dựa
vào và chỉ dừng lại ở cái ngẫu nhiên vì cái tất nhiên là cái gắn với bản chất của sự vật.
Mặt khác, chúng ta cũng không nên bỏ qua cái ngẫu nhiên mà cần phải có phương án dự
phòng các trường hợp ngẫu nhiên có thê xảy ra.

17 30
Trong nhận thức để đạt được cái tất nhiên chúng ta phải nghiên cứu phát hiện ra chúng
thông qua hàng loạt cái ngẫu nhiên.
Ngẫu nhiên và tất nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện nhất định do
đó ta có thể tạo những điều kiện thích hợp để có thể ngăn cản hoặc kích thích những
chuyển hoá phục vụ mục đích của con người.
+ Chống quan điểm của thuyết định mệnh, đó là cơ sở lý luận cho việc phủ nhận tác dụng
tích cực của con người đối với tiến trình lịch sử vì cho rằng mọi cái đều xảy ra một cách
tất nhiên, con người không làm gì được.
Chống quan điểm duy tâm và siêu hình về tất nhiên và ngẫu nhiên.

Câu 33: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ý nghĩa
của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng:
Khái niệm:
Bản chất là phạm trù dùng để chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định ở bên trong sự vật quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Hiện tượng là những mặt, những mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất
nhất định.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan mỗi sự vật đều là thống nhất giữa bản chất và
hiện tượng. Bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau thể hiện:
+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ ra qua những hiện tương tương ứng và bất cứ
hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc ít hoặc nhiều.
+ Bản chất nào thì hiện tượng ấy và ngược lại, bản chất khác nhau sẽ biểu hiện ở những
hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo sớm hay
muộn.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật còn
hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Hiện tượng phong phú hơn bản chất ngược lại bản chất
sâu sắc hơn hiện tượng vì vậy cùng một bản chất có thể biểu hiện ra bên ngoài bằng vô số
hiện tượng khác nhau tuỳ theo sự biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh.
+ Bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của sự vật, còn sự vật là biểu
hiện của bản chất đó ra bên ngoài nhưng biểu hiện dưới dạng hình thức đã cải biên nhiều
khi xuyên tạc bản chất. Hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất về cơ bản phù hợp với
bản chất nhưng không bao giờ phù

18 30
hợp hoàn toàn. Chúng biểu hiện bản chất không phải dạng như nguyên bản chất vốn có
mà dưới hình thức cải biên nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm còn hiện tượng không ổn định nó biến đổi
nhanh hơn so với bản chất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này trong hoạt động thực tiễn:
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng giúp cho chúng ta có thể tìm ra bản chất, quy
luật vận động của sự vật thông qua hiện tượng.
Muốn nhận thức đúng đắn về sự vật không được dừng lại ở vỏ bề ngoài của sự vật, ở một
vài hiện tượng đơn lẻ mà cần phải phân tích một cách tổng thể các hiện tượng để đi sâu
tìm ra bản chất thực sự của nó, không được lẫn lộn hiện tượng với bản chất.
Quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là quá trình rất phức tạp lâu dài đó là quá trình con
người phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn
và cứ tiếp tục mãi.

Câu 34: Phân tích nội dung của cặp phạm trù nội dung và hình thức.
Khái niệm:
Nội dung là toàn bộ những mặt những yếu tố những quá trình thành cơ sở tồn tại và phát
triển của sự vật.
Hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật là cách thức tổ chức
kết cấu của nội dung.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
Nội dung và hình thức là một thể thống nhất hữu cơ của sự vật hiện tượng, không có một
hình thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có nội dung nào mà lại không tồn
tại trong một hình thức nhất định.
Cùng một nội dung có nhiều hình thức thể hiện.
Cùng một hình thức có thê thể hiện những nội dung khác nhau.
Nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, hình thức phải thể hiện nội dung. Nội dung
có khuynh hướng biến đổi hình thức là mặt tương đối bền vững, ổn định. Sự biến đổi
phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của nội dung, hình thức
cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm hơn. Khi nội dung biến đổi buộc hình thức cũng biến
đổi theo cho phù hợp với nội dung mới.
Hình thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại nội dung, ảnh hưởng của hình thức
với nội dung sẽ khác nhau trong hai trường hợp sau:
+ Khi hình thức phù hợp với nội dung thì nó thúc đẩy nội dung phát triển.
+ Khi hình thức không phù hợp với nội dung thì nó kìm hãm sự phát triển của nội dung,
nội dung luôn luôn biến đổi, hình thức biến đổi chậm hơn và thường lạc hậu hơn so với
nội dung.

