You are on page 1of 37

Chương 1

1. Các vấn đề cơ bản của triết học là gì


Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa
vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để
giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch
sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.

2. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:


Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào
quyết định cái nào?
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái
triết học. Trả lời mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện nhất
nguyên luận khi lấy việc thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý
thức) là cái có trước và quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có
một nguồn gốc duy nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy
tâm (chủ nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ
nghĩa duy vật, triết học duy vật)

3. Sự đối lập chủ nghĩa duy vật và duy tâm trong giải quyết vấn đề triết học
Đối với việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, những người
cho rằng bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai;
vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, được gọi là các nhà duy vật; học thuyết
của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những
người cho rằng: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính
thứ hai; ý thức quyết định vật chất, được gọi là các nhà duy tâm; học thuyết của họ
hợp thành những môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.\

Chương 3
1. Bản chất của con người là gì ?
Trong quan niệm của triết học mác - xít, con người là một thực thể trong sự thống
nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân
theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát triển gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Theo C. Mác đã khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Đây là luận điểm hết sức nổi tiếng và tiêu biểu cho triết học Mác về bản chất con
người. Luận điểm này đã trở thành nền tảng lý luận, cơ sở khoa học cho chủ nghĩa
Mác và các khoa học khác khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề con người. Nhiều nhà
tư tưởng nổi tiếng đã thừa nhận rằng, chúng ta khó có thể tìm thấy trong lịch sử nhận
thức khoa học của nhân loại một chân lý nào mà thoạt nhìn, tưởng như đơn giản và
rõ ràng, nhưng về thực chất, lại có thể sâu sắc và căn bản hơn luận điểm của C. Mác
về bản chất con người.
Với luận điểm cho rằng, “giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, “thân thể
mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại” và
cả đời sống thể xác lẫn đời sống tinh thần của con người đều luôn gắn liền với giới
tự nhiên, C. Mác đã đi đến khẳng định: “Con người là một bộ phận của giới tự
nhiên”. Song, hoạt động sinh sống của con người, theo C. Mác, là “hoạt động sinh
sống có ý thức” và do vậy, bằng hoạt động lao động của mình, con người đã làm
biến đổi bản chất tự nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình. Rằng, con người
không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống trong môi trường xã hội, nên
tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau; yếu tố sinh học
trong mỗi con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà chúng hòa quyện
với nhau và tồn tại trong yếu tố xã hội; do vậy, bản tính tự nhiên được chuyển vào
bản tính xã hội và được cải biến ở trong đó. Và, chỉ có trong xã hội, con người mới
có thể thể hiện được bản chất tự nhiên và xã hội của mình; do đó, tự nhiên và xã hội
thống nhất với nhau trong bản chất con người, làm cho con người trở thành một
chỉnh thể tồn tại với cả hai mặt tự nhiên và xã hội, hình thành nên mối quan hệ
khăng khít: Con người - Tự nhiên - Xã hội. Khẳng định “bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội”.
Đề cương ôn thi môn Triết học Mác- Lê nin

Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học là gì? Tại sao nói đó là vấn đề cơ bản
của triết học?
- Vấn đề cơ bản của triết học:
Thế giới xung quanh có thể chia thành hai lĩnh vực lớn tự nhiên và tinh thần,
tồn tại và tư duy, vật chất và ý thức, triết học với nhiệm vụ giải thích thế giới
cũng phải đề cập đến hai lĩnh vực ấy.
Theo F. Ănghen, vấn đề lớn, cơ bản của triết học là vấn đề về mối liên hệ
giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
- Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mâu thuẫn:
Mặt 1: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
quyết định cái nào?
Mặt 2: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Đó là
vấn đề cơ bản của triết học vì:
Thứ nhất: Căn cứ vào cách trả lời hai câu hỏi trên (cách giải quyết hai hai
mặt của một vấn đề cơ bản của triết học) ta có thể biết được nhà triết học
này, hệ thống triết học này là duy vật hay duy tâm (mặt 1)
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng: vật chất có trước ý thức, vật chất quyết định ý
thức, ý thức có sau vật chất sinh ra và phụ thuộc vào vật chất.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: ý thức có trước vật chất và quyết định vật
chất. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái:
Duy tâm khách quan ý niệm tuyệt đối quyết định vật chất.
Duy tâm chủ quan ý thức cảm giác của con người quyết định vật chất.
Những nhà triết học thừa nhận hoặc vật chất hoặc tinh thần quyết định được
gọi là triết học nhất nguyên. Còn những nhà triết học thừa nhận cả vật chất
và tinh thần quyết định ta gọi là triết học nhị nguyên. Triết học nhị nguyên
cuối cùng sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Cũng căn cứ vào cách trả lời vấn đề cơ bản của triết học (mặt 2) mà ta biết
được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.
+ Thuyết khả tri cho rằng con người có khả năng nhận thức thế giới.
+ Thuyết bất khả tri (không thể không biết) cho rằng con người không có
khả năng nhận thức thế giới.
Thứ 2: Bất cứ nhà triết học nào cũng phải giải đáp vấn đề mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức khi xây dựng học thuyết của mình, vật chất và ý thức là
hai phạm trù của triết học cơ bản bao quát một sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan.
Thứ 3: Đó là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng với con người và xã hội
loài người.

Câu 4: Trình bày vai trò của triết học đối với đời sống xã hội nói chung
và đối với sự phát triển của khoa học nói riêng?
Vai trò của triết học đối với xã hội:
Với tư cách là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận, triết học có
nhiệm vụ giải thích thế giới nó cung cấp cho chúng ta cách nhìn nhận, xem
xét thế giới từ đó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên,
trong các trường phái triết học khác nhau sẽ có vai trò khác nhau đối với đời
4 30
sống xã hội. Cụ thể là:
+ Triết học duy tâm nhìn chung do chỗ giải thích không đúng về thế giới
hiện thực, không phản ánh được quy luật khách quan của thế giới do đó nó
không có ý nghĩa đối với đời sống xã hội.
+ Triết học duy vật vì xuất phát từ bản thân thế giới hiện thực để giải thích,
nhìn chung triết học duy vật đã phản ánh được quy luật khách quan, nó có
vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để cải tạo thế giới phù hợp
với quy luật của thế giới hiện thực. Do đó triết học duy vật có ý nghĩa đối
với đời sống xã hội.
+ Triết học Mác- Lênin có ý nghĩa to lớn đối với đời sống xã
hội. Vai trò của triết học đối với sự phát triển của khoa học.
Triết học cũng cung cấp phương pháp nghiên cứu cho các khoa học cụ thể
(khoa học tự nhiên và khoa học xã hội ). Mặt khác, triết học cũng đưa ra
khoa học cụ thể để làm căn cứ, tài liệu cho sự khái quát lý luận của mình.
Vai trò của triết học đối với khoa học ở chỗ nó cung cấp cho khoa học
phương pháp nghiên cứu (có phương pháp chủ yếu, phương pháp biện
chứng, phương pháp siêu hình ). Chỉ phương pháp biện chứng mới có ý
nghĩa to lớn đối với các khoa học, còn phương pháp siêu hình chỉ có ý nghĩa
đối với khoa học phân tích.
Trong các hệ thống triết học, triết học Mác- Lênin có vai trò rất quan trọng
đối với khoa học tự nhiên cũng như khoa học ở chỗ:

5 30
+ Triết học Mác- Lênin cung cấp phương pháp biện chứng duy vật là
phương pháp đúng đắn nhất giúp các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu các
lĩnh vực của thế giới khách quan.
+ Nhờ có phương pháp biện chứng duy vật mà nhiều khoa học liên ngành ra
đời. Những khoa học này là những khoa học giáp ranh nó có nhiệm vụ
nghiên cứu những mối liên hệ giữa các lĩnh vực của thế giới khách quan.
Các khoa học liên ngành như Lý- Hoá, Sinh- Hoá, Hoá- Sinh, điều khiển
tâm sinh lý.

Câu 14: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa khoa học của
định nghĩa ấy?
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin:
Trước hết ta phải giải thích các thuật ngữ:
- Phạm trù là khái niệm chung phản ánh những mặt, những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản nhất của các sự vật hiện tượng thuộc một lĩnh vực
hiện thực nhất định.
- Phạm trù triết học là khái niệm chung nhất phản ánh những mối liên hệ bản
chất của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Thế giới hiện thực được chia làm 2 lĩnh vực:
- Những sự vật thuộc loại vật chất.
- Những hiện tượng thuôc loại tinh thần.
Hai loại ấy được phản ánh trong triết học, đó là hai phạm trù vật chất và ý
thức.
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ hiện tại khách quan và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
Thực tại khách quan là những cái đang tồn tại độc lập với ý thức của con
người.
Tồn tại khách quan là thuộc tính chung của tất cả các sự vật hiện tượng, là
tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất. Chính vì vậy, nếu diễn đạt một
cách cô đọng thì thực tại khách quan là vật chất.

