You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA BĐS & KTTN

----

BÀI TẬP HỌC PHẦN KINH TẾ NĂNG LƯỢNG

Nhóm 3
Đề tài: Chủ đề 1. Năng lượng và năng lượng tái tạo trên thế giới

Thành viên nhóm: Nguyễn Thị Minh Hiền- 11201425

Lê Thị Phương Trang -11208048

Hoàng Thanh Bình- 11200527

Trần Mai Linh - 11202296

Nguyễn Thành Công - 11200672

Phùng Thuý Ngọc - 11202878

Nguyễn Minh Quang - 11203295

Nguyễn Tuấn Phương - 11203206

Hà Nội, 04/2023

1
MỤC LỤC

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT LÝ THUYẾT...........................................................3


I.Khái niệm năng lượng và năng lượng tái tạo.................................................3
1.Năng lượng:...............................................................................................3
2.Năng lượng tái tạo.....................................................................................3
Các dạng năng lượng tái tạo..........................................................................5
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ( TIỀM NĂNG,
KHAI THÁC, SỬ DỤNG, PHÁT TRIỂN ).........................................................6
I.Khai thác ........................................................................................................6
II.Tiêu thụ ......................................................................................................15
III.Phát triển ...................................................................................................19
IV.Tiềm năng .................................................................................................23
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NĂNG LƯỢNG TÁI
TẠO....................................................................................................................26

2
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT LÝ THUYẾT
I. Khái niệm năng lượng và năng lượng tái tạo

1. Năng lượng:
Năng lượng là một khái niệm cơ bản trong vật lý, nó được định nghĩa là khả
năng gây ra sự thay đổi hoặc hoạt động. Năng lượng có thể được tính toán và đo lường
dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm năng lượng cơ học, năng lượng điện, năng
lượng nhiệt, năng lượng ánh sáng và năng lượng hạt nhân.
Năng lượng không thể được tạo ra hay bị mất mà chỉ có thể được chuyển đổi từ
một hình thức sang hình thức khác. Ví dụ, năng lượng từ nhiên liệu có thể được
chuyển đổi thành năng lượng điện, và năng lượng điện có thể được chuyển đổi thành
ánh sáng hoặc nhiệt. Chuyển đổi năng lượng từ một hình thức sang hình thức khác
luôn bao gồm một lượng mất mát năng lượng nhất định, gọi là entropi.
Năng lượng được coi là một yếu tố quan trọng trong các quá trình tự nhiên và
các quá trình kỹ thuật. Các nguồn năng lượng như dầu mỏ, than đá, khí đốt, điện từ,
ánh sáng mặt trời và gió được sử dụng để sản xuất năng lượng để đáp ứng nhu cầu của
con người và các hoạt động kinh tế xã hội.
Các sinh vật sống đòi hỏi năng lượng để sống, chẳng hạn như năng lượng con
người có được từ thức ăn. Nền văn minh của con người đòi hỏi năng lượng để hoạt
động, nó lấy từ các nguồn năng lượng như nhiên liệu hóa thạch, nhiên liệu hạt nhân
hoặc năng lượng tái tạo. Các quá trình của khí hậu và hệ sinh thái của Trái Đất được
thúc đẩy bởi năng lượng bức xạ mà Trái Đất nhận được từ Mặt Trời và năng lượng địa
nhiệt có trong Trái Đất.
Nói theo một cách đơn giản thì năng lượng là khả năng để làm một việc gì, năng
lượng có trong mọi thứ xung quanh chúng ta và cần thiết cho tất cả các khía cạnh đời
sống. Cơ thể chuyển thức ăn thành năng lượng để duy trì cuộc sống cho chúng ta.
Nhiên liệu cung cấp năng lượng cho xe chạy. Năng lượng cũng tạo ra điện, cấp điện
cho các hộ gia đình và doanh nghiệp.

2.Năng lượng tái tạo


Năng lượng tái tạo hay năng lượng tái sinh là năng lượng từ những nguồn liên
tục mà theo chuẩn mực của con người là vô hạn như năng lượng mặt trời, gió, mưa,

3
thủy triều, sóng và địa nhiệt. Nguyên tắc cơ bản của việc sử dụng năng lượng tái sinh
là tách một phần năng lượng từ các quy trình diễn biến liên tục trong môi trường và
đưa vào trong các sử dụng kỹ thuật. Các quy trình này thường được thúc đẩy đặc biệt
là từ Mặt Trời. Năng lượng tái tạo thay thế các nguồn nhiên liệu truyền thống trong 4
lĩnh vực gồm: phát điện, đun nước nóng, nhiên liệu động cơ, và hệ thống điện độc lập
nông thôn.
Có khoảng 16% lượng tiêu thụ điện toàn cầu từ các nguồn năng lượng tái tạo,
với 10% trong tất cả năng lượng từ sinh khối truyền thống, chủ yếu được dùng để
cung cấp nhiệt, và 3,4% từ thủy điện. Các nguồn năng lượng tái tạo mới (small hydro,
sinh khối hiện đại, gió, mặt trời, địa nhiệt, và nhiên liệu sinh học) chiếm thêm 3% và
đang phát triển nhanh chóng. Ở cấp quốc gia, có ít nhất 30 quốc gia trên thế giới đã sử
dụng năng lượng tái tạo và cung cấp hơn 20% nhu cầu năng lượng của họ. Các thị
trường năng lượng tái tạo cấp quốc gia được dự đoán tiếp tục tăng trưởng mạnh trong
thập kỷ tới và sau đó nữa. Ví dụ như, năng lượng gió đang phát triển với tốc độ 30%
mỗi năm, công suất lắp đặt trên toàn cầu là 282.482 (MW) đến cuối năm 2012.

Trong cách nói thông thường, năng lượng tái tạo được hiểu là những nguồn năng
lượng hay những phương pháp khai thác năng lượng mà nếu đo bằng các chuẩn mực
của con người thì là vô hạn. Vô hạn có hai nghĩa: Hoặc là năng lượng tồn tại nhiều
đến mức mà không thể trở thành cạn kiệt vì sự sử dụng của con người (thí dụ như
năng lượng Mặt Trời) hoặc là năng lượng tự tái tạo trong thời gian ngắn và liên tục
(thí dụ như năng lượng sinh khối) trong các quy trình còn diễn tiến trong một thời gian
dài trên Trái Đất.
Việc sử dụng khái niệm "tái tạo" theo cách nói thông thường là dùng để chỉ đến
các chu kỳ tái tạo mà đối với con người là ngắn đi rất nhiều (thí dụ như khí sinh học
so với năng lượng hóa thạch). Trong cảm giác về thời gian của con người thì Mặt Trời
sẽ còn là một nguồn cung cấp năng lượng trong một thời gian gần như là vô tận. Mặt
Trời cũng là nguồn cung cấp năng lượng liên tục cho nhiều quy trình diễn tiến trong
bầu sinh quyển Trái Đất. Những quy trình này có thể cung cấp năng lượng cho con
người và cũng mang lại những cái gọi là nguyên liệu tái tăng trưởng. Luồng gió thổi,
dòng nước chảy và nhiệt lượng của Mặt Trời đã được con người sử dụng trong quá

4
khứ. Quan trọng nhất trong thời đại công nghiệp là sức nước nhìn theo phương diện sử
dụng kỹ thuật và theo phương diện phí tổn sinh thái.

