Professional Documents
Culture Documents
TÓM TẮT
Trong bối cảnh đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập sâu rộng với thế giới, đặc biệt là từ sau khi Việt
Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á( ASEAN) năm 1995, nước ta đã và đang phải cạnh tranh
ngày càng gay gắt trên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề kinh tế, trong đó có ngành điện tử. Cho đến nay vị thế
cũng như đóng góp của các doanh nghiệp nội địa trong ngành vẫn chưa cao, mặc dù số lượng doanh nghiệp nội
địa chiếm tỷ lệ khá nhiều trong tổng số doanh nghiệp ngành điện tử, nhưng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ về thị trường
trong nước và kim ngạch xuất khẩu. Chúng ta còn rất hạn chế trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm ngành
điện tử, chưa có các doanh nghiệp tầm cở thế giới trong ngành. Chính vì lẽ đó chúng ta cần phải nhìn nhận lại vị
thế của ngành điện tử Việt Nam đang ở đâu trong Cộng đồng kinh tế Đông Nam Á(AEC). Phân tích những lợi
thế và bất lợi thế trong cạnh tranh của ngành điện tử Việt Nam để từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực, phù
hợp nhằm đưa ngành điện tử Việt Nam lên tầm cao mới, có vị thế quan trọng trong khu vực.
Từ khóa: Lợi thế cạnh tranh, điện tử Việt Nam, giải pháp ngành điện tử Việt Nam, mô hinh kim cương.
ABSTRACT
In the context of the country's ever-changing and deep integration with the world, especially since Vietnam
joined the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN) in 1995, Vietnam has been competing.
Increasingly harsh in all fields, all economic sectors, including electronics. So far, the position as well as the
contribution of local firms in the industry is still not high, although the number of domestic enterprises accounts
for a high proportion of the total number of enterprises in the electronics sector. Domestic market and export
turnover. We are limited in the production and distribution of electronic products, not the world-class
companies in the industry. That is why we need to look back at where the electronics industry of Vietnam is in
the ASEAN Economic Community (AEC). Analyze the advantages and disadvantages in the competition of
Vietnam electronics industry to develop practical and appropriate solutions to bring Vietnam electronics to new
heights and position in the region.
Key Words: Competitive advantage, Vietnamese electronics, Electronic law solution in Vietnam, Diamond
shape.
A. Giới thiệu
Cùng với ngành công nghệ thông tin, ngành công nghiệp điện tử là một trong những ngành công nghiệp
quan trọng mũi nhọn có hàm lượng khoa học công nghệ cao, và là ngành có tỷ trọng xuất khẩu luôn chiếm vị trí
dẫn đầu trong các ngành xuất khẩu của Việt Nam, theo Tổng cục Thống kê, từ 2013 đến nay, tổng giá trị xuất
khẩu hàng năm của ngành đã vượt ngưỡng 30 tỷ USD. Bên cạnh đó, đây cũng là ngành được quan tâm đầu tư
phát triển hàng đầu, mục tiêu đặt ra đối với ngành điện tử, công nghệ thông tin theo “Quy hoạch tổng thể phát
triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” được Thủ tướng chính phủ phê
duyệt ngày 09 tháng 06 năm 2014 là tăng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành giai đoạn đến năm 2020 đạt 17
- 18% và giai đoạn đến năm 2030 đạt 19 - 21%. Đồng thời, đến năm 2020 tỷ trọng ngành điện tử, công nghệ
thông tin chiếm 9 - 10% trong cơ cấu ngành công nghiệp và đáp ứng 65 - 70% nhu cầu thị trường; đến năm
2030 chiếm tỷ trọng 12 - 13% và đáp ứng 75 – 80% nhu cầu. Tuy nhiên cho đến nay vị thế cũng như đóng góp
của các doanh nghiệp nội địa trong ngành vẫn chưa cao, các doanh nghiệp nội địa chiếm tới 2/3 trong tổng số
doanh nghiệp ngành điện tử, nhưng chỉ chiếm 20% thị trường trong nước và 10% kim ngạch xuất khẩu. Mặt
khác, hiện nay chúng ta mới chỉ dừng ở mức độ là gia công và lắp ráp cho những dây chuyền sản xuất hiện đại
của thế giới chứ chưa thể tự mình phát triển một dây chuyền khép kín từ khâu sản xuất cho đến khâu tiêu thụ,
cũng như chưa tạo ra những doanh nghiệp nội địa có tầm cỡ thế giới trong ngành.