6 30
Từ phân tích trên ta rút ra kết luận.
+ Vật chất là tồn tại vĩnh viễn.
+ Vật chất là vô cùng vô tận.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, cái thực tại khách quan
tác động vào giác quan của chúng ta đem lại cho chúng ta cảm giác. Các
cảm giác là cơ quan tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài truyền thông
tin về bộ não và thông tin được xử lý cho ta cảm giác về nó.
Như vậy là:
Thế giới vật chất có trước
Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
“Vật chất được cảm giác của chúng ta chép lại chụp lại phản ánh…”
Trên cơ sở tác động của sự vật khách quan lên các cơ quan cảm giác ta có
được hình ảnh về nó, hình ảnh của sự vật bên ngoài. Như vậy là bằng các
giác quan con người nhận thức được sự vật bên ngoài thế giới.
Từ việc phân tích định nghĩa vật chất của Lênin rút ra 2 kết luận:
1. Vật chất là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức của
con người. Nó có trước và là nguồn gốc của ý thức.
2. Ý thức là sự phản ánh thế giới và như vậy con người có thể nhận thức
được thế giới.
Ý nghĩa của định nghĩa:
+ Định nghĩa ngắn gọn nhưng giải đáp ứng được đầy đủ cả hai mặt của vấn
đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng chống lại tất cả cá
quan điểm sai làm về vật chất và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của
chủ nghĩa duy tâm, chống thuyết bất khả tri và thuyết hoài nghi, khắc phục
được tính chất máy móc siêu hình trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa
trước Mác.
+ Định nghĩa nêu lên tính khái quát và tính phổ biến rất cao của phạm trù vật
chất. Một khái niệm rộng hơn bao quát tất cả những gì tồn tại trong khách
quan.
+ Định nghĩa còn giúp chúng ta tìm ra yếu tố vật chất trong lĩnh vực xã hội,
đó là tồn tại xã hội.
+ Định nghĩa vạch ra cho khoa học con đường vô tận đi sâu nghiên cứu thế
giới. Tìm ra phương pháp cải tạo thế giới ngày càng có hiệu quả.

Câu 15: Hãy so sánh quan điểm vật chất của Lênin với quan điểm vật
chất của các nhà khoa học khác?
Quan điểm vật chất của các nhà khoa học khác:
+ Chủ nghĩa duy tâm: Cho vật chất là sản phẩm của ý thức, tinh thần.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng sự vật là sản phẩm của cảm giác con
người. Đại biểu là Bec- cơ- ly (nhà triết học người Anh). Ông cho rằng sự
7 30
vật chẳng qua là sự phức hợp của cảm giác. Như vậy, khi không có cảm giác
của chúng ta thì sự vật không tồn tại.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan: thế giới là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối.
Platon nhà triết học duy tâm khách quan thời cổ đại cho rằng thế giới như là
cái bóng ở trong vách hang còn ý niệm tuyệt đối ở ngoài cửa hang được ánh
sáng chiếu vào in hình lên vách hang.
Hêghen là nhà triết học người Đức cho rằng: Giới tự nhiên là sản phẩm của
sự “tha hoá” của “ý niệm tuyệt đối”.
Quan điểm đồng nhất vật chất với vật thể:
VD: Talet (624-546 TCN) cho rằng nước là khởi nguyên của thế
giới. Hêraclit (540- 480 TCN) cho rằng đó là lửa.
Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại: lấy thế giới để giải thích thế giới, đó là những
quan điểm chất phác, thô sơ, mộc mạc về thế giới, cơ bản là đúng nhưng còn
hạn chế là đồng nhất phạm trù vật chất với một dạng tồn tại cụ thể của nó.
Đồng nhất vật chất với những thuộc tính của nó.
VD: đồng nhất vật chất với khối lượng.
+ Một bước phát triển trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
trước Mác đó là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrit. Học thuyết
nguyên tử dự đoán: nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thê phân chia được
và cấu tạo nên sự vật.
Tóm lại: Theo quan điểm của các nhà duy tâm và trước Mác thì vật chất là
những gì cụ thể, cảm tính hoặc là đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên mọi vật và họ
đi tìm cơ sở đầu tiên để xây dựng những quan điểm giải thích thế giới bắt
nguồn từ cơ sở vật chất ấy.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác còn thiếu xót hạn chế nhất định của nó, mang
tính trực quan, máy móc và siêu hình.
Quan điểm vật chất của Lênin:
- Vật chất không phải là sự vật cụ thể, cảm tính mà vật chất chính là phạm
trù dùng để chỉ thực tại khách quan đó là tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài
và độc lập với ý thức của con người.
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
- Vật chất là vô cùng vô tận.
- Vật chất tồn tại vĩnh viễn.
Quan điểm vật chất của Lênin là khoa học, đúng đắn, nó chống lại quan
điểm của chủ nghĩa duy tâm và khắc phục được những hạn chế, thiếu xót
của chủ nghĩa duy vật trước Mác.

Câu 16: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?
Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội:
Nguồn gốc tự nhiên:
8 30
- Óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là khí quan vật chất sản
sinh ra ý thức. Hoạt động của ý thức chỉ xảy ra trên cơ sở hoạt động của bộ
óc con người. Nếu bộ óc bị tổn thương một phần hay toàn bộ thì hoạt động
của ý thức cũng bị rối loạn từng phần hay toàn bộ. Chỉ có con người mới có
ý thức, động vật bậc cao cũng không thể có ý thức được.
- Sự phản ánh thế giới khách quan bằng ý thức của con người là hình thức
phản ánh cao nhất, hình thức đặc biệt chỉ có ở con người trên cơ sở phản ánh
tâm lý ngày càng phát triển và hoàn thiện. Các sự vật hiện tượng tác động
lên các giác quan của con người và truyền những tác động đó lên trung ương
thần kinh đó là bộ óc con người, do đó con người có một hình ảnh về các sự
vật đó. Những “hình ảnh” về sự vật được ghi lại bằng ngôn ngữ.
Tóm lại: Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là phải có bộ óc người và sự tác
động của thế giới khách quan, nếu thiếu một trong hai yếu tố này thì không
thể có ý thức.
Nguồn gốc xã hội của ý thức:
Khi vượn người sử dụng những vật có sẵn trong tự nhiên cho mục đích kiếm
ăn có kết quả thì nó gặp lại nhiều lần hành động ấy và trở thành phản xạ có
điều kiện dần dần hình thành “thói quen” sử dụng công cụ. Tuy nhiên, “công
cụ” đó không phải lúc nào cũng có sẵn. Do đó, đòi hỏi loài vượn người phải
có ý thức “chế tạo công cụ” lao động mới. Việc “chế tạo công cụ” lao động
mới đã làm cho hoạt động kiếm ăn của vượn người là hoạt động lao động.
Đó là cái mốc đánh dấu sự khác biệt giữa con người và con vật.
Qua lao động, nhờ kết quả lao động cơ thể con người, đặc biệt là bộ óc và
các giác quan biến đổi hoàn thiện dần cả về cấu tạo và chức năng để thích
nghi với điều kiện thay đổi. Chế độ ăn thuần tuý thực vật chuyển sang chế
độ ăn có thịt có ý nghĩ quan trọng trong quá trình chuyển biến não làm quen
thành bộ não người.
Trong hoạt động lao động, con người cần phải quan hệ với nhau, phối hợp
hành động với nhau tạo ra nhu cầu thoải mái với nhau “một cái gì đấy”. Nhu
cầu đó dẫn đến xuất hiện ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo thành phương tiện để diễn
đạt tư tưởng và trao đổi giữa người với người. Nhờ có “ngôn ngữ”, sự phản
ánh giữa con người trở thành sự phản ánh tri giác. Như vậy, trong lao động
và cùng lao động ngôn ngữ đó là hai sức kích thích chủ yếu để hình thành
nên ý thức của con người.
Tóm lại, nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội là hai điều kiện cần và đủ
cho sự ra đời của ý thức. Nếu thiếu một trong hai điều kiện đó không thể có
ý thức.

Từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc ý xã hội của ý thức rút ra bản chất ý
thức như sau:
9 30
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Hoặc cách diễn đạt khác: ý thức là sản phẩm của một cơ quan vật chất sống
có tổ chức cao, đó là bộ óc người.