Các dạng năng lượng tái tạo 

Năng lượng tái tạo là năng lượng được tạo ra từ các nguồn tài nguyên tự nhiên
tái tạo, không đóng góp vào việc tạo ra khí thải và không gây hại cho môi trường.
Năng lượng tái tạo bao gồm các nguồn năng lượng như:

Năng lượng mặt trời: là năng lượng được tạo ra từ ánh sáng mặt trời. Năng lượng
này có thể được tận dụng để tạo ra năng lượng điện mặt trời bằng cách sử dụng các
tấm pin năng lượng mặt trời. Các tấm pin này bao gồm các tế bào mặt trời, được làm
bằng các vật liệu bán dẫn như silic và được sắp xếp thành các mảng để thu nhận ánh
sáng mặt trời và chuyển đổi thành điện.
Năng lượng gió: là năng lượng được tạo ra từ sức gió. Năng lượng này có thể
được tận dụng để tạo ra điện bằng cách sử dụng các cánh quạt gió, còn được gọi là các
pin gió. Các cánh quạt gió này được lắp đặt trên các cột cao để thu nhận sức gió và
chuyển đổi thành điện.
Năng lượng nước: là năng lượng được tạo ra từ sức nước chảy hoặc sức nước
rơi. Năng lượng này có thể được tận dụng để tạo ra điện bằng cách sử dụng các đập
thủy điện hoặc các vòng xoay thủy. Các đập thủy điện được xây dựng để cầm nước và
tạo ra sức nước để xoay các quạt phát điện, trong khi các vòng xoay thủy được đặt
trên các dòng sông hoặc dòng chảy để thu nhận sức nước và chuyển đổi thành điện.
Năng lượng sinh học: là năng lượng được tạo ra từ các nguồn sinh học như sinh
vật thực vật hoặc phế liệu hữu cơ. Năng lượng này có thể được tận dụng để tạo ra điện
bằng cách sử dụng các nhà máy sinh học, còn được gọi là các nhà máy năng lượng
sinh học. Các nhà máy này sử dụng các chất thải hữu cơ hoặc các vật liệu sinh học
như gỗ để sản xuất năng lượng.
Năng lượng địa nhiệt: là năng lượng được tạo ra từ nhiệt độ bên trong Trái Đất.
Năng lượng này có thể được tận dụng để tạo ra điện bằng cách sử dụng các bộ trao đổi
nhiệt, còn được gọi là các nhà máy năng lượng địa nhiệt. Các nhà máy này sử dụng

5
nước nóng hoặc hơi nước từ đáy đất để tạo ra hơi nước, sau đó chuyển đổi hơi nước
thành điện bằng cách sử dụng các máy phát điện.
Năng lượng biển: là năng lượng được tạo ra từ sức gió, sức sống và sức thủy
triều trên biển. Năng lượng này có thể được tận dụng để tạo ra điện bằng cách sử dụng
các bộ phận cảm biến, các đại lý đưa ra quyết định và các máy phát điện. Ví dụ, các
cánh quạt gió trên biển có thể được sử dụng để tạo ra điện, và các cảm biến sóng trên
bờ biển có thể được sử dụng để đo lường sức sóng để tạo ra năng lượng điện.
Năng lượng hydro: là năng lượng được tạo ra từ các vật liệu hydrocarbon như
dầu mỏ, khí đốt và than. Năng lượng này có thể được tận dụng để tạo ra điện bằng
cách đốt cháy các vật liệu hydrocarbon và sử dụng nhiệt phát sinh để chuyển đổi nước
thành hơi nước để vận hành máy phát điện. Tuy nhiên, việc sử dụng năng lượng hydro
gây ra ô nhiễm và góp phần vào tình trạng biến đổi khí hậu.

Những nguồn năng lượng tái tạo được sử dụng phổ biến nhất hiện nay là năng
lượng mặt trời, năng lượng gió và năng lượng nước. Tuy nhiên, các nguồn năng lượng
khác như năng lượng sinh học, năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển và năng lượng
hydro cũng được sử dụng nhưng chưa được phát triển rộng rãi. Sử dụng các nguồn
năng lượng tái tạo là cách quan trọng để giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn năng
lượng hóa thạch và giúp bảo vệ môi trường.

6
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG
(TIỀM NĂNG, KHAI THÁC, SỬ DỤNG, PHÁT TRIỂN )
I. Khai thác

Thành tựu khai thác, sử dụng một số nguồn NLTT điển hình trên thế giới
Trong nhiều thập kỷ qua, nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia
có nền công nghiệp phát triển có tiềm lực khoa học công nghệ, có tài nguyên
năng lượng thiên nhiên phong phú, có tầm nhìn chiến lược đã đầu tư khai thác
sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo (NLTT). Các kết quả đạt được cho đến
nay trên quy mô toàn cầu là rất khả quan. Các nguồn NLTT đã được sử dụng
rất phổ biến và có hiệu quả, không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả
ở nhiều nước đang phát triển.
Phạm vi sử dụng NLTT ngày càng rộng, công nghệ ngày càng hoàn thiện,
đa dạng, giá cả ngày càng hạ, và do đó, vai trò và tính khả thi của NLTT ngày
càng được khẳng định. Ở nhiều nước đã hình thành thị trường cạnh tranh, tốc
độ tăng trưởng ứng dụng một số nguồn NLTT tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là
các nguồn năng lượng gió và mặt trời.

           a. Năng lượng mặt trời (NLMT)

Năng lượng mặt trời, với tiềm năng vô tận, tính ổn định cao và khả năng
ứng dụng rất thuận lợi trong đời sống, đã được nhiều nước công nghiệp phát
triển đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu công nghệ, nhằm khai thác sử dụng
nguồn năng lượng quý giá này phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.

Có thể nói, trong hơn ba thập kỷ qua, khai thác NLMT đã đạt được những
thành tựu rất to lớn, NLMT được ứng dụng ngày càng rộng, đặc biệt là cấp
điện cho sản xuất và đời sống (điện mặt trời-PMT).

Đứng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, sản xuất và ứng
dụng các thiết bị sử dụng và ứng dụng các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời
là các quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Đức, một số nước thuộc khối EU, và Trung
Quốc.

7
Vào đầu năm 2020, thế giới đã lắp đặt các tấm pin Mặt Trời với tổng
công suất điện lên tới 651GW. Tới giữa năm 2023, thế giới có khả năng tăng
gấp đôi con số đó.. Các nước lắp đặt điện mặt trời lớn nhất trong năm 2021 là
Đức (39,275 GW), Nhật Bản (23,3 GW), Mỹ (18,3 MW).

Trung Quốc đang dần trở thành một cường quốc trong lĩnh vực sử dụng
điện mặt trời và đang dẫn đầu thế giới về sử dụng nhiệt mặt trời.

Một số nước dẫn đầu ứng dụng điện mặt trời trên thế giới là: Đức hiện
nay là quốc gia dẫn đầu thế giới về điện mặt trời đấu lưới, Chính phủ Đức đang
liên tục gia tăng việc khai thác nguồn năng lượng từ mặt trời trong các năm gần
đây. Mục tiêu của nước Đức là đưa mức tiêu thụ năng lượng tái tạo lên 35%
vào năm 2020, 50% vào năm 2030, và 80% vào năm 2050.

Nhật Bản (NB) là quốc gia hàng đầu về năng lượng mặt trời hiện nay.
Mục tiêu đất nước mặt trời mọc đặt ra năm 2020 là sẽ đạt được 28 GW và 2030
là 53 GW từ năng lượng mặt trời.

Mỹ đã và đang đầu tư xây dựng rất nhiều nhà máy điện mặt trời với quy
mô lớn, tổng công suất có thể lên tới 4.234 MW. Đầu tư cho các hệ thống
NLMT nói chung và PMT nói riêng, nhằm hạ giá thành năng lượng điện mặt
trời, qua đó đẩy mạnh tốc độ khai thác NLTT, với mục tiêu đạt được tốc độ
tăng trưởng 25%/năm, và với tốc độ tăng trưởng này, tới năm 2030, điện mặt
trời sẽ đạt mức 10% sản lượng điện.

Các nước khác trong Liên minh Châu Âu (EU) cũng có nhiều chính sách
khuyến khích khai thác và sử dụng năng lượng không truyền thống.Theo báo
cáo năng lượng mặt trời hàng năm của SolarPower Europe, trong năm 2022,
EU đã đạt được 41,4 GW năng lượng mặt trời. EU đặt mục tiêu đạt được 60
GW năng lượng mặt trời cho mùa đông năm 2023. Như vậy, mục tiêu đạt được
60 GW này sẽ tạo ra cơ hội thương mại để thu hút những công ty năng lượng
tái tạo như SolarPower Europe.

8
Tại khu vực Châu Á, việc ứng dụng điện mặt trời nói chung còn hạn chế
như Thái Lan, Philippines. Mặc dù năng lượng Mặt Trời chỉ chiếm khoảng 2%
công suất phát điện của Thái Lan, song quốc gia Đông Nam Á này trong nửa
đầu năm 2022 ước tính tiết kiệm 209 triệu USD chi phí nhiên liệu hóa thạch
tiềm năng.Philippines cũng tiết kiệm 78 triệu USD chi tiêu cho nhiên liệu hóa
thạch, mặc dù năng lượng mặt trời chỉ chiếm 1% sản lượng điện.

