You are on page 1of 17

Đề bài: Đánh giá khả năng tham gia chuỗi cung ứng quốc tế của các doanh

nghiệp hỗ trợ Việt Nam

I. Khát quát chung về ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
1.1. Khái niệm của ngành công nghiệp hỗ trợ
Công nghiệp hỗ trợ là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, phụ kiện,
phụ tùng linh kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, chế
biến, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
Ngoài ra nó còn được định nghĩ trên phạm vi rộng hơn đó là những ngành cung cấp tất
cả các yếu tố đầu vào vật chất bao gồm các bộ phận, linh kiện, công cụ, máy móc và
vật liệu. Tuy nhiên, phạm vi của các ngành công nghiệp hỗ trợ không xác định quy mô
doanh nghiệp, quyền sở hữu hoặc kiến trúc sản xuất. Họ có thể bao gồm các công ty
nước ngoài và trong nước, các công ty lớn hơn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các
công ty sản xuất tích hợp và mô-đun.
1.2. Sự ra đời và phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho tới
nay
Thuật ngữ về ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam xuất hiện khá muộn, vào
khoảng những năm đầu của thế kỷ XXI. Chính phủ Việt Nam đã không quan tâm
nhiều đến nó cho đến khi việc soạn thảo quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ
trợ được yêu cầu bởi Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 1 (2003–2005)
như một trong những biện pháp cấp bách để thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Do chính sách quy hoạch kinh tế, kế hoạch hóa và công nghiệp nặng của Việt
Nam trước đây rất nghiêm túc, Việt Nam đã thúc đẩy các ngành sản xuất nội bộ hóa
tất cả các yếu tố đầu vào trong một cơ cấu hợp nhất theo chiều dọc, có thể là máy
nông nghiệp, xe đạp hoặc ô tô. Các ngành công nghiệp này không còn tồn tại, đã được
sắp xếp hợp lý hoặc chuyển sang các hoạt động khác kể từ khi thực hiện Đổi mới năm
1986. Do thiếu thông tin cũng như thực tế là các nhà cung cấp trong nước không thể
đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, các công ty nước ngoài đã đến Việt
Nam vào giữa những năm 1990 có quan điểm cho rằng các ngành công nghiệp hỗ trợ
chưa tồn tại hoặc còn rất sơ khai ở Việt Nam vào thời điểm này. Tuy nhiên, một cuộc
khảo sát do Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) thực hiện năm 2004 cho thấy
các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đang bắt đầu phát triển.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, nhập siêu 9 tháng đầu năm 2017 đã lên tới
500 triệu USD. Mặc dù có 4 ngành chủ lực với kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD,
nhưng kim ngạch nhập khẩu máy móc, dụng cụ, phụ kiện, điện thoại và linh kiện của
chúng tăng cao đã dẫn đến thâm hụt.
Trong năm 2021 vừa qua, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ gặp rất nhiều
khó khăn, thách thức do chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy. Chuỗi cung ứng trong
nước cũng bị gián đoạn bởi các chính sách, quy định về giãn cách, phòng chống dịch.
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ liên tục đối mặt với các vấn đề khách quan lẫn chủ
quan, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng lên gấp 2 lần so với năm 2019 trong khi số
lượng đơn hàng lại giảm đáng kể. Các quy định về hạn chế đi lại quốc tế và trong
nước cũng làm giảm cơ hội tiếp cận trực tiếp với khách hàng. Cùng với đó, khó khăn
trong việc nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện đầu vào, đồng thời, xu hướng thị trường
khó dự đoán… khiến doanh nghiệp hỗ trợ không thể lập kế hoạch dài hạn. Trong khi
đó, xu hướng làm việc trực tuyến chưa phù hợp và thích nghi với môi trường làm việc
và nhân công tại các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói riêng và ngành sản xuất nói
chung, bởi chuyển đổi số trong lĩnh vực sản xuất vẫn còn khá mới mẻ.
Tuy vậy, theo đánh giá của Cục Công nghiệp, năm 2021 vẫn có một số điểm
sáng trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Vai trò của các công ty đa quốc gia, các tập
đoàn sản xuất ngày càng lớn mạnh và tác động đến kinh tế toàn cầu. Từ năm 2017,
căng thẳng thương mại Trung – Mỹ đã tạo ra xu hướng chuyển dịch sản xuất từ Trung
Quốc sang nước thứ ba, trong đó có Việt Nam. Từ giữa năm 2018 đến nay, các doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế, đã nhận được
thêm nhiều hợp đồng, ngay cả trong 2 năm Covid-19 vừa qua. Xu hướng này đã mở ra
cơ hội mới cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia vào chuỗi
cung ứng toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia, được thử sức ở thị trường rộng lớn
hơn. Cụ thể, Apple đã chuyển 11 nhà máy của các doanh nghiệp Đài Loan thuộc chuỗi
cung ứng sang Việt Nam trong vài tháng gần đây. Tập đoàn LEGO (Đan Mạch) xây
dựng nhà máy mới tại Bình Dương, với dự án quy mô đầu tư hơn 1 tỷ đô la Mỹ. Tập
đoàn đa quốc gia Techonic Industries (TTI), chuyên về các sản phẩm thiết bị điện và
gia dụng, với 12 nhà máy trên toàn cầu, 76% sản phẩm cung cấp cho thị trường Hoa
Kỳ, Bắc Âu, cũng đang triển khai dự án đầu tư 650 triệu đô vào Khu công nghệ cao
TP. Hồ Chí Minh. Tương tự, nhiều doanh nghiệp khác như Foxconn, Luxshare,
Pegatron, Wistron cũng mở rộng quy mô sẵn có tại Việt Nam.
Theo Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), có khoảng 5-10% doanh
nghiệp sản xuất linh kiện cơ khí và khuôn nhựa đang là nhà cung cấp cấp I, chủ yếu ở
Hà Nội và TP HCM đã mở rộng sản xuất, đầu tư dây chuyền mới hoặc mở nhà máy
mới trong hai năm qua. Khảo sát của VASI cũng cho thấy nhiều doanh nghiệp công
nghiệp hỗ trợ đã tận dụng tốt cơ hội do dịch Covid-19 mang lại và cho rằng trong thời
gian tới họ sẽ nhận được nhiều đơn hàng hơn nhờ làn sóng chuyển dịch sản xuất từ
Trung Quốc. Hầu hết doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đều sẵn sàng nguồn lực và
phương án tài chính để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nước ngoài.