Câu 17: Phân tích bản chất của ý thức. Vai trò của tri thức khoa học
trong thực tiễn?
Bản chất của ý thức: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Thế nào là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức của con người, chỉ có con người mới có ý thức, động vật bậc cao
cũng không có ý thức.
Ý thức của con người có được là do sự tác động của sự vật lên các giác quan
của con người, con người có được hình ảnh về sự vật đó. “Hình ảnh” về vật
đó con người thu được qua sự tác động ấy không phải là hình ảnh vật lý mà
là hình ảnh tinh thần, hình ảnh chủ quan, hình ảnh đó được cải biến.
Ý thức không chỉ phụ thuộc vào tác động của thế giới bên ngoài mà còn chịu
ảnh hưởng hoạt động của các giác quan cũng như hoạt động của bộ óc con
người. Vì vậy, ý thức của chúng ta là sự phản ánh tương đối đúng đắn thế
giới bên ngoài.
Do ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên mỗi cá nhân có
một ý thức riêng, nó do sự phản ánh khác nhau, do năng lực, do sự nhạy cảm
của các giác quan của mỗi cá nhân đó quy định.
Từ sự phân tích trên rút ra 3 tính chất sau:
Một là: Ý thức có tính trừu tượng, ý thức là hình ảnh của các sự vật hiện
tượng của thế giới khách quan nhưng đó không phải là hình ảnh vật lý, hình
ảnh cụ thể nhìn thấy, cầm nắm được, nó là hình ảnh tinh thần, hình ảnh trừu
tượng.
Hai là: Tính tự giác:
Một mặt ý thức không chỉ là sự phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới
khách quan trên cơ sở tác động trực tiếp của các sự vật hiện tượng đó lên các
cơ quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người mà làm các sự vật hiện
tượng bộc lộ ra các thuộc tính tính chất để con người nhận thức.
Ba là: Tính sáng tạo:
Ý thức là hình ảnh của con người về thế giới khách quan nhưng hình ảnh ấy
không phải là hình ảnh nguyên vẹn như các sự vật hiện tượng của thế giới
khách quan mà trên cơ sở những hình ảnh của sự vật hiện tượng đó ý thức
tạo ra những hình ảnh mới, những hình ảnh của sự vật không có sẵn trong tự
nhiên.
Chú ý: Trong mỗi tính chất hãy lấy ví dụ minh hoạ.
Vai trò của ý thức khoa học trong hoạt động thực
tiễn:
10 30
+ Tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực, đã được
kiểm nghiệm trong hoạt động thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội và được
chứng minh ở logic học, phản ánh hiện thực một cách tương ứng trong đầu
óc con người dưới dạng các quan niệm, khái niệm, phán đoán lý luận.
+ Trong ý thức, tri thức là thành phần quan trọng nhất, là cái lõi của ý thức.
Tri thức là phương tiện tồn tại của ý thức, đặc biệt là tri thức khoa học đóng
vai trò rất quan trọng trong việc quyết định hành động của con người. Tri
thức khoa học có hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn đúng đắn, có hiệu
quả cao. Trên cơ sở tri thức khoa học mà sự tác động của con người vào thế
giới khách quan theo đúng quy luật của nó và đúng đắn nhất do đó có hiệu
quả nhất. Nhờ có tri thức khoa học mà con người ngày càng trở thành người
làm chủ giới tự nhiên và làm chủ bản thân mình.

Câu 18: Phân tích quan điểm của triết học Mác- Lênin về sự vận động
của vật chất?
Vận động là gì:
Theo F.Ănghen vận động là mọi sự biến đổi nói chung.
Thế giới vật chất nằm trong sự vận động biến đổi không
ngừng. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về vận động của
vật chất:
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính vốn có của vật
chất, gắn liền với vật chất, không thể có vật chất không có vận động và
không thể có vận động vật chất.
+ Phải có vận động mà sự vật mới tồn tại được và biểu hiện sự tồn tại của
nó.
+ Nhờ có sự vận động của sự vật mà con người mới có thể nhận biết được
chúng.
- Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vận động là thuộc tính cơ bản
bên trong vốn có của sự vật, không phải do tác động của bê ngoài, nó là kết
quả của sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong sự
vật.
- Vận động là tuyệt đối, là vĩnh viễn không do ai sáng tạo ra và cũng không
bị tiêu diệt.
- Có 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất.
+ Vận động cơ học: là hình thức vận động đơn giản nhất, là sự di chuyển vị
trí của các vật thể.
+ Vận động lý học: vận động của các phần tử, hạt cơ bản, điện nhiệt.
+ Vận động hoá học: sự hoá hợp và phân giải của các chất.
+ Vận động sinh học: sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với mỗi trường.
+ Vận động xã hội: sự hoạt động của con người làm xã hội biến đổi từ giai
11 30
đoạn này sang giai đoạn khác.
Trong các luận điểm trình bày ở trên hãy tự tìm ví dụ minh hoạ.

12 30
Chú ý:
+ Các hình thức vận động có mối quan hệ với nhau trong đó hình thức vận
động cao bao hàm hình thức vận động thấp.
+ Không được quy hình thức vận động thấp về hình thức vận động cao và
ngược lại.

Câu 20: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chép lại
và chụp lại độc lập với ý thức con người. Phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người gồm những tình
cảm, tâm trạng, tư tưởng và ý chí, những quan điểm lý luận đưa tiễn sự suy
nghĩ bằng ngôn ngữ bằng khả năng nó trong bộ óc con người.
Xác định yếu tố vật chất trong hoạt động thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn bao gồm ba hình thức cơ bản. Hoạt động sản xuất ra của
cải vật chất, đấu tranh chính trị xã hội, hoạt động nghiên cứu thực nghiệm

13 30
khoa học. Trong đó, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất đóng vai trò quan
trọng.
Trong hoạt động thực tiễn yếu tố vật chất chính là phương tiện, công cụ,
điều kiện mà con người dùng để tác động vào thế giới khách quan và cải tạo
nó.
Vật chất và ý thức có mối liên hệ biện chứng, vật chất đóng vai trò quyết
định ý thức. Ngược lại, ý thức có vai trò quan trọng tác động trở lại yếu tố
vật chất.
Yếu tố vật chất quyết định yếu tố ý thức trong hoạt động thực tiễn, thể hiện
ở những điểm sau:
+ Mọi mục đích dự kiến của con người đặt ra đều phải dựa trên cơ sở những
điều kiện, hoàn cảnh vật chất cho phép, những điều kiện khách quan.
+ Để đạt được mục đích, kế hoạch đặt ra con người phải lựa chọn đúng
những phương tiện vật chất sẵn có để tác động vào các đối tượng tạo ra sự
biến đổi theo kế hoạch.
Yếu tố ý thức có vai trò to lớn với yếu tố vật chất thể hiện:
+ Ý thức có thể làm biến đổi hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Bản thân ý thức không thể tự thay đổi một chút nào hiện
thực song ý thức có vai trò vô cùng to lớn, nó được thể hiện trong hai trường
hợp:
Thứ nhất: Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan. Ý thức tiến bộ
khoa học nó chỉ hoạt động thực tiễn của con người theo đúng quy luật của
hiện thực do đó nó thúc đẩy sự phát triển của hiện thực khách quan.
Thứ hai: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, nó chỉ hoạt
động thực tiễn của con người không đúng quy luật do đó nó sẽ cản trở, kìm
hãm sự phát triển của hiện thực khách quan.

Câu 21: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ý
nghĩa của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta?
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
Vật chất quyết định sự thay đổi của ý thức vì vật chất có trước, ý thức có
sau, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất.
Vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất vào não người, là hình ảnh của thế giới khách quan, vật chất là nguồn
gốc có ý thức quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức tác động ngược trở lại vật chất:
Ý thức do vật chất quyết định nhưng nó không phụ thuộc hoàn toàn vào mà
ý thức có tính độc lập tương đối với vật chất do có tính năng động sáng tạo

14 30
nên ý thức có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách
quan thông qua hoạt động của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thúc đẩy hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt
động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới khách quan.
(Ý thức thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người nhưng sự
tác động đó của ý thức phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người).
Tuy có vai trò quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người nhưng vai
trò ấy cuối cùng bao giờ cũng phải đủ những điều kiện vật chất cho phép suy
cho cùng vật chất vẫn quyết định ý thức.
Ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta:
Từ nguyên lý vật chất quyết định ý thức, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI Đảng ta rút ra bài học phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng
và hoạt động tuân theo quy luật khách quan. Trong một thời gian dài chúng
ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế khách quan. Cơ sở vật chất
còn thấp kém nhưng lại muốn đốt cháy giai đoạn vì vậy đã phải trả giá cho
những sai lầm đó. Muốn xây dựng thành công CNXH phải có cơ sở hạ tầng
của CNXH, phải có cơ sở vật chất phát triển. Để có được điều này Đảng ta
chủ trương:
+ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN,
các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ
pháp luật, được bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần
kinh tế quốc doanh và tập thể đóng vai trò quan trọng.
+ Mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài, trong khu vực và quốc tế.
+ Tận dụng mọi nguồn lực, tài lực trong nước để đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
+ Thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng.
Nắm vững nguyên lý ý thức có tác động trở lại đối với vật chất, Đảng ta đã
đề ra chủ trương đổi mới và phải đổi mới trước hết là phải đổi mới tư duy.
Đổi mới tư duy làm điều kiện tiền đề cho đổi mới trong hoạt động thực tiễn:
+) Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng HCM làm kim chỉ nam cho
hành động.
+) Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
con người.
Vai trò tích cực của ý thức là ở chỗ. Ý thức quyết định sự thành bại của con
người trong hoạt động thực tiễn do đó phải:
+ Khắc phục thái độ trông chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh.