Trong bối cảnh đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, đặc biệt là từ sau khi
Cộng đồng Kinh tế Đông Nam Á có hiệu lực, nước ta đã và đang phải cạnh tranh ngày càng gay gắt trên mọi
lĩnh vực, mọi ngành nghề kinh tế, trong đó có ngành điện tử. Chính vì vậy, chúng ta cần phải nhận biết chính
xác thực trạng ngành điện tử Việt Nam hiện nay, phân tích những lợi thế của ngành điện tử trong nước có được
và những bất lợi thế trong cạnh tranh để từ đó đề ra những giải pháp đúng đắn nhằm đưa công nghiệp điện tử
nước nhà phát triển cho ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
Nội dung trong bài viết này sẽ phân tích mô hình kim cương của Micheal E.Porter trong việc đánh giá lợi
thế cạnh tranh quốc gia và lợi thế cạnh tranh của ngành. Vận dụng mô hình vào việc đánh giá lợi thế cạnh tranh
của ngành điện tử Việt Nam. Đề xuất giải pháp để nâng cao lợi thế cạnh tranh của ngành điện tử Việt Nam
trong bối cảnh gia nhập AEC.
Phương pháp nghiên cứu trong bài viết này chủ yếu là phương pháp phân tích định tính kết hợp với phương
pháp thống kê số liệu có liên quan đến nội dung bài viết để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
B. Nội dung
1. Cơ sở lý thuyết về lợi thế cạnh tranh.
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là một khái niệm đã được đề cập, quan tâm và phát triển cũng như được sử dụng trong nhiều lĩnh
vực như kinh tế, chính trị, quân sự, thể thao,…Ở mỗi giai đoạn, khái niệm này lại được trình bày theo những
góc độ khác nhau. Trong bài này quan tâm tới khái niệm cạnh tranh kinh tế, đây là sản phẩm tất yếu của sự phát
triển nền kinh tế xã hội, vậy nên khi nhắc tới cạnh tranh, ta hiểu đó là cạnh tranh kinh tế. Cạnh tranh kinh tế là
sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế: nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân…
nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ
hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình( theo Wikipedia tiếng
Việt). Cần chú ý là cạnh tranh ở đây là nhằm tìm kiếm phương thức hoặc trật tự hợp tác mà mục tiêu và kết quả
của mỗi bên liên quan đều cần phải đạt được, do vậy cạnh tranh là động lực nâng cao hiệu quả nền kinh tế, và
mỗi doanh nghiệp cần phải có được những lợi thế cạnh tranh nhất định
1.1.2. Lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Theo Viện quốc tế về quản lý và phát triển thế giới(IMD), lợi thế cạnh tranh quốc gia là khả năng tạo ra giá
trị gia tăng và nhờ đó làm giàu tài sản quốc gia. Còn theo Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF), lợi thế cạnh tranh là
khả năng nâng cao mức sống một cách nhanh và bền vững, tức là đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định, được đo lường bằng mức độ thay đổi trong thu nhập bình quân đầu người qua các năm.
Cơ sở của các phương pháp này được xác định bởi năng suất lao động thông qua GDP bình quân đầu
người. Hai cơ quan này xác định năng lực cạnh tranh quốc gia qua 8 yếu tố:
1. Mức độ mở cửa của nền kinh tế (gồm thương mại và đầu tư).
2. Vai trò của chính phủ.
3. Năng lực tài chính – tiền tệ.
4. Kết cấu hạ tầng.
5. Trình độ khoa học – công nghệ.
6. Trình độ quản lý doanh nghiệp.
7. Lực lượng lao động.
8. Thể chế kinh tế - chính trị.
1.1.3. Lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp.
Lợi thế cạnh tranh là một bộ phận cấu thành tạo nên năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Theo Porter thì
lợi thế cạnh tranh xuất phát từ giá trị mà một doanh nghiệp có thể tạo ra cho người mua, và giá trị đó vượt quá
phí tổn của doanh nghiệp. Ông đề cao khái niệm tập hợp ngành và cần cải thiện môi trường doanh nghiệp bằng
cách tổ chức chúng lại theo ngành. Ông chỉ ra rằng nhiều nguồn lợi thế cạnh tranh bắt nguồn từ vị trí địa lý và
sự tụ họp trong một ngành.
