Professional Documents
Culture Documents
Trình bày quan điểm của triết học Mác – Lênin về vấn đề cơ bản của triết
Câu 1:
học? Chức năng của triết học Mác – Lênin?
Ph. Angghen:”Vấn đề cơ bản của mọi triết học cũng như triết học hiện đại, đó là giải quyết mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, giữa tư duy và tồn tại.”
Mặt thứ nhất: Bản thể luận, với câu hỏi vật chất có trước hay ý thức có trước? Cái nào quyết định cái
nào? Vấn đề đó đã chia các nhà triết học thành hai trường phái.
Chủ nghĩa duy vật cho rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Thế giới
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và không do ai sáng tạo. Còn ý thức chỉ là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc của con người.
Trong tiến trình lịch sử, chủ nghĩa duy vật trải qua ba giai đoạn: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa
duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
tích cực: thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, lấy giới tự nhiên để giải thích thế giới, không viện đến
thượng đế.
hạn chế:đồng nhất hay gắn vật chất vào một thứ cụ thể.
Điểm tích cực: thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, cơ học cổ điển phát triển, góp phần đẩy lùi thế giới
quan tôn giáo.
mặt hạn chế: bị ảnh hưởng của phương pháp siêu hình, cơ học cổ điển, máy móc, xem xét thế giới một
cách cô lập, các sự vật hiện tượng không có mối liên hệ với nhau, không vận động, phát triển.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng: là hình thái cao nhất của cndv, là sự thống nhất giữa cndv và pp biện
chứng dv. Thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, là công cụ giúp cho các nhà tiến bộ cải tạo thế giới hiện
thực, phản ánh đúng thế giới hiện thực. Khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó
và đấu tranh không khoan nhượng với những học thuyết sai lầm.
- Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: Ý thức, tinh thần là cái có trước và sản sinh ra giới tự nhiên. Chủ nghĩa duy
tâm gồm hai phái, chủ nghĩa duy tâm chủ quan, chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: Thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, trong khi phủ nhận sự
tồn tại khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều chỉ là do phức hợp
cảm giác của con người tạo thành.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Thừa nhận tính thứ nhất nhưng là tinh thần khách quan có trước
và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường được gọi bằng những cái
tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới…
- Nhất nguyên luận là học thuyết chỉ thừa nhận một trong hai thực thể (vật chất và ý thức) là nguôn gốc
của thế giới, quyết đinh sự vận động của thế giới.
- Trường phái nhị nguyên luận: xem vật chất và ý thức là bản nguyên của thế giới quyết định nguồn gốc
và vận động của thế giới.
Với câu hỏi con người có thể nhận thức được thế giới hay không? Đại đa số các nhà triết học duy
vật, duy tâm đều khẳng định: Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Kết
quả của cách giải quyết mặt thứ hai vấn đề của triết học là: Thuyết có thể biết (Thuyết
khả tri) và thuyết không thể biết (Thuyết bất khả tri).
- Khả tri luận: hay còn gọi là thuyết có thể biết thừa nhận khả năng nhận thức của con người. Về
nguyên tắc con người có thể hiểu được bản chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng,
quan niệm và nói chung ý thức mà con người có được về sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản
thân sự vật.
- Bất khả tri luận: hay còn gọi là thuyết không thể biết, thuyết này phủ nhận khả năng nhận thức của con
người, cho rằng con người g, không thể hiểu rõ được bản chất đối tượng, kết quả nhận thức mà loài
người đạt được chỉ là cái vỏ bên ngoài, hạn hẹp và cắt xén về đối tượng.
*hai chức năng cơ bản nhất thì đó là chức năng thế giới quan và phương pháp luận.
Khái niệm về thế giới quan: Là khái niệm triết học, hệ thống tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý
tưởng xác định về thế giới và về vị trí con người trong thế giới đó. TGQ quy định các nguyên tắc, giá trị
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Nguồn gốc của thế giới quan: ra đời từ cuộc sống, xuất phát từ nhu cầu nhận thức thế giới, muốn
hiểu biết tận cùng, sâu sắc và toàn diện về mọi mặt, nhận thức được mối quan hệ giữa bản thân
với thế giới.
Cấu trúc của thế giới quan bao gồm: Lý tưởng, niềm tin, tri thức. Trong đó tri thức đóng vai trò
quan trọng nhất.
- Triết học Mác lenin trang bị cho con người thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò đặc biệt
quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Có thế giới quan
duy vật biện chứng, con người có thể nhìn nhận thế giới một cách đúng đắn, có cái nhìn phù hợp
đối với thế giới hiện thực.
- Giúp con người hình thành quan điểm khoa học, định hướng con người nhận thức đúng đắn thế
giới hiện thực, từ đó giúp con người xác định thái độ cách thức hoạt động của mình,nâng cao vai
trò tích cực sáng tạo của con người.
- nâng cao vai trò tích cực sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác định
nhân sinh quan tích cực. Dựa vào điều đó, con người sẽ có thêm tri thức, hiểu biết về thế giới,
nâng cao khả năng sáng tạo của chính mình.
- Biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới duy tâm, tôn giáo,
phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới thế giới quan duy vật biện chứng
là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lức lượng tiến bộ cách mạng, là cơ sở
lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
- Chức năng phương pháp luận: trước hết là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học.
Phương pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc
phương pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, làm
công cụ nhận thức khoa học, giúp con người phát triển tư duy khoa học.
Câu 2: Phân tích định nghĩa về vật chất của Triết học Mác-Leenin. Ý nghĩa phương pháp luận của định
nghĩa này.
Trả lời.