15 30
+ Cần hình thành ý thức đúng, tổ chức hoạt động theo quy luật, triệt để khai
thác điều kiện khách quan.
+ Trong hoạt động thực tiễn phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa
học của nhân dân nói chung, nâng cao trình độ cán bộ, Đảng viên nhất là
trong điều kiện hiện nay.

Câu 22: Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và ý thức
và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý đó?
Liên hệ là sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng tương tác và chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới hoặc giữa các mặt, các yếu
tố, các quá trình của mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến: nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong
thế giới (cả tự nhiên xã hội và tư duy) dù phong phú đa dạng nhưng đều tồn
tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác, đều chịu sự tác động sự
quy định của các hiện tượng và sự vật khác.
Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, các yếu tố, các giai đoạn
phát triển khác nhau của mỗi sự vật đều có sự tác động, quy định lẫn nhau,
mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Mối liên hệ phổ biến gồm những đặc điểm sau:
+ Tính khách quan liên hệ là vốn có của các sự vật hiện tượng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại phát triển của
các sự vật hiện tượng. Con người không thể tạo ra được mối liên hệ của các
sự vật mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó.
+ Tính đa dạng nhiều vẻ: các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng,
phong phú, do đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể
hiện ở: có mối liên hệ chung- riêng, bên trong- bên ngoài, trực tiếp- gián
tiếp, tất nhiên- ngẫu nhiên, cơ bản- không cơ bản.
Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Sự vật không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật
hiện tượng khác. Nếu muốn nhận thức sự vật phải nhận thức được các mối
liên hệ của nó. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có
quan điểm toàn diện, khắc phục quan niệm phiến diện một chiều.
+ Có nhiều loại mối liên hệ và chúng có vai trò khác nhau trong sự vật, do
đó để thúc đẩy sự vật phát triển phải phân loại các mối liên hệ, nhận thức
được mối liên hệ cơ bản quy định bản chất của sự vật từ đó giải quyết mối
liên hệ đó.

Câu 30: Phân tích nội dung cơ bản của các cặp phạm trù cái chung và cái
riêng, ý nghĩa của việc nghiên cứu của cặp phạm trù này.
Khái niệm:
16 30
+ Cái riêng là một cặp phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định.
+ Cái chung là phạm trù triết học dùng đê chỉ những mặt, những thuộc tính,
những mối quan hệ giống nhau được lặp lại trong nhiều sự vật hiện tượng
hay quá trình riêng lẻ.
+ Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính vốn có chỉ ở mọi sự vật hiện tượng không lặp lại ở các sự vật hiện
tượng khác. Nhờ cái đơn nhất mà con người có thể phân biệt được cái riêng
này với cái riêng khác.
+ Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mối quan hệ biện
chứng giữa cái riêng và cái chung thể hiện như sau:
Thứ nhất: “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái riêng”. Điều
đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng,
thông qua cái riêng chứ không tồn tại biệt lập, bên ngoài cái riêng.
Thứ hai: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung”. Điều đó
có nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có
nghĩa “cái riêng” hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng
nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không những
chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự
chuyển hoá, nó còn liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác.
Thứ ba: Cái chung là bộ phận của cái riêng còn cái riêng không gia nhập hết
vào cái chung vì bên cạnh các thuộc tính được lặp lại các sự vật khác, tức là
bên cạnh cái chung bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái riêng
đơn nhất, tức là những nét, những mặt, những thuộc tính...chỉ vốn có ở nó và

17 30
không tồn tại ở bất kỳ một sự vật nào khác. Cái riêng phong phù hơn cái
chung, còn cái chung (cái chung bản chất) sâu sắc hơn cái riêng.
Thứ tư: Trong quá trình phát triển khách quan, trong những điều kiện nhất
định cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành cái chung và ngược lại. Sự
chuyển hoá từ cái đơn nhất thành cái chung đó là sự ra đời của cái mới. Sự
chuyển hoá từ cái chung thành cái đơn nhất đó là sự mất dần đi cái cũ.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này. Cái chung và cái riêng gắn
bó chặt chẽ không thể tách rời nên:
+ Không được tách cái chung ra khỏi cái riêng. Không được tuyệt đóio hoá
cái chung. Nếu tuyệt đối hoá cái chung sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả
khuynh giáo điều. Muốn tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng,
thông qua cái riêng. Phê phán quan điểm sai lầm của phái duy thực: cho rằng
chỉ tồn tại cái chung không phụ thuộc vào cái riêng và sinh ra cái riêng. Cái
riêng sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi, cái
chung mới là cái tồn tại vĩnh viễn.
+ Không được tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hoá
cái riêng. Nếu tuyệt đối hoá cái riêng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm hữu
khuynh xét lại, phê phán quan điểm sai lầm của phái duy danh cho rằng chỉ
có cái riêng là tồn tại thực sự còn cái chung chẳng qua chỉ là những tên gọi
do lý trí đặt ra trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết phát
hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng vì cái chung gắn
liền với bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật.
+ Phải phát hiện ra cái mới tiêu biểu cho sự phát triển và tạo điều kiện cho
nó phát triển trở thành cái chung. Ngược lại, hạn chế và đi đến xoá bỏ dần
những cái cũ, cái đã lỗi thời, lạc hậu.

Câu 31: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù nguyên nhân và kết
quả.Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật với nhau gây ra một
biến đổi nào đó.
Kết quả là một hiện tượng mới xuất hiện do một hoặc nhiều nguyên nhân
gây ra.
Điều kiện: không trực tiếp sinh ra kết quả nhưng lại không thể thiếu được
cho sự xuất hiện của kết quả, điều kiện tham gia một cách tất yếu vào quá
trình sinh ra kết quả.
Nguyên cớ là hiện tượng gây ra kết quả nhưng xúc tiến việc xuất hiện kết
quả có liên hệ bề ngoài giả tạo với kết quả.
Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ ngay trong trong sự vật độc lập với ý
thức của con người.

18 30
Quan hệ nhân quả đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định kết quả ra đời
sau khi nguyên nhân đã phát triển đến một mức nhất định.
Mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết qủa:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân phải có trước kết
qủa.
Một nguyên nhân nhất định trong những hoàn cảnh nhất định chỉ có thể gây
ra kết quả nhất định và một kết quả nhất định bao giờ cũng được sinh ra bởi
một nguyên nhân xác định nếu các nguyên nhân và hoàn cảnh càng ít khác
nhau bao nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên cũng càng ít khác nhau bấy
nhiêu.
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ phức tạp.
Thứ nhất: Cùng một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai: cùng một kết quả có thể gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau
tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc. Khi các nguyên nhân tác động
cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân với sự
hình thành kết quả sẽ khác nhau tuỳ vào hướng tác động của nó.
+ Nếu nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật cùng một hướng thì
chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết qủa.
+ Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các
hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn tiêu diệt tác
dụng của nhau.
Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân, kết quả có thể tạo được
nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả là một chuỗi những sự nối tiếp giữa
nguyên nhân và kết qủa. Không có nguyên nhân đầu tiên và không có kết
qủa cuối cùng.
Trong những điều kiện nhất định nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hoá
cho nhau cái trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ
khác lại là kết quả và ngược lại.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Tính nhân qủa là tính khách quan và quy luật con người có thể nhận thức,
vận dụng nó để đạt được mục đích của mình, tạo điều kiện cho nguyên nhân
đi đến kết qủa và ngược lại, đồng thời hạn chế hoặc tiêu diệt những nguyên
nhân tạo điều kiện sinh ra những hiện tượng xấu.
Cải tạo sự vật hay xoá bỏ sự vật chính là cải tạo hay xoá bỏ nguyên nhân
sinh ra nó.
Mỗi sự vật hiện tượng có thể có nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên
nhân này có vị trí rất khác nhau trong việc hình thành kết qủa. Vì vậy, trong
hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải phân loại, xác định vai trò, vị trí của
từng loại nguyên nhân để có những biện pháp giải quyết đúng đắn.
19 30
Tìm nguyên nhân xuất hiện của một hiện tượng nào đó phải tìm trong chính
hiện tượng đó và phải tìm những sự tác động của các mặt, các mối liên hệ có
trước đó.