19 30
Giữa nội dung và hình thức có sự chuyển hoá lẫn nhau. Cái trong điều kiện hay mối quan
hệ này là nội dung thì trong điều kiện hay quan hệ khác có thể là hình thức và ngược lại.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức vào trong hoạt động thực
tiễn để đạt được mục tiêu, chống khuynh hướng tách rời hoặc tuyệt đối hoá trong hai mặt.
Tuyệt đối hoá hình thức dẫn đến chủ nghĩa hình thức.
Tuyệt đối hoá nội dung không làm cho sự vật phát triển, không dám mạnh dạn vứt bỏ
hình thức lạc hậu đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của sự vật.
Cùng một nội dung trong sự phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức thể hiện do
đó trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội phải biết sử dụng mọi hình thức có thể có
được để phục vụ những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn.

Câu 35: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù khả năng và hiện thực.Ý nghĩa
của việc nghiên cứu cặp phạm trù đó.
Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù khả năng và hiện thực:
Khái niệm:
Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa tới nhưng sẽ tới sẽ có khi có các
điều kiện thích hợp. Khả năng là cái chưa có nhưng nó vẫn tồn tại dưới dạng mầm mống
được thể hiện trong lòng hiện thực. Từ hiện thực đó mới xuất hiện khả năng có đủ điều
kiện thích hợp nó sẽ trở thành hiện thực.
Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái tồn tại thực sự, cái đã tới đã có. Hiện thực
gồm có: hiện thực khách quan (hay là vật chất ) tất cả những gì đang tồn tại độc lập với ý
thức của con người; hiện thực chủ quan (hiện thực tinh thần) nó cũng tồn tại nhưng tồn
tại trong óc của con người, ví dụ như ý thức, tư duy....
Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
Khả năng và hiện thực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn bó với nhau không tách
rời, luôn chuyển hoá lẫn nhau vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả năng còn khả năng sẽ
biến thành hiện thực quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành
hiện thực, còn hiện thực này do những quá trình phát triển nội tại của mình sinh ra các
khả năng mới. Các khả năng mới ấy trong điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực và
cứ tiếp tục như vậy mãi mãi. Đó là một quá trình vô tận.
Mọi sự vật trong điều kiện nhất định có thể tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ
có một khả năng.