Leenin định nghĩa về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Thứ nhất: Vật chất là phạm trù triết học( Phương pháp định nghĩa). Đối với Vật Chất thì Lenin không sử
dụng định nghĩa thông thường đó là khi định nghĩa một khái niệm nào đó, người ta thường quy nó về
một khái niệm lớn hơn, đồng thời chỉ ra các đặc điểm riêng của nó. Nhưng với vật chất, theo Lenin, nó là
một phạm trù triết học, nó là phạm trù rộng nhất, rộng đến cùng cực, cho nên không thể quy nó vào
một khái niệm rộng hơn và chỉ ra các đặc điểm của nó. Thế nên, Lenin đã sử dụng định nghĩa đặc biệt là
đặt vật chất đối lập với ý thức. Vì vc là phạm trù rộng nhất nên muốn định nghĩa nó phải đặt nó đối lập
với ý thức. ( Của Huy)
Vật chất là kết quả của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá của các sự vật,
hiện tượng. Nên nó phản ánh cái chung, cái vô hạn, vô tận , không sinh
ra, không mất đi. Nó tồn tại với các vận động theo thời gian và không
gian → Không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng cụ thể.
( Của nhóm 2)
Thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi loại dạng vật chất là thực tại khách quan. Thực tại khách
quan tức là những thứ tồn tại có thực ở bên ngoài nhưng độc lập và không phụ thuộc vào ý thức con
người. Dù có con người, dù không có con người, con không nhận thức được hay con người có nhận thức
được, thì nó vẫn tồn tại bởi vì thuộc tính của vật chất là khách quan.
Thứ ba: Thuộc tính phản ánh( Vaath chất là cái gây nên cảm giác ở con người, khi nó tác động vào giác
quan của con người.) Khi thực tại khách quan tác động vào giác quan của con người thì làm cho con
người nhận thức được. Được đem lại cho con người cảm giác, được cảm giác chụp lại, chép lại, phản
ánh Con người có thể nhận thức được thế giới, chỉ có thực tại khách quan con người chưa biết chứ
không có cái con người không biết.
2. Khắc phục khủng hoảng về thế giới quan cho các nhà khoa học,
mở đường cho khtn phát triển.
Với định nghĩa trên, đã giúp cho các nhà khoa học tiếp tục đi sâu
thêm về tìm hiểu, nghiên cứu về thế giới. làm cho họ nâng cao khả
năng nhận thức và tư duy.
Cho dù các nhà khoa học có nghiên cứu ra cái gì, tìm ra cái mới thì
họ cũng không còn bị khủng hoảng về thế giới quan nữa vì những
thứ họ tìm ra đều là thực tại khách quan, chỉ có thứ con người chưa
biết chứ không có cái con người không biết vì nhận thức luôn luôn
là một quá trình.
3. Là cơ sở khoa học cho việc tìm ra vật chất trong xã hội, góp
phần tạo nên nền tảng lí luận khoa học cho việc phân tích các vấn
đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Vật chất trong xã hội chính là tồn tại xã hội, nó quyết định đến ý
thức xã hội
Câu 3: Trình bày quan điểm của CNDVBC về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này?
Vật chất là gì: “ Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người
chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức là gì: “ là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan, có tính sáng tạo, năng động của thế giới
chủ quan.”
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
*VC quyết định ý thức:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất tồn tại khách quan độc lập
với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất
vào trong bộ não con người nên ý thức là cái có sau. Phải có sự vận động của vật
chất trong tự nhiên và trong xã hội mới ra đời ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kì hình thức nào ý thức đều phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung
của ý thức là kết quả phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con
người
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ quyết định sự phong
phú và độ sâu sắc của nội dung ý thức qua các thế hệ.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bản chất của ý thức là sự phản ánh tích cực , sáng tạo, chủ động hiện thực khách
quan, thế giới vật chất dịch chuyển vào bộ não con người và được cải biên trong
đó.
=> Vật chất là cơ sở hình thành bản chất của ý thức.
Mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất.
Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
- Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng phát triển về cả thể chất
lẫn tinh thần từ đó ý thức cũng phát triển cả nội dung và hình thức.
- Ý thức thường biến đổi chậm hơn so với sự biến đổi của vật chất vì ý thức bao
giờ cũng chỉ là sự phản ánh của thế giưới vật chất qua quy trình: Sự vật -> bộ óc
( cơ quan TW thần kinh) -> Thu thập, phân tích, xử lý, khái quát tri thức.
Khía cạnh 2: Ý thức tác động trở lại vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người :
- Nhờ hoạt động thực tiễn mà ý thức có thể làm biến đổi điều kiện, hoàn cảnh vật
chất
Ví du:
Ngày nay các nước trên thế giới đang ra sức bảo vệ các loài động vật quý hiếm
bằng các phương pháp nhân giống hoặc đưa chúng tới môi trường an toàn để
sinh sống.
Khía cạnh 3: chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, quyết định tính đúng sai,
sự thành công hay thất bại của hành động đó.
- Tính năng động đó của ý thức tác động vào thế giới vật chất theo 2 chiều hướng
+) Tích cực: Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực nó có thể dự báo hoặc tiên
đoán chính xác đưa ra các lý luận định hướng đúng đắn thúc đẩy sự phát triển của
thế giới vật chất và chỉ đạo các hoạt động của con người một cách đúng đắn
+) Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai, xuyên tạc hiện thực thì nó sẽ làm cho hoạt
động của con người trở xấu xa, vô nghĩa thậm chí kìm hãm sự phát triển của xã
hội.
VD: Trong đại dịch COVID-19 nếu mỗi người dân không tuân thủ theo các quy
định của nhà nước, khai báo đúng tình trạng bệnh thì liệu dịch bệnh có được đẩy
lùi ? Câu trả lời chắc mỗi người chúng ta đều nắm rõ
Khía cạnh 4: xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng lớn nhất
là trong thời đại hiện nay.
- Tính năng động và sáng tạo của ý thức mặc dù lớn nhưng không thể vượt qua
tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các nhân tố
khách quan và năng lực chủ quan của chủ thể hoạt động
Mối quan hệ giữa vật chất là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau,
tức là cùng tác động len nhau, tồn tại độc lập, không bài trừ không xóa bỏ nhau.
1. Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
– Trong quá trình nhận thức, học tập, nghiên cứu, con người phải bắt đầu
từ việc quan sát, xem xét, phân tích đối tượng vật chất. Qua việc tác động
vào chúng, ta sẽ bắt đối tượng vật chất phải bộc những thuộc tính, quy
luật của nó. Khi đó, ta sẽ thu nhận được tri thức.
Bằng việc lặp đi lặp lại nhiều lần chu trình trên, con người sẽ có kiến thức
ngày càng phong phú về thế giới.
– Cần luôn nỗ lực loại bỏ bệnh chủ quan, duy ý chí trong cuộc sống. Đó là
việc chỉ căn cứ vào nhu cầu, ước muốn, niềm tin của mình để hành động mà
không nghiên cứu, đánh giá đầy đủ tình hình các
đối tượng vật chất.
2. Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con
người
-
sáng tạo ra cái mới trên cơ sở tích lũy, kế thừa những cái cũ phù hợp.
– Con người phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao thể lực, trí
lực để nâng cao năng lực nhận thức và lao động của mình.
– Tuyệt đối không được thụ động, trông chờ, ỷ lại trong mọi tình huống.
– Không được tuyệt đối hóa vai trò của các điều kiện vật chất trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Không phải vì thiếu hụt vật chất khiến con người
thất bại trong việc tìm ra giải pháp khả thi.
Vận dụng
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động phải xuất
phát từ thực tế khách quan. Con người phải nhận thức được các điều kiện thực
tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
Câu 4: Trình bày nguyên lí mối liên hệ phổ biến của PBCDV. Ý nghĩa phương pháp
luận.
Biện chứng là gì? Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác,
chuyển hóa và vận động phát triển theo quy luật của các sự vật hiện tượng, quá
trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đặc điểm của phép duy vật biện chứng: là sự thống nhất giữa thế giới quan
duy vật và phương pháp luận biện chứng.
Vai trò của phép biện chứng duy vật: là phương pháp luận chung nhất trong
nhận thức và thực tiễn để giải thích quá trình phát triển diễn ra trong thế giới,
giải thích những mối liên hệ chung trong quá trình nhận thức và thực tiễn.
- Nguyên lí mối quan hệ phổ biến:
Nguyên lí là gì? Nguyên lí theo quan điểm triết học Mác là những luận điểm
khái quát nhất được hình thành từ sự quát sats, trải nghiệm của nhiều thế hệ
người trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy; rồi đến lượt mình nguyên lí
lại làm tiền đề, cơ sở cho nhưng suy lí tiếp theo rút ra những quy tắc, nguyên
tắc, quy luật nhằm phục vụ cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Quan điểm siêu hình: Cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới khách
quan tồn tại độc lập, tách rời và không có quy định ràng buộc lẫn nhau. Nếu có
thì cũng chỉ là bề ngoài, ngẫu nhiên.
Quan điểm biện chứng: Các sự vật hiện tượng tồn tại vừa độc lập, liên hệ và
chuyển hóa lẫn nhau.
- Liên hệ: là quan hệ giữa hai đối tượng mà sự thay đổi của một trong số
chúng chắc chắn sẽ làm đối tượng còn lại thay đổi.
Ví dụ:
Trên thị trường, cung tăng sẽ kéo theo cầu tăng.
- Mối liên hệ: dùng để chỉ các mối liên hệ ràng buộc, tương hỗ, quy định, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
Ví dụ:
Hệ hô hấp của con người có mối liên hệ với hệ tuần hoàn.
- Mối liên hệ phổ biến: Khi phạm vi bao quát của mối liên hệ không chỉ giới
hạn ở các đối tượng vật chất mà còn được mở rộng sang các đối tượng tinh
thần. Và giữa chúng với các đối tượng vật chất sinh ra chúng.
Ví dụ:
Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
Nội dung của mqhpb: Tất cả sự vật hiện tượng trên thế giới này đều nằm
trong một mối quan hệ phổ biến, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại
biệt lập, riêng lẻ, không liên hệ.
Các tính chất của mối liên hệ phổ biến: Tính khách quan, tính phổ biến, tính
phong phú đa dạng.
- Tính khách quan: Mối liên hệ phổ biến là cái vốn có, tồn tại độc lập với con
người. Con người chỉ có nhận thức sự vật thông qua mối liên hệ vốn có của nó.
- Tính phổ biến: bất kì nơi đâu, trong tự nhiên, xã hội, tư duy đều có vô vàn mối
liên hệ phổ biến, đa dạng, chúng giữ vị trí vai trò khác nhau trong sự vận động,
chuyển hóa các sự vật hiện tượng.
- Tính phong phú đa dạng: mọi sự vật hiện tượng đều có những mối liên hệ cụ thể
và chúng có thể chuyển hóa cho nhau, ở những điều kiện khác nhau thì mối liên
hệ lại có tính chất và vai trò khác nhau.
Ý nghĩa ppl:
- Nguyên tắc toàn diện:
+ Nhận thức sự vật hiện tượng trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt chính
của sự vật và trong sự tác động giữa các sự vật đó với các sự vật khác.
+ Biết phân loại các mối liên hệ, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, làm nổi bật cái
cơ bản nhất của sự vật hiện tượng.
+ Từ việc rút ra mối liên hệ bản chất sự vật, ta lại đặt mối liên hệ bản chất đó
trong tổng thể các mối liên hệ của sự vật, xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lịch
sử cụ thể.
+ Cần tránh phiến diện, triết chung, ngụy biện và siêu hình.
- Nguyên tắc lịch sử cụ thể:
Phải xem xét đánh giá các sự vật hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể,
trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh cái nhìn chung chung trừu tượng.
