You are on page 1of 11

1.

Cơ sở lý luận Phi + Mai


1.1. Khái niệm
1.1.1. Kinh tế xanh
Theo (Trương Phi Cường, 2023, trang 2) “Kinh tế xanh (hay còn gọi là "khoản
đầu tư xanh", "kinh tế bền vững", "kinh tế thân thiện với môi trường") là một hướng
tiếp cận mới trong phát triển kinh tế, mà trong đó, các hoạt động kinh doanh và đầu tư
được thực hiện theo cách thức bảo vệ và tôn trọng môi trường, xã hội và giá trị văn
hoá”. Kinh tế xanh đảm bảo tài nguyên và môi trường sẽ được bảo vệ và sử dụng hiệu
quả, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. Kinh tế xanh cũng đóng
góp vào việc xây dựng các hệ thống kinh tế bền vững và cải thiện năng suất lao động.
Các hoạt động kinh tế xanh bao gồm đầu tư vào các ngành năng lượng tái tạo, tạo ra
sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, khai thác tài nguyên bền vững, phát
triển các khu vực đô thị xanh, và tăng cường quản lý môi trường và phát triển bền
vững.
Trên thực tế, có nhiều nhà nghiên cứu, các tổ chức quốc tế đã đưa ra định nghĩa
khác nhau về kinh tế xanh. Khái niệm kinh tế xanh do Chương trình Liên Hợp Quốc
(UNEP, 2011) định nghĩa được coi là chính xác và đầy đủ nhất hiện nay đã chỉ rõ:
“Kinh tế xanh là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã
hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái. Đó là
nền kinh tế ít phát thải cacbon, sử dụng hiệu quả tài nguyên và đảm bảo công bằng xã
hội”. Theo đó, kinh tế xanh đơn giản là một nền kinh tế có mức phát thải thấp, sử
dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm tính công bằng về mặt xã
hội. Trong nền kinh tế xanh, sự tăng trưởng về thu nhập, việc làm thông qua việc đầu
tư của Nhà nước và tư nhân cho nền kinh tế làm giảm thiểu phát thải carbon, giảm
thiểu ô nhiễm môi trường, sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên, ngăn chặn sự
suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ của hệ sinh thái.
1.1.2. Năng lượng tái tạo
Năng lượng tái tạo (Renewable energy) là năng lượng được tạo ra từ các quá
trình tự nhiên và liên tục được bổ sung. Nguồn tự nhiên này bao gồm ánh sáng mặt
trời, địa nhiệt, gió, thủy triều, nước và các dạng sinh khối khác nhau. Nguồn năng
lượng này không bị cạn kiệt và không ngừng được tái sinh. (United Nation)
1.2. Một số nguồn năng lượng tái tạo chính
1.2.1. Thủy điện
Thủy điện khai thác năng lượng của nước di chuyển từ độ cao cao hơn đến độ
cao thấp hơn. Nó có thể được tạo ra từ các hồ chứa và sông. Các nhà máy thủy điện hồ
chứa dựa vào lượng nước dự trữ trong hồ chứa, trong khi các nhà máy thủy điện dòng
chảy khai thác năng lượng từ dòng chảy sẵn có của dòng sông.
Các hồ chứa thủy điện thường có nhiều mục đích sử dụng - cung cấp nước sinh
hoạt, nước tưới tiêu, kiểm soát lũ lụt và hạn hán, dịch vụ giao thông thủy, cũng như
cung cấp năng lượng.
Thủy điện hiện là nguồn năng lượng tái tạo lớn nhất trong ngành điện. Nó dựa
vào các kiểu lượng mưa nói chung ổn định và có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi hạn
hán do khí hậu gây ra hoặc những thay đổi đối với hệ sinh thái ảnh hưởng đến các
kiểu mưa. Cơ sở hạ tầng cần thiết để tạo ra thủy điện cũng có thể tác động tiêu cực
đến hệ sinh thái. Vì lý do này, nhiều người coi thủy điện quy mô nhỏ là một lựa chọn
thân thiện với môi trường hơn và đặc biệt phù hợp với các cộng đồng ở vùng sâu vùng
xa.
1.2.3. Năng lượng sinh học
Năng lượng sinh học được sản xuất từ nhiều loại vật liệu hữu cơ, được gọi là
sinh khối, chẳng hạn như gỗ, than củi, phân và các loại phân khác để sản xuất nhiệt và
điện, và cây trồng nông nghiệp để làm nhiên liệu sinh học lỏng. Hầu hết sinh khối
được sử dụng ở các vùng nông thôn để nấu ăn, chiếu sáng và sưởi ấm không gian,
thường là bởi những người dân nghèo hơn ở các nước đang phát triển. Các hệ thống
sinh khối hiện đại bao gồm các loại cây trồng hoặc cây chuyên dụng, chất thải từ nông
nghiệp và lâm nghiệp, và các dòng chất thải hữu cơ khác nhau.
Năng lượng được tạo ra bằng cách đốt sinh khối tạo ra khí thải nhà kính, nhưng
ở mức độ thấp hơn so với đốt nhiên liệu hóa thạch như than, dầu hoặc khí đốt. Tuy
nhiên, năng lượng sinh học chỉ nên được sử dụng trong các ứng dụng hạn chế, do các
tác động môi trường tiêu cực tiềm tàng liên quan đến việc tăng quy mô lớn diện tích
trồng rừng và năng lượng sinh học, đồng thời dẫn đến nạn phá rừng