Nếu việc khai thác ứng dụng PMT vẫn còn bị hạn chế do giá thành PMT
còn cao, thì trong lĩnh vực khai thác nhiệt mặt trời tại các nước trên thế giới đã
đạt được những kết quả quan trọng.

Các quốc gia dẫn đầu thế giới trong ứng dụng PMT như Nhật Bản, Mỹ,
Đức, Trung Quốc cũng là những nước đang đi đầu trong việc khai thác nhiệt
mặt trời.

Theo đánh giá của Hội đồng NLTT châu Âu (EREC - European
Renewable Energy Council) thì việc khai thác nhiệt mặt trời từ 2020 đến 2030
sẽ có tốc độ tăng trưởng 14%/năm.

b. Năng lượng gió

Phổ biến và có hiệu quả nhất hiện nay trên thế giới là sử dụng năng lượng
gió để phát điện. Theo Báo cáo Điện gió Toàn cầu năm 2022, tổng công suất
điện gió toàn cầu đã đạt 837 GW vào cuối năm 2021.Năm 2022, có 78 GW
công suất của điện gió được xây mới trên toàn thế giới, đưa tổng công suất lắp
đặt điện gió toàn cầu lên 906 GW, đạt mức tăng trưởng 9%. Ở Châu Âu, Đức
có công suất gió lắp đặt cao nhất, với hơn 60 GW. Các trang trại gió ngoài khơi
lớn nhất của nó là God Wind Farms (giai đoạn 1 & 2), có tổng công suất
582MW. Đức cũng là nơi có trang trại gió Nordsee One Offshore, có công suất
382MW và cung cấp năng lượng cho 400.000 ngôi nhà.

Đức đã dẫn đầu lĩnh vực lắp đặt công suất điện gió trên bờ ở châu Âu
trong nhiều năm, tự hào là thị trường lớn nhất trong khu vực cho đến nay và là
quốc gia dẫn đầu toàn cầu về phát triển công nghệ. Vào cuối năm 2021, có tổng
9
cộng 28.230 tuabin trên bờ với tổng công suất khoảng 56 gigawatt (GW) đã
được đưa vào hoạt động trên cả nước.

Mỹ là quốc gia đứng thứ hai về sản xuất điện năng từ gió. Cho đến nay,
Mỹ đã phát triển 139GW công suất tạo gió trên đất liền, mặc dù nước này phụ
thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch. vào hoạt động trên cả nước.Tổng sản
lượng điện hàng năm của Mỹ từ năng lượng gió tăng từ khoảng 6 tỷ kWh năm
2000 lên khoảng 380 tỷ kWh vào năm 2021. Năm 2021, tuabin gió là nguồn
cung cấp khoảng 9,2% tổng sản lượng điện quy mô tiện ích của Hoa Kỳ. Quy
mô tiện ích bao gồm các công trình có công suất phát điện tối thiểu một
megawatt (1.000 kilowatt).

Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới về năng lượng gió, với hơn 1/4
công suất điện gió trên thế giới (342GW).Trung Quốc đã xây dựng nhiều công
suất trang bị khí tài mới hơn so với toàn thế giới cộng lại vào năm trước, dẫn
đến kỷ lục hàng năm về việc lắp đặt các trang trại gió bất chấp đại dịch.Số
lượng lắp đặt hệ thống canh gió kỷ lục cao hơn 3/4 so với năm 2019 và vượt xa
kỷ lục lắp đặt trước đó của quốc gia này vào năm 2012.

Theo đánh giá của Hiệp hội năng lượng gió thế giới, thì năng lượng gió sẽ
trở thành nguồn năng lượng có thị trường toàn cầu và nhanh chóng trở thành
các nguồn năng lượng chính ở nhiều nước trên thế giới.

           c. Năng lượng thủy triều

Thủy triều là hiện tượng nước đại dương dâng lên và hạ xuống do lực hấp
dẫn giữa mặt trời, mặt trăng và trái đất. Sự chuyển động tương đối của các hành
tinh này tạo ra các chu kỳ thủy triều khác nhau (chu kỳ nửa ngày, chu kỳ nửa
năm, chu kỳ nước lớn…). Ở một số vùng biển có địa hình đặc biệt như ở các
cửa sông hay các vịnh… có biên độ thủy triều lên rất đáng kể. Việc khai thác
nguồn năng lượng thủy triều chủ yếu là để phát triển. Nguyên lý của việc khai
thác cũng khá giống với việc khai thác thủy điện, khi thủy triều dâng lên, các
cửa kênh dẫn được mở ra để nước biển chảy vào hồ chứa, sau đó khi thủy triều

10
rút xuống, các cửa kênh được đóng lại để giữ nước và tạo ra một cột nước giữa
mặt biển và mặt nước trong hồ.

Đến nay, năng lượng thủy triều trên thế giới đã được khai thác hoặc đang
trong quá trình nghiên cứu phát triển dưới 3 dạng công nghệ sau: (1) Công
nghệ khai thác năng lượng thủy triều dưới thế năng (dạng đập thủy triều); (2)
công nghệ khai thác năng lượng thủy triều dưới dạng động năng (dòng chảy
thủy triều); (3) công nghệ khai thác năng lượng thủy triều tích hợp (kết hợp
giữa đập thủy triều và dòng chảy thủy triều). Trong đó, công nghệ khai thác
năng lượng thủy triều dưới dạng đập thủy triều là công nghệ truyền thống và
lâu đời nhất.

Dự án đầu tiên trên thế giới The La-Rance được xây dựng và đưa vào vận
hành tại Pháp vào năm 1966 với công suất tổng công suất 240MW gồm 24 tua-
bin, diện tích hồ chứa 22 km2, mức chênh triều trung bình 8,5 m. 

Tiếp theo, Dự án Kislaya Guba được xây dựng và vận hành tại Nga vào
năm 1968 với tổng công suất 1,7MW gồm 1 tua-bin duy nhất, diện tích hồ chứa
1,1 km2, mức chênh triều trung bình 2,3 m.

 Vào năm 1980, Dự án Jangxia được đưa vào vận hành tại Trung Quốc
với tổng công suất 3,9 MW gồm 6 tua-bin, diện tích hồ chứa 1,4 km2, mức
chênh triều trung bình 5,1 m. 

Sau đó, dự án Annapolis được xây dựng và vận hành tại Canađa vào năm
1984 với tổng công suất 20MW bao gồm 1 tua-bin, diện tích hồ chứa 15 km2,
mức chênh triều trung bình 6,4 m. 

Dự án gần đây nhất và cũng là dự án điện thủy triều (ĐTT) có công suất
lớn nhất là Sihwa được xây dựng và vận hành tại Hàn Quốc vào năm 2011 với
tổng công suất 254MW gồm 10 tua-bin, diện tích hồ chứa 56 km2, mức chênh
triều trung bình là 5,6 m. Theo thống kế của Cơ quan năng lượng tái tạo quốc
tế (IRENA), tổng công suất của các dự án sử dụng công nghệ đập thủy triều
trên toàn thế giới tính đến cuối năm 2020 xấp xỉ 522 MW.
11
Theo số liệu thống kê của Trung tâm năng lượng biển châu Âu (EMEC),
số lượng các công ty nghiên cứu phát triển công nghệ khai thác dạng năng
lượng thủy triều trên toàn thế giới là 97 đơn vị tính đến tháng 3/2020. Tổng
công suất lắp đặt thử nghiệm của công nghệ khai thác năng lượng thủy triều
dạng dòng chảy trên toàn thế giới tính đến cuối năm 2020 là 10,6MW.

d. Năng lượng địa nhiệt

Năng lượng địa nhiệt đã được khai thác và sử dụng từ đầu thế kỷ 20. Đến
nay, việc nghiên cứu và phát triển công nghệ khai thác năng lượng địa nhiệt
ngày càng lớn mạnh cả về quy mô và hiệu suất sử dụng.

Theo thống kê của của Cơ quan Nghiên cứu Năng lượng mới (EER), hiện
nay trên thế giới có khoảng 50 nước sử dụng địa nhiệt để sản xuất điện năng
với tổng công suất hơn 13,2 GW, tập trung chủ yếu ở Mỹ (hơn 4 GW) và
Philippines, Indonesia…, chiếm 0,3% lượng điện năng sản xuất toàn cầu với
tốc độ tăng bình quân 3%/năm. 