Khi xem xét sự vật hiện tuongj, phái tái tạo lại được sự vận động, phát triển của
sự vật hiện tượng qua những ngẫu nhiên lịch sử, qua những bước quanh co, qua
những điều kiện lịch sử cụ thể.
Khi đánh giá một luận điểm khoa học phải đặt nó trong những điều kiện lịch sử cụ
thể, một luận điểm nào đó có thể đúng vào trong trường hợp này nhưng lại sai
trong trường hợp khác. Không có chân lí trừu tượng, chân lí bao giờ cũng cụ thể.
Khi xem xét sự vật hiện tượng, cần đặt chúng trong những điều kiện cụ
thể, tránh rơi vào giáo điều, chiết trung, ngụy biện.
Chống lại thái độ tuyệt đối hóa cái cụ thể, xem nhẹ tiến trình chung, quy luật
chung.
Câu 5 Trình bày nội dung nguyên lí của sự phát triển. Ý nghĩa phương pháp
luận.
- Quan điểm siêu hình nhận định: Phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa mặt ổn
định của sự vật hiện tượng. Phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm của lượng,
không có sự thay đổi về chất, không có sự ra đời của sự vật hiện tượng.
- Quan điểm biện chứng: Phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh
co phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn thậm chí có bước thụt lùi.
- Khái niệm phát triển: Là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động
phát triển từ thấp lên cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ
đến chất mới ở trình độ cao hơn.
- Các tính chất.
+ Tính khách quan: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong chính bản
thân sự vật hiện tượng.
+ Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật hiện
tượng, mọi quá trình và giai đoạn của chúng và kết quả là cái mới xuất hiện.
+ Tính phong phú đa dạng: Quá trình phát triển của sự vật hiện tượng không
hoàn toàn giống nhau, ở những không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác
động của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể.
+ Tính thừa kế: Sự vật hiện tượng mới ra đời, không thể là sự phủ định tuyệt
đối, sạch trơn sự vật hiện tượng cũ. Sự vật hiện tượng mới ra đời từ sự vật
hiện tượng cũ.
Ý nghĩa ppl.
+ Khi xem xét sự vật hiện tượng phải luôn đặt nó trong khuynh hướng vận động
biến đổi, chuyển hóa nhằm phát hiện ra xu hướng biến đổi.
+ Biết kế thừa các yếu tố tích cực từ các đối tượng cũ và phát triển sáng tạo cái
mới hoàn thiện, tốt hơn cái cũ.
+chống quan điểm bảo thủ, trì trệ, tả khuynh.
Câu 6: Quy luật những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại. Nêu ý nghĩa phương pháp luận.
1)
Chất là gì? Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự
vật hiện tượng làm cho sự vật hiện tượng đó là nó mà không phải là sự vật hiện
tượng khác..
- Một sự vật hiện tượng không chỉ có một chất có thể có nhiều chất.
- Chất của một sự vật được biểu hiện qua thuộc tính của nó, thuộc tính cơ bản và
thuộc tính không cơ bản. Nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới tạo nên chất của sự
vật hiện tượng. Nhưng sự phân chia giữa các thuộc tính chỉ mang tính tương đối.
- Chất của sự vật hiện tượng không chỉ được quy định bởi yếu tố tạo thành mà
còn có cả phương thức liên kết.
- Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn lại có những biểu hiện về chất khác nhau.
Lượng là gì? Lượng là phạm trù triết học, dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự
vật hiện tượng. Chỉ định tính quy định khách quan của sự vật hiện tượng về mặt
số lượng, quy mô trình độ, nhịp độ của các quá trình phát triển của sự vật hiện
tượng.
- Đặc điểm của lượng là tính biến đổi.
- Lượng cũng mang tính quy định khách quan, sự vật hiện tượng nào cũng có
lượng, lượng là một dạng vật chất chiếm một vị trí nhất định trong không gian và
tồn tại trong một thời gian nhất định.
- Sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau, có lượng diễn đạt bằng con số,
có lượng chỉ có thể nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
Ví dụ: Loại trừu tượng hóa là, “anh yêu em rất nhiều”
- Lượng có nhiều biểu hiện khác nhau…
2 Quan hệ biện chứng giữa lượng và chất.
- Những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
+ Mỗi sự vật hiện tượng đều có sự thống nhất giữa hai mặt lượng và chất, hai mặt
đó không tách rời.
+ Lượng cái thường xuyên biến đổi, còn chất là cái tương đối ổn định, lượng đổi
trong một giới hạn nhất đinh nhưng chưa làm cho chất đổi, khoảng giới hạn đó
gọi là độ.
- Độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất là khoảng giới hạn
mà trong đó sự thay đổi về lượng( tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm cho sự thay
đổi căn bản về chất của sự vật.
+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định đủ để làm chất thay đổi, ta gọi là
điểm nút. Điểm nút là phạm trù chỉ triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự
thay đổi về lượng đã đủ để làm thay đổi về chất của sự vật hiện tượng, điểm nút
không cố định mà có thể thay đổi do tác động của điều kiện khách quan và chủ
quan.
- Sự thay đổi về chất dẫn đến lượng đổi.
+ Sự thay đổi về chất là do những tích lũy về lượng trước đó tạo nên gọi là bước
nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật hiện tượng và
là điểm bắt đầu mới của một giai đoạn phát triển mới.
Ý nghĩa ppl
- Bất kì sự vật nào cũng có hai mặt chất và lượng, do đó trong nhận thức và
thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện lượng và
chất. Từ đó mới nhận diện, nhận thức toàn diện về sự vật hiện tượng.
- Vì lượng là cái thường xuyên thay đổi và khi lượng đổi sẽ dẫn đến chất đổi.
Do đó trong hoạt động thực tiễn ta cần phải tích lũy về lượng để có thể
biến đổi về chất, đồng thời phát huy về tác động của chất mới theo hướng
làm thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng.