20 30
Ngoài một số khả năng vốn có sẵn ở sự vật trong những điều kiện nhất định khi có thêm
những điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới.
Bản thân các khả năng không phải là không thay đổi, nó tăng lên hoặc giảm đi tùy điều
kiện cụ thể.
Không phải tất cả các khả năng đều tất yếu trở thành hiện thực trong những điều kiện
nhất định có khả năng tất yếu trở thành hiện thực nhưng cũng có khả năng không trở
thành hiện thực.
Khả năng trở thành hiện thực trong tự nhiên và trong xã hội là khác nhau, trong tự nhiên
khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là tự phát, nó phụ thuộc vào các điều kiện khách
quan; trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan khả năng muốn trở thành
hiện thực còn cần có các điều kiện chủ quan tức là hoạt động thực tiễn của con người. Ở
đây khả năng không khi nào tự nó biến thành hiện thực mà không có sự tham gia của con
người. Hoạt động có ý thức của con người trong đời sống xã hội có vai trò rất to lớn để
biến khả năng thành hiện thực nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự biến đổi của khả
năng thành hiện thực có thể “điều khiển” cho hiện thực phát triển theo khuynh hướng này
hay khuynh hướng khác bằng cách tạo ra những điều kiện thích ứng.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù trong hoạt động thực tiễn:
Chống quan điểm tách rời giữa khả năng và hiện thực vì nếu không thì hoạt động thực
tiễn sẽ không thấy được khả năng, tiềm năng của sự vận động và phát triển không thúc
đẩy cho khả năng trở thành hiện thực.
Chống lẫn lộn giữa khả năng và hiện thực, phải phân biệt sự khác nhau giữa chúng nếu
không trong hoạt động thực tiễn sẽ rơi vào ảo tưởng, hành động phiêu lưu trái pháp luật.
Muốn cải tạo thực tiễn phải dựa vào cái hiện có (hiện thực) chứ không phải dựa vào cái
chưa có (khả năng).
Trong xã hội, bên cạnh vai trò của nhân tố khách quan, đòi hỏi phải phát huy tối đa, năng
động nhân tố chủ quan nhằm biến khả năng nhanh chóng thành hiện thực, khả năng trở
thành hiện thực khi có đủ điều kiện cho nó, do đó phải tạo điều kiện cho khả năng nhanh
chóng trở thành hiện thực theo mục đích có lợi cho con người.
Trong sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng có khả năng khác nhau có thể phòng
ngừa loại bỏ những khả năng có hại cho sự phát triển của sự vật hiện tượng.

Câu 27: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù: Khả năng và hiện thực. ý nghĩa
phương pháp luận của nó
Để trao đổi tư tưởng cho nhau, con người thường phải sử dụng những khái niệm nhất
định. Tùy theo mức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có những khái niệm rộng hay
hẹp khác nhau. Khái niệm rộng nhất gọi là phạm

21 30
trù. Về vấn đề này, các nhà triết học trước Mác coi phạm trù là những từ trống rỗng
không có nội dung hiện thực.Chỉ có triết học mác ra đời mới có cách nhìn nhận khách
quan và giải quyết triệt để vấn đề nhận thức về những phạm trù của triết học. Phạm trù là
những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Mỗi môn
khoa học chuyên ngành đều có phạm trù riêng của mình. Khác với các phạm trù của các
môn khoa học, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, vận động,
mâu thuẫn, thực tiễn, chân lý… là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt,
những thuộc tính, những mlh cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực
nào của hiện thức mà của toàn bộ thế gới hiện thực nói chung bao gồm cả tự nhiên, xã
hội và tư duy. Phép bcdv có 6 cặp phạm trù cơ bản. Một trong 6 cặp phạm trù đó là cặp
phạm trù khả năng và hiện thực.
1. Định nghĩa
a.Hiện thực: là một phạm trù triết học dùng để chỉ mọi cái hiện đang tồn tại trong tự
nhiên, xã hội và tư duy.
b.Khả năng: là phạm trù triết học dùng để chỉ những xu hướng, những yếu tố đang tồn
tại hiện thực mà trong sự vận động của chúng sẽ dẫn tới sự ra đời của một sự vật mới khi
có điều kiện tương ứng.
Như vậy, Phạm trù hiện thực và khả năng được dùng để phản ánh mqh biện chứng
giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thưc) với những gì hiện chưa
có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng (khả năng).Ở đây, chúng ta cần
Phân biệt khái niệm hiện thực với khái niệm hiện thực khách quan:
Hiện thực khách quan: là khái niệm chỉ các sự vật, vật chất tồn tại độc lập với ý thức
của con người. Còn hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại
một cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý
thức con ngưòi. Tuy nhiên, ở đây không nên quan niệm khái niệm hiện thực rộng hơn
khái niệm hiện thực khách quan mà đây là những khái niệm triết học phản ánh những mặt
khác nhau của thế giới trong đó chúng ta đang sống.