Trong đó, Mỹ đi đầu trong việc sản xuất điện địa nhiệt. Công suất điện
địa nhiệt của Mỹ hiện chiếm 32% tổng công suất điện địa nhiệt thế giới với
công suất gần 4,24 GW, đủ cung cấp điện cho khoảng 25 triệu hộ gia đình. Mỹ
cũng là quốc gia có tổ hợp nhà máy điện địa nhiệt phức tạp lớn nhất thế giới là
Geysers, nằm trên dãy núi Mayacamas thuộc miền Bắc bang California.
Geysers là một tổ hợp công trình bao gồm 22 nhà máy điện địa nhiệt, sử dụng
hơi nước nóng từ hơn 350 giếng khoan trong lòng đất, chạy các turbine phát
điện với công suất đặt 1.517 MW, cung cấp điện cho 1,1 triệu người.

Indonesia nằm trên vành đai núi lửa Thái Bình Dương, chiếm gần 40%
tiềm năng địa nhiệt thế giới. Tuy nhiên, nước này mới chỉ khai thác được 5-6%
tiềm năng địa nhiệt. Trữ lượng địa nhiệt lớn nhất quốc gia này nằm ở phía Tây,
nơi có đông dân cư nhất và có nhu cầu năng lượng cao nhất gồm, đảo Sumatra,
đảo Java và đảo Bali.

12
Iceland - quốc gia xếp thứ 14 thế giới về tiềm năng địa nhiệt, nhưng lại là
nước có sản lượng điện địa nhiệt bình quân đầu người cao nhất thế giới. Trên
hòn đảo này có 5 nhà máy địa nhiệt với tổng công suất khoảng 420 MW, bằng
26,5% tổng công suất nguồn điện cả nước. Hiện tại, Iceland mới chỉ sử dụng
khoảng 20% tiềm năng địa nhiệt. Nếu khai thác hết trữ lượng địa nhiệt, hàng
năm, Iceland sẽ cho ra sản lượng gần 20 tỉ W/giờ, tương đương với sản lượng
của 3 lò phản ứng hạt nhân.

e. Năng lượng sóng biển

Nhiều nước trên thế giới đã đưa vào ứng dụng trong thực tế nhiều trạm
phát điện bằng năng lượng sóng biển, có công suất từ vài chục, vài trăm kW
đến vài MW, cung cấp điện cho các khu dân cư, đặc biệt cho các hải đảo xa bờ.

Năng lượng sóng biển có tiềm năng rất phong phú và có thể khai thác
khắp mọi nơi để làm nguồn phát điện. Theo kết quả điều tra, tiềm năng năng
lượng sóng có thể khai thác được trên thế giới là 29.500 TWh/năm . Tiềm năng
năng lượng sóng biển trên thế giới là rất khác nhau, dưới đây là hình ảnh thể
hiện nguồn tài nguyên năng lượng sóng biển và mật độ năng lượng sóng biển
trên thế giới (Hình 1). Cho đến nay đã có trên 30 nước đầu tư hơn 20 năm
nghiên cứu công nghệ khai thác nguồn năng lượng này. Năng lượng sóng biển
rất thích hợp cho việc cung cấp điện cho các hải đảo. Các trạm điện bằng sóng
biển có công suất phổ biến từ 50 kW, 100 kW, 300 kW đến 500 kW đã được
xây dựng ở một số nước như Ấn Độ, Scotland, Na Uy, Bồ Đào Nha, Anh,...

Châu Âu là khu vực đứng đầu trong việc áp dụng năng lượng sóng, hiện
đã có 4 dự án khai thác thương mại năng lượng sóng. Giá thành điện năng từ
sóng hiện nay đã giảm 80% trong vòng 20 năm vừa qua nhờ có các tiến bộ về
thiết bị và tối ưu hóa trong kết cấu. Với chi phí đầu tư ban đầu khoảng 1/2 chi
phí đầu tư ban đầu của năng lượng gió và 1/4 chi phí đầu tư ban đầu của năng
lượng pin mặt trời, năng lượng sóng có một tiềm năng rất lớn để trở thành một
nguồn năng lượng có giá rẻ nhất trong tương lai.

13
Khai thác năng lượng sóng biển để cung cấp điện được nhiều nước đặc
biệt quan tâm. Tại các nước châu Âu như Anh, Bồ Đào Nha, Na Uy, Đan
Mạch… đã đầu tư mạnh mẽ cho R&D. Các chương trình nghiên cứu quốc gia
đã được xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ trước. Hiệu quả các nguồn điện
từ sóng biển ngày càng cao, công suất tổ máy ngày càng lớn (750kW/tổ máy).
Hiện nay sản phẩm đã bắt đầu được thương mại hóa.

Khó khăn

Mặc dù năng lượng tái tạo có nhiều ưu việt như sạch, ít gây ô nhiễm môi
trường, có tiềm năng lớn, một số nguồn vô tận, tuy nhiên những nguồn này vẫn
có những nhược điểm như nguồn phân tán, không ổn định, phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên… gây khó khăn cho việc khai thác.
Đối với các nước nghèo, khó khăn lớn nhất gây cản trở sự phát triển
NLTT đó là vấn đề giá cả của các thiết bị công nghệ còn khá cao so với năng
lượng truyền thống.
Biện pháp
Để có thể phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo, mở rộng phạm vi ứng
dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng, tăng dần tỷ trọng NLTT trong cơ cấu nguồn
năng lượng, nhiều quốc gia đã thực hiện những biện pháp thiết thực, hiệu quả,
có tính pháp lý, tạo ra bước đột phá để phát triển NLTT, đó là:
- Xây dựng cơ sở pháp lý về hỗ trợ vốn đầu tư, hỗ trợ giá, cơ chế ưu đãi
về thuế,… 
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung hạn, dài hạn phát triển
NLTT với những chỉ tiêu cụ thể trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.
- Xác định nghiên cứu triển khai về NLTT là nhiệm vụ khoa học công
nghệ ưu tiên, được đầu tư mạnh mẽ, thông qua các chương trình khoa học công
nghệ quốc gia về phát triển NLTT.
- Tăng cường đào tạo nguồn nhân lưc khoa học công nghệ về NLTT.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong những chương trình hành động chung.

Thị trường Việt Nam

14
Trong năm 2022, năng lượng tái tạo (bao gồm thủy điện, điện gió, điện
mặt trời, điện sinh khối), mặc dù các điều kiện ưu đãi về cơ chế mua điện FIT
(cơ chế khuyến khích phát triển của Chính phủ) đều đã hết hiệu lực, vẫn tiếp
tục phát triển và các công việc chuẩn bị đầu tư, hoàn thiện các dự án… Ước
tính đến hết tháng 12/2022, sản lượng điện phát của năng lượng tái tạo (NLTT)
dự kiến đạt được 130 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng gần 48% sản lượng điện phát của
hệ thống điện Việt Nam, trong đó 35% là thủy điện và 13% là của điện gió, mặt
trời và sinh khối. Tỷ trọng phát điện của NLTT không ngừng tăng cao và tốc
độ rất nhanh trong cơ cấu phát điện của hệ thống điện Việt Nam trong giai
đoạn 2010 - 2022, từ 27% vào năm 2010 lên hơn 48% vào năm 2022, đặc biệt
với sự đóng góp rất lớn từ điện gió, mặt trời vào các năm 2019 - 2022.

