Professional Documents
Culture Documents
Số dự án và quy mô dự án:
Năm Số dự án Tổng vốn dự án (tỷ USD)
2020 33070 384
2021 34527 408,1
2022 36278 438,7
Ngành tiếp
nhận đầu tư
Công nghiệp chế biến, 13,6 tỷ USD (47,7%) >18,1 tỷ USD >16,8 tỷ USD
chế tạo (58,2%) (60,6%)
Kinh doanh bất động < 4,2 tỷ USD >2,6 tỷ USD >4,45 tỷ USD
sản (16,1%)
Sản xuất, phân phối >5,1 tỷ USD (18%) >5,7 tỷ (18,3%) >2,26 tỷ USD
điện
b. Tác động
Tích cực:
Tạo công ăn việc làm cho nước tiếp nhận vốn; nâng cao chất lượng và năng suất lao
động; tăng kim ngạch xuất khẩu: Theo Tổng cục Thống kê (2019), kết quả Điều tra
Lao động - Việc làm quý 1/2019, khu vực doanh nghiệp FDI đã và đang tạo công ăn
việc làm cho 3,8 triệu người lao động, chiếm trên 7% trong tổng lực lượng lao động
(trên 54 triệu lao động), chiếm trên 15% trong tổng lao động làm công ăn lương (25,3
triệu người) ở Việt Nam.
Bổ sung nguồn vốn cho việc xây dựng nền kinh tế - xã hội: Tỷ lệ vốn FDI thực hiện
trên vốn đăng ký so sánh trong giai đoạn 2018-2022 cho thấy xu hướng rất tích cực
của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký 9
tháng năm 2022 đạt 82,3%, là tỷ lệ đạt cao kỷ lục.
Tạo cơ hội cho việc tiếp thu công nghệ; cách thức quản lí, vận hành của các nước phát
triển hơn: Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến của thế giới như: bưu
chính - viễn thông, dầu khí, xây dựng, cầu đường, khách sạn, văn phòng cho thuê...
Nhiều doanh nghiệp trong nước đã đổi mới hoặc nâng cấp trang thiết bị đáp ứng yêu
cầu cạnh tranh ngày càng cao của nền kinh tế.
Hạn chế:
Gia tăng các mức độ ô nhiễm MT: Theo kết quả thanh tra của Tổng cục Môi trường
(Bộ Tài nguyên và Môi trường) tại 28 tỉnh phía Bắc trong các năm 2017, 2018 và
2019, tỷ lệ doanh nghiệp FDI vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường tăng lên
trong các năm. Cụ thể, năm 2017 có 12/27 doanh nghiệp vi phạm, chiếm tỷ lệ 44,5%;
năm 2018 có 14/25 doanh nghiệp vi phạm, chiếm tỷ lệ 56% và năm 2019 là 13/19
doanh nghiệp vi phạm, chiếm tỷ lệ 68%.
Luật Đầu tư năm 2014; Luật Bảo vệ môi trường năm 2014;… Cần có sự phối hợp ăn
khớp giữa các cơ quan quản lý môi trường.