- Trong thực tiễn cần tránh tả khuynh, nhấn mạnh bước nhảy trong khi chưa
đủ sự tích lũy về lượng, bởi lẽ khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm.
Đồng thời cần tránh hữu khuynh, tuyệt đối hóa sự tích lũy về lượng mà
không dám thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy về lượng, khi ấy dễ rơi vào
trì trệ bảo thủ. Khi tích lũy về lượng đủ thì cần phải thực hiện bước nhảy.
- Vì bước nhảy của sự vật hiện tượng đa dạng phong phú nên tùy theo tình
hình phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng
điều kiện tình hình cụ thể.
- Sự thay đổi chất phải kết hợp với nghiên cứu tìm hiểu thuộc tính và phương
thức liên kết. Do đó phải tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố
tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật, kết cấu của sự vật
hiện tượng đó.
Câu 7 Trình bày quan điểm của triết học Mác Lenin về thực tiễn.
Trả lời: Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những
hoạt động vật chất- cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con ng-ười nhằm cải tạo
tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Kết luận: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, có tính lịch
sử, xã hội của con người nhằm cải tiến tự nhiên và xã hội vì lợi ích của con người.
Khác với hoạt động tư tưởng, tư duy, con người phải sử dụng các công cụ vật chất
tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của
mình. Thực tiễn là hoạt động đặc trưng bản chất của con người, không ngừng phát
triển các thế hệ loài người, do vậy thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động mang tính
lịch sử xã hội.
Không phải mọi hoạt động có mục đích của con người đều là thực tiễn. Hoạt động tư
duy, hoạt động nhận thức hay hoạt động nghiên cứu khoa học đều là những hoạt động
có mục đích của con người nhưng chỉ là hoạt động tinh thần không phải là thực tiễn.
Ví dụ: Người công nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên
vệ đường làm sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong
nhà máy, xí nghiệp tác động vào máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra
những sản phẩm đưa ra thị trường phục vụ con người.
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Vì sao lại nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức? Xuất phát từ sự thật rằng mọi tri
thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối với bất kì đối tượng con người nào, ở bất kì
trình độ kinh nghiệm hay lý luận đều bắt nguồn từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp
tài liệu cho quá trình nhận thức, cho mọi lý luận. Thông qua những hoạt động thực
tiễn, con người tác động vào thế giới bên ngoài, buộc chúng phải bộc lộ những
thuộc tính, những quy luật để con người có thể nhận thức được chúng. Con người
vốn quan hệ với thế giới bên ngoài bằng thực tiễn chứ không phải bằng lý luận.
Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con
người được hình thành và phát triển. Lúc đầu con người thường thu nhận tài liệu
một cách chủ quan, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa...
để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng để xây dựng
thành khoa học, lý luận.
Ví dụ: Sự xuất hiện học thuyết Macxit vào những năm 40 của thế kỷ XIX cũng BẮT
NGUỒN từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
Thực tiễn còn là mục đích của nhận thức. Bởi lẽ nhận thức dù về vấn đề, khía cạnh
hay lĩnh vực nào đi chăng nữa thì cũng phải quy về phục vụ thực tiễn. Do vây,
kết quả nhận thức phải hướng dẫn và chỉ đạo thực tiễn. Nếu lý luận, khoa học
không vận dụng được để cải tạo thực tiễn thì không có bất cứ ý nghĩa nào.
Ví dụ: Ngay cả những thành tựu mới đây nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien người
cũng ra đời từ chính thực tiễn, từ MỤC ĐÍCH chữa trị những căn bệnh nan y và từ MỤC
ĐÍCH tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người…có thể nói, suy cho
cùng, không có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ một MỤC ĐÍCH nào
đó của thực tiễn, không NHẰM vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn giúp con
người nhận thức toàn diện hơn về thế giới. Những nhu cầu, nhiệm vụ và phương
hướng phát triển của nhận thức là kết quả của thực tiễn. Trong quá trình hoạt
động thực tiễn làm biến đổi thế giơi, con người cũng không ngừng biến đổi theo.
Từ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức và khám phá thế giới, làm sâu
sắc và phong phú vốn tri thức của mình về thế giới xung quanh. Nhu cầu thực
tiễn đòi hỏi phải luôn luôn làm mới nguồn tri thức, biết cách tổng kết kinh
nghiệm, khái quảt lý luận để từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành
khoa học. Hoạt động thực tiễn của con người cần tới khoa học - từ đó dẫn đến sự
ra đời của khoa học.
Ví dụ: Chẳng hạn, xuất phát từ NHU CẦU thực tiễn con người CẦN phải “đo đạc diện
tích và đo lường sức chứa của những cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ
khí” MÀ toán học đã ra đời và phát triển.
Câu 8: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Để nói về llsx hay qhsx thì trước hết ta phải nói đến phương thức sản xuất là gì? Ptsx là
cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất
định của xã hội loài người. Yếu tố cấu thành nên phương thức sản xuất là lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với tự nhất trong quá trình sản xuất.
Kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động, tư liệu sản xuất, phương thức
kết hợp( Khoa học kĩ thuật)
Quan hệ sản xuất: Là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Yếu tố
cấu thành nên quan hệ sản xuất gồm: Quan hệ giữa người với người trong việc sở hữu tư
liệu sản xuất, quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lí, quan hệ giữa
người với người trong việc phân phối sản phẩm.
- Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất có tác
động biện chứng lẫn nhau, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định quan hệ
sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: Trong mỗi ptsx thì sự phát triển
của lực lượng sản xuất bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan, sự phát triển của xã hội là
không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
Muốn vậy con người phải không ngừng đổi mới công cụ lao động. Đồng thời dẫn
đến trình độ kĩ năng, kinh nghiệm của con người được nâng cao, phân công lao
động ngày càng sâu sắc, làm cho llsx không ngừng phát triển.
Lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh hơn còn quan hệ sản xuất thường phát
triển chậm hơn. Sự phát triển của llsx đến một trình độ chất định sẽ mâu thuẫn gay
gắt với quan hệ sản xuất hiện có làm yêu cầu phải phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời
so với trình độ của nó, thay thế bằng một quan hệ sản xuất phù hợp.
- Khi lực lượng sản xuất thay đổi thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất phải thay đổi
theo.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với llsx theo hai hướng, khi phù hợp, khi kìm
hãm không phù hợp.
Thứ nhất: Nền sản xuất phát triển, dẫn đến phù hợp. Năng suất tăng, kinh tế phát
triển, thúc đẩy xu hướng , mục đích, tạo ra động lực.
Thứ hai: Quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ dẫn đến kìm hãm, thậm chí phá
hoại( trong lịch sử, khi llsx chưa phát triển mà muốn nhanh chóng thay đổi quan hệ
sản xuất thì sẽ dẫn đến khủng hoảng. VN giai đoạn cải tạo quan hệ sản xuất của thế kỉ
trước, khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến trình độ phù hợp mà đã nhanh chóng
chuyển đổi sang quan hệ sản xuất tiên tiến, dẫn đến llsx không theo kịp, kết quả là cải
cách sai lầm, tạo ra nhiều thiệt hại.)
Thứ 3: Mối quan hệ giữa llsx và qhsx phát triển từ phù hợp đến không phù hợp và cứ
như vậy.
Ý nghĩa ppl
Muốn phát triển kinh tế thì phải bắt đầu từ lực lượng sản xuất và trước hết phải bắt đầu từ
yếu tố con người, sau đó là công cụ lao động.
Để xác lập hoàn thiện quan hệ sản xuất cần phải căn cứ vào thực trạng, sự phát triển của
lực lượng sản xuất để xác lập cho phù hợp.
Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì phải có cải tiến,
đổi mới, cải cách sao cho phù hợp.
Nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp để đưa ra các biện pháp…
Câu 9: Trình bày phạm trù hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử? Liên hệ thực tiễn Việt
Nam?
TRẢ LỜI:
1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản
là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội
có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã
hội bao gồm: Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất của xã hội, sự kết hợp giữa người lao động với tư
liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự
nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Ví dụ: Một nhà máy sản xuất ô tô. (Lực lượng sản xuất bao gồm các yêu tố vật chất và tinh thần. Từ liệu
sản xuất là các phương tiện sản xuất như máy móc dây chuyền sản xuất linh kiện,... Người lao động bao
gồm những người công nhân làm trong nhà máy những kỹ thuật viên, kĩ sư. Lực lượng sản xuất cùng
nhau tạo ra ô tô như là một sản phẩm vật chất)
Quan hệ sản xuấT : LÀ MỐI QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI VỚI CON NGƯỜI TRONG
QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT VẬT CHẤT . M ỖI HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỀU CÓ
1 KIỂU QUAN HỆ SẢN XUẤT ĐẶC TRƯNG RIÊNG CHO NÓ . Q UAN HỆ SẢN XUẤT
LÀ TIÊU CHUẨN KHÁCH QUAN ĐỂ PHÂN BIỆT CÁC CHẾ ĐỘ XÃ HỘI .
Cấu trúc: toàn bộ những tư tưởng về chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật, triết học,…cùng những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái,
giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác.
3.1. Quy luật về sự biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thể
hiện ở hai mặt:
+ Mặt thứ nhất là vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định sự hình thành kiến trúc thượng tầng, cơ
sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
Ví dụ: Trong việc xây dựng hệ thống đường sắt Cát Linh Hà Đông đòi hỏi xây
dựng cơ sở hạ tầng: hệ thống đường sắt, ga tàu, hệ thống cơ sở kỹ thuật như bãi
đỗ tàu, các trạm biến áp, hệ thống cấp nước và điện. Khi tuyến đường này đi
vào hoạt động, kiến trúc thượng tầng cũng hình thành: các hệ thống giao thông
công cộng, bến xe buýt, trạm xe đạp,…
Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng, khi cơ sở hạ
tầng biến đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo.
Ví dụ: Khi một quốc gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng năng lượng sạch như các
trạm điện mặt trời, gió, hay hệ thống lưu trữ năng lượng, thì kiến trúc thượng
tầng của cũng sẽ có sự thay đổi để tích hợp và tận dụng hiệu quả các nguồn
năng lượng sạch này.
Cơ sở hạ tầng quyết định sự thay đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Khi
cơ sở hạ tầng nào mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất
theo, khi cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì nó lại sản sinh ra kiến trúc thượng
tầng mới phù hợp với nó.
Ví dụ: Khi mạng lưới điện hiện đại không còn đảm bảo, các hệ thống điện tử và
công nghệ thông tin trong các cơ sở in kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng. Điều này
có thể dẫn đến sự gián đoạn trong hoạt động kinh doanh và cuộc sống hàng
ngày
+ Mặt thứ hai, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo hai chiều
o Tích cực: Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với những quy luật
vận động của cơ sở hạ tầng thì nó thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Do đó,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
o Tiêu cực: Khi kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều với những quy luật
vận động của cơ sở hạ tầng thì nó cản trở, kìm hãm sự phát triển của cơ sở
hạ tầng. Do đó nó kìm hãm sự phát triển kinh tế.
1.2. Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
- Nội dung: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức
sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản
xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất nào thì quan hệ sản xuất đó và
khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi cho phù
hợp .
- Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất có thể quyết định mục đích của sản xuất , tác động đến thái độ
người lao động , tổ chức phân công lao động và sự ứng dụng khoa học – công
nghệ nên sẽ tác động đến lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mậu thuẫn biện
chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai mặt đối lập.