Kết luận

Các kết quả nghiên cứu, ứng dụng hiện nay trên thế giới là rất khả quan,
tạo cho các nước nghèo và đang phát triển , trong đó có Việt Nam, những điều
kiện thuận lợi để phát triển nhanh việc khai thác sử dụng các nguồn năng lượng
tái tạo, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ có hiệu quả
cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

II. Tiêu thụ

Thế 2011 2020 2021 Tốc độ tăng trưởng Tỷ trọng


giới/châu lục năm 2021

2021/2020 2021/2011 2011-


2021

Bắc Mỹ 3,63 7,57 8,44 11,8% 132,51% 8,8% 21,2%

Nam và 1,21 3,02 3,35 11,4% 176,86% 10,8% 8,4%


Trung Mỹ

15
Châu Âu 4,55 9,91 10,1 2,6% 122,86% 8,3% 25,4%
4

CIS 0,01 0,07 0,10 41,4% 900,00% 29,4% 0,3%

Trung Đông 0,01 0,15 0,18 18,0% 1700,00% 37,3% 0,4%

Châu Phi 0,07 0,44 0,47 7,6% 571,43% 20,5% 1,2%

Châu Á- 2,67 13,64 17,2 26,7% 544,95% 20,5% 43,1%


TBD 2

Thế giới 12,14 34,80 39,9 15,0% 228,75% 12,6% 100,0%


1

- OECD 8,89 19,63 21,1 7,9% 137,46% 9,0% 52,9%


1

- Ngoài 3,25 15,17 18,8 24,2% 478,47% 19,2% 47,1%


OECD 0

- EU 4,05 7,72 7,92 2,9% 95,56% 6,9% 19,8%

Nguồn: BP Statistical Review of World Energy 2022 | 71st edition.

Bảng 1: Tổng tiêu thụ NLTT năm 2011 và 2020 - 2021 của toàn cầu, từng châu lục,
khu vực

16
Qua bảng 1 nêu trên cho thấy:

Tổng tiêu thụ NLTT toàn cầu năm 2021 tăng 15,0% so với năm 2020 và trong
giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 12,6%/năm. So với năm 2011 thì năm 2021 tăng
228,75% - tức cao gấp gần 3,3 lần. Đặc biệt, tỷ trọng NLTT tiêu thụ của các châu lục,
khu vực trên tổng NLTT tiêu thụ toàn cầu có sự thay đổi mạnh từ năm 2011 đến 2021
như sau: Châu Á - TBD từ 22,0% lên 43,1%; Châu Phi từ 0,58% lên 1,2%; Trung
Đông từ 0,09% lên 0,4%; CIS từ 0,09% lên 0,3%; Châu Âu giảm từ 37,48% xuống
còn 25,4%; Nam và Trung Mỹ giảm từ 9,97% xuống còn 8,4%; Bắc Mỹ giảm từ
29,91% xuống còn 21,2%; Khối OECD giảm từ 73,23% xuống còn 52,9%; Khối
ngoài OECD tăng từ 26,77% lên 47,1% và khối EU giảm từ 33,36% xuống còn
19,8%.

Tuy nhiên, tình hình tiêu thụ NLTT của từng châu lục, khu vực có khác biệt với bức
tranh chung của toàn cầu. Cụ thể là:

Bắc Mỹ: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 11,8% và tăng 132,51% so với năm
2011. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 8,8%/năm. Năm 2021 chiếm tỷ trọng
21,2% tiêu thụ NLTT toàn cầu, giảm so với năm 2011 (chiếm 29,91%).

Nam và Trung Mỹ: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 11,4% và so với năm
2011 tăng 176,86%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 10,8%/năm. Năm 2021
chiếm tỷ trọng 8,4% tiêu thụ NLTT toàn cầu, giảm so với năm 2011 (chiếm 9,97%).

Châu Âu: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 2,6% và tăng 122,86% so với năm
2011. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 8,3%/năm. Năm 2021 chiếm tỷ trọng
25,4% tiêu thụ NLTT toàn cầu, giảm so với năm 2011 (chiếm 37,48%).

Khối CIS: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 41,4% và so với năm 2011 tăng
tương đối cao, tới 900,00%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 29,4%/năm. Năm
2021 chiếm tỷ trọng 0,3% tiêu thụ NLTT toàn cầu, tăng so với năm 2011 (chiếm
0,09%).

Các nước Trung Đông: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 18,0% và so với năm
2011 tăng cao, tới 1700,0 %. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 37,3%/năm.
17
Năm 2021 chiếm tỷ trọng 0,4% tiêu thụ NLTT toàn cầu, tăng so với năm 2011 (chiếm
0,09%).

Châu Phi: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 7,6% và so với năm 2011 tăng
cao, tới 571,43%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 20,5%/năm. Năm 2021
chiếm tỷ trọng 1,2% tiêu thụ NLTT toàn cầu, tăng so với năm 2011 (chiếm 0,58%).

Châu Á-TBD: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 26,7% và so với năm 2011
tăng cao, tới 544,95%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 20,5%/năm, là châu
lục có mức tăng vào loại cao nhất trong năm 2021 và cả giai đoạn 2011-2021. Năm
2021 chiếm tỷ trọng 43,1% tiêu thụ NLTT toàn cầu, tăng cao so với năm 2011 (chiếm
22,00%).

Khối OECD: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 7,9% và so với năm 2011 tăng
137,46%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 9,0%/năm. Năm 2021 chiếm tỷ
trọng 52,9% tiêu thụ NLTT trên toàn thế giới, giảm mạnh so với năm 2011 (chiếm
73,23%).

Khối ngoài OECD: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 24,2% và so với năm
2011 tăng cao, tới 478,47%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 19,2%/năm. Năm
2021 chiếm tỷ trọng 47,1% tiêu thụ NLTT toàn cầu, tăng cao so với năm 2011 (chiếm
26,77%).

Khối EU: Năm 2021 tăng so với năm 2020 là 2,9% và so với năm 2011 tăng
95,56%. Cả giai đoạn 2011-2021 tăng bình quân 6,9%/năm. Năm 2021 chiếm tỷ trọng
19,8% tiêu thụ NLTT toàn cầu, giảm so với năm 2011 (chiếm 33,36%).

Tình hình các nước: Tình hình các nước nói chung có sự phân hóa mạnh, năm 2021
hầu hết các nước có NLTT tiêu thụ tăng với các mức tăng khác nhau, chỉ có một số ít
nước giảm. Tương tự cả giai đoạn 2011-2021 đa phần các nước tăng, chỉ có một số
nước giảm.

18
Năm 2021: Hầu hết các nước có mức tiêu thụ NLTT tăng so với năm 2020,
nhiều nước tăng cao trên 10%, trong đó một số nước tăng trên 20% gồm có:
Uzbekistan 625,5%; Ả-rập Xê-ut 300,2%; Việt Nam 134,4%; LB Nga 53,9%; Các
nước CIS khác 34,7%; Trung Quốc 33,1%; Ix-ra-en 32,8%; Ka-zăc-kh-xtan 30,5%;
Nam Triều Tiên 29,6%; Ix-ra-en 28,7%; Chi lê 27,3%; Ác-hen-ti-na 26,1%; Xri Lan-
ka 24,9%; Tây Phi 23,5%; Pakistan 23,2%; Ma-lai-xi-a 22,8%; Úc 22,4%; Thổ Nhĩ
Kỳ 22,0%; I ran 21,9%; Síp 20,3%; Hung-ga-ri 20, %.

Giai đoạn 2011-2021: Mặc dù năm 2021 có một số nước giảm, song tất cả các
nước trong giai đoạn này đều có tốc độ tiêu thụ NLTT bình quân hằng năm gia tăng.
Trong đó, một số nước tăng cao (20%/năm trở lên) gồm có: Ka-zắc-kh-xtan 168,1%;
Việt Nam 73,1%; UAE 72,7%; Pakistan 70,3%; Các nước Trung Đông khác 68,5%;
Ả-rập Xê-ut 64,6%; Bắc Macedonia 54,5%; Các nước CIS khác 51,2%; U-crai-na
44,4%; An-giê-ri 42, %; Các nước Châu Âu khác 41,6%; Vê-nê-zu-ê-la 41,3%; Nam
Phi 35,6%; Turkmenistan 30,6%; Croatia 29,5%; LB Nga 27,3%; Xri Lan-ka 27,2%;
Thổ Nhĩ Kỳ 26,4%; Trung Quốc 25,6%; Ma Rốc 25,2%; Tây Phi 21,1%; Bangladesh
20,6%.