Theo đánh giá của Cục Công nghiệp, sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu vừa
là thách thức song cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Do hàng
nhập khẩu cả qua đường tiểu ngạch lẫn chính ngạch bị hạn chế, các khách hàng có xu
hướng tìm nguồn cung trong nước tăng lên. Chính vì thế, doanh nghiệp Việt Nam có
đôi chút lợi thế khi vẫn duy trì được các dịch vụ hỗ trợ, cung ứng hàng hóa… tới
những khách hàng trước đây chủ yếu sử dụng nguồn cung từ nước ngoài.
Dịch Covid-19 cũng góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Nhiều doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã tích cực tìm kiếm các giải pháp công nghệ trong nước để
phát triển hệ thống vận hành online linh hoạt, giúp cho quá trình phát triển khách hàng
và xuất khẩu thuận tiện hơn, việc trao đổi chỉ cần qua trực tuyến, quá trình đánh giá
ngắn và nhanh hơn. Cùng với đó, một điểm đáng lưu ý, bối cảnh khó khăn của dịch
Covid-19 cũng đã thúc đẩy một số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển thêm
các sản phẩm mới phục vụ công tác phòng chống dịch. Trải qua những khó khăn do
dịch bệnh, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã tạo dựng được văn hóa doanh
nghiệp, có được sự đồng lòng, quyết tâm của các cán bộ công nhân viên trong việc
tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng chống dịch và đồng hành cùng chủ doanh
nghiệp vượt qua khó khăn.
Ngoài ra, các gói hỗ trợ của Chính phủ trong việc duy trì chi phí lãi vay và tỷ giá
ổn định cũng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc duy trì hoạt động sản xuất
kinh doanh, nhờ đó duy trì được việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.
Theo đánh giá của một số chuyên gia trong lĩnh vực, mặc dù các doanh nghiệp công
nghiệp hỗ trợ đã tận dụng được cơ hội trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp
trên toàn thế giới, song vẫn tồn tại một số thách thức cần có sự hỗ trợ của chính sách
để giúp doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ duy trì được cơ hội, lợi thế của mình.
Năm 2021, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 4,82% so với
năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37%, ngành sản xuất
phân phối điện tăng 5,24%, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải tăng 4%... Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng
trưởng chính của toàn ngành công nghiệp, đóng vai trò chủ chốt, dẫn dắt tăng trưởng
của nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê tính đến đầu 2022, Việt Nam hiện có khoảng 4.000 doanh
nghiệp sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, với tổng số 4.205 sản phẩm. Trong
đó có 1.567 sản phẩm hoàn chỉnh. Những con số tuy đã cải thiện hơn, nhưng vẫn còn
quá “khiêm tốn” so với nhu cầu và tiềm năng hiện có. Theo Bộ Công Thương, 70%
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ.
Về ngành công nghiệp ô tô, tại Việt Nam hiện nay có hơn 20 doanh nghiệp lắp
ráp ô tô lớn đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp ô tô, nhưng chỉ có 81 nhà cung
cấp cấp 1 và 145 nhà cung cấp cấp 2 và 3 là cung cấp nguồn lực đầu vào cho toàn
ngành. Con số này so với tiềm năng lĩnh vực công nghiệp phụ trợ là tương đối khiêm
tốn. Trong khi đó, tại Thái Lan, với số lượng khiêm tốn chỉ có 16 doanh nghiệp lắp
ráp ô tô lớn đang hoạt động trên toàn quốc, nhưng quốc gia này sở hữu 690 nhà cung
cấp cấp 1 và 1.700 nhà cung cấp cấp 2 và 3. Thêm vào đó, mối liên kết giữa các doanh
nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp tư nhân trong nước và giữa các doanh nghiệp
nhỏ và lớn vẫn còn chưa phát huy được hiệu quả, hệ quả là sự thiếu hụt nguồn cung
trong nước, phụ thuộc vào nhập khẩu.
Doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có những bước tăng trưởng nhảy vọt về số
lượng các doanh nghiệp đầu từ mới, giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng tăng cao,
các mẫu mã hàng hóa đa dạng và cũng đáp ứng được cơ bản nhu cầu của khách hàng
về mẫu mã, tính năng cũng như giá cả.
Bên cạnh đó, hiện nay, một số ngành công nghiệp có thế mạnh của Việt Nam
như điện tử, dệt may, da giày, lắp ráp ô tô, xe máy… hầu như chưa có công nghiệp hỗ
trợ đi kèm, nên phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến sản xuất nhiều
khi còn manh mún, bị động, chi phí sản xuất cao.
Theo Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản – JETRO, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu,
linh kiện và phụ tùng của Việt Nam mới ở mức 34%, trong khi tỷ lệ này của Thái Lan
và Trung Quốc lần lượt là 57% và 68%. Sự tham gia của các ngành công nghiệp hỗ
trợ của Việt Nam vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI được đánh giá là
thấp. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có khoảng 151.000 doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tại Việt Nam, tuy nhiên, chỉ
có 1.400 công ty Việt Nam, hầu hết được xếp hạng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tham
gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Chỉ 20% trong số họ đáp ứng các tiêu chí để
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và 36% trong số đó có thể tham gia sản xuất
theo định hướng xuất khẩu. Đầu ra của các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
chỉ đáp ứng 25 – 30% nhu cầu tổng thể cho lĩnh vực công nghiệp.
Theo Vietnam Manufacturing, giá trị nhập khẩu của lĩnh vực điện tử chiếm 77%
tổng giá trị tạo ra. Sản xuất trong nước chủ yếu tập trung vào linh kiện và phụ tùng
nhựa – cao su. Các doanh nghiệp FDI và liên doanh đang chiếm lĩnh thị trường với
các sản phẩm chất lượng cao, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang tham gia
vào các quy trình đơn giản và giá trị gia tăng thấp như đóng gói, sản xuất sách hướng
dẫn và linh kiện nhựa.