Câu 32: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu
nhiên, ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên:
Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn từ những mối liên hệ bên
ngoài của sự vật, không phải từ qúa trình phát triển có tính quy luật bên
trong của sự vật do đó nó có thể xảy ra.
Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bắt nguồn một cách hợp quy luật từ
những mối liên hệ cơ bản ở bên trong sự vật, là do toàn bộ sự phát triển
trước đó quy định và do đó nhất định xảy ra.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại một cách khách quan quá trình phát
triển của sự vật, không phải chỉ có tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà
cả cái ngẫu nhiên cũng có vai trò của nó. Tất nhiên có tác dụng chi phối sự
phát triển của sự vật còn ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến sự phát triển đó, có
thể làm cho sự phát triển đó diễn ra nhanh hay chậm. Nhưng tác dụng chi
phối của tất nhiên trong lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau.
Trong tự nhiên, tính tất nhiên được thể hiện một cách tự phát.
Trong xã hội, tính tất nhiên được thể hiện thông qua hành động có ý thức
của con người. Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại một cách biệt lập
dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất
hữu cơ. Sự thống nhất hữu cơ đó được thể hiện ở chỗ:
+ Không có cái tất nhiên thuần tuý tồn tại rách rời với những cái ngẫu nhiên,
cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình qua vô số ngẫu nhiên.
+ Không có cái ngẫu nhiên thuần tuý tách rời cái tất nhiên.
+ Bất cứ cái ngẫu nhiên nào cũng là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên,
đồng thời là cái bổ xung cho tất nhiên. Mọi cái ngẫu nhiên đều có yếu tố của
tất nhiên.
Trong những điều kiện nhất định, tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá
cho nhau. Cùng một sự kiện nào đó trong mối liên hệ này nó được coi là tất
nhiên, xét trong mối liên hệ khác nó lại là ngẫu nhiên.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không
được dựa vào và chỉ dừng lại ở cái ngẫu nhiên vì cái tất nhiên là cái gắn với
bản chất của sự vật. Mặt khác, chúng ta cũng không nên bỏ qua cái ngẫu
nhiên mà cần phải có phương án dự phòng các trường hợp ngẫu nhiên có thê
xảy ra.
20 30
Trong nhận thức để đạt được cái tất nhiên chúng ta phải nghiên cứu phát
hiện ra chúng thông qua hàng loạt cái ngẫu nhiên.
Ngẫu nhiên và tất nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện
nhất định do đó ta có thể tạo những điều kiện thích hợp để có thể ngăn cản
hoặc kích thích những chuyển hoá phục vụ mục đích của con người.
+ Chống quan điểm của thuyết định mệnh, đó là cơ sở lý luận cho việc phủ
nhận tác dụng tích cực của con người đối với tiến trình lịch sử vì cho rằng
mọi cái đều xảy ra một cách tất nhiên, con người không làm gì được.
Chống quan điểm duy tâm và siêu hình về tất nhiên và ngẫu nhiên.

Câu 33: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù bản chất và hiện
tượng, ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này.
Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng:
Khái niệm:
Bản chất là phạm trù dùng để chỉ tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ tất
nhiên tương đối ổn định ở bên trong sự vật quy định sự vận động và phát
triển của sự vật đó.
Hiện tượng là những mặt, những mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một
bản chất nhất định.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan mỗi sự vật đều là thống nhất giữa
bản chất và hiện tượng. Bản chất và hiện tượng về căn bản phù hợp với nhau
thể hiện:
+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ ra qua những hiện tương tương ứng
và bất cứ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó
hoặc ít hoặc nhiều.
+ Bản chất nào thì hiện tượng ấy và ngược lại, bản chất khác nhau sẽ biểu
hiện ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng
thay đổi theo sớm hay muộn.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất mang tính mâu
thuẫn.
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển
của sự vật còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Hiện tượng phong phú hơn
bản chất ngược lại bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì vậy cùng một bản chất
có thể biểu hiện ra bên ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tuỳ theo sự
biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh.
+ Bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của sự vật, còn sự
vật là biểu hiện của bản chất đó ra bên ngoài nhưng biểu hiện dưới dạng
hình thức đã cải biên nhiều khi xuyên tạc bản chất. Hiện tượng là sự biểu
hiện của bản chất về cơ bản phù hợp với bản chất nhưng không bao giờ phù
21 30
hợp hoàn toàn. Chúng biểu hiện bản chất không phải dạng như nguyên bản
chất vốn có mà dưới hình thức cải biên nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự
của bản chất.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm còn hiện tượng không ổn định
nó biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này trong hoạt động thực tiễn:
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng giúp cho chúng ta có thể tìm ra
bản chất, quy luật vận động của sự vật thông qua hiện tượng.
Muốn nhận thức đúng đắn về sự vật không được dừng lại ở vỏ bề ngoài của
sự vật, ở một vài hiện tượng đơn lẻ mà cần phải phân tích một cách tổng thể
các hiện tượng để đi sâu tìm ra bản chất thực sự của nó, không được lẫn lộn
hiện tượng với bản chất.
Quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là quá trình rất phức tạp lâu dài đó là
quá trình con người phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc
đến bản chất sâu sắc hơn và cứ tiếp tục mãi.

Câu 34: Phân tích nội dung của cặp phạm trù nội dung và hình thức.
Khái niệm:
Nội dung là toàn bộ những mặt những yếu tố những quá trình thành cơ sở
tồn tại và phát triển của sự vật.
Hình thức dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật là cách
thức tổ chức kết cấu của nội dung.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
Nội dung và hình thức là một thể thống nhất hữu cơ của sự vật hiện tượng,
không có một hình thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có nội
dung nào mà lại không tồn tại trong một hình thức nhất định.
Cùng một nội dung có nhiều hình thức thể hiện.
Cùng một hình thức có thê thể hiện những nội dung khác nhau.
Nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, hình thức phải thể hiện nội
dung. Nội dung có khuynh hướng biến đổi hình thức là mặt tương đối bền
vững, ổn định. Sự biến đổi phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu sự biến
đổi phát triển của nội dung, hình thức cũng biến đổi nhưng biến đổi chậm
hơn. Khi nội dung biến đổi buộc hình thức cũng biến đổi theo cho phù hợp
với nội dung mới.
Hình thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại nội dung, ảnh hưởng
của hình thức với nội dung sẽ khác nhau trong hai trường hợp sau:
+ Khi hình thức phù hợp với nội dung thì nó thúc đẩy nội dung phát triển.
+ Khi hình thức không phù hợp với nội dung thì nó kìm hãm sự phát triển
của nội dung, nội dung luôn luôn biến đổi, hình thức biến đổi chậm hơn và
thường lạc hậu hơn so với nội dung.
22 30
Giữa nội dung và hình thức có sự chuyển hoá lẫn nhau. Cái trong điều kiện
hay mối quan hệ này là nội dung thì trong điều kiện hay quan hệ khác có thể
là hình thức và ngược lại.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này:
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức vào trong
hoạt động thực tiễn để đạt được mục tiêu, chống khuynh hướng tách rời
hoặc tuyệt đối hoá trong hai mặt.
Tuyệt đối hoá hình thức dẫn đến chủ nghĩa hình thức.
Tuyệt đối hoá nội dung không làm cho sự vật phát triển, không dám mạnh
dạn vứt bỏ hình thức lạc hậu đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của sự vật.
Cùng một nội dung trong sự phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức
thể hiện do đó trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội phải biết sử dụng mọi
hình thức có thể có được để phục vụ những nhiệm vụ cụ thể trong từng giai
đoạn.

Câu 35: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù khả năng và hiện
thực.Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù đó.
Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù khả năng và hiện thực:
Khái niệm:
Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa tới nhưng sẽ tới sẽ
có khi có các điều kiện thích hợp. Khả năng là cái chưa có nhưng nó vẫn tồn
tại dưới dạng mầm mống được thể hiện trong lòng hiện thực. Từ hiện thực
đó mới xuất hiện khả năng có đủ điều kiện thích hợp nó sẽ trở thành hiện
thực.
Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái tồn tại thực sự, cái đã tới đã
có. Hiện thực gồm có: hiện thực khách quan (hay là vật chất ) tất cả những
gì đang tồn tại độc lập với ý thức của con người; hiện thực chủ quan (hiện
thực tinh thần) nó cũng tồn tại nhưng tồn tại trong óc của con người, ví dụ
như ý thức, tư duy....
Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
Khả năng và hiện thực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn bó với nhau
không tách rời, luôn chuyển hoá lẫn nhau vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả
năng còn khả năng sẽ biến thành hiện thực quá trình phát triển chính là quá
trình trong đó khả năng biến thành hiện thực, còn hiện thực này do những
quá trình phát triển nội tại của mình sinh ra các khả năng mới. Các khả năng
mới ấy trong điều kiện thích hợp lại biến thành hiện thực và cứ tiếp tục như
vậy mãi mãi. Đó là một quá trình vô tận.
Mọi sự vật trong điều kiện nhất định có thể tồn tại một số khả năng chứ
không phải chỉ có một khả năng.