III. Phát triển

19
Phát triển nguồn năng lượng tái tạo đang dần chiếm vị trí quan trọng trọng sự
phát triển kinh tế bền vững ở các nước, do lợi ích to lớn trong việc tận dụng tối đa
nguồn thiên nhiên vô tận (như gió, mặt trời…), cũng như góp phần giảm tác động của
hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu gây ra.
Tại thị trường EU
EU là một trong khu vực đi đầu trong việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành
năng lượng theo hướng sử xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nguồn năng lượng sạch.
Ngành công nghiệp năng lượng tái tạo ở EU liên tục phát triển nhanh những năm gần
đây, 6 tháng đầu năm 2020 tăng trưởng 11% so với cùng kỳ 2019, góp phần tạo ra
40% tổng sản lượng điện cho 27 quốc gia trong khu vực.Với quyết tâm mạnh mẽ
trong việc chuyển đổi hướng đi ngành năng lượng, EU đặt mục tiêu sẽ tăng tỷ trọng
nguồn năng lượng tái tạo và năng lượng sinh học lên 60% vào năm 2030, và tăng
cường công suất điện gió ngoài khơi lên gấp 25 lần vào năm 2050, để đạt mục tiêu
trung hòa khí thải các bon năm 2050. Để đẩy nhanh việc thực hiện kế hoạch “Năng
lượng sạch cho toàn châu Âu”, cuối năm 2018 các nước thành viên Liên hiệp châu Âu
(EU) đã thông qua đề xuất của Ủy ban châu Âu (EC) về gói đầu tư trị giá 873 triệu
euro cho các dự án lớn của châu Âu về cơ sở hạ tầng năng lượng sạch, bao gồm 17 dự
án. Trong đó, 680 triệu euro đầu tư cho 8 dự án thuộc lĩnh vực điện và 193 triệu Euro
cho 9 dự án khác liên quan tới khí đốt. Các dự án liên quan tới lĩnh vực năng lượng tái
tạo này sẽ đẩy mạnh liên kết và tăng cường an ninh cho mạng lưới năng lượng trên
toàn châu Âu. Theo đó, các thành viên EU sẽ nhanh chóng chuyển đổi sang nền kinh
tế có mức độ thải khí các-bon thấp, an toàn sức khỏe cho người dân và góp phần tăng
khả năng cạnh tranh cho nhiều ngành công nghiệp. Liên minh năng lượng sẽ là một
trong những ưu tiên hàng đầu của EC nhằm chuyển đổi châu Âu sang một nền kinh tế
sạch, hiện đại và bền vững.
Tại thị trường Mỹ
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của phát triển bền vững gắn liền với đảm bảo
nguồn năng lượng tái tạo, để giảm dần những vấn đề môi trường gây hại sức khỏe từ
các nhà máy năng lượng sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch, Chính phủ Mỹ đã đầu tư
rất lớn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng các nhà máy sản xuất năng lượng tái tạo, cũng
các ngành công nghiệp sản xuất thay thế dần động cơ sử dụng năng lượng sạch.

20
Trong giai đoạn 2011 - 2014, tại California đã xây dựng 2 nhà máy điện mặt trời
lớn nhất thế giới. Đó là Trang trại quang điện Topaz (công suất 550 MW) được đầu tư
khoảng 2.5 tỷ USD, đi vào hoạt động năm 2014. Nhà máy điện mặt trời thứ hai là
Ivanpah (với công suất 392 MW) có tổng vốn đầu tư khoảng 2,2 tỷ USD, được xây
dựng trên diện tích khoảng 13km2, tại sa mạc Mojave, bang California, được vận hành
năm 2014. Trong năm 2019 Hoa Kỳ, đã đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ trong ngành
sản xuất năng lượng tái tạo, tăng 19% so, cao nhất trong những năm trước đó, sản xuất
được 720,4 TWh điện tái tạo với các nguồn như điện mặt trời hoặc năng lượng địa
nhiệt. Thành phố Babcock Ranch ở bang Florida (Mỹ) vào thời điểm cuối năm 2018
đã trở thành một trong những thành phố bền vững và thân thiện với môi trường bậc
nhất trên thế giới. Tại đây, 100% điện năng sử dụng đều là từ năng lượng tái tạo và áp
dụng theo công nghệ điện lưới thông minh.
Mỹ là một trong những nước sản xuất năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới, đi tiên
phong trong lĩnh vực này, có thể sản xuất điện năng phần lớn từ năng lượng tái tạo
vào năm 2050. Hầu hết các nhà máy nhiệt điện than và nhà máy điện hạt nhân sẽ
ngừng hoạt động vào năm 2030 nhưng những nhà máy còn lại sẽ hoạt động đến năm
2050. Nghiên cứu nói trên cho rằng Mỹ có thể sản xuất ra 80% điện năng từ năng
lượng tái tạo bằng công nghệ hiện có, bao gồm turbine gió, điện quang mặt trời, năng
lượng gió, năng lượng sinh học, địa nhiệt và thủy điện.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành năng lượng tái tạo thay thế dần cho năng
lượng sử dụng hóa thách đang diễn ra quốc gia đi đầu nền kinh tế thế giới, càng cho
thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế phải gắn liền với việc phát triển
năng lượng bền vững, an toàn.
Tại thị trường Trung Quốc
Năm 2004 Trung Quốc mới đầu tư vào lĩnh vực này là 3 tỷ USD, nhưng đến
năm 2015 tăng lên là 103 tỷ USD, vượt qua cả Mỹ là 44.1 tỷ USD, và chiếm khoảng
36% đầu tư của các nước trên toàn thế giới. Trong tổng kết kế hoạch 5 năm từ 2016 -
2020, tổng đầu tư Trung Quốc vào ngành công nghiệp này đã lên đến hơn 360 tỷ
USD, riêng lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực năng lượng tái tạo hiện đang
có khoảng 3.5 triệu người, đông nhất so với các nước khác trên thế giới.

21
Theo Cục Quản lý Năng lượng Quốc gia Trung Quốc (NEA), dự kiến năm 2021
tổng sản lượng điện từ các nhà máy năng lượng mặt trời và năng lượng gió sẽ đạt 11%
trong tổng sản lượng tiêu thụ điện cả nước, cao hơn năm 2020 (9.7%), mục tiêu sẽ đạt
16.5% vào năm 2025. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố sẽ tăng tỷ trọng của nhiên liệu
tái tạo trong tiêu thị năng lượng sơ cấp lên khoảng 25% vào năm 2030. Đây được coi
là mục tiêu chính nằm trong cam kết của Trung Quốc cắt giảm lượng phát thải carbon
trước năm 2030, và là một phần của chương trình cải tổ toàn diện năng lượng quốc
gia, nhằm cắt giảm dần các nhà máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch gây ôi nhiễm môi
trường.
Trong vài năm gần đây, ngành năng lượng tái tạo được chính phủ hết sức chú
trọng, là mục tiêu chính của việc phát triển và mở rộng phạm vi tầm ảnh hưởng của
quốc gia trên toàn thế giới, nên trong ngành công nghiệp này đang có sự chuyển dịch
và phát triển tốc độ. Chỉ từ năm 2018 đến nay, công suất điện mặt trời tăng 700 lần,
công suất điện gió tăng gấp 22 lần, xuất khẩu của ngành này sang các nước khác càng
ngày càng tăng (chủ yếu là pin năng lượng mặt trời). Đây chính là động lực giúp cho
tổng công suất điện mặt trời và công suất gió của toàn cầu tăng gấp 33 lần kể từ năm
2018.
Hiện giờ với vị trí là quốc gia đứng đầu về sản lượng năng lượng tái tạo, Trung
Quốc đưa vị thế tầm ảnh hưởng của quốc gia lên tầng cao mới, tác động lên cả nền
công nghiệp phụ thuộc lớn vào nguồn năng lượng, cũng như thương mại, và cả nền
kinh tế đất nước. Đây còn được coi như một “vũ khí then chốt” để thay đổi quan hệ
thương mại với các nước khác, cũng như hình thành các liên minh mới mang lại nhiều
lợi ích cho quốc gia cả lĩnh vực kinh tế lẫn chính trị.
Ở thị trường Việt Nam
Theo nhận định của giới chuyên gia Việt Nam là quốc gia hội tụ những đặc điểm
địa lý, khí hậu lý tưởng cho việc sản xuất các loại năng lượng tái tạo.Với vị trí địa lý
có đường biển dài, thời tiết của khu vực nhiệt đới nhận được lượng nhiệt mặt trời
tương đối lớn… đây là một trong những tiềm năng rất lớn để Việt Nam xây dựng và
phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo như nhà máy năng lượng mặt trời,
nhà máy năng lượng gió. Việc này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong định hướng phát
triển nền kinh tế Việt Nam trong tương lai, cũng như an ninh năng lượng. Phát triển

22
năng lượng tái tạo còn đang là cuộc chạy đua năng lượng của các nước trên thế giới
tạo nên vị thế cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Điều này cho thấy Việt Nam
cũng không thể chậm trễ trong lĩnh vực này, khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển
năng lượng tái tạo để tạo sức cạnh tranh cho cả nền kinh tế.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2021, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ
thống đạt 128,51 tỷ kWh, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2020; Trong đó, năng lượng
tái tạo (gồm: điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) huy động được 14,69 tỷ kWh,
chiếm tỷ trọng 11,4% trong tổng sản lượng.
Tỷ trọng sản lượng huy động của một số loại hình nguồn điện chính trên tổng sản
lượng điện sản xuất toàn hệ thống như sau:
+ Thủy điện huy động đạt 30,46 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 23,7%.
+ Nhiệt điện than huy động đạt 66,67 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 51,9%.
+ Tua bin khí huy động đạt 15,66 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 12,2%.
+ Năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) huy động đạt
14,69 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 11,4%.
+ Điện nhập khẩu đạt 624 triệu kWh, chiếm tỷ trọng 0,5%.
+ Nhiệt điện dầu huy động không đáng kể, đạt 02 triệu kWh.