II. Thực trạng khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của ngành công
nghiệp hỗ trợ Việt Nam hiện nay
2.1. Khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm
Có thể nói, khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm của các doanh nghiệp
hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, chưa
thể đuổi kịp được các nước phát triển hay công xưởng của thế giới là Trung Quốc.
Tuy nhiên bù lại, các doanh nghiệp của chúng tại lại có khả năng thích ứng với những
biến đổi của thế giới rất nhanh và hiệu quả. Có thể kể đến năm 2020 và 2021 vừa qua,
khi ngành công nghiệp của không chỉ Việt Nam mà cả thế giới đều đang chao đảo vì
đại dịch, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nắm bắt được cơ hội và chuyển sang
nghiên cứu và sản xuất những thiết bị y tế từ đơn giản cho đến phức tạp và xuất khẩu
ra thế giới, đặc biệt là các nước Châu Âu. Nhờ đó không những đứng vững qua đại
dịch mà còn kiếm về cho doanh nghiệp của mình một khoản lợi nhuận khổng lồ. Chỉ
trong một khoảng thời gian nghiên cứu ngắn, các doanh nghiệp từ sản xuất các linh
kiện điện từ, chế tạo bộ phận ô tô,... đã có thể sản xuất ra hàng loạt thiết bị y tế hiện
đại đạt những tiêu chuẩn quốc tế và được phép xuất khẩu vào nhiều quốc gia có quy
định nghiêm ngặt. Điều này chứng tỏ khả năng học hỏi, tìm tòi và nghiên cứu của các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn luôn phát triển trong suốt thời gian qua.
Bên cạnh đó, hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp Việt Nam
đã được cải thiện. Ví dụ như tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử gia dụng là 30% -
35%; điện tử phục vụ các ngành ô-tô - xe máy khoảng 40% (chủ yếu cho sản xuất xe
máy). Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, một số dòng xe đã đạt tỷ lệ nội địa hóa
cao, đáp ứng thị trường nội địa (xe tải đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, tỷ lệ
nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng
khoảng 90% nhu cầu, tỷ lệ nội địa hóa đạt tối đa đến 40%). Cụ thể, hãng Toyota công
bố tỷ lệ nội địa hóa sau hơn 25 năm hoạt động tại Việt Nam đạt từ 7-37%, trong đó, xe
Toyota Innova đạt tỷ lệ 37%, các hãng xe còn lại chỉ đạt 7-10%. Đây là một con số
tương đối thấp, cho thấy khả năng thích ứng và phát triển sản phẩm của doanh nghiệp
Việt vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu của các tập đoàn lớn ví dụ như Toyota.
Trong Hội chợ Công nghiệp Hỗ trợ Hà Nội 2022, tìm hiểu của một doanh nghiệp
có tham gia là IPQ Consulting cho thấy rằng có một số doanh nghiệp Việt Nam hoạt
động trong các ngành công nghiệp hỗ trợ như cơ khí chính xác, chế tạo,... đã hoạt
động trên thị trường được 2-3 năm nhưng vẫn chưa áp dụng các tiêu chuẩn ISO như
ISO22000, ISO14001, ISO9001,... cho các sản phẩm của công ty mình. Sự thiếu đầu
tư nghiên cứu phát triển sản phẩm như thế có thể góp phần làm các doanh nghiệp này
chưa thể lớn mạnh được.
Như vậy, có thể thấy khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm của các doanh
nghiệp Việt Nam tuy chưa thực sự phát triển, thiếu sự chủ động, chưa có sự đồng đều
giữa các doanh nghiệp và còn phụ thuộc khá nhiều vào sự chuyển giao công nghệ của
các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam nhưng rất nhiều doanh nghiệp khác thì lại có
được sự nhạy bén với sự thay đổi của thời thế giúp cho bản thân doanh nghiệp vẫn có
thể phát triển và vượt qua thời kì kinh tế khó khăn.
2.2. Khả năng sản xuất linh kiện và lắp ráp thành phẩm
Ngược lại với nghiên cứu và phát triển sản phẩm, khả năng sản xuất linh kiện và
lắp ráp thành phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đang khá phát triển và nhận được
sự quan tâm của nhiều công ty đa quốc gia trên thế giới.
Theo đánh giá của Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương, năm 2021 là năm có
nhiều khó khăn, thách thức đối với ngành sản xuất ô tô trong nước do ảnh hưởng từ
đại dịch Covid-19 đến chuỗi cung ứng toàn cầu, cung ứng trong nước cũng như nhu
cầu tiêu thụ của người dân. Tuy nhiên, với các chính sách hỗ trợ kịp thời của Chính
phủ và các Bộ, ngành, ngành ô tô vẫn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh. Số
lượng sản xuất xe lắp ráp trong năm 2021 vẫn đạt khoảng 299.800 xe, tăng 9,1% so
với năm 2020.
Các doanh nghiệp trong nước đã có thể cung cấp một số phụ tùng, linh kiện như
linh kiện, phụ tùng nhựa, cao su cho các sản phẩm điện tử, ô tô xe máy, phụ tùng linh
kiện nhôm và kim loại cho ô tô, xe máy và các sản phẩm máy móc thiết bị. Nhờ khả
năng cung cấp một số linh kiện, phụ tùng cho các ngành công nghiệp trong nước, tỷ lệ
nội địa hóa của một số ngành công nghiệp tại Việt Nam đã được cải thiện. Cụ thể, cả
nước có khoảng hơn 350 doanh nghiệp sản xuất liên quan đến ô tô; trong đó, có
khoảng hơn 40 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô; 45 doanh nghiệp sản xuất khung
gầm, thân xe, thùng xe; 214 doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô... với sản
lượng sản xuất lắp ráp trong nước đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe dưới 9 chỗ trong
nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam cũng từng
bước nâng cao trình độ, sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ, độ chính xác
cao, góp phần tăng giá trị gia tăng.