Cả hai cấp độ của lợi thế cạnh tranh có mối quan hệ tương hỗ mật thiết với nhau. Một quốc gia hay nền kinh
tế có khả năng cạnh tranh tốt sẽ giúp cho các doanh nghiệp tạo dựng được năng lực cạnh tranh tốt hơn trên thị
trường thế giới. Nói cách khác, lợi thế cạnh tranh quốc gia là một nguồn hình thành lợi thế cạnh tranh của doanh
nghiệp. Ngược lại, khi các doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh, nó sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao
thu nhập và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh và do đó góp phần vào việc nâng cao lợi thế cạnh tranh
quốc gia.
1.2. Các yếu tố đánh giá lợi thế cạnh tranh theo mô hình kim cương của MICHEAL E.PORTER
CHIẾN
LƯỢC DN, CẤU
TRÚC VÀ CẠNH
TRANH NỘI ĐỊA
CÁC NGÀNH
CÔNG NGHIỆP
PHỤ TRỢ VÀ
LIÊN QUAN
CHÍNH
CÁC NGÀNH CN PHỦ
PHỤ TRỢ VÀ LQ
2. Thực trạng và lợi thế cạnh tranh của ngành điện tử Việt Nam hiện nay.
2.1. Thực trạng ngành điện tử Việt Nam.
Ngành điện tử Việt Nam có thể chia thành năm nhóm chính như sau, ở đây dữ liệu về ngành điện tử Việt
Nam căn cứ theo những nhóm này, kết hợp thêm dữ liệu đối với ngành công nghệ thông tin:
• Điện tử gia dụng: dạng sản xuất nhập tất cả linh kiện chiếm tới 80%. Khoảng 70% tổng số tivi và radio,
cassette bán trên thị trường nội địa là lắp ráp trong nước, nhưng lại dùng linh kiện và các đầu vào khác của nước
ngoài. Đây là ngành có quy mô sản xuất lớn nhất, sự tham gia của cả doanh nghiệp Việt Nam xác định đây là
nhóm sản phẩm chủ lực, song lại là những sản phẩm mà ta chậm hơn các nước trong khu vực từ 10-15 năm
công nghệ.
• Thiết bị thông tin: Chủ yếu là kinh doanh lắp ráp máy tính, thiết bị mạng và thiết bị ngoại vi. Từ năm
1998, Việt Nam đã lắp ráp máy tính mang thương hiệu Việt Nam như CMS, T&H…nhưng toàn bộ linh kiện
điện cũng đều là nhập khẩu.
• Thiết bị viễn thông: Đây là lĩnh vực được nhà nước quan tâm nên đã được đầu tư chiều sâu với quy mô
thích hợp có công nghệ hiện đại, sản xuất được một số sản phẩm có chất lượng cao, thay thế nhập khẩu và bước
đầu có sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên vẫn chỉ dừng ở mức độ lắp ráp và vẫn nhập khẩu phần lớn linh kiện.
• Sản xuất phụ kiện và vật liệu: Hiện nay, Việt Nam đã sản xuất được một số loại linh phụ kiện như đế
mạch in, tụ điện các loại, cuộn cao áp, cuộn cảm, cuộn lái tia, chi tiết nhựa, tuy nhiên năng lực sản xuất phụ
kiện và vật liệu vẫn còn hạn chế.
• Sản xuất điện tử chuyên dụng và công nghiệp: Bao gồm các máy móc và các thiết bị điện tử phục vụ các
ngành công nghiệp khác như an ninh, y tế,…
Đối với Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung do nền tảng vật chất kỹ thuật lạc hậu,
còn yếu và thiếu chưa thể sản xuất các sản phẩm điện tử chuyên dùng, do đó quy trình chuyển dịch giá trị sẽ trải
qua bốn bước
Gia công, lắp 1) OEM (2) ODM (3) OBM
ráp đơn giản
• Bước 1: Gia công, lắp ráp đơn giản và lao động phụ thuộc vào thiết bị, công nghệ của nước ngoài.