IV. Tiềm năng

Năng lượng tái tạo đang được xem là giải pháp và xu hướng tất yếu của ngành
năng lượng hiện nay trên thế giới. Khi các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than đá dầu
mỏ ngày càng trở nên cạn kiệt, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, buộc các quốc
gia trên thế giới phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành năng lượng theo hướng
sạch và bền vững. Phát triển nguồn năng lượng tái tạo đang dần chiếm vị trí quan
trọng trọng sự phát triển kinh tế bền vững ở các nước, do lợi ích to lớn trong việc tận
dụng tối đa nguồn thiên nhiên vô tận (như gió, mặt trời…), cũng như góp phần giảm
tác động của hiệu ứng nhà kính và biến đổi khí hậu gây ra.

Theo nghiên cứu của cơ quan năng lượng quốc tế (IEA), đến năm 2025, năng
lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn sản xuất điện chính, cung cấp một phần ba lượng điện

23
trên thế giới, ước tính, công suất điện gió và quang điện sẽ vượt công suất của khí đốt
vào năm 2023 và than đá vào năm 2024.

Có năm lý do giải thích tại sao đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch
là con đường dẫn đến một hành tinh lành mạnh, đáng sống ngày nay và cho các thế hệ
mai sau:

Nguồn năng lượng tái tạo ở xung quanh chúng ta

Khoảng 80 phần trăm dân số toàn cầu sống ở các quốc gia nhập khẩu
ròng nhiên liệu hóa thạch khiến họ dễ bị tổn thương trước các cú sốc và khủng
hoảng địa chính trị.

Ngược lại, các nguồn năng lượng tái tạo có sẵn ở tất cả các quốc gia và
tiềm năng của chúng vẫn chưa được khai thác hết. Cơ quan Năng lượng Tái tạo
Quốc tế (IRENA) ước tính rằng 90% điện năng trên thế giới có thể và sẽ đến từ
năng lượng tái tạo vào năm 2050.

Năng lượng tái tạo mang đến một giải pháp thoát khỏi sự phụ thuộc vào
nhập khẩu, cho phép các quốc gia đa dạng hóa nền kinh tế và bảo vệ họ khỏi sự
biến động giá khó lường của nhiên liệu hóa thạch, đồng thời thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế toàn diện, tạo việc làm mới và xóa đói giảm nghèo.

Năng lượng tái tạo rẻ hơn

Năng lượng tái tạo thực sự là lựa chọn năng lượng rẻ nhất ở hầu hết các
nơi trên thế giới hiện nay. Giá cho các công nghệ năng lượng tái tạo đang giảm
nhanh chóng. Chi phí điện từ năng lượng mặt trời đã giảm 85% từ năm 2010
đến năm 2020. Chi phí năng lượng gió trên đất liền và ngoài khơi đã giảm lần
lượt 56% và 48%.

Giá giảm làm cho năng lượng tái tạo trở nên hấp dẫn hơn ở khắp mọi nơi
– bao gồm cả các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, nơi phần lớn nhu
cầu bổ sung về điện mới sẽ đến từ đó. Với chi phí giảm, có một cơ hội thực sự

24
cho phần lớn nguồn cung cấp điện mới trong những năm tới sẽ được cung cấp
bởi các nguồn carbon thấp.

Điện giá rẻ từ các nguồn tái tạo có thể cung cấp 65% tổng nguồn cung cấp
điện của thế giới vào năm 2030. Nó có thể khử cacbon cho 90% ngành điện
vào năm 2050, cắt giảm đáng kể lượng khí thải carbon và giúp giảm thiểu biến
đổi khí hậu.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết, mặc dù chi phí điện mặt trời và
điện gió dự kiến sẽ vẫn cao hơn vào năm 2022 và 2023 so với mức trước đại
dịch do giá hàng hóa và vận chuyển hàng hóa nói chung tăng cao, nhưng khả
năng cạnh tranh của chúng thực sự được cải thiện do giá khí đốt và than đá
tăng mạnh hơn nhiều.

Năng lượng tái tạo tốt cho sức khỏe hơn

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 99% người dân trên thế giới
hít thở không khí vượt quá giới hạn chất lượng không khí và đe dọa sức khỏe
của họ, và hơn 13 triệu ca tử vong trên khắp thế giới mỗi năm là do các nguyên
nhân môi trường có thể tránh được, bao gồm ô nhiễm không khí.

Mức độ không lành mạnh của vật chất dạng hạt mịn và nitơ đioxit chủ
yếu bắt nguồn từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch. Năm 2018, ô nhiễm không khí
từ nhiên liệu hóa thạch đã gây ra 2,9 nghìn tỷ USD chi phí kinh tế và sức khỏe ,
khoảng 8 tỷ USD mỗi ngày.

Do đó, chuyển sang các nguồn năng lượng sạch, chẳng hạn như gió và
mặt trời, không chỉ giúp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu mà còn ô nhiễm
không khí và sức khỏe.

 Năng lượng tái tạo tạo việc làm

Mỗi đô la đầu tư vào năng lượng tái tạo tạo ra số việc làm gấp ba lần so
với ngành nhiên liệu hóa thạch. IEA ước tính rằng quá trình chuyển đổi sang
mức phát thải ròng bằng không sẽ dẫn đến sự gia tăng tổng thể về việc làm
25
trong ngành năng lượng : trong khi khoảng 5 triệu việc làm trong sản xuất
nhiên liệu hóa thạch có thể bị mất vào năm 2030, ước tính 14 triệu việc làm
mới sẽ được tạo ra trong lĩnh vực năng lượng sạch, dẫn đến mức tăng ròng 9
triệu việc làm.

Ngoài ra, các ngành liên quan đến năng lượng sẽ cần thêm 16 triệu lao
động, chẳng hạn như để đảm nhận các vai trò mới trong sản xuất xe điện và các
thiết bị siêu tiết kiệm năng lượng hoặc trong các công nghệ tiên tiến như hydro.
Điều này có nghĩa là tổng cộng hơn 30 triệu việc làm có thể được tạo ra trong
các công nghệ năng lượng sạch, hiệu quả và ít khí thải vào năm 2030.

Đảm bảo quá trình chuyển đổi công bằng , đặt nhu cầu và quyền của
người dân vào trung tâm của quá trình chuyển đổi năng lượng, sẽ là điều tối
quan trọng để đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.

Năng lượng tái tạo có ý nghĩa kinh tế

Khoảng 5,9 nghìn tỷ đô la đã được chi để trợ cấp cho ngành nhiên liệu
hóa thạch vào năm 2020, bao gồm thông qua trợ cấp rõ ràng, giảm thuế và các
thiệt hại về sức khỏe và môi trường không được tính vào chi phí của nhiên liệu
hóa thạch.

Để so sánh, khoảng 4 nghìn tỷ đô la mỗi năm cần được đầu tư vào năng
lượng tái tạo cho đến năm 2030 – bao gồm đầu tư vào công nghệ và cơ sở hạ
tầng – để cho phép chúng ta đạt được mức phát thải ròng bằng không vào năm
2050.