23 30
Ngoài một số khả năng vốn có sẵn ở sự vật trong những điều kiện nhất định
khi có thêm những điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm
những khả năng mới.
Bản thân các khả năng không phải là không thay đổi, nó tăng lên hoặc giảm
đi tùy điều kiện cụ thể.
Không phải tất cả các khả năng đều tất yếu trở thành hiện thực trong những
điều kiện nhất định có khả năng tất yếu trở thành hiện thực nhưng cũng có
khả năng không trở thành hiện thực.
Khả năng trở thành hiện thực trong tự nhiên và trong xã hội là khác nhau,
trong tự nhiên khả năng biến thành hiện thực chủ yếu là tự phát, nó phụ
thuộc vào các điều kiện khách quan; trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh các điều
kiện khách quan khả năng muốn trở thành hiện thực còn cần có các điều
kiện chủ quan tức là hoạt động thực tiễn của con người. Ở đây khả năng
không khi nào tự nó biến thành hiện thực mà không có sự tham gia của con
người. Hoạt động có ý thức của con người trong đời sống xã hội có vai trò
rất to lớn để biến khả năng thành hiện thực nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm
hãm sự biến đổi của khả năng thành hiện thực có thể “điều khiển” cho hiện
thực phát triển theo khuynh hướng này hay khuynh hướng khác bằng cách
tạo ra những điều kiện thích ứng.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù trong hoạt động thực tiễn:
Chống quan điểm tách rời giữa khả năng và hiện thực vì nếu không thì hoạt
động thực tiễn sẽ không thấy được khả năng, tiềm năng của sự vận động và
phát triển không thúc đẩy cho khả năng trở thành hiện thực.
Chống lẫn lộn giữa khả năng và hiện thực, phải phân biệt sự khác nhau giữa
chúng nếu không trong hoạt động thực tiễn sẽ rơi vào ảo tưởng, hành động
phiêu lưu trái pháp luật. Muốn cải tạo thực tiễn phải dựa vào cái hiện có
(hiện thực) chứ không phải dựa vào cái chưa có (khả năng).
Trong xã hội, bên cạnh vai trò của nhân tố khách quan, đòi hỏi phải phát huy
tối đa, năng động nhân tố chủ quan nhằm biến khả năng nhanh chóng thành
hiện thực, khả năng trở thành hiện thực khi có đủ điều kiện cho nó, do đó
phải tạo điều kiện cho khả năng nhanh chóng trở thành hiện thực theo mục
đích có lợi cho con người.
Trong sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng có khả năng khác nhau
có thể phòng ngừa loại bỏ những khả năng có hại cho sự phát triển của sự
vật hiện tượng.

24 30
Câu 27: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù: Khả năng và hiện
thực. ý nghĩa phương pháp luận của nó
Để trao đổi tư tưởng cho nhau, con người thường phải sử dụng những khái
niệm nhất định. Tùy theo mức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có
những khái niệm rộng hay hẹp khác nhau. Khái niệm rộng nhất gọi là phạm

25 30
trù. Về vấn đề này, các nhà triết học trước Mác coi phạm trù là những từ
trống rỗng không có nội dung hiện thực.Chỉ có triết học mác ra đời mới có
cách nhìn nhận khách quan và giải quyết triệt để vấn đề nhận thức về những
phạm trù của triết học. Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các
sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Mỗi môn khoa học
chuyên ngành đều có phạm trù riêng của mình. Khác với các phạm trù của
các môn khoa học, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất,
ý thức, vận động, mâu thuẫn, thực tiễn, chân lý… là những khái niệm chung
nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mlh cơ bản và phổ biến
nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nào của hiện thức mà của toàn bộ thế
gới hiện thực nói chung bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép bcdv có
6 cặp phạm trù cơ bản. Một trong 6 cặp phạm trù đó là cặp phạm trù khả
năng và hiện thực.
1. Định nghĩa
a.Hiện thực: là một phạm trù triết học dùng để chỉ mọi cái hiện đang tồn tại
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
b.Khả năng: là phạm trù triết học dùng để chỉ những xu hướng, những yếu
tố đang tồn tại hiện thực mà trong sự vận động của chúng sẽ dẫn tới sự ra
đời của một sự vật mới khi có điều kiện tương ứng.
Như vậy, Phạm trù hiện thực và khả năng được dùng để phản ánh mqh
biện chứng giữa những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thưc)
với những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương
ứng (khả năng).Ở đây, chúng ta cần Phân biệt khái niệm hiện thực với
khái niệm hiện thực khách quan:
Hiện thực khách quan: là khái niệm chỉ các sự vật, vật chất tồn tại độc lập
với ý thức của con người. Còn hiện thực bao gồm cả những sự vật, hiện
tượng vật chất đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả những
gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức con ngưòi. Tuy nhiên, ở đây
không nên quan niệm khái niệm hiện thực rộng hơn khái niệm hiện thực
khách quan mà đây là những khái niệm triết học phản ánh những mặt khác
nhau của thế giới trong đó chúng ta đang sống.

26 30
Khả năng là cái hiện chưa có nhưng bản thân Khả năng với tư cách cái chưa
có đó lại tồn tại (tức là các sự vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại
nhưng bản thân khả năng để xuất hiện sự vật đó thì tồn tại) nên dấu hiệu căn
bản để phân biệt khả năng với hiện thực là ở chỗ khả năng là cái chưa có,
còn hiện thực là cái hiện có, đang tồn tại. Nói đến dấu hiệu của khả năng ,
chúng ta cần phân biệt Khả năng với tiền đề hay điều kiện của một sự vật
nào đó: tiền đề hay điều kiện của một sự vật nào đó đều là những cái hiện
đang tồn tại thực sự, là những yếu tố hiện thực trên cơ sở đó xuất hiện cái
mới. Còn khả năng không phải là bản thân các tiền đề, điều kiện của cái mới
là mà cái mới đang ở dạng tiềm thế,chỉ trong tương lai với những điều kiện
thích hợp nó mới tồn tại thực.
Khả năng cũng không đồng nhất với cái ngẫu nhiên và phạm trù xác suất.
- Khả năng và ngẫu nhiên: rất gần nhau nhưng vẫn là những phạm trù khác
nhau.. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ, khả năng là cái hiện có trong tính
xu hướng. Còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra, cũng có thể không xảy ra, có
thể xảy ra như thế này, cũng có thể xảy ra như thế khác.
- Trong một số trường hợp khả năng có quan hệ nhất định với xác suất.
Trong trường hợp đó, xác suất đặc trưng về mức độ thực hiện của khả năng.
- Khả năng và tính tất yếu: cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó,
cái tất yếu là một mặt, một thuộctính của khả năng. Bất cứ khả năng nào
cũng chứa trong lòng nó một độ tất yếu nhất định.
Mọi khả năng đều là khả năng thực tế nghĩa là khả năng thực sự tồn tại do
hiện thực sinh ra. Nhưng có khả năng được hình thành do quy luật vận động
nội tại của sự vật quy định được gọi là khả năng tất nhiên. Có khả năng
được hình thành do các tương tác ngẫu nhiên quy định được gọi là khả năng
ngẫu nhiên.
VD: gieo hạt ngô xuống đất, khả năng hạt ngô nảy mầm là khả năng tất
nhiên. Nhưng cũng có khả năng hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu bệnh phá hại
nên không thể mọc mầm.Khả năng này do những tác động có tính ngẫu
nhiên quy định nên được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
Trong khả năng tất nhiên lại bao gồm: khả năng gần và khả năng xa. Khả
năng gần nghĩa là đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến
thành hiện thực còn khả năng xa là chưa đủ điều kiện cần thiết để biến