• Bước 2: Cung ứng sản phẩm hoàn chỉnh với các thiết bị, linh kiện do địa phương sản xuất theo thiết kế
của nước ngoài (Original equipment manufacturing - OEM).
• Bước 3: Đảm nhiệm cả khâu thiết kế (Original design manufacturing - ODM).
• Bước 4: Hình thành thương hiệu riêng, thoát khỏi vai trò nhà cung ứng và tự mình trở thành công ty dẫn
đầu (Onginal brand manufacturing - OBM).
Với sự tiếp nhận hiệu ứng lan truyền công nghệ và tri thức, doanh nghiệp trong các ngành sẽ thực hiện
những bước chuyển. Nhưng trên thực tế cho thấy tiến trình này gặp rất nhiều vấn đề. Phần lớn các nhà cung ứng
địa phương quá thuộc vào chiến lược của khách hàng, từ đó dễ bị tổn thương và không thể tạo ra bước chuyển.
Đây cũng chính là thực trạng và vị trí của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam hiện tại. Thông thường các nước
chỉ mất 5-10 năm cho bước một, nhưng Việt Nam lại kéo dài suốt mấy thập niên. Đây là hệ lụy khiến ngành
điện tử Việt Nam hiện mất cân đối khá nghiêm trọng giữa sản phẩm điện tử tiêu dùng và sản phẩm điện tử
chuyên dụng
Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong
đó có đề cập đến một trong những nội dung nổi bật là việc sẽ xây dựng ngành điện tử, công nghệ thông tin trở
thành ngành công nghiệp chủ lực để tạo cơ sở hỗ trợ cho các ngành khác phát triển. Với 3 mục tiêu lớn:
Thứ nhất, tiếp tục phát triển phương thức lắp ráp các thiết bị điện tử, tin học để đáp ứng nhu cầu sản phẩm
điện tử trong nước và tham gia xuất khẩu; tăng cường liên kết với các tập đoàn điện tử, tin học lớn trên thế giới
để tiếp nhận công nghệ hiện đại và tăng năng lực sản xuất linh kiện trong nước; khuyến khích phát triển sản
xuất các phần mềm tin học phục vụ cho các ngành công nghiệp và tham gia vào thị trường xuất khẩu.
Thứ hai, đến năm 2020, nghiên cứu thiết kế, sản xuất, lắp ráp các thiết bị điện tử chuyên dụng, sản xuất
robot công nghiệp, sản xuất một số linh kiện, phụ kiện điện tử, cơ điện tử thông dụng. Trong đó, tập trung vào
bốn nhóm dự án và chương trình(máy tính và thiết bị văn phòng, thiết bị điện tử chuyên dụng, thiết bị điện tử
dân dụng, công nghiệp phần mềm) với các mục tiêu cụ thể. Bên cạnh đó đề cao việc tiếp nhận và làm chủ các
công nghệ mới trong những lĩnh vực đòi hỏi hàm lượng kiến thức cao.
Thứ ba, đến năm 2030, bên cạnh việc phấn đấu để tự cung cấp 80% nhu cầu phần mềm cho cả nước, sẽ đa
dạng hóa chủng loại, mẫu mã các thiết bị phần cứng đáp ứng trên 70% nhu cầu trong nước, tăng tỷ trọng thiết bị
không dây theo nhu cầu; và các thiết bị, công nghệ được chuyển hoàn toàn sang kỹ thuật số.