Chuyển giao công nghệ không đạt hiệu quả cao: Tỷ lệ doanh nghiệp (DN) đầu tư nước
ngoài sử dụng công nghệ của châu Âu và Hoa Kỳ chỉ chiếm khoảng 6%; Về tổng thể,
tỷ lệ DN FDI sử dụng công nghệ có tuổi đời từ năm 2000 - 2005 chiếm hơn 65% và
chủ yếu là công nghệ trung bình, hoặc trung bình tiên tiến của khu vực; Số lượng DN
FDI có năng lực công nghệ cao chỉ 5%, 80% công nghệ trung bình, còn lại là sử dụng
công nghệ thấp
Luật Chuyển giao công nghệ 2017; Xúc tiến chuyển giao công nghệ (CGCN); Nghị
định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 về doanh nghiệp KH&CN
FDI làm giảm số lượng doanh nghiệp trong nước: Những doanh nghiệp FDI, nhất là
những công ty xuyên quốc gia có ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, quản lý sản xuất
gây sức ép cạnh tranh đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của những doanh nghiệp
trong nước : Nhà máy Bia Sông Hàn đã phải bán cho Công ty Bia Fosters’ của
Australia do sản phẩm bia của địa phương không cạnh tranh được trên thị trường
Chủ trương liên kết DN FDI và DN trong nước; Tăng cường liên kết giữa khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài
Câu 5: Chuyển giao công nghệ thông qua FDI ở Việt Nam thời gian qua đã
không đạt được như kỳ vọng. PHân tích và đề xuất giải pháp
Qua hơn 30 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam chưa thực sự đầu tư vào những lĩnh vực công
nghệ cao, đem lại giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế:
- Theo báo cáo diễn đàn KTTG thông qua chuyển giao CN 2018, điểm số xếp hạng các
quốc gia về chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt
Nam có điểm số là 4,1 đứng ở vị trí 89 trong tổng số…… các quốc gia tham gia xếp
hạng và đứng ở vị trí thứ 8 trong các quốc gia trong khu vực, sau Campuchia,
Philippine, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Singapore. Việt Nam đang bị đánh giá là
quốc gia có hiệu quả chuyển giao công nghệ từ khu vực FDI rất thấp và đang có xu
hướng tụt hậu.
- Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính chung 2016, Việt Nam thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đạt 2.556 dự án cấp phép mới, nhưng trong đó chỉ có 600 dự án
được chuyển giao công nghệ, chiếm 23% tổng số dự án FDI. Đây là mức tỷ lệ rất thấp
và không tương xứng với tổng số dự án.
- Theo số liệu của Tổng cục thống kê, trong giai đoạn 2019-2021, những ngành nhận
được nhiều vốn FDI hầu hết là những ngành sử dụng công nghệ thấp như chế biến,
chế tạo. Cụ thể:
Năm Tổng vốn FDI ( tỷ USD ) Vốn FDI cho ngành chế
biến, chế tạo ( tỷ USD )
2019 38,02 24,56
2020 29 13,6
2021 31,15 18,1
Bảng số liệu tác giả tự tổng hợp theo số liệu của Tổng cục thống kê
Đây là những ngành thâm dụng lao động và không cần sử dụng đến công nghệ cao,
chủ yếu tập trung vào lắp ráp, gia công, tỷ lệ nội địa hoá thấp – đây vẫn là khâu có giá
trị thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó, các công nghệ mà doanh nghiệp FDI
đưa vào chủ yếu là công nghệ ở mức trung bình, chiếm khoản 80% số lượng công
nghệ được chuyển giao, còn lại thì khoảng 14% là công nghệ lạc hậu và chỉ có 5-6%
công nghệ cao.
Nguyên nhân:
- Hạn chế về năng lực lao động:
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý
III năm 2022 là 26,3%, cao hơn 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và hơn 0,2 điểm
phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên con số này vẫn ở mức rất thấp. Kỹ
năng lao động của Việt Nam chỉ đạt 46/100 điểm (xếp thứ 103), thứ hạng này thấp hơn
nhiều so với nhóm ASEAN-4, chỉ cao hơn Indonesia và Lào. Cùng với đó, năng suất lao
động bình quân là 171,8 triệu đồng/lao động (năm 2021), thấp hơn 26 lần so với
Singapore, 7 lần so với Malaysia, 4 lần so với Trung Quốc, 2 lần so với Philippines, 3
lần so với Thái Lan.
- Tận dụng được lợi thế Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ nên các nhà đầu tư
nước ngoài hầu hết chỉ tập trung rót vốn vào các ngành thâm dụng lao động như da
giày, dệt may, chế biến chế tạo. Mà đây là những ngành sử dụng chủ yếu sức lao động
con người nên chưa cần áp dụng công nghệ cao.