Sự vận động của mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là đi từ sự
thống nhất đến mâu thuẫn và được giải quyết bằng sự thông biết mới, quá trình
này lập đi lập lại, tạo ra quá trình vận động và phát triển của phương thức sản
xuất.
- Dân tộc Việt Nam đã và đang trải qua 3 hình thái kinh tế xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội công xã nguyên thuỷ.
Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến: từ TK X đến năm 1945.
Hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa: từ 1975 đến nay.
Thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Cụ thể như sau: Việt Nam đã trải qua 2 hình thái kinh tế - xã hội và đang quá độ đi
lên hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa.
- Lực lượng sản xuất: Người lao động: con người chưa nhận thức đúng đắn về
tự nhiên và bản thân mình, thụ động trước thiên nhiên.
- Tư liệu lao động: công cụ thô sơ chủ yếu làm bằng đá.
- Quan hệ sản xuất: bình quân, cùng làm cùng hưởng.
- Kiến trúc thượng tầng: chưa có nhà nước, pháp luật.
- Quan hệ sản xuất này phù hợp với lực lượng sản xuất, với một xã hội chưa có
giai cấp, con người thụ động trước thiên nhiên đòi hỏi họ phải cùng chung
sống, cùng làm và cùng hưởng thụ.
- Lực lượng sản xuất: người lao động chủ yếu là người nông dân.
- Tư liệu lao động: ruộng đất, công cụ thủ công, sức của động vật.
- Quan hệ sản xuất: quan hệ sở hữu phong kiến của tầng lớp thống trị về tư liệu
sản xuất, chủ yếu là ruộng đất, nông cụ và sự lệ thuộc vào thân thể của người
nông dân.
- Kiến trúc thượng tầng: về chính trị có nhà nước quân chủ chuyên chế, trước
khi thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị, quan hệ sản xuất này còn phù
hợp với lực lượng sản xuất, nhà nước quân chủ chuyên chế vẫn được duy trì
để bảo vệ quan hệ sản xuất ấy.
- Sau khi thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị, du nhập thêm một số yếu tố
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân phát triển đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến -> quan hệ sản xuất phong kiến kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi phải cách mạng Cách mạng
tháng 8 ra đời đã thủ tiêu quan hệ sản xuất phong kiến mở ra quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa để nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi
quan hệ sản xuất biến đổi thì KTTT cũng biến đổi theo. Từ nhà nước phong
kiến với tư tưởng lạc hậu sang hệ thống chính trị xhcn mang bản chất giai cấp
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
KẾT LUẬN: Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù quan trọng của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức và cải tạo xã hội. Để phát
triển đất nước, dân tộc Việt Nam cần tiếp tục phát huy tối đa tiềm năng của lực
lượng sản xuất, đồng thời đổi mới quan hệ sản xuất, xây dựng nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa .
Câu 10: Trình bày quan điểm của triết học Mác về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1. Tồn tại xã hội
- Khái niệm: tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu
vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh (VD: Trong xã
hội cộng sản nguyên thủy các bộ lạc người sống bầy đàn sống bằng hình thức săn bắt, hái
lượm, dùng đá để chế tác công cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn
trong kỉ thuật chế tác, đã có nhiều hình loại ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này
con người biết tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương,
sừng, tre gỗ… Bên cạnh đó điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với
sự đa dạng phong phú của các loài động thực vật nên nguồn tài nguyên rất phong phú)
- Yếu tố cấu thành:
Phương thức sản xuất ra của cải vật chất: là cách thức con người dùng để làm ra của
cải vật chất cho mình trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Theo cách đó, con người
có những mối quan hệ với nhau trong sản xuất (VD: Phương thức kỹ thuật canh tác
nông nghiệp lúa nước)
Điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý: là các yếu tố như đất đai, khí hậu, biển, động
thực vật, nguyên liệu, khoáng sản,… Đây là điều kiện thường xuyên và tất yếu của sự
tồn tại và phát triển xã hội, nó có thể gây ảnh hưởng khó khăn hoặc thuận lợi cho đời
sống của con người và sản xuất xã hội (VD: Việt Nam có những đồng bằng rộng lớn,
nằm giáp với biển Đông)
Dân cư và mật độ dân cư: là cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mô hình
tổ chức dân cư,… Đây là điều kiện đối với đời sống xã hội vì nó có ảnh hưởng khó
khăn hoặc thuận lợi cho đời sống của con người và sản xuất xã hội (VD: Cấu trúc dân
cư của nền nông nghiệp trong xã hội Việt Nam xưa)
- Vai trò:
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Tồn tại xã hội phân chia giai cấp
2. Ý thức xã hội
- Khái niệm: Dùng để chỉ các mặt, bộ phận của lĩnh vực tinh thần xã hội bao gồm các quan
điểm, tư tương tình cảm, tâm trạng... mà những bộ phận này nảy sinh tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định (VD: các truyền thống lâu đời
của dân tộc việt nam: truyền thống yêu nước, đoàn kết, hiếu học)
- Kết cấu:
Theo trình độ và phương thức phản ánh đối với tồn tại xã hội:
+ Tâm lý xã hội: Ý thức cá nhân, tình cảm ước muốn thói quen tập quán của những cộng
đồng người nhất định. Phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hoàn cảnh sống chưa được hệ
thống hoá, khái quát hoá
+ Hệ tư tưởng: Hệ thống quan điểm quan niệm xã hội. Phản ánh gián tiếp và tự giác đối
với tồn tại xã hội (VD: trọng nam khinh nữ, con trai ngồi mâm trên gái ngồi mâm dưới)
Theo trình độ phản ánh:
+ Ý thức thông thường: tri thức quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong
hoạt động hằng ngày (VD: đêm tháng năm chưa nằm đã sang/ngày tháng mười chưa cười đã tối)
+ Ý thức lý luận: tư tưởng quan điểm được tổng hợp, hệ thống, khái quát thành các học thuyết xã
hội dưới dạng khái niệm phạm trù quy luật (VD: Các học thuyết trong triết học : chủ nghĩa duy
vật, chủ nghĩa duy tâm,...)