Ngay khi đại dịch đang hoành hoành trên khắp thế giới, có khoảng 200 doanh
nghiệp Việt Nam chuyển từ sản xuất linh kiện, phụ kiện chuyển hướng sang sản xuất
mặt hàng phòng, chống dịch COVID-19, như: Khẩu trang, găng tay y tế, kính bảo hộ
y tế, quần áo phòng dịch. Trước nhu cầu gia tăng mặt hàng này trên thế giới, các cơ sở
sản xuất trong nước cần tăng công suất lên 40%. Tuy nhiên, khi xuất khẩu các trang
thiết bị bảo hộ chống dịch, doanh nghiệp trong nước đang gặp khó khăn do tiêu chuẩn
trong nước và tiêu chuẩn tại các quốc gia nhập khẩu (Mỹ, châu Âu) còn khác biệt khá
lớn. Ban đầu có rất ít doanh nghiệp trong nước đạt được các tiêu chuẩn của nước nhập
khẩu, nhưng sau một thời gian nghiên cứu thì chúng ta đã xuất khẩu được một lượng
rất lớn các mặt hàng này, kiếm về lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp trong thởi điểm
khó khăn. Điều này cũng đã chứng minh khả năng sản xuất và lắp ráp thành phẩm của
nước ta hiện nay đang rất tốt.
Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện của Việt Nam có năng lực tốt ở các lĩnh
vực như: Sản xuất khuôn mẫu các loại; Linh kiện xe đạp, xe máy; Linh kiện cơ khí
tiêu chuẩn; Dây cáp điện; Linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật; Săm lốp các loại… Các
sản phẩm này đã đáp ứng tốt nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiều quốc
gia trên thế giới. Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước cũng ngày càng tích
cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo, trong đó
đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo như: Viettel, Vingroup, Trường Hải,
Thành Công, Hòa Phát..., đã tạo nền tảng cho ngành công nghiệp hỗ trợ, giúp các
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào
mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Có thể kể tới một thành công rõ nét của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam nhìn
từ trường hợp Samsung. Theo Cục Công nghiệp, năm 2014, Tập đoàn Samsung đưa ra
danh sách 170 phụ kiện doanh nghiệp Việt Nam có thể cung ứng cho sản phẩm
GalaxyS4 và Tab, nhưng các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đã
không thể đáp ứng được dù chỉ là linh kiện đơn giản nhất và phải chấp nhận thất bại
ngay trên sân nhà. Một năm sau, để không bỏ lỡ cơ hội, 4 doanh nghiệp công nghiệp
hỗ trợ Việt Nam đã đạt cấp độ nhà cung ứng cấp 1 của Samsung và tiếp tục gia tăng
số lượng nhà cung ứng cho Samsung trong những năm sau đó. Theo đó, số lượng nhà
cung ứng cấp 1 của Samsung tăng từ 35 doanh nghiệp năm 2018 lên 42 doanh nghiệp.
Số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng tăng từ 157 doanh nghiệp năm 2018 lên 170 doanh
nghiệp, 240 doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới cung ứng của Samsung.
Ở thời điểm hiện tại, các nguồn lực trên thế giới đang liên tục đổ về khu vực
Đông Nam Á, trong đó có cả Việt Nam. Các tập đoàn toàn cầu đang ra sức tìm kiếm
các nhà cung cấp trong nước, tuy nhiên khả năng đáp ứng yêu cầu của họ đối với các
doanh nghiệp sản xuất Việt Nam là rất khiêm tốn. Một số tập đoàn mặc dù rất muốn
mở rộng sang thị trường Việt Nam nhưng sau một thời gian dài tìm kiếm vẫn chưa thể
tìm được những đối tác đầu vào ăn ý. Ví dụ như trường hợp đối với Bosch, là một tập
đoàn công nghệ đa quốc gia chuyên cung cấp công nghệ, thiết bị dùng cho ô tô và có
quan hệ kinh doanh với hầu như toàn bộ các công ty ô tô trên thế giới. Bosch đã tìm
kiếm đối tác hỗ trợ trong nước trong 3 năm nay, tuy nhiên, chưa có nhà cung ứng nào
tại Việt Nam đủ tiêu chuẩn trở thành nhà cung cấp tiềm năng.
Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ Công Thương, thực tế các sản phẩm công nghệ hỗ
trợ trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ
trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Các doanh nghiệp hỗ
trợ Việt Nam vẫn chưa thể tự sản xuất được các cụm linh kiện mà phải chia nhỏ nó
cho nhiều doanh nghiệp khác nhau, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng cao và khó cạnh
tranh về giá. Ngay tại nhà máy ở Việt Nam, nhiều linh kiện không thể gia công hoàn
thiện, phải gửi sang các nước khác rồi sau đó nhập lại về Việt Nam khiến doanh
nghiệp tốn thêm rất nhiều thời gian, công sức và chi phí.
Như vậy, có thể thấy khả năng sản xuất các linh kiện phụ kiện và lắp ráp thành
phẩm của các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang khá phát triển và thu hút được sự
đầu tư của nhiều nước, nhiều công ty đa quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên vẫn tồn tại
một số hạn chế về khả năng thích ứng với các yêu cầu sản xuất sản phẩm mang hàm
lượng công nghệ quá cao, vượt quá khả năng hiện tại của mặt bằng chung các doanh
nghiệp.
2.3. Khả năng marketing
Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam vẫn
còn quá tập trung vào các khâu sản xuất thành phẩm mà chưa tập trung nhiều vào các
khâu marketing cũng như quảng bá sản phẩm của mình đến với khách hàng, đặc biệt
là các khách hàng lớn, các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp này thường chỉ tập
trung vào một số đơn đặt hàng nhất định đến từ một số khách hàng cố định mà chưa
thực sự mở rộng phạm vi hoạt động của mình, vì vậy nên các doanh nghiệp trong
ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, để giúp đỡ các doanh nghiệp, Sở Công thương Hà Nội phối hợp cùng
một số doanh nghiệp thường xuyên cùng nhau tổ chức các hội chợ giao thương để
marketing cho các doanh nghiệp Việt và mở rộng tệp khách hàng. Tiêu biểu là Hội
chợ Công nghiệp Hỗ trợ Hà Nội (FBC ASEAN), đây là sự kiện giao thương chuyên
ngành chế tạo nhận được nhiều sự quan tâm của doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Kể từ năm 2020, FBC được tổ chức đồng thời ở cả hai nước Việt Nam và Thái Lan,
đồng thời kết hợp hai hình thức Online và Offline nhằm mang đến cho các doanh
nghiệp tham gia phương thức kết nối hiệu quả. Sự kiện là cơ hội tốt giúp cho các
doanh nghiệp ngành chế tạo và các doanh nghiệp liên quan tại Việt Nam có thể phát
triển kinh doanh, tìm kiếm những cơ hội mới tại thị trường Việt Nam, Nhật Bản và
ASEAN.