- Chính sách của nhà nước chỉ tập trung thu hút số lượng dự án FDI thông qua những
ưu đãi thuế hay chính sách thuê đất nhưng không kèm theo những ràng buộc. Do đó,
nhiều doanh nghiệp FDI đã nghiên cứu rất kỹ và họ đến Việt Nam chỉ để tận dụng các
biệt đãi này mà hầu như không phải thực hiện cam kết nào.
Giải pháp
- Tập trung đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao bao gồm: đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ
sư và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp công nghệ cao. Cần
đa dạng hóa các loại hình đào tạo, gắn việc đào tạo nghề tại các trường đại học, cao
đẳng với các doanh nghiệp FDI
- Mở rộng phát triển các ngành kĩ thuật cao như công nghệ thông tin, công nghệ tự động
hoá, công nghệ sinh học, hoá học,…
- Cần đổi mới thể chế, thay thế chính sách ưu đãi dựa trên lợi nhuận bằng chính sách ưu
đãi dựa trên hiệu quả.
- Cần chú ý tới chất lượng của dòng vốn FDI thay vì số lượng. Trong giai đoạn tới, thu
hút vốn FDI cần gắn chặt với chiến lược phát triển quốc gia, chỉ tập trung ưu tiên thu
hút một số ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh theo từng vùng, đặc biệt ưu tiên những
ngành sử dụng công nghệ cao, năng lượng mới.
Câu 6: Phân tích tác động của phá giá đồng nhân dân tệ đến quan hệ kinh tế quốc tế của Việt
Nam
Khái niệm tỷ giá: Tỷ giá hối đoái giữa hai loại tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ
trao đổi cho một đồng tiền khác.
Sự ảnh hưởng của biến động tỷ giá đến các quan hệ KTQT:
Tác động tới xuất nhập khẩu hàng hóa: khi đồng nội tệ giảm giá sẽ khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và ngược lại.
Tác động tới quan hệ đầu tư nước ngoài: khi nội tệ giảm giá trị, kích thích đầu tư
nước ngoài vào trong nước và hạn chế đầu tư trong nước ra nước ngoài, trong điều
kiện tất cả các nhân tố khác không thay đổi.
Tác động tới nợ nước ngoài của các quốc gia: khi đồng tiền giảm giá làm nợ quốc
gia tính bằng ngoại tệ tăng lên và ngược lại sẽ làm giảm nợ quốc gia khi đồng nội tệ
tăng giá.
Tác động tới dịch vụ thu ngoại tệ: nổi bật trong ngành du lịch, khi nội tệ giảm giá
khuyến khích khách du lịch sử dụng nhiều dịch vụ và hàng hóa, đem lại nguồn thu
ngoại tệ. Ngược lại nếu đồng nội tệ tăng giá sẽ làm hạn chế nguồn thu ngoại tệ từ
khách du lịch.
Qua đó có thể thấy được, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái tác động mạnh đến 2 lĩnh vực:
thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế.
Sự kiện phá giá NDT của Trung Quốc:
Năm 2015: Với động thái phá giá đồng nội tệ lên đến 4,6% chỉ trong tháng 8/2015,
Trung Quốc đã gây rúng động thị trường tiền tệ nhiều nước trên thế giới.
Năm 2018: Tháng 11/2018, trước sự leo thang căng thẳng của cuộc chiến thương mại
với Mỹ, Trung Quốc đã có động thái phá giá đồng Nhân dân tệ (NDT) khiến tỉ giá
đồng tiền này so với USD đã rơi xuống mức thấp nhất trong 10 năm qua. Đây được
coi là biện pháp trả đũa việc Tổng thống Donald Trump tuyên bố áp thuế bổ sung 10%
đối với 300 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã
giảm 0,11% giá trị đồng NDT so với USD, khiến đồng tiền nước này tiệm cận mức 7
NDT đổi được 1 USD, cụ thể là 6,94 NDT/ 1 USD.