Chi phí trả trước có thể gây khó khăn cho nhiều quốc gia có nguồn lực
hạn chế và nhiều quốc gia sẽ cần hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thực hiện quá
trình chuyển đổi. Nhưng đầu tư vào năng lượng tái tạo sẽ được đền đáp. Chỉ
riêng việc giảm ô nhiễm và tác động khí hậu có thể tiết kiệm cho thế giới tới
4,2 nghìn tỷ đô la mỗi năm vào năm 2030.

26
Hơn nữa, các công nghệ tái tạo hiệu quả, đáng tin cậy có thể tạo ra một hệ
thống ít bị ảnh hưởng bởi các cú sốc thị trường hơn, đồng thời cải thiện khả
năng phục hồi và an ninh năng lượng bằng cách đa dạng hóa các lựa chọn cung
cấp điện

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NĂNG


LƯỢNG TÁI TẠO
Phát triển năng lượng tái tạo nói chung và sản xuất điện từ năng lượng tái tạo
nói riêng là xu thế tất yếu hiện nay trên thế giới để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày
càng tăng, đảm bảo thân thiện với môi trường và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí
hậu.
Với quy mô, tốc độ, tỷ trọng và cơ cấu của năng lượng tái tạo có sự khác nhau
giữa các khu vực và giữa các nước cho thấy: Tuy phát triển năng lượng tái tạo là tất
yếu, nhưng các nước trên thế giới không phải xếp hàng ngang cùng tiến mà mỗi nước,
mỗi khu vực có lộ trình, bước đi, cách thức, biện pháp khác nhau phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể của từng nước và khu vực. Không có một cơ cấu và tỷ trọng
năng lượng tái tạo hợp lý giống nhau cho tất cả các nước, khối nước và thống nhất cho
mọi thời kỳ. Điều cơ bản là phải đảm bảo an ninh năng lượng trên cơ sở đáp ứng đồng
thời các yêu cầu: Cung cấp năng lượng đủ, kịp thời, ổn định, tin cậy, bảo vệ môi
trường và giá cả phù hợp với khả năng chịu đựng của nền kinh tế và khả năng chi trả
của người dân. Theo đó, có chiến lược, chính sách phát triển năng lượng nói chung và
năng lượng tái tạo phù hợp với từng nước, từng khối trong từng thời kỳ, trong đó xác
định cơ cấu hợp lý là bài toán thường xuyên phải cập nhật các dữ liệu mới có liên
quan phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội mới và công nghệ mới.
Để phát triển năng lượng tái tạo một cách hiệu quả và bền vững cần phải:
Thứ nhất, năng lượng tái tạo cần phải trở thành hàng hóa công cộng, phục vụ
tất cả mọi người dân và mọi người dân đều có thể tiếp cận được và hưởng lợi từ phát
triển năng lượng tái tạo và chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là những nhóm hoặc cộng
đồng chịu ảnh hưởng do quá trình chuyển đổi năng lượng cần phải được hỗ trợ về sinh
kế, đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp.

27
Thứ hai, cần thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong việc gỡ bỏ các rào cản,
bao gồm các rào cản về quyền sở hữu trí tuệ nhằm tăng cường chia sẻ kiến thức và
thúc đẩy hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển và chuyển giao công nghệ năng
lượng tái tạo từ các nước phát triển cho các nước đang phát triển.
Thứ ba, chính sách có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình chuyển
đổi năng lượng. Do đó, cần có cơ chế, chính sách phù hợp ở từng quốc gia để khuyến
khích cộng đồng doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào năng lượng tái tạo, cũng như
thúc đẩy việc chuyển đổi năng lượng, đặc biệt là từ khâu lập quy hoạch đến cấp phép,
quản lý và vận hành dự án phát triển năng lượng tái tạo.
Thứ tư, đặt ra các mục tiêu về phát triển năng lượng tái tạo, đạt phát thải ròng
bằng 0 và giảm ô nhiễm không khí trở thành tiêu chí để đưa ra quyết định đầu tư, phát
triển các dự án năng lượng. Đặc biệt, cần có sự cam kết và tham gia trách nhiệm của
hệ thống tài chính, bao gồm các ngân hàng phát triển đa phương, các tổ chức tài chính,
tín dụng thông qua việc điều chỉnh danh mục cho vay đầu tư theo hướng đẩy nhanh
quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.
Thứ năm, tăng cường đầu tư vào hệ thống truyền tải điện để tối đa hóa lợi ích
của việc sản xuất năng lượng gió và mặt trời; đầu tư phát triển hạ tầng cần thiết nhằm
đẩy nhanh việc áp dụng các công nghệ sạch như phương tiện giao thông chạy điện
như ô tô điện, xe máy điện.
Thứ sáu, bên cạnh nỗ lực thúc đẩy chuyển đổi năng lượng, phát huy tiềm năng
về năng lượng tái tạo, cần triển khai đồng bộ các giải pháp khác như phục hồi hệ sinh
thái tự nhiên có sức chống chịu trước biến đổi khí hậu để tăng cường khả năng thích
ứng, lưu trữ carbon; thúc đẩy kinh tế tuần hoàn nhằm sử dụng hiệu quả tối đa tài
nguyên trong khi vẫn có thể bảo tồn tài nguyên cho các thế hệ mai sau, triển khai các
giải pháp công nghệ lưu trữ, chôn lấp carbon để góp phần thực hiện mục tiêu đạt phát
thải ròng bằng 0…
Cuối cùng, để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tương xứng với tiềm năng
của châu lục, cần có sự tham gia tích cực của cộng đồng các cơ quan thông tấn, báo
chí trong khu vực. Chính các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông sẽ góp phần lan
tỏa thông điệp về tính cấp bách của việc chuyển đổi năng lượng, cũng như giúp cộng

28
đồng doanh nghiệp và người dân hiểu rõ hơn về những lợi ích kinh tế, môi trường và
xã hội do phát triển năng lượng tái tạo mang lại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Online N. L. V. N. (2021, October 13). Phát triển năng lượng tái tạo thế giới
năm 2020 - tham khảo cho Việt Nam. Năng Lượng Việt Nam
Online. https://nangluongvietnam.vn/phat-trien-nang-luong-tai-tao-the-gioi-
nam-2020-tham-khao-cho-viet-nam-27611.html
2. ducnm12@gmail.com. (n.d.). Đề xuất 7 quan điểm phát triển bền vững năng
lượng tái tạo khu vực châu Á. Copyright © 2011 by ducnm12@gmail.com -
0963 236 999. https://nangluongsachvietnam.vn/d6/vi-VN/news/De-xuat-7-
quan-diem-phat-trien-ben-vung-nang-luong-tai-tao-khu-vuc-chau-A-6-8-16849
3. Online N. L. V. N. (2022, December 5). Tổng quan năng lượng tái tạo toàn
cầu và Việt Nam năm 2011, 2020 - 2021. Năng Lượng Việt Nam
Online. https://nangluongvietnam.vn/tong-quan-nang-luong-tai-tao-toan-cau-
va-viet-nam-nam-2011-2020-2021-29875.html
4. United Nations. (n.d.). Renewable energy – powering a safer future | United
Nations. https://www.un.org/en/climatechange/raising-ambition/renewable-
energy#:~:text=Renewable%20energy%20sources%20are%20all%20around
%20us&text=In%20contrast%2C%20renewable%20energy%20sources,from
%20renewable%20energy%20by%202050.
5. Tổng quan về thành tựu khai thác, sử dụng năng lượng tái tạo trên thế giới.
(2010, September 8). vusta.vn. https://vusta.vn/tong-quan-ve-thanh-tuu-khai-
thac-su-dung-nang-luong-tai-tao-tren-the-gioi-p71892.html

29
6. Online N. L. V. N. (2022a, June 19). Tổng quan công nghệ khai thác năng
lượng thủy triều trên thế giới. Năng Lượng Việt Nam
Online. https://nangluongvietnam.vn/tong-quan-cong-nghe-khai-thac-nang-
luong-thuy-trieu-tren-the-gioi-28897.html
7. Công Ty cổ Phần Toplist. (n.d.). Top 10 Quốc gia đứng đầu thế giới về sản
xuất điện từ năng lượng gió - Toplist.vn.
toplist.vn. https://toplist.vn/top-list/quoc-gia-dung-dau-the-gioi-ve-san-xuat-
dien-tu-nang-luong-gio-12739.htm

30

You might also like