27 30
thành hiện thực còn phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ nữa.VD: Nhân dân
ta có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, lại có Đảng csvn lãnh đạo đề
ra đường lối đổi mói đúng đắn, có Nhà nước xhcn thực sự là nhà nước của
dân, do dân, vì dân, có những điều kiện quốc tế thuận lợi thì khả năng hoàn
thành công cuộc cnh,hđh là khả năng gần và khả năng xây dựng thành công
chế độ xhcscn là khả năng xa hơn.
2. Mối quan hệ biện chứng
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật.
Điều này có nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự
vận động phát triển của sự vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện
thực. Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này
nếu có điều kiện lại chuyển thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục
làm cho sự vật vận động và phát triển một cách vô tận trong thế giới vật
chất.
- Cùng trong những điều kiện nhất định,ở cùng một sự vật có thể tồn tại
nhiều khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng.
VD: văn kiện đại hội Đảng 9,sau khi phân tích tình hình trong nước, tình
hình thế giới và khu vực đã nhận định rằng: đất nước ta hiện nay đang có cả”
cơ hội lớn và thách thức lớn” những cơ hội lớn tạo điều kiện để chúng ta có
khả năng “ tiếp tục phát huy nội lực va lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực-
nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý và mở rộng thị trường,
phục vụ sự nghiệp công nghiệphóa và hiện đại hóa. Những thách thức đó là:
nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và quan
liêu, diễn biến hòa bình . như vậy chúng ta có thể thấy hiện nay đang cùng
tồn tại rất nhiều khả năng (cả thuận lợi, cả khó khăn) phát triển đất nước ta.
Điều đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải nhận thức rõ để chủ động tranh
thủ thời cơ vựơt qua thách thức đưa đất nước vững bước tiến lên theo định
hướng XHCN.
- Ngoài những khả năng sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ
xuất hiện thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng
cũng thay đổi theo sự thay đổi của điều kiện.

28 30
VD: nứoc ta là một nước có nền kinh tế còn lại hậu, mức sống của nhân dân
còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết
liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng tụt
hậu xa hơn về kinh té so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự
bất lợi về sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn bán càng lớn.
- Để khả năng biến thành hiện thực thường cần không chỉ một điều kiện
mà là một tập hợp điều kiện cần và đủ. ở đây,c húng ta nghiên cứu vai trò
của các điều kiện khách quan và chủ quan trong sự chuỷen biến khả
năng thành hiện thực.
VD; để một hạt thóc nảy mầm thì cần một tập hợp các điều kiện như: nhiệt
độ, độ ẩm,ánh sáng…
- Trong giới tự nhiên,khả năng trở thành hiện thực chủ yếu là một quá
trình tự phát. Có thể phân ra ba trường hợp:
+ Có khả năng mà điều kiện để chúng trở thành hiện thức chỉ có thể tạo ra
bằng con đường tự nhiên. Đó là trường hợp xảy ra trong các quá trình vũ trụ
và địa chất.
+ Loại khả năng có thể trở thành hiện thực bằng con đường tự nhiên cũng
như nhờ sự tác động của con người. VD: bằng cách thay đổi điều kiện sống
gây đột biến.. con người “biến” khả năng tạo giốngmới thành hiện thực.
+ Loại khả năng mà trong điềukiện hiện nay không có sự tham gia của con
người thì không thể trở thành hiện thực. Các khả năng này vốn có ở khách
thể nhưng để chúng trở thànhhiện thực phải cần đến những điều kiện mà
hiện nay không thể tạo được bằng con đường tự nhiên.
- Trong lĩnh vực xã hội, bên cạnh các điều kiện khách quan, khả năng
muốn trở thành hiện thực còn cần các điều kiện chủ quan là hoạt độngcó
ý thức, hoạt động thực tiễn của con người.
Hoạt động thực tiễn của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến
khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến
khả năng thành hiện thực; có thể điều khiển khả năng phát triển theo chiều
hướng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. Không thấy
vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh.
Chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt

29 30
đốihóa vai ttò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiện khách
quan. Như vậy,chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm, duy ý chí.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
a. Trong quá trình nhận thức: khi xác định khả năng cần chú ý:
- Vì khả năng do sự vật sinh ra hoặc tồn tại trong sự vật nên chúng ta chỉ có
thể tìm ra các khả năng phát triển của sự vật ngay trong chính bản thân nó.
- Vì khả năng nảy sinh vừa do tác động qua lại giữa các mặt khác nhau ở
bên trong sự vật vừa do sự tác động qua lại của sự vật với hoàn cảnh bên
ngoài cho nên, trong quá trình nhận thức, chúng ta phải chú ý cả “ tương
quan lực lượng” giữa các mặt ở bên trong sự vật, sự phát triển của mâu
thuẫn nội tại trong nó lẫn những điều kiện bên ngoài.
b. Trong hoạt động thực tiễn cần chú ý rằng:
- Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái tồn tại dưới dạng xu
hướng, nên trong họat động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được
dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương hướng hành động của
mình. Trong hoạt động thực tiễn, nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng
thì sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Theo lênin, người mác xít chỉ có thể sử dụng để
làm căn cứ cho chính sách của mình những sự thật được chứng minh rõ rệt
và không thể chối cãi được.
- Vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai
nên trong hoạt động thực tiễn cũng cần phải tính đến các khả năng để có thể
đề ra chủ trương, kế hoạch hành động cho sát, đúng. Khi tính đến khả năng
phải phân biệt được khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu
nhiên. Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành
hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.
- Sau khi đã xác định được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ hoạt
động thực tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện khả năng.KHi thực
hiện nhiệm vụ này cần lưu ý:
+ Ttong hoạt động thực tiễn,cần tính đếnmọi khả năng có thể có dể dự kiến
các phương án hành động thích ứng cho từng trường hợp có thể xảy ra.
+ Một khả năng chỉ có thể trở thành hiện thực khi có đủ những điềukiện cần
thiết. Do vậy, để thực hiện khả năng, phải tạo cho nó các điều kiện cần và
đủ.

30 30
+ TRong xã hội, khả năng không tự nó trở thành hiện thực mà phải có sự
tham gia của nhân tố chủ quan, nên tronglĩnh vực này, tùy theo yêu cầu của
hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện cần thiết đểnhân tố chủ quan có
thể tham gia tích cực hoặc ngăn cản quá trình biến khả năng thành hiện
thực. Phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực con người, tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người
để biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Trên ý nghĩa đó,
Đảng ta chỉ rõ: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Tuy nhiên cũng cần tranh
cả hai thái cực sai lầm: một là tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan ,
hai là hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện
thực.”

Câu 24: Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù: nguyên nhân và
kết quả. ý nghĩa phương pháp luận của nó
Để trao đổi tư tưởng cho nhau, con người thường phải sử dụng những khái
niệm nhất định. Tùy theo mức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có
những khái niệm rộng hay hẹp khác nhau. Khái niệm rộng nhất gọi là phạm
trù. Về vấn đề này, các nhà triết học trước Mác coi phạm trù là những từ
trống rỗng không có nội dung hiện thực.Chỉ có triết học mác ra đời mới có
cách nhìn nhận khách quan và giải quyết triệt để vấn đề nhận thức về những
phạm trù của triết học. Phạnm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các
sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định. Mỗi môn khoa học
chuyên ngành đều có phạm trù riêng của mình. Khác với các phạm trù của
các môn khoa học, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất,
ý thức, vận đôdngj, mâu thuấn, thực tiễưn, chân lý… là những khái nhiệm
chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mlh cơ bản và
phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nào của hiện thức mà của
toàn bộ thế gới hiện thực nói chung bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép bcdv có 6 cặp phạm trù cơ bản. Một trong 6 cặp phạm trù đó là cặp
phạm trù nguyên nhân và kết quả.
1. Định nghĩa

31 30
Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mqh sản sinh ra nhau giữa các sự
vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
a. Nguyên nhân: là một phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa
các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi
nhất định nào đó.
b. Kết quả: là một phạm trù triết học chỉ những biến đổi xuất hiện do tác
động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau
gây ra.
VD: cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản là nguyên nhân đưa
đếnkết quả là một cuộc cách mạng vô sản nổ ra.
c. Điều kiện: khi xem xét mối liên hệ nhân quả chúng ta thấy rằng kết quả
do nguyên nhân sinh ra phụ thuộc vào những điềukiện nhất định. Điều kiện
là hiện tượng cần thiết cho một biến đổi nào đó xảy ra, nhưng bản thân
chúng không gây nên biến đổi ấy. Các điều kiện cùng với các hiện tượng
khác có mặt khi nguyên nhân sinh ra kết quả được gọi là hoàn cảnh.
1. Tính chất của mối liên hệ nhân quả:
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả mang tính khách
quan, tính phổ biến và tất yếu
- Tính khách quan thể hiện ở chỗ: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản
thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết
hay không biết thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu
gây nên những biến đổi nhất định. Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc
mình nhữn tác động và những biến đổi tức là những mối liên hệnhân quả của
hiện thực chứ không sáng tạo ra mối liên hệ đó từ trong đầu mình. Quan
điểm duy tâm không thừa nhận mối liên hệ nhân quả là do Thượng đế sinh
ra hoặc do cảm giác con người quy định.
- Tính phổ biến: mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều có
nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào mà ko có nguyên
nhân, chỉ có điều nguyên nhân đó đã được nhận thức chưa mà thôi. Không
nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với
vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
- Tính tất yếu thể hiện ở chỗ: cùng một nguyên nhân nhất định trong những
điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên trong thực tế