Hội chợ Công nghiệp Hỗ trợ Hà Nội 2021 (FBC ASEAN 2021) đã đạt được
nhiều thành công ngoài mong đợi. Với 309 doanh nghiệp tham gia triển lãm, 1905
lượt giao thương và tổng giá trị giao dịch đạt hơn 5,000,000$, qua đó mang đến nhiều
cơ hội và trở thành một phương thức marketing hiểu quả bậc nhất đối với các doanh
nghiệp trong ngành.
Trở lại với Hội chợ Công nghiệp Hỗ trợ Hà Nội 2022 (FBC ASEAN 2022) diễn
ra từ 24-26/08 vừa qua có sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp, chủ yếu là các
doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ, ngành chế biến, chế tạo và
các doanh nghiệp liên quan, phục vụ cho nhà máy (nhân sự, giải pháp, logistics,...) đã
thu hút hàng ngàn khách hàng đến tham quan và đi đến rất nhiều sự hợp tác giữa các
doanh nghiệp với nhau. Các doanh nghiệp này phần lớn đến từ Việt Nam và Nhật
Bản, bên cạnh đó còn có các doanh nghiệp đến từ Singapore, Malaysia, Mỹ,... Hội chợ
cũng đã mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam như là:
- Cơ hội quảng bá thương hiệu
Với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh
tranh không chỉ bằng chất lượng sản phẩm, cải tiến công nghệ mà quảng bá, truyền
thông thương hiệu phải nổi bật.
Đồng thời, đây cũng là một cơ hội tốt để nhận phản hồi trực tiếp từ khách hàng
cho những sản phẩm mới tung ra thị trường. Từ đó, doanh nghiệp có thể cải tiến và
hoàn thiện sản phẩm, cũng như có kế hoạch điều chỉnh thay đổi kịp thời. Bên cạnh
tiếp cận khách hàng, doanh nghiệp còn tiếp xúc trực tiếp với đối tác khi tham gia hội
chợ, quảng bá hình ảnh thương hiệu trực quan hơn tăng uy tín, hiệu quả trong trao đổi
thương mại.
- Tăng doanh số và kết nối
Tham gia Hội chợ cũng mang đến nhiều khả năng gia tăng doanh số, thúc đẩy
bán. Nếu một ngày doanh nghiệp chỉ tiếp khoảng vài chục lượt khách thì tại hội chợ sẽ
có hàng chục nghìn lượt khách đến tham dự. Lượng khách hàng tiềm năng tiếp cận
tăng đột biến trong thời gian ngắn đương nhiên tác động tích cực đến doanh số. Hơn
nữa, hiếm có cơ hội nào mà tất cả các thương hiệu quốc tế ngành chế tạo từ các hãng
mua, hãng sản xuất lớn tại Việt Nam, doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam, doanh nghiệp
Nhật Bản và các doanh nghiệp các nước trong khu vực có liên quan như Thái Lan,
Myanmar, Malaysia,... lại hội tụ tại một nơi như ở Hội chợ Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội
2022 (FBC ASEAN 2022). Một loạt cái tên nổi tiếng sẽ tham dự Hội chợ 2022 cần
phải kể đến như: Panasonic, Tiger, Hyundai Kefico, Mitsubishi; doanh nghiệp sản
xuất lớn tại Việt Nam như: AMA, Tân Phát, Intech Group, EMTC…
- Khảo sát thị trường và đối thủ
Với nhiều giờ dành cho hội thảo với các chuyên gia hàng đầu, Hội chợ sẽ giúp
doanh nghiệp thu thập thông tin thị trường Việt Nam, đánh giá tầm nhìn thị trường 5
năm tới cũng như những kế hoạch chiến lược hay từ chuyên gia, doanh nghiệp "cá
mập" đầu ngành. Sự kiện được đồng hành, hỗ trợ bởi các cơ quan, ban, ngành, ngân
hàng của Nhật Bản và Việt Nam. Được tổ chức thường niên tại Việt Nam từ 2017, sự
kiện được đánh giá là uy tín nhất và lớn nhất ngành chế tạo trong nước. Nhiều doanh
nghiệp chủ động tham dự hội chợ còn nắm bắt cơ hội tuyệt vời này để nhận biết được
đối thủ trong ngành, xác định tầm nhìn, chiến lược của họ để có những kế hoạch cạnh
tranh hiệu quả trong tương lai.
Đối với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ, ngân sách cho truyền
thông marketing thường hạn chế. Vì vậy, tham gia hội chợ là giải pháp thông minh,
tiết kiệm nhưng vẫn giới thiệu hiệu quả, trực tiếp thông tin sản phẩm đến đông đảo
khách hàng và là nước đi được rất nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam lựa chọn.
Ngoài ra, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt
Nam đã bắt đầu phát triển truyền thông marketing online, tuy nhiên vẫn chưa đạt được
nhiều sự nổi bật và bứt phá khi marketing bằng phương thức này.
2.4. Khả năng phân phối và bán hàng
Đối với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, khả năng
phân phối và bán hàng thường diễn ra bằng phương pháp B2B (Business to Business).
Đây là hình thức kinh doanh, buôn bán giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Hình
thức kinh doanh này được nhiều doanh nghiệp lựa chọn bởi ưu điểm lớn là mang lại
nhiều lợi ích, có hiệu quả cao, cắt giảm được một lượng lớn chi phí marketing, hiệu
suất làm việc và độ tin cậy cao hơn. Tức là các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp
hỗ trợ Việt Nam sẽ ký kết các hợp đồng với các doanh nghiệp cần sản phẩm đầu ra
của mình trước, sau đấy mới tiến hành sản xuất và bán hàng theo các hợp đồng này.