22 30
Khả năng là cái hiện chưa có nhưng bản thân Khả năng với tư cách cái chưa có đó lại tồn
tại (tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại nhưng bản thân khả năng để
xuất hiện sự vật đó thì tồn tại) nên dấu hiệu căn bản để phân biệt khả năng với hiện thực
là ở chỗ khả năng là cái chưa có, còn hiện thực là cái hiện có, đang tồn tại. Nói đến dấu
hiệu của khả năng , chúng ta cần phân biệt Khả năng với tiền đề hay điều kiện của một sự
vật nào đó: tiền đề hay điều kiện của một sự vật nào đó đều là những cái hiện đang tồn tại
thực sự, là những yếu tố hiện thực trên cơ sở đó xuất hiện cái mới. Còn khả năng không
phải là bản thân các tiền đề, điều kiện của cái mới là mà cái mới đang ở dạng tiềm thế,chỉ
trong tương lai với những điều kiện thích hợp nó mới tồn tại thực.
Khả năng cũng không đồng nhất với cái ngẫu nhiên và phạm trù xác suất.
- Khả năng và ngẫu nhiên: rất gần nhau nhưng vẫn là những phạm trù khác nhau.. Sự
khác nhau giữa chúng là ở chỗ, khả năng là cái hiện có trong tính xu hướng. Còn ngẫu
nhiên là cái có thể xảy ra, cũng có thể không xảy ra, có thể xảy ra như thế này, cũng có
thể xảy ra như thế khác.
- Trong một số trường hợp khả năng có quan hệ nhất định với xác suất. Trong trường
hợp đó, xác suất đặc trưng về mức độ thực hiện của khả năng.
- Khả năng và tính tất yếu: cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, cái tất yếu là
một mặt, một thuộctính của khả năng. Bất cứ khả năng nào cũng chứa trong lòng nó một
độ tất yếu nhất định.
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế nghĩa là khả năng thực sự tồn tại do hiện thực sinh
ra. Nhưng có khả năng được hình thành do quy luật vận động nội tại của sự vật quy định
được gọi là khả năng tất nhiên. Có khả năng được hình thành do các tương tác ngẫu
nhiên quy định được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
VD: gieo hạt ngô xuống đất, khả năng hạt ngô nảy mầm là khả năng tất nhiên. Nhưng
cũng có khả năng hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu bệnh phá hại nên không thể mọc
mầm.Khả năng này do những tác động có tính ngẫu nhiên quy định nên được gọi là khả
năng ngẫu nhiên.
Trong khả năng tất nhiên lại bao gồm: khả năng gần và khả năng xa. Khả năng gần
nghĩa là đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực còn khả
năng xa là chưa đủ điều kiện cần thiết để biến

23 30
thành hiện thực còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ nữa.VD: Nhân dân ta có truyền
thống yêu nước, cần cù lao động, lại có Đảng csvn lãnh đạo đề ra đường lối đổi mói đúng
đắn, có Nhà nước xhcn thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân, có những điều kiện
quốc tế thuận lợi thì khả năng hoàn thành công cuộc cnh,hđh là khả năng gần và khả
năng xây dựng thành công chế độ xhcscn là khả năng xa hơn.
2. Mối quan hệ biện chứng
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời
nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Điều này có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động
phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực. Trong hiện thực
mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có điều kiện lại chuyển thành
hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục làm cho sự vật vận động và phát triển một cách
vô tận trong thế giới vật chất.
- Cùng trong những điều kiện nhất định,ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả
năng chứ không phải chỉ có một khả năng.
VD: văn kiện đại hội Đảng 9,sau khi phân tích tình hình trong nước, tình hình thế giới và
khu vực đã nhận định rằng: đất nước ta hiện nay đang có cả” cơ hội lớn và thách thức
lớn” những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có khả năng “ tiếp tục phát huy nội lực
va lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực- nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý
và mở rộng thị trường, phục vụ sự nghiệp công nghiệphóa và hiện đại hóa. Những thách
thức đó là: nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và quan
liêu, diễn biến hòa bình . như vậy chúng ta có thể thấy hiện nay đang cùng tồn tại rất
nhiều khả năng (cả thuận lợi, cả khó khăn) phát triển đất nước ta. Điều đó đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân ta phải nhận thức rõ để chủ động tranh thủ thời cơ vựơt qua thách thức
đưa đất nước vững bước tiến lên theo định hướng XHCN.
- Ngoài những khả năng sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện
thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự
thay đổi của điều kiện.