Hiện nay theo đánh giá của Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam, với sự xuất hiện của nhiều tập đoàn
điện tử toàn cầu, Việt Nam đang trở thành một trong những trung tâm sản xuất điện thoại di động, máy in,
photocopy lớn nhất trên thế giới. Điều này tạo ra cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác,
sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực điện tử, từ đó trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị
sản xuất toàn cầu. Tuy nhiên, để có được vị trí trong chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu của các tập đoàn lớn, doanh
nghiệp Việt phải đối mặt với không ít thách thức. Nguyên nhân là dù xuất khẩu của ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam gần đây tăng trưởng mạnh nhưng giá trị gia tăng chưa cao, nguyên liệu phần lớn phải nhập khẩu. Đơn
cử như năm 2014, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam xuất khẩu trên 32 tỷ USD, nhưng nhập khẩu đã lên tới
28 tỷ USD. Hơn nữa, để trở thành đối tác cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ cho các tập đoàn lớn, doanh
nghiệp Việt Nam còn phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này chứng tỏ
rằng ngành điện tử nội địa hiện tại chỉ mới chỉ dừng lại ở bước gia công lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài
chứ chưa thực sự có được những bước chuyển để có được những doanh nghiệp dẫn đầu. Các doanh nghiệp điện
tử trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện và công nghiệp
phụ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp đạt chỉ đạt 20-30%, chủ yếu là bao bì, các chi tiết nhựa, cơ khí,
khiến lợi nhuận thấp và giá trị gia tăng của sản phẩm không cao, chỉ ước tăng 5-10%/năm.
Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp nội địa cạnh tranh được, và nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm
ngành điện tử Việt Nam, chúng ta cần nhận thức được lợi thế cạnh tranh của chúng ta ở đâu? Đây là câu hỏi sẽ
được trả lời trong phần tiếp theo bài viết này.
2.2. Lợi thế cạnh tranh của ngành điện tử Việt Nam theo mô hình của MICHEAL PORTER.
2.2.1. Các yếu tố sản xuất
2.2.1.1. Nguồn nhân lực.
Đặc trưng của ngành điện tử là sản xuất theo quy trình, với tính tiêu chuẩn rất cao. Ở những công đoạn lắp
ráp có giá trị gia tăng thấp, nguồn nhân lực giá rẻ trở thành yếu tố cơ bản đem lại lợi thế cho những nơi sở hữu
nó. Tuy nhiên lợi thế này là không bền vững do nguồn nhân công này hoàn toàn có thể có được thông qua sự
luân chuyển nhân lực nội địa và quốc tế. Do vậy, để có thể lan rộng trong mạng sản xuất toàn cầu, nguồn nhân
lực cần phát triển về chất xám, có trình độ, kỹ năng thay vì tập trung vào các công đoạn với yêu cầu giản đơn.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực chất lượng cao chính là yếu tố thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành
điện tử vì các doanh nghiệp nước ngoài muốn nhìn thấy triển vọng phát triển dài hạn, nếu như xuất phát điểm
ban đầu là những khó khăn về nguồn nhân lực, các chính sách phải hết sức tập trung vào việc đào tạo đáp ứng
đúng với nhu cầu của các doanh nghiệp. Trong khi giá nhân công rẻ biểu hiện như lợi thế so sánh tĩnh thì nguồn
nhân lực chất lượng cao chính là yếu tố chuyên biệt tạo ra lợi thế so sánh động cho phần lớn các nước đi sau
trong làn sóng công nghiệp hóa toàn cầu, điển hình như Việt Nam chúng ta.
Với dân số gần 93 triệu người (năm 2016), Việt Nam là một nước đang ở trong giai đoạn dân số vàng, lực
lượng lao động chiếm tỷ lệ cao trong tổng dân số(trên 50%), tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2011 –
2016 là 1,3%
Bảng 1. Lực lượng lao động của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2016
Đơn vị: nghìn người
Dân số cả Tỷ lệ lực lượng lao động so
Năm Lực lượng lao động
nước với dân số cả nước(%)
2011 87840 51724 58.88
2012 88776 52348 58.97
2013 89716 53246 59.35
2014 90729 53748 59.24
2015 91709 53.984 58.86
2016 92695 54.445 58.73
( Nguồn: Báo cáo lao động việc làm năm 2016 Tổng cục Thống kê).
Tuy nhiên, lao động Việt Nam chủ yếu chưa qua đào tạo, tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn kỹ
thuật chiếm hơn 80%. Nhưng điều đáng mừng là tỷ lệ này có xu hướng giảm dần, từ 84,4% năm 2011 xuống
81,4% năm 2014 và 79,1% năm 2016, thay vào đó là sự tăng lên của tỷ lệ lao động qua đào tạo đại học đã tăng
3,1 % từ 6,1% năm 2011 lên 9,2% năm 2016.