Các doanh nghiệp này có thể đồng hành với nhau lâu dài, qua nhiều hợp đồng khác
nhau và tạo được sự tin tưởng nhất định.
Bên cạnh đó, một số điểm khiến cho mô hình B2B có những trở ngại để phát
triển ở Việt Nam như:
- Truyền thông còn yếu, chưa thể kết nối, truyền thông đến được với những tệp
khách hàng mới
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn lạc hậu, chưa tận dụng hiệu quả nguồn lực và các
tính năng hấp dẫn tăng trải nghiệm người dùng trên các giao diện website.
- Tương tác giữa khách hàng và doanh nghiệp còn yếu, nhất là ở khâu xử lý phản
hồi của khách hàng. Dẫn đến những sai lầm có thể tiếp tục lặp lại và ảnh hưởng đến
uy tín của bản thân doanh nghiệp đó.
Dù còn khá nhiều hạn chế, nhưng không thể phủ nhận rằng mô hình kinh doanh
B2B đối với các doanh nghiệp hỗ trợ là hình thức quan trọng nhất góp phần lớn vào sự
phát triển cả họ.
Trong khi đó, có rất ít doanh nghiệp hoạt động theo hình thức B2C. Tên gọi của
ngành cũng đã ít nhiều giải thích được vấn đề này. Đơn giản bởi vì các sản phẩm đầu
ra của ngành này thường sẽ là đầu vào cho các sản phẩm hoàn chỉnh sau, và các sản
phẩm đầu ra đơn lẻ của ngành thường sẽ không có hoặc ít có tác dụng trực tiếp đối với
người sử dụng. Vì vậy rất ít khi các sản phẩm này được bán lẻ ở các cửa hàng, các
trung tâm thương mại để đến với người tiêu dùng.
2.5. Khả năng cung cấp dịch vụ khách hàng
Nhờ có sự ổn định về chính trị và sự điều tiết của chính phủ đã giúp cho nền
kinh tế nước ta luôn giữ ở mức ổn định. Vì vậy, đối với các đơn hàng đã được ký kết,
các doanh nghiệp Việt Nam thường vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng
đúng tiến độ.
Mặt khác, do đặc thù sản xuất sản phẩm hàng loạt hoặc sản xuất theo đơn đặt
hàng nên các doanh nghiệp trong ngành thường đưa ra ít chương trình hậu mãi đối với
khách hàng của mình. Điều này ngược lại với sự tin tưởng có được, có thể không níu
kéo được khách hàng trong thời gian dài.
Còn một điểm trừ khác của không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động
trong ngành này mà là tâm lý của người Việt nói chung đó phần lớn là chưa thực sự
hoạt động vì lợi ích của khách hàng, đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Vì vậy
nên có thể dẫn đến một số trường hợp sản phẩm bán ra không đảm bảo tiêu chuẩn chất
lượng của đối tác nhưng vẫn không chịu hợp tác thu hồi, sửa chữa. Điều này làm mất
đi uy tín cũng như cơ hội làm ăn lâu dài của chính doanh nghiệp đó. Và rộng hơn nữa
là ảnh hưởng đến cái nhìn của các khách hàng tiềm năng đối với thị trường Việt Nam.
Mặc dù chỉ là thực trạng ít khi xảy ra nhưng nó cũng có thể mang lại ảnh hưởng hết
sức to với đối với cả ngành công nghiệp hỗ trợ này.
III. Đánh giá chung về thực trạng khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu
của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
3.1. Những cơ hội của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam đang ngày càng mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Trong
những năm gần đây, nước ta liên tục ký kết nhiều FTA, tham gia sâu vào các Hiệp
định kinh tế song phương và đa phương. Các Hiệp định này đã tạo ra rất nhiều cơ hội
cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là nó giúp giảm hoặc xóa bỏ thuế suất khi
xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang một số nước cùng kí kết các FTA này. Từ đó có
thể các doanh nghiệp trong ngành hỗ trợ có thể mở rộng quy mô, tìm kiếm các khách
hàng lớn, các công ty đa quốc gia ở nước ngoài và xuất khẩu sản phẩm của mình tới
các nước khác.
Thứ hai, chính sách của nước ta luôn mở cửa, thu hút đầu tư từ nước ngoài. Với
tầm nhìn tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn, Việt Nam đã luôn cố gắng thay đổi
những chính sách của mình để phù hợp và thu hút được nhiều nhất các nhà đầu tư
nước ngoài vào trong nước. Có thể kể đến như đảm bảo quyền cơ bản của nhà đầu tư;
chiến lược bảo hộ và các ưu tiên dành cho các nhà đầu tư nước ngoài; ưu đãi về đất
đai cho các nhà đầu tư nước ngoài; miễn giảm thuế hay những khoản trợ cấp của
chính phủ. Như với trường hợp của Samsung, kể từ khi đầu tư vào Việt Nam,
Samsung đã được hưởng ưu đãi cao nhất dành cho nhà đầu tư tại Việt Nam với mức
thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ 10% cho suốt quá trình triển khai dự án. Cùng với đó
là 4 năm đầu miễn thuế và 9 năm tiếp theo được giảm 50% số thuế thu nhập doanh
nghiệp. Bên cạnh đó chính phủ còn có một số chính sách cho thuê đất ưu đãi dành cho
Samsung. Điều này giúp Samsung ngày càng đầu tư nhiều vào Việt Nam và đạt được
kết quả là đến nay có hơn 240 doanh nghiệp hỗ trợ Việt nam đã tham gia được vào
chuỗi cung ứng của Samsung như đã nói ở trên.