24 30
VD: nứoc ta là một nước có nền kinh tế còn lại hậu, mức sống của nhân dân còn thấp,
nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu
chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng tụt hậu xa hơn về kinh té so với các
nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn
bán càng lớn.
- Để khả năng biến thành hiện thực thường cần không chỉ một điều kiện mà là một
tập hợp điều kiện cần và đủ. ở đây,c húng ta nghiên cứu vai trò của các điều kiện
khách quan và chủ quan trong sự chuỷen biến khả năng thành hiện thực.
VD; để một hạt thóc nảy mầm thì cần một tập hợp các điều kiện như: nhiệt độ, độ ẩm,ánh
sáng…
- Trong giới tự nhiên,khả năng trở thành hiện thực chủ yếu là một quá trình tự phát.
Có thể phân ra ba trường hợp:
+ Có khả năng mà điều kiện để chúng trở thành hiện thức chỉ có thể tạo ra bằng con
đường tự nhiên. Đó là trường hợp xảy ra trong các quá trình vũ trụ và địa chất.
+ Loại khả năng có thể trở thành hiện thực bằng con đường tự nhiên cũng như nhờ sự tác
động của con người. VD: bằng cách thay đổi điều kiện sống gây đột biến.. con người
“biến” khả năng tạo giốngmới thành hiện thực.
+ Loại khả năng mà trong điềukiện hiện nay không có sự tham gia của con người thì
không thể trở thành hiện thực. Các khả năng này vốn có ở khách thể nhưng để chúng trở
thànhhiện thực phải cần đến những điều kiện mà hiện nay không thể tạo được bằng con
đường tự nhiên.
- Trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng muốn trở
thành hiện thực còn cần các điều kiện chủ quan là hoạt độngcó ý thức, hoạt động
thực tiễn của con người.
Hoạt động thực tiễn của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng
thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến khả năng thành hiện
thực; có thể điều khiển khả năng phát triển theo chiều hướng nhất định bằng cách tạo ra
những điều kiện tương ứng. Không thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ
rơi vào sai lầm hữu khuynh. Chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng
không được tuyệt

25 30
đốihóa vai ttò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiện khách quan. Như
vậy,chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm, duy ý chí.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
a. Trong quá trình nhận thức: khi xác định khả năng cần chú ý:
- Vì khả năng do sự vật sinh ra hoặc tồn tại trong sự vật nên chúng ta chỉ có thể tìm ra
các khả năng phát triển của sự vật ngay trong chính bản thân nó.
- Vì khả năng nảy sinh vừa do tác động qua lại giữa các mặt khác nhau ở bên trong sự vật
vừa do sự tác động qua lại của sự vật với hoàn cảnh bên ngoài cho nên, trong quá trình
nhận thức, chúng ta phải chú ý cả “ tương quan lực lượng” giữa các mặt ở bên trong sự
vật, sự phát triển của mâu thuẫn nội tại trong nó lẫn những điều kiện bên ngoài.
b. Trong hoạt động thực tiễn cần chú ý rằng:
- Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái tồn tại dưới dạng xu hướng, nên
trong họat động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để định
ra chủ trương, phương hướng hành động của mình. Trong hoạt động thực tiễn, nếu chỉ
dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Theo lênin, người mác xít chỉ
có thể sử dụng để làm căn cứ cho chính sách của mình những sự thật được chứng minh rõ
rệt và không thể chối cãi được.
- Vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai nên trong
hoạt động thực tiễn cũng cần phải tính đến các khả năng để có thể đề ra chủ trương, kế
hoạch hành động cho sát, đúng. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được khả năng gần,
khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên. Từ đó mới tạo được các điều kiện thích
hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.
- Sau khi đã xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ hoạt động thực tiễn
là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng.KHi thực hiện nhiệm vụ này cần lưu ý:
+ Ttong hoạt động thực tiễn,cần tính đếnmọi khả năng có thể có dể dự kiến các phương
án hành động thích ứng cho từng trường hợp có thể xảy ra.
+ Một khả năng chỉ có thể trở thành hiện thực khi có đủ những điềukiện cần thiết. Do
vậy, để thực hiện khả năng, phải tạo cho nó các điều kiện cần và đủ.