Năng suất lao động của lao động Việt Nam mặc dù có sự tăng trưởng qua các năm, năm 2011 là 53,74 triệu
đồng/người tăng lên 73,27 triệu đồng/người năm 2014 và 84,5 triệu đồng/người năm 2016, tuy nhiên con số này
vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
Như vậy có thể thấy, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện tại chỉ có thể đem lại lợi thế cạnh tranh về mặt số
lượng( tạo ra tác động ngắn hạn do là yếu tố cơ bản phù hợp với công đoạn lắp ráp có giá trị gia tăng thấp) và ở
phẩm chất nghề nghiệp (người Việt Nam vốn được biết đến với sự cần cù, thông minh và sáng tạo). Hai lợi thế
này tạo tiền đề để phát triển về mặt chất lượng, phát triển yếu tố cơ bản thành cao cấp, phổ thông thành chuyên
biệt, đây sẽ là một vấn đề cấp thiết cần được ưu tiên giải quyết.
2.2.1.2. Nguồn tài sản vật chất và cơ sở hạ tầng.
Theo báo cáo về mức độ canh tranh toàn cầu “Global Competitiveness” của Diễn đàn kinh tế thế giới, điểm
cơ sở vật chất của Việt Nam đã cải thiện trong thập kỷ vừa qua, cho thấy sức tăng trưởng mạnh và được hỗ trợ
bởi các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn hơn. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chỉ xếp thứ 81 ở hạng mục cơ
sở vật chất trong tổng số 144 quốc gia trong báo cáo mới nhất. Những cơ sở vật chất tạo nên lợi thế của Việt
Nam thể hiện ở: hệ thống khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) và vị trí giao thương quốc tế. Theo thống
kê, cả nước hiện có hơn 300 KCN, KCX với tổng diện tích hơn 114000 ha, trong đó tập trung nhiều ở các tỉnh,
thành phố như: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Bà Rịa – Vũng
Tàu, Cần Thơ với quy mô trên 10 KCN, KCX. Các KCN, KCX này đã có đóng góp không nhỏ vào kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng năm, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động, bên cạnh đó cũng góp phần hiện đại hóa công
nghệ sản xuất nước nhà, phát triển cơ sở hạ tầng, giảm bớt thủ tục hành chính cũng như chi phí vận hành quản
lý và thúc đẩy liên kết mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế. Kết hợp với sự phát triển hệ thống đường cao tốc
những năm gần đây, điển hình là tuyến Láng – Hòa Lạc, Đà Nẵng – Quảng Ngãi, Long Thành – Dầu Giây, Sài
Gòn – Trung Lương đã trở thành những yếu tố cao cấp của ngành điện tử, giúp việc giao thương giữa các tỉnh
thành, vùng kinh tế được thuận lợi hơn, việc lưu chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu trong ngành điện tử cũng
nhờ thế được nhanh chóng và hiệu quả.
Ngoài ra Việt Nam có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi cho việc giao thương quốc tế. Lãnh thổ nước ta có hai
mặt giáp biển, hai mặt giáp lục địa với tổng chiều dài đường biên giới hơn 4500km và đường biển hơn 3200km.
Với 49 cảng biển, 8 cảng hàng không và 23 cửa khẩu, Việt Nam là trung tâm trung chuyển hàng hóa quốc tế
trên trục giao thương Châu Á – Thái Bình Dương, có đủ điều kiện để mở rộng giao thương với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới.
2.2.1.3. Những bất lợi về yếu tố sản xuất.
Về ngành điện tử Việt Nam có một số bất lợi sau đây:
Thứ nhất, Mặt dù chúng ta có lợi thế về số lượng và phẩm chất nghề nghiệp nhưng ngược lại nguồn nhân
lực chất lượng cao trong ngành điện tử Việt Nam còn khá thấp dưới 20% /lao động trong ngành điện tử. Thêm
vào đó chất lượng đội ngũ lao động qua đào tạo cũng còn hạn chế. Nguồn kiến thức khoa học và công nghệ lỗi
thời
Thứ hai, nguyên vật liệu để sản xuất các sản phẩm tinh vi đa phần đều phải nhập khẩu với giá thành cao.