Thứ ba, trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản,
chính sách quan trọng để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Trong đó có
các chính sách về tài chính, tín dụng đã đạt được nhiều hiệu quả tích cực. Chính sách
này đã cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ được vay vốn ngắn hạn với mức lãi
suất hết sức ưu đãi. Sau đó Nhà nước thực hiện cấp bù chênh lệch lãi suất đối với các
khoản vay trung và dài hạn của các doanh nghiệp để thực hiện dự án sản xuất sản
phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển bằng nguồn
vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và các nguồn vốn ODA, vốn vay ưu
đãi nước ngoài.
Thứ tư, Việt Nam cũng là một thị trường có môi trường kinh tế vĩ mô và tình
hình chính trị ổn định, nền kinh tế năng động, thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng.
Đây cũng là một lợi thế giúp các doanh nghiệp Việt có thể hoạt động liên tục và đảm
bảo được tiến độ sản xuất.
Thứ năm, làn sóng phát triển khoa học công nghệ đang nở rộ tại Việt Nam. Với
việc khoa học công nghệ ngày càng phát triển, nếu các doanh nghiệp có thể nắm bắt
được cơ hội và vận dụng nó vào chuỗi sản xuất của bản thân thì việc phát triển sản
phẩm và mở rộng quy mô của doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Thứ sáu, Việt Nam có lực lượng lao động phổ thông giá rẻ dồi dào và lực lượng
lao động có kỹ năng ngày một nhiều. Với các doanh nghiệp hỗ trợ, lao động phổ
thông là hết sức cần thiết để hoạt động trong các nhà máy, xí nghiệp. Bên cạnh đó, để
phát triển doanh nghiệp trong tất cả các khâu từ nghiên cứu và phát triển, sản xuất,
marketing, phân phối hay dịch vụ thì đều cần những lao động có kĩ năng. Tuy tỉ lệ lao
động có kĩ năng ở Việt Nam còn thấp nhưng vẫn đang tăng dần trong suốt thời gian
qua, đảm bảo là nguồn đầu vào chất lượng cho các doanh nghiệp hoạt động trong
ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.
3.2. Những thách thức của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Bên cạnh những cơ hội thì các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn đang gặp phải
rất nhiều khó khăn và hạn chế còn tồn tại.
Thứ nhất, nhà nước chưa xây dựng được chiến lược phát triển công nghiệp hỗ
trợ cụ thể để các doanh nghiệp dựa vào xây dựng chiến lược phát triển cho riêng
mình, từ đó các doanh nghiệp mới có thể yên tâm đầu tư cũng như chưa có quy hoạch
đồng bộ cho phát triển công nghiệp hỗ trợ. Mặc dù ngành công nghiệp hỗ trợ đã được
quy hoạch tổng thể nhưng việc quy hoạch lại chưa được thực hiện cho từng vùng,
miền, địa phương, do đó việc phát triển công nghiệp hỗ trợ còn mang tính tự phát,
chưa có sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp hỗ trợ
nói riêng.
Thứ hai, nguồn nhân lực phần lớn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, tỉ lệ lao động
đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo.
trình độ công nghệ, kỹ thuật của các doanh nghiệp còn lạc hậu, thua kém so với các
nước đối thủ, khó có khả năng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là những ngành có
hàm lượng công nghệ, kỹ thuật cao.
Thứ ba, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ còn
lỏng lẻo, nhiều doanh nghiệp FDI muốn tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp
công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam nhưng còn thiếu thông tin và cơ hội. Đây là một
nhược điểm chí mạng khi các doanh nghiệp hỗ trợ sử dụng quá ít vốn để đầu tư cho
marketing. Các hội chợ, hội thảo để các doanh nghiệp giao lưu và tìm kiếm khách
hàng cho mình còn được tổ chức quá ít, chỉ tập trung ở một số khu vực nhất định như
ở TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Điều này làm mất đi cơ hội mà nhiều doanh
nghiệp có năng lực xứng đáng có được.
Thứ tư, chưa thành lập cơ quan độc lập của Nhà nước để chuyên hỗ trợ các
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có điều kiện tiếp cận những tập đoàn, doanh nghiệp
công nghiệp lớn nhằm học hỏi và ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm.
Thứ năm, nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu, năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp công nghiệp chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn thấp,
kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ cho công nghiệp hỗ trợ còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Cùng với làn sóng chuyển dịch vốn đầu tư
vào khu vực Đông Nam Á, có rất nhiều công ty công nghệ đa quốc gia muốn tham gia
vào thị trường Việt Nam nhưng còn gặp phải nhiều khó khăn do cơ sở hạ tầng phục vụ
cho ngành công nghiệp hỗ trợ ở nước ta chưa đáp ứng được những yêu cầu và tiêu
chuẩn cao của họ. Như đã phân tích ở trên, việc nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tự sản
xuất ra các sản phẩm là cụm linh kiện hoàn chỉnh cũng là một ví dụ cho thực trạng cơ
sở hạ tầng công nghệ còn yếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ sáu, các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam gần như không có nguồn cung ứng
nội địa nên hầu hết công cụ sản xuất đều phải được nhập khẩu quốc tế, đặc biệt là các
ngành công nghiệp chủ lực, như: điện tử; dệt may; da giày - túi xách; sản xuất, lắp ráp
ô tô... nên khi dịch bệnh Covid-19 bùng nổ tại các quốc gia cung ứng linh phụ kiện
sản xuất chủ yếu cho Việt Nam, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản..., các ngành
công nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo đảm các yếu tố đầu vào sản
xuất. Đây là một khó khăn rất lớn nếu tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn
tiếp tục diễn ra trong thời gian tới.
Thứ bảy, khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của chính phủ của các
doanh nghiệp hỗ trợ vẫn còn nhiều gặp nhiều bất cập và khó khăn. Mặc dù là một
chính sách hết sức thành công của Nhà nước dành cho các doanh nghiệp, tuy nhiên
chính sách này vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế như thủ tục dài dòng quá mức
cần thiết hay thời gian giải ngân quá lâu. Điều này có thể làm mất đi cơ hội mà doanh
nghiệp này hướng đến trong tương lai gần.
IV. Định hướng và giải pháp tăng cường khả năng tham gia chuỗi cung ứng
toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Chính phủ xác định mục tiêu đặt ra đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
của Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho
sản xuất, tiêu dùng trong nội địa và giá trị xuất khẩu chiếm 25% giá trị sản xuất công
nghiệp; phấn đấu đạt khoảng 2.000 doanh nghiệp.