2 sự kiện nổi bật này gây ra nhiều biến động cho kinh tế Trung Quốc và các nước có quan
hệ thương mại với Trung Quốc, trong đó có Việt Nam. Trong đó là các mối quan hệ kinh tế
quốc tế của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là mối quan hệ với người “bạn
hàng” lớn nhất của chúng ta trên trường quốc tế - Trung Quốc.
Ảnh hưởng quan hệ KTQT giữa VN và TQ:
Thương mại quốc tế:
Xuất khẩu:
Thời điểm tháng 5/2019, trước diễn biến mới của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) ngày 15/5 đã đặt tỉ giá tham chiếu là 6,8365 NDT đổi 1
USD. Khi NDT liên tục bị phá giá và mất giá nhiều hơn so với mức mất giá của VNĐ trước
đồng USD sẽ tạo ra chênh lệch giữa đồng NDT và VNĐ. Lúc này, giá hàng hóa từ Việt Nam
sang Trung Quốc sẽ cao hơn, gây khó khăn cho DN xuất khẩu nước ta. Theo báo cáo mới
nhất của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương): Nửa đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu
sang Trung Quốc chỉ đạt 16,68 tỷ USD, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước (tương đương
mức tăng 42,7 triệu USD). Theo lí thuyết, mối quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam và
Trung Quốc sẽ ảnh hưởng như sau: khi NDT giảm giá hơn so với VND, Trung Quốc sẽ có lợi
thế xuất khẩu hơn Việt Nam và ngược lại. Lí thuyết này tuy đúng, nhưng chưa hoàn hảo cho
tất cả các trường hợp thực tiễn. Sự tăng nhẹ của xuất khẩu Việt Nam không chỉ bị ảnh hưởng
bởi biến động tỉ giá mà còn nhiều yếu tố khác như: mối quan hệ mật thiết giữa 2 quốc gia, nhu
cầu tiêu dùng của Trung Quốc, hoặc là do sự tích cực trong biện pháp ứng phó của chính phủ
Việt Nam...
Nhập khẩu:
Khi NDT mất giá so với VND thì hàng hóa của Trung Quốc đổ vào Việt Nam sẽ rẻ đi, nhập
siêu của Việt Nam sẽ tăng lên. So với 1 năm trước, năm 2019, kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ Trung Quốc tăng thêm tới 10,014 tỷ USD, trong khi xuất khẩu chỉ tăng gần 150 triệu
USD. Chính vì vậy, cán cân thương mại của nước ta với Trung Quốc bị thâm hụt rất lớn lên
tới hơn 34 tỷ USD. Một số nhà đầu tư Trung Quốc đã dịch chuyển cơ sở sản xuất sang Việt
Nam tạo sự cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam về chất lượng, giá cả, thị phần.
Khi ấy, các doanh nghiệp Việt sẽ phải “gồng mình” để cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ của
Trung Quốc nếu nước này tiếp tục phá giá đồng NDT.
Đầu tư nước ngoài:
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), 5 tháng đầu năm 2019, vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 16,74 tỷ USD, tăng gần 70% so với cùng kỳ
2018. Đáng chú ý, vốn đầu tư từ Trung Quốc cũng tăng mạnh, đạt 2 tỷ USD ở tất cả hợp
phần, trong đó riêng phần đăng ký cấp mới là 1,56 tỷ USD, tăng 450% so với con số 280 triệu
USD của cùng kỳ 2018. Đồng NDT giảm giá làm cho tăng trưởng trong nước suy giảm (chỉ
6,6% trong năm 2018) là nguyên nhân khiến doanh nghiệp Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư sang
Việt Nam.