Doanh nghiệp Việt Nam đang phải nhập khẩu nhiều loại linh kiện từ các nước ngoài khối ASEAN và chịu thuế
nhập khẩu ưu đãi (MFN) với mức thuế suất cao, bình quân từ 15% đến 20%, còn sản phẩm nguyên chiếc nhập
từ các nước ASEAN chỉ có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 5%.
Hai bất lợi điển hình này buộc những doanh nghiệp nội địa phải không ngừng đổi mới với tốc độ ngày càng
nhanh để bắt kịp với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như vươn lên để tạo ra lợi thế cạnh tranh
cho riêng mình.
2.2.2. Các điều kiện về cầu.
Theo số liệu thống kê GDP bình quân đầu người ngày càng gia tăng do đó người Việt cũng chi tiêu mạnh
tay hơn, chi tiêu hàng tháng của mỗi người cao hơn.
Bảng 2. GDP bình quân đầu người của Việt Nam
Hạng mục 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Tăng trường quy mô 6.7 3.9 3.8 9.5 8.4 7.8 6.0 6.5
thị trường bán lẻ (%)
Tăng trưởng cầu thị 8.4 9.9 9.9 10.2 10.8 10.7 10.6 10.6
trường: Thiết bị điện tử
gia dụng(%)
Tivi (số lượng trên 241.3 244.5 248.4 253.5 259.2 265.6 272.8 280.7
1000 dân)
Tăng trưởng cầu 10.8 10.9 10.7 11.2 11.8 11.9 11.6 11.9
thị trường: Thiết bị
nghe nhìn gia đình(%)
Nguồn: 2015-16 Outlook for the Retail and Consumer Products Sector in Asia (www.pwc.com)
C. Kết luận
Qua phân tích tổng quát chúng ta cần nhận thức rằng hiện tại năng lực cạnh tranh của ngành điện tử nước ta
còn yếu so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới và cũng chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Lý do được đưa ra là do Nhà nước còn chậm trong việc nhận định về tầm quan trọng của những nhân tố tạo ra
lợi thế cạnh tranh cho ngành điện tử Việt Nam, ngoài ra còn thiếu chính sách phát triển hoàn thiện và có định
hướng. Bên cạnh đó là do các doanh nghiệp chưa có những nhận định chiến lược phù hợp với thế mạnh bản
thân cũng như tình hình phát triển của thế giới. Vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành điện tử, cần
có nhận thức rõ ràng hơn về lợi thế cạnh tranh và những mặt còn hạn chế của ngành ở thời điểm hiện tại. Thấy
được điều đó sẽ giúp Chính phủ và các doanh nghiệp ngành điện tử trong nước tìm ra các chiến lược và giải
pháp phù hợp trong bối cảnh hội nhập AEC.
Có thể thấy việc AEC có hiệu lực sẽ ảnh hưởng tới cả các nhân tố trong mô hình xác định lợi thế cạnh tranh
ngành điện tử, điều quan trọng là xu hướng cũng như mức độ tác động như thế nào sẽ là một hướng nghiên mở
rộng thêm cho bài viết này.
Website
1. Báo Sài gòn giải phóng Online, 2015. Công nghiệp điện tử Việt Nam: Miếng ngon thuộc về doanh
nghiệp ngoại.
<http://www.sggp.org.vn/kinhte/2015/9/397789/>
Wikipedia tiếng Việt. Cạnh tranh (kinh doanh).
<https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A1nh_tranh_(kinh_doanh)>
2. Tạp chí Cộng sản, 2014. Giáo dục đào tạo với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện
nay.
<http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2014/30648/Giao-duc-dao-tao-voi-phat-trien-
nguon-nhan-luc-chat-luong.aspx>
3. Café F, 2015. Thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng.
<http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/thu-nhap-binh-quan-dau-nguoi-tai-viet-nam-dang-tang-len-nhanh-chong-
20150914083809848.chn>
4. Báo Sài gòn giải phóng Online, 2015. Ngành công nghiệp điện tử nội địa khó cạnh tranh.
<http://www.sggp.org.vn/congnghiepkt/2015/1/373717/>
5. Tinvn, 2014. Nỗi đau của một quốc gia không sản xuất nổi con ốc vít.
<http://tinvn.info/noi-dau-cua-mot-quoc-gia-khong-san-xuat-noi-con-oc-vit.html>