Để đạt được những mục tiêu này, trước mắt cần tập trung vào các giải pháp chủ
yếu sau:
Một là, hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ: Điều chỉnh, sửa đổi
những quy định còn vướng mắc của Chính phủ “Về phát triển công nghiệp hỗ trợ”
liên quan đến phạm vi công nghiệp hỗ trợ; làm rõ tiêu chí xác định đối tượng ưu đãi;
rà soát, cập nhật và điều chỉnh danh mục các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên
phát triển phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Đồng thời, nghiên cứu ban hành chính sách
thúc đẩy một số ngành công nghiệp ưu tiên phát triển, như: Cơ khí, ô-tô, dệt may, da -
giày, điện tử; nghiên cứu chiến lược hỗ trợ xuất khẩu đối với các sản phẩm công
nghiệp trọng điểm… nhằm tạo thị trường cho các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển,
bao gồm các chính sách về thị trường, phòng vệ thương mại và các chính sách hỗ trợ
của Nhà nước cho doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh hàng rào thuế quan dần
được gỡ bỏ khi Việt Nam thực hiện các hiệp định thương mại tự do, Chính phủ cần
xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp
hỗ trợ phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước…
Hai là, bố trí đủ nguồn kinh phí nhằm thực hiện Chương trình của Chính phủ
“Về việc phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm
2025” để triển khai hiệu quả các nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
trong nước. Đồng thời, khuyến khích các địa phương xây dựng chính sách, chương
trình phát triển công nghiệp hỗ trợ riêng, đầu tư nguồn lực trên địa bàn, gắn với việc
tuyên truyền, phổ biến chính sách công nghiệp hỗ trợ để doanh nghiệp trên địa bàn
tiếp cận đầy đủ các chính sách của Nhà nước.
Ba là, phát triển chuỗi giá trị trong nước: Tạo cơ hội hình thành và phát triển
chuỗi giá trị trong nước thông qua thu hút đầu tư hiệu quả và thúc đẩy kết nối kinh
doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp đa quốc gia,
các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài; xây dựng các khu công
nghiệp hỗ trợ tập trung để tạo cụm liên kết ngành; phát triển các ngành công nghiệp
vật liệu nhằm tăng cường tính tự chủ về nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giảm sự
phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của
sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời,
thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh; hỗ trợ có
trọng tâm, trọng điểm các doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo, ưu tiên phấn đấu có một số tập đoàn tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan
tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ khác phát triển
Bốn là, phát triển và bảo vệ thị trường nội địa: Thúc đẩy phát triển thị trường nội
địa và thị trường ngoài nước để tạo điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ và các
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển. Cụ thể, bảo đảm quy mô thị
trường nội địa thông qua các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo ưu tiên phát triển trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế; xây dựng và thực thi
hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ
sản xuất và người tiêu dùng trong nước. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng
hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hợp lý thị
trường nội địa phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Đồng thời, tìm kiếm, mở
rộng thị trường ngoài nước trên cơ sở tận dụng các hiệp định FTA đã ký kết; triển khai
các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế
tạo ưu tiên phát triển tham gia hiệu quả các hiệp định thương mại tự do.
Năm là, nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ: Xây dựng và vận
hành hiệu quả các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng và địa
phương từ vốn đầu tư trung hạn của Trung ương và địa phương trên cơ sở nhu cầu,
mục tiêu phát triển và nguồn lực sẵn có nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ
trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và
phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.
- Cần tập trung nâng cao năng lực khoa học, công nghệ cho doanh nghiệp công
nghiệp hỗ trợ và chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển nhằm tạo sự bứt phá về hạ tầng
công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ; tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên
cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm
khoa học, công nghệ; đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học,
công nghệ; tăng cường cơ chế hợp tác công tư trong việc triển khai các dự án đổi mới
công nghệ, nghiên cứu và phát triển.
- Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp
chế biến, chế tạo thông qua các chương trình, kế hoạch quốc gia về nâng cao tay nghề,
thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Cùng với đó, gắn kết giáo dục
nghề nghiệp với thị trường lao động, phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất
lượng giáo dục nghề nghiệp, triển khai mô hình quản lý theo hướng hiện đại, tinh gọn,
chuyên nghiệp, áp dụng theo các tiêu chuẩn quốc tế và ứng dụng công nghệ thông tin,
đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Sáu là, phát triển công nghiệp hạ nguồn. Việc phát triển các ngành công nghiệp
hạ nguồn (các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh) có vai trò quan trọng
trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ, cũng như thu hút các tập đoàn đa quốc gia
đầu tư các dự án quy mô lớn tại Việt Nam. Bằng cách thúc đẩy các ngành sản xuất,
lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, thị trường công nghiệp hỗ trợ trong nước sẽ được duy trì
và mở rộng, tạo tiền đề để các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung
cấp, tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm
cuối cùng. Cụ thể:
- Tập trung hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm một số doanh nghiệp Việt Nam trong
các ngành công nghiệp hạ nguồn trọng điểm như ngành ô-tô, điện - điện tử, dệt may,
da - giày trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các
doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển.
- Xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành
công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước; tăng cường
công tác kiểm tra chất lượng hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ
thuật để bảo vệ hợp lý thị trường nội địa phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
- Xây dựng chính sách về thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu
linh hoạt, phù hợp để giúp các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh cắt giảm
giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh so với hàng hóa nhập khẩu.
- Thực thi có hiệu quả việc kiểm soát hiện tượng chuyển giá, gian lận thuế đối
với các doanh nghiệp FDI nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các
doanh nghiệp công nghiệp trong nước đầu tư sản xuất, kinh doanh thông qua các biện
pháp: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu, thông tin về doanh
nghiệp FDI trong các cơ quan chức năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ,
thông suốt trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan chức năng; tăng cường thanh
tra giá chuyển giao, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành thuế.
- Xây dựng chính sách đột phá tạo lập môi trường khởi nghiệp trong lĩnh vực
công nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

You might also like