You are on page 1of 2

Thương mại quốc tế tại Việt Nam

Thương mại quốc tế là một ngành kinh tế cực kỳ quan trọng tại Việt Nam. Kể
từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WHO - WTO), khối
lượng thương mại quốc tế liên tục tăng trưởng lên tới 10 lần. Trong các năm từ
2011 đến 2013, tăng trưởng bình quân hàng năm là 22,3%. Năm 2006 giá trị
xuất khẩu tương đương 84 tỷ USD, năm 2013 là 132 tỷ USD. Tổng giá trị xuất
khẩu ước đạt 150,4 tỷ USD vào năm 2018, tăng khoảng 13,6% so với năm
trước. Theo Cục Thống kê Trung ương trong đợt đánh giá sơ bộ cuối năm, tổng
giá trị nhập khẩu đạt 148, 6 tỷ USD, vì vậy xuất siêu thương mại quốc tế có thể
ước đạt 2 tỷ USD. Các đối tác thương mại/xuất khẩu chính của Việt Nam gồm
Mỹ, Nhật, Trung Quốc, châu Âu và các nước trong khối ASEAN. Đối với tổng
kim ngạch nhập khẩu, ngành công nghiệp nhẹ chiếm khoảng 60 tỷ USD (+
15,9%) nông, lâm nghiệp khoảng 17,8 tỷ USD (+ 11,4%) và ngành khai thác
thủy sản khoảng 8 tỷ USD (+ 17,6%). Còn đối với kim ngạch xuất khẩu,
nguyên liệu sản xuất chiếm 91,2% (khoảng 135 tỷ USD), trong đó máy móc và
thiết bị khác 55,6 tỷ USD ,sản phẩm 7,62 tỷ USD dầu mỏ và hóa chất 3,22 tỷ
USD. Phần còn lại bao gồm các sản phẩm trung gian phục vụ sản xuất ngoại
trừ hàng hóa tiêu dùng và các thành phẩm khác.

Theo kế hoạch phát triển của chính phủ ,kim ngạch xuất khẩu dự kiến sẽ tăng
10 đến 11% hàng năm từ năm 2018 đến 2022.

Tuy nhiên vẫn chưa có một chiến lược thực sự ổn định để có thể tăng trưởng
doanh thu xuất khẩu một cách bền vững. Không chỉ các quốc gia, tổ chức quốc
tế và các chuyên gia kinh tế nhận thấy mà phía Việt Nam cũng ý thức được
rằng cơ cấu kinh tế nhà nước đang còn rất nhiều thiếu sót. Rất khó để giải
quyết vấn đề này: Đây là những khó khăn điển hình của một quốc gia đang
phát triển mới với số vốn trong nước tương đối ít. Kinh tế Việt Nam bắt buộc
phải đuổi kịp các nước tư bản đã phát triển từ hàng trăm thế kỉ một cách nhanh
nhất có thể. Thêm vào đó, còn phải khắc phục hậu quả của chiến tranh và hàng
chục năm bị khai thác thuộc địa. Việt Nam phải phụ thuộc vào các dự án đầu tư
nước ngoài và vốn nước ngoài trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên việc này
buộc phải nhận lấy sự đánh đổi.

Nếu không hoặc chỉ một số lượng vốn nhỏ đầu tư nước ngoài, Việt Nam chỉ có
thể xuất khẩu bằng hàng hóa từ nguồn tài nguyên thiên nhiên (nông sản, thủy
sản, khoáng sản, sản phẩm khai thác, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên). Với những
hàng hóa kể trên, lợi nhuận liên quan chỉ tích lũy sau quá trình chế biến và tinh
chế sản phẩm không phải ở các quốc gia xuất khẩu và ở các quốc gia nhập
khẩu. Sau cùng thì lợi nhuận ấy cũng để nuôi sống những công nhân tham gia
sản xuất hàng hóa.
Năm 2018, ngoài những vấn đề nội tại (như bệnh hại trên cây cà phê), giá thị
trường thế giới giảm cũng gây khó khăn cho ngành nông nghiệp. Ngành nông
nghiệp Việt Nam chiếm khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, dự
kiến năm 2018 ước đạt khoảng 26 tỷ USD. Việt Nam có thể tăng thu nhập xuất
khẩu trong lĩnh vực này thông qua cải tiến chất lượng, cải tiến phương pháp
canh tác, giống mới, sản xuất thân thiện với môi trường và lành mạnh hơn.Có
thể áp dụng, ví dụ: cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, trái cây nhiệt đới và rau quả -
tất cả các sản phẩm mà Việt Nam đã mở ra thị trường mới trong những năm
gần đây. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư
đáng kể.

Lĩnh vực thứ hai của thương mại quốc tế liên quan đến "mở rộng khu vực sản
xuất". Tại đây, công nhân Việt Nam sản xuất hàng dệt may, giày dép, thiết bị
điện tử, v.v. với mức lương tương đối thấp - cạnh tranh về chi phí gia công với
công nhân các nước khác ở Đông và Đông Nam Á, / hoặc Bắc Phi và đôi khi cả
Nam Âu cho các công ty ở Trung Quốc, Châu Âu, Nhật Bản hoặc Hoa Kỳ. Họ
là công ty con của các công ty mẹ nước ngoài hoặc trong trường hợp thuận lợi
hơn là các công ty Việt Nam "độc lập" (được ủy quyền) làm việc cho các công
ty nước ngoài và tự chịu rủi ro. Ngay cả với hình thức "phân công lao động"
này, phần lớn giá trị gia tăng thông qua quá trình chế biến lại không ở Việt
Nam. Sau cùng, vốn nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này tại Việt Nam và Việt
Nam được giữ một phần lợi nhuận. Các khoản đầu tư tạo ra hoặc duy trì việc
làm trong sản xuất. Ngoài ra, người lao động Việt Nam được học các phương
pháp sản xuất và quy hoạch hiện đại. Ngoài ra, Việt Nam thu được lợi nhuận
trong giai đoạn đầu bằng cách tham gia xây dựng các nhà máy và sau đó bằng
nhiều phương pháp khác nhau thông qua các dịch vụ vận tải, giao hàng tận nơi
cụ thể là nguyên liệu, năng lượng và suy cho cùng thì hầu hết các khoản thu từ
thuế quá thấp.

You might also like