Nợ quốc gia:
Theo số liệu chính thức ở Bản tin nợ nước ngoài số 7 của Bộ Tài chính, cuối năm 2010, dư nợ
Chính phủ với Trung Quốc là 551,7 triệu USD, chiếm 2% tổng dư nợ Việt Nam; dư nợ của
doanh nghiệp vay Trung Quốc được Chính phủ bảo lãnh là 1,12 tỷ USD (quy đổi theo tỷ giá
cuối năm 2010). Việt Nam cũng nhận ODA và vay ưu đãi của Trung Quốc 395,8 triệu USD
tính đến hết tháng 6/2015 (số liệu đã được quy đổi theo tỷ giá), chiếm 1% tổng vốn. Với việc
nhân dân tệ mất giá, Việt Nam sẽ được lợi với những khoản vay này khi thanh toán. Song, tỷ
giá VND/USD biến động lại gây bất lợi khi các khoản vay bằng đôla Mỹ đến hạn. Khi Việt
Nam đáo hạn các ưu đãi vào năm nay, tốc độ trả nợ sẽ phải tăng lên, từ mức khoảng 7,5 tỷ
USD mỗi năm lên 9,5 tỷ USD, điều này sẽ gây áp lực lớn lên ngân sách - vốn đã khó khăn,
nếu tỷ giá với USD còn tăng tiếp.
Dịch vụ thu ngoại tệ:
Việc nhân dân tệ mất giá liên tiếp sẽ khiến những người có thu nhập trung bình hoặc khá ở
Trung Quốc hạn chế đi du lịch hoặc mua sắm ở nước ngoài, do chi phí đắt đỏ hơn. Tổng cục
Thống kê cũng cho biết mặc dù chiếm tỷ lệ cao nhưng khách du lịch Trung Quốc lại là đối
tượng chi tiêu thấp hơn so với khách quốc tế khác tại Việt Nam. Theo số liệu điều tra của cơ
quan này, khách du lịch Trung Quốc tự tổ chức đi du lịch có mức chi tiêu bình quân khoảng
90 USD mỗi ngày, bằng 63% so với chi tiêu trung bình của khách quốc tế tại Việt Nam. Chi
tiêu trung bình ngoài tour của khách Trung Quốc là 41,28 USD một ngày, bằng 35% mức chi
tiêu trung bình.
Câu 8: Thực trạng hội nhập của Việt Nam. Phân tích tác động của WTO đến nền kinh tế Việt
Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế từng quốc gia với nền kinh tế khu
vực và thế giới thông qua thúc đẩy tự do và mở cửa thị trường.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan, đối với các nước đang và kém phát
triển nói chung và Việt Nam nói riêng, con đường này là con đường tốt nhất để rút ngắn
khoảng cách so với các nước khác và phát huy những lợi thế của mình trong phân công lao
động và hợp tác quốc tế.
Thực trạng hội nhập của Việt Nam:
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh hội nhập
kinh tế quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại.
Hợp tác song phương:
Thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia
Mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu tới trên 230 thị trường
Ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương: VJEPA, VCFTA, VKFTA,...
Thiết lập quan hệ tốt với các nước lớn:
5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (P5), các nhóm nước G8;
Nâng quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc;
Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài tăng lên (91 cơ quan): 65 đại sứ
quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1
văn phòng kinh tế văn hóa.
Hợp tác đa phương và khu vực: Tiến trình hội nhập được đẩy mạnh và đưa lên một
tầm cao hơn bằng việc VN tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế
giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương
Các tổ chức KTQT: WTO, ASEAN, APEC, ASEM
Các FTAs đa phương:
Đã ký kết: ATIGA; AIFTA, AJFTA, AKFTA; FTA VN-EAEU (Armenia, Belarus,
Kazakhstan, Nga, Kyrgyzstan); CPTPP (4/2/2016, 2 năm), EVFTA,...