32 30
không thểcó sự vật nào tồn tại tong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn
giốngnhau do vậy tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải
được hiểu là: nguyên nhân tác độngk trong những điều kiện và hoàn cảnh
càng ít khácnhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau bấy
nhiêu.
1.Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
a. Nguyên nhân là cái sinh ra kết qủa, nên nguyên nhân bao giờ cũng có
trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân
đã xuất hiện. Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt
thời gian cũng là quan hệ nhân quả. VD: đêm nối tiếp ngày, mùa hè nối tiếp
mùa xuân…
Cái phân biệt liên hệ nối tiếp nhau về thời gian chính là ở chỗ, giữa nguyên
nhân và kết quả còn có mối quan hệ sản sinh, mối quan hệ mà trong đó
nguyên nhân sinh ra kết quả.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào
nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết qủa có thể do nhiều
nguyên nhân sinh ra. VD: nguyên nhân của mất mùa có thể do hạn hán, có
thể do lũ lụt, có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật. Và ngược lại, một
nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những kết
quả khác nhau. VD: chặt phá rừng có thể gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt,
hạn hán…
- Khi có nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động
của từng nguyên nhân tới việc hình thành kết quả sẽ khác nhau, tuỳ thuộc
vào hướng tác động của nó. Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự
vật theo cùng một hướng, chúng sẽ gây ảnh hưởng cùng chiều với sự hình
thành kết quả, làm kết quả xuất hiện nhanh hơn. Ngược lại, nếu các nguyên
nhân khác nhau tác động lên sự vật theo nhiều hướng khác nhau thì chúng sẽ
làm suy yếu thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn
cản sự xuất hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phân tích
vai trò của từng loại nguyên nhân để có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận
lợi cho nhưng nguyên nhân quy định sự xuất hiện của kết quả (mà con người
mong muốn ) phát huy tác dụng.

33 30
VD: trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần hoạt độngtheo có chế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế đều có
vị trí nhất định với việc phát triển nền kinh tế nói chung. Các TP KT vừa tác
động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn nhau, thậm chí cản trở nhau phát triển.
Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần kinh tế để phát triển sản
xuất, làm cho dân giàu, nước mạnh, XH công bằng dân chủ văn minh thì
phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, hướng các thành phần KT phát
triển đúng định hướng XHCN; phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nứoc
đối với các thành phần kinh tế. Nếu không như vậy, nền kinh tế sẽ trở nên
hỗn loạn và năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế có thể sẽ triẹt tiêu
lẫn nhau.
b. Sự tác động trở lại của kết quả với nguyên nhân.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng sau khi xuất hiện kết quả lại có ảnh
hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai
hướng: thúc đẩy hoạt động của nguyên nhân (hướng tích cực); hoặc cản trở
sự hoạt động của nguyên nhân (hướng tiêu cực).
VD: trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục.
Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học vào
sản xuất,vì vậy lại kìm hãm sản xuất phát triển. Ngựôc lại, trình độ dan trí
cao là kết quả của chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến
lwowtj nó, dân trí cao lại tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế và giáo
dục.
c. Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mqh này là nguyên
nhân, nhưng trong mqh khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy, ăng ghen
nhận xét rằng: nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là
nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt
nhất định. Nhưng khi chúng ta nghiên cứu mlh chung của nó với toàn bộ thế
giới thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác
động qua lại phổ bieens, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn thay đổi vị trí
cho nhau. một sự vật, hiện tượng nào đó với tính cách là kết quả do một
nguyên nhân sinh ra, đến lượt mình,nó trở thành nguyên nhân sinh ra hiện

34 30
tượng thứ ba.. Quá trình đó cứ tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên
một chuỗi nhân quả vô cùng vô tận.
1. Phân loại nguyên nhân:
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết
quả có thể chia nguyên nhân thành nhiều loại khác nhau:
*Nguyên nhân chủ yếu va nguyên nhân thứ yếu
- Những nguyên nhân nào mà thiếu chúng kết quả sẽ không xảy ra gọi là
nguyên nhân chủ yếu
- Những nguyên nhân nào mà sự có mặt của chúng chỉ quyết định những đặc
điểm nhất thời, không ổn địh, cá biệt của hiện tượng thì gọi là nguyên nhân
thứ yếu.
*Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
- Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt hay
những yếu tố của cùng một kết cấu vật chất nào đó và gây ra những biến đổi
nhất định.
- Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những kết cấu vật
chất khác nhau và gây ra những biến đổi thích hợp trong kết cấu vật chất ấy
Nhìn chung nguyên nhân bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự
hình thành, tồn tạ và phát triển của kết cấu vật chất. Nguyên nhân bên ngoài
chỉ phát huy được tác dụng thông qua những nguyên nhân bên trong.
*Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
- Nguyên nhân khách quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động độc lập
với ý thức của con người, của các giai cấp, các chính đảng.
- Nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc
vào ý thức, hành động của con người, trong lĩnh vực hoạt động của cá nhân,
các giai cấp, các chính đảng nhằm thúc đẩy, kìm hãm sự xuất hiện, phát triển
các quá trình xã hội.
Nếu hành động của con người phù hợp với quan hệ nhân quả thì sẽ đẩy
nhanh sự phát triển của các hiện tựongxã hội trong trường hợp ngược lại sẽ
kìm hãm sự phát triển ấy
1.ý nghĩa phương pháp luận
a.Đối với nhận thức

35 30
Quá trình nhận thức sự vật là quá trình phát hiện nguyên nhân để hiểu đúng
sự vật đó. Vì mọi hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu
vong của nó cho nên nhiệm vụ của nhận thức nói chung và của nhận thức
khoa học nói riêng là đi tìm những nguyên nhân hiện chưa được phát hiện để
có thể hiểu đúng hiện tượng.
Trong quá trình tìm nguyên nhân cần lưu ý:
- Mlh nhân quả luôn tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con
người nên Chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng ở trongchính thế giới
các hiện tượng chứ không thể ở ngoài nó;
- nguyên nhân luôn có trwocs kết quả nên Khi tìm nguyên nhân của hiện
tượng nào đấy cần tìm những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trứoc khi
hiện tượng xuất hiẹn. Song cần lưu ý rằng không phải mọi sự kiện xảy ra
trước đều là nguyên nhân của sự kiện xảy ra sau.
Dấu hiệu đặc trưng của nguyên nhân trong mlh với kết quả là nguyên nhân
sinh ra kết quả nên khi xác định nguyên nhân của hiện tượng cần đặc biệt
chú ý dấu hiệu đặc trưng ấy.
- Xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần hết sức tỉ mỉ thận
trọng, vạch cho được hiệu quả tác động của từng mặt từng sự kiện, từng mối
liên hệ cũnt như các tổ hợp khác nhau của chúng trong việc nảy sinh hiện
tựong mới chỉ trên cơ sở đó mói có thể xác định đúng về nguyên nhân sinh
ra kết quả
- Một hiện tượng trong mối quan hệ này la kết quả trong quan hệ khác có thể
là nguyên nhân,nên hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy,c hỉ cần xem xét nó
trong những quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân cũng như trong
những quan hệ mà nó là kết quả. Nói cách khác, cần xem xét quan hệ nhân
quả trong những điều kiện nhất đinhhj.
a.Đối với thực tiễn
- Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh
ra nó;
- Muốn hiện tượng nào đó xuất hiện, cần tạo ra nguyên nhân cùng những
điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra nó phát huy tác dụng.
- Vì hiện tượng có thể xuất hiện do nhiềun guyên nhân tác động riêng lẻ
hoặc đồng thời,nên trong hoạt động thực tiễn cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà

36 30
lựa chọn phương pháp hành đọng thích hợp, không nên hành động rập
khuôn theo phương pháp cũ.
- Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết định đối
với sự xuất hiện, vận động và tiêu vong của hiện tựơng, nên tronghoạt động
thực tiễn trước hết cần tìm ra các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên
trong.
- Đẩy nhanh (kìm hãm, loại trừ) sự phát triển của một hiện tượng xã hội nào
đó cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hay lệch
hoặc ngược chiều) với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách
quan.

37 30

You might also like