26 30
+ TRong xã hội, khả năng không tự nó trở thành hiện thực mà phải có sự tham gia của
nhân tố chủ quan, nên tronglĩnh vực này, tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn cần tạo
mọi điều kiện cần thiết đểnhân tố chủ quan có thể tham gia tích cực hoặc ngăn cản quá
trình biến khả năng thành hiện thực. Phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực con người,
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con
người để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Trên ý nghĩa đó, Đảng
ta chỉ rõ: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước. Tuy nhiên cũng cần tranh cả hai thái cực sai lầm: một là
tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan , hai là hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong
việc biến khả năng thành hiện thực.”

Câu 24: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù: nguyên nhân và kết quả. ý
nghĩa phương pháp luận của nó
Để trao đổi tư tưởng cho nhau, con người thường phải sử dụng những khái niệm nhất
định. Tùy theo mức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có những khái niệm rộng hay
hẹp khác nhau. Khái niệm rộng nhất gọi là phạm trù. Về vấn đề này, các nhà triết học
trước Mác coi phạm trù là những từ trống rỗng không có nội dung hiện thực.Chỉ có triết
học mác ra đời mới có cách nhìn nhận khách quan và giải quyết triệt để vấn đề nhận thức
về những phạm trù của triết học. Phạnm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và
hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Mỗi môn khoa học chuyên ngành đều có phạm
trù riêng của mình. Khác với các phạm trù của các môn khoa học, các phạm trù của phép
biện chứng duy vật như vật chất, ý thức, vận đôdngj, mâu thuấn, thực tiễưn, chân lý… là
những khái nhiệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mlh cơ bản
và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nào của hiện thức mà của toàn bộ thế
gới hiện thực nói chung bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép bcdv có 6 cặp phạm
trù cơ bản. Một trong 6 cặp phạm trù đó là cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả.
1. Định nghĩa

27 30
Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mqh sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện
tượng trong hiện thực khách quan.
a. Nguyên nhân: là một phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
b. Kết quả: là một phạm trù triết học chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau
giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
VD: cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản là nguyên nhân đưa đếnkết quả là một
cuộc cách mạng vô sản nổ ra.
c. Điều kiện: khi xem xét mối liên hệ nhân quả chúng ta thấy rằng kết quả do nguyên
nhân sinh ra phụ thuộc vào những điềukiện nhất định. Điều kiện là hiện tượng cần thiết
cho một biến đổi nào đó xảy ra, nhưng bản thân chúng không gây nên biến đổi ấy. Các
điều kiện cùng với các hiện tượng khác có mặt khi nguyên nhân sinh ra kết quả được gọi
là hoàn cảnh.
1. Tính chất của mối liên hệ nhân quả:
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả mang tính khách quan, tính
phổ biến và tất yếu
- Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật,
không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết thì các sự
vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên những biến đổi nhất định.
Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình nhữn tác động và những biến đổi tức là
những mối liên hệnhân quả của hiện thực chứ không sáng tạo ra mối liên hệ đó từ trong
đầu mình. Quan điểm duy tâm không thừa nhận mối liên hệ nhân quả là do Thượng đế
sinh ra hoặc do cảm giác con người quy định.
- Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có nguyên nhân nhất
định gây ra. Không có hiện tượng nào mà ko có nguyên nhân, chỉ có điều nguyên nhân
đó đã được nhận thức chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con
người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
- Tính tất yếu thể hiện ở chỗ: cùng một nguyên nhân nhất định trong những điều kiện
giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế

28 30
không thểcó sự vật nào tồn tại tong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giốngnhau do
vậy tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: nguyên nhân tác
độngk trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khácnhau bao nhiêu thì kết quả do
chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.
1.Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
a. Nguyên nhân là cái sinh ra kết qủa, nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết
quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện. Tuy nhiên
không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả.
VD: đêm nối tiếp ngày, mùa hè nối tiếp mùa xuân…
Cái phân biệt liên hệ nối tiếp nhau về thời gian chính là ở chỗ, giữa nguyên nhân và kết
quả còn có mối quan hệ sản sinh, mối quan hệ mà trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện
và hoàn cảnh khác nhau. Một kết qủa có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. VD: nguyên
nhân của mất mùa có thể do hạn hán, có thể do lũ lụt, có thể do chăm bón không đúng kỹ
thuật. Và ngược lại, một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh
ra những kết quả khác nhau. VD: chặt phá rừng có thể gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt,
hạn hán…
- Khi có nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng
nguyên nhân tới việc hình thành kết quả sẽ khác nhau, tuỳ thuộc vào hướng tác động của
nó. Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng, chúng sẽ
gây ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả, làm kết quả xuất hiện nhanh hơn.
Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo nhiều hướng khác
nhau thì chúng sẽ làm suy yếu thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ
ngăn cản sự xuất hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phân tích vai trò
của từng loại nguyên nhân để có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho nhưng
nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người mong muốn ) phát huy tác
dụng.

29 30
VD: trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hoạt độngtheo có chế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế đều có vị trí nhất định với việc
phát triển nền kinh tế nói chung. Các TP KT vừa tác động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn
nhau, thậm chí cản trở nhau phát triển. Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần
kinh tế để phát triển sản xuất, làm cho dân giàu, nước mạnh, XH công bằng dân chủ văn
minh thì phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, hướng các thành phần KT phát triển đúng
định hướng XHCN; phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nứoc đối với các thành phần
kinh tế. Nếu không như vậy, nền kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn và năng lực sản xuất của các
thành phần kinh tế có thể sẽ triẹt tiêu lẫn nhau.
b. Sự tác động trở lại của kết quả với nguyên nhân.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng sau khi xuất hiện kết quả lại có ảnh hưởng trở lại
đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: thúc đẩy hoạt động
của nguyên nhân (hướng tích cực); hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (hướng
tiêu cực).
VD: trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục. Nhưng dân trí
thấp lại là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất,vì vậy lại kìm hãm
sản xuất phát triển. Ngựôc lại, trình độ dan trí cao là kết quả của chính sách phát triển
kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lwowtj nó, dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế và giáo dục.
c. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mqh này là nguyên nhân, nhưng
trong mqh khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy, ăng ghen nhận xét rằng: nguyên nhân
và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng
vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nhưng khi chúng ta nghiên cứu mlh chung của
nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về
sự tác động qua lại phổ bieens, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí cho
nhau. một sự vật, hiện tượng nào đó với tính cách là kết quả do một nguyên nhân sinh ra,
đến lượt mình,nó trở thành nguyên nhân sinh ra hiện