Đang đàm phán: Việt Nam - EFTA
Những thành tựu:
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
Trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân đã tăng gấp
đôi, đạt 8,2%/năm
Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao: giai đoạn 2016-2019 đạt
mức bình quân 6,8%; Mặc dù năm 2020 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề
của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc
nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Phát triển kinh tế gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội
Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng: tỷ lệ hộ
nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm
2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao
Đến năm 2020 đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có 1 bước đi quan trọng khi VN
chính thức tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày 11/1/2007 sau 11 năm đàm
phán.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là tổ chức quốc tế toàn cầu duy nhất xử lý các quy tắc
thương mại giữa các quốc gia. Trọng tâm của nó là Hiệp Định Chung Về Thương Mại Dịch
Vụ, được đàm phán và ký kết bởi phần lớn các quốc gia thương mại trên thế giới và được phê
chuẩn tại quốc hội của họ. Mục tiêu là giúp các nhà sản xuất hàng hóa và dịch vụ, các nhà
xuất khẩu và nhập khẩu tiến hành hoạt động kinh doanh của họ.
Tác động của WTO đến nền kinh tế Việt Nam:
Tích cực:
Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả
hơn, chuyển dần từ nhà nước sở hữu và kiểm soát sang nhà nước kiến tạo, điều tiết và
phục vụ phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường. Chỉ trong 2 năm trước và sau thời
điểm gia nhập WTO (2006 - 2007), Việt Nam đã sửa trên 60 văn bản luật, hàng trăm
nghị định, thông tư hướng dẫn để thực thi cam kết WTO.
Với 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và đang đàm phán; trong đó có 15 hiệp
định thương mại tự do đã ký kết (tính tới tháng 11 năm 2021) giúp Việt Nam trở thành
một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài:
Tính chung đến nay, cả nước có khoảng 34.500 dự án đầu tư đến từ 141 quốc gia và
vùng lãnh thổ, với tổng vốn đăng ký trên 408 tỷ USD.
Năm 2021, thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn đạt khoảng 31,15 tỷ
USD, tăng 9,2% so với năm 2020.
Nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu như Samsung, Microsoft, LG, Adidas, Nike... đã
chọn Việt Nam là điểm dừng chân.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng gần 8 lần sau 15 năm được kết
nạp là thành viên WTO.
Năm 2006 xuất nhập khẩu của cả nước chỉ đạt 84,7 tỉ USD nhưng đến năm 2021, tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu đã đạt 668,5 tỷ USD.
Tiêu cực:
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng khiến cho nền kinh tế Việt
Nam sẽ chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi các diễn biến kinh tế quốc tế ngày càng
phức tạp, khó lường.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 khiến cho lạm phát tại Việt Nam tăng mạnh: trong
nửa đầu năm 2008, chỉ số lạm phát khoảng 2.86%/tháng.
Cạnh tranh trong hoạt động thương mại quốc tế của nước ta đã diễn ra gay gắt hơn,
với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Nhiều doanh nghiệp đối mặt
với thách thức nghiêm trọng trong điều kiện rất khó khăn (quy mô nhỏ, công nghệ lạc
hậu, quản lý kém...):
SMEs chiếm 98% tổng số doanh nghiệp trên cả nước
Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá, doanh nghiệp VN sử dụng công nghệ lạc hậu so
với thế giới 3-4 thế hệ ( 15-20 năm)
Rủi ro khi hoạt động trên thị trường nước ngoài (không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ
tục...)
Theo thống kê của Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), 9 tháng năm 2019,
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với 154 vụ kiện phòng vệ thương mại
(PVTM) từ 19 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Giải pháp:
Từ chính phủ:
Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và chiến lược hội nhập kinh tế dài hạn ( 15-20
năm ) để ứng phó với các biến động kinh tế trong tương lai.
Nâng cao nhận thức và đào tạo trình độ kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước,
tạo sức khỏe cho doanh nghiệp để có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong quá trình hội nhập
Rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Từ doanh nghiệp:
Làm tốt việc xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu; về lâu dài sẽ giảm thiểu mức
độ tiêu cực của các biến động kinh tế thế giới.
Tạo lập nguồn vốn để tăng cường tiềm lực tài chính, chủ động đổi mới công nghệ sản
xuất.
Có các giải pháp để tiếp cận thị trường nước ngoài một cách hiệu quả.