Theo lĩnh vực phản ánh: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo, ý thức khoa học, ý thức triết học.
- Tính giai cấp của ý thức xã hội: biểu hiện ở cả tâm lý xã hội lẫn hệ tư tưởng xã hội.
3.2.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng
- Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác
động mạnh đến các hình thái ý thức khác (VD: Ở Hy Lạp cổ đại, ý thức triết học và ý
thức nghệ thuật đóng vai trò to lớn; còn ở Tây Âu thời Trung Cổ, tôn giáo ảnh hưởng
mạnh mẽ và chi phối đến các hình thái ý thức khác như ý thức chính trị, pháp quyền)
- Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc
biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển
theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác (VD: Trong điều kiện của nước ta
hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối
chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm)
3.2.5. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
- Tâm lý xã hội:
Ý thức tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Ý thức tư tưởng tiến bộ, khoa học sẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
- Mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào các yếu tố:
Điều kiện lich sử cụ thể
Tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra
Vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng;
Mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội
Mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng
- VD: ý thức chính trị, pháp quyền, phản ánh đúng quy luật thì thúc đẩy xã hội đó phát
triển. Và ngược lại không phù hợp thì kìm hãm sự phát triển của xã hội đó.
1.Con người là một thực thể sinh học- xã hội (Ngọc Ly)
Con người là một thực thể sinh học
Khi dựa trên những thành tựu khoa học l, triết học Mac-lênin coi con người là sản
phẩm tiến hoá lâu dài của giới tự tiên, tức là quá trình vận động vật chất từ vô sinh
đến hữu sinh, từ thực vật đến động vật, từ động vật bậc thấp đến bậc cao, rồi đến
“động vật có lý tính”- con người. Như vậy quan niệm này coi con ngừoi là một
thực thể sinh học. Điều này có nghĩa rằng con người cũng như mọi động vật khác
phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh con
đẻ cái, để tồn tại và phát triển.
Con người không chỉ là một thực thể sinh học mà còn là một bộ phận của giới tự
nhiên. Giới tự nhiên là “ thân thể vô cơ của con người”. Về phương diện thực thể
sinh học con người phải phục tùng các quy luật tự nhiên như quy luật di truyền,
tiến hoá sinh học và các quy luật khác của giới tự nhiên. Con người có thể biến đổi
được giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây
là điểm khác biệt quan trong giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt
thể xác con người sống bằng những sản phẩm của tự nhiên, dù là dưới mọi hình
thức như thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở…. Vì thế con người phải dựa vào
giới tự nhiên, gắn bó với tự nhiên, hoà hợp với giới tự nhiên thì mới có thể tồn tại
và phát triển.
Con người là một thực thể xã hội
Hoạt động quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. Con người trở
thành con người không phải chỉ dựa vào giới tự nhiên. Mặt tự nhiên không phải
yếu tố duy nhất qui định bản chất của con người . Đặc trưng qui định sự khác biệt
giữa con người với thế giới loài vật là về mặt xã hội. Và hoạt động quan trọng nhất
là lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thoả
mãn nhu cầu của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vậy chất, con người đã làm
thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên. “ Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó
còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Lao động không chỉ cải
biến giới tự nhiên, tạo ra của cải vật chất, tinh thần mà còn làm cho ngôn ngữ, tư
duy phát triển, giúp xác lập các mối quan hệ. Bởi vậy lao động là yếu tố quyết định
quá trình hình thành nhân cách của mỗi cá nhân con người trong cộng đồng xã hội.
Trong các hoạt động xã hội con người không chỉ có lao động sản xuất mà còn có
các quan hệ xã hội khác. Các các hệ đó ngày càng phát triển và chúng tác động qua
lại lần nhau. Suy cho cùng thì xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa những con người. Con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điều cơ bản
làm cho con người khác với con vật. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện
tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ
nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật,
con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người
=>> Là một thực thể sinh học -xã hội, con người chịu sự chi phối của các quy luật
khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Trong cuộc sống hiện thực của mỗi con
người, các quan hệ giữa sinh học và xã hội không tách rời nhau mà hoà quyện với
nhau, thể hiện tác động của chúng trong toàn bộ cuộc sống con người.
2.Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người ( Lê Thị
Linh)
- Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – lenin phê phán quan niệm của phoiơbắc .
phoiơbắc đã không nhìn thấy những quan hệ thực tiễn, sống động giữa người với
người trong đời sống xã hội đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, ông đã tuyệt đối
hóa tình yêu giữa người với người. Hơn thế nữa, đó cũng không phải là tình yêu
hiện thực mà mà đó là tình yêu mà ông đã được ông lí tưởng hóa
- Phê phán quan niệm sai lầm của phoiơbắc và các nhà tư tưởng khác về con
người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa vào
những thành tựu của khoa học chủ nghĩa mác khẳng định con người vừa là sản
phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên vừa là sản phẩm lịch sử của loài
người và của chính bản thân con người
- Mác khẳng định trong tác phẩm hệ tư tưởng Đức rằng tiền đề của duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt động
-Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người
nhưng con người khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi
mà con người còn là chủ thể của lịch sử
1. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần phải được tôn trọng, cần phải
đảm bảo các quyền chính đáng cho mình, phải là mục tiêu phát triển của mọi tiến
bộ xã hội.
b. Chủ nghĩa xã hội và sự phát triển toàn diện của con người
Xây dựng một xã hội công bằng,dân chủ, văn minh, bình đẳng, mọi người có cuộc
sống tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục tiêu cao cả
của CNXH nói chung,ở nước ta hiện nay nói riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".