30 30
tượng thứ ba.. Quá trình đó cứ tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi
nhân quả vô cùng vô tận.
1. Phân loại nguyên nhân:
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả có thể chia
nguyên nhân thành nhiều loại khác nhau:
*Nguyên nhân chủ yếu va nguyên nhân thứ yếu
- Những nguyên nhân nào mà thiếu chúng kết quả sẽ không xảy ra gọi là nguyên nhân
chủ yếu
- Những nguyên nhân nào mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định những đặc điểm nhất
thời, không ổn địh, cá biệt của hiện tượng thì gọi là nguyên nhân thứ yếu.
*Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
- Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay những yếu tố của
cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi nhất định.
- Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật chất khác nhau
và gây ra những biến đổi thích hợp trong kết cấu vật chất ấy Nhìn chung nguyên nhân
bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự hình thành, tồn tạ và phát triển của kết
cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy được tác dụng thông qua những
nguyên nhân bên trong.
*Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập với ý thức của
con người, của các giai cấp, các chính đảng.
- Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức,
hành động của con người, trong lĩnh vực hoạt động của cá nhân, các giai cấp, các chính
đảng nhằm thúc đẩy, kìm hãm sự xuất hiện, phát triển các quá trình xã hội.
Nếu hành động của con người phù hợp với quan hệ nhân quả thì sẽ đẩy nhanh sự phát
triển của các hiện tựongxã hội trong trường hợp ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển ấy
1.ý nghĩa phương pháp luận
a.Đối với nhận thức

31 30
Quá trình nhận thức sự vật là quá trình phát hiện nguyên nhân để hiểu đúng sự vật đó. Vì
mọi hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong của nó cho nên nhiệm
vụ của nhận thức nói chung và của nhận thức khoa học nói riêng là đi tìm những nguyên
nhân hiện chưa được phát hiện để có thể hiểu đúng hiện tượng.
Trong quá trình tìm nguyên nhân cần lưu ý:
- Mlh nhân quả luôn tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người nên Chỉ
có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trongchính thế giới các hiện tượng chứ không
thể ở ngoài nó;
- nguyên nhân luôn có trwocs kết quả nên Khi tìm nguyên nhân của hiện tượng nào đấy
cần tìm những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trứoc khi hiện tượng xuất hiẹn. Song
cần lưu ý rằng không phải mọi sự kiện xảy ra trước đều là nguyên nhân của sự kiện xảy
ra sau.
Dấu hiệu đặc trưng của nguyên nhân trong mlh với kết quả là nguyên nhân sinh ra kết
quả nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt chú ý dấu hiệu đặc trưng
ấy.
- Xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần hết sức tỉ mỉ thận trọng, vạch
cho được hiệu quả tác động của từng mặt từng sự kiện, từng mối liên hệ cũnt như các tổ
hợp khác nhau của chúng trong việc nảy sinh hiện tựong mới chỉ trên cơ sở đó mói có thể
xác định đúng về nguyên nhân sinh ra kết quả
- Một hiện tượng trong mối quan hệ này la kết quả trong quan hệ khác có thể là nguyên
nhân,nên hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy,c hỉ cần xem xét nó trong những quan hệ mà
nó giữ vai trò là nguyên nhân cũng như trong những quan hệ mà nó là kết quả. Nói cách
khác, cần xem xét quan hệ nhân quả trong những điều kiện nhất đinhhj.
a.Đối với thực tiễn
- Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó;
- Muốn hiện tượng nào đó xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần
thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát huy tác dụng.
- Vì hiện tượng có thể xuất hiện do nhiềun guyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng
thời,nên trong hoạt động thực tiễn cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà

32 30
lựa chọn phương pháp hành đọng thích hợp, không nên hành động rập khuôn theo
phương pháp cũ.
- Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định đối với sự xuất
hiện, vận động và tiêu vong của hiện tựơng, nên tronghoạt động thực tiễn trước hết cần
tìm ra các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong.
- Đẩy nhanh (kìm hãm, loại trừ) sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào đó cần làm
cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hay lệch hoặc ngược chiều) với
chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.

33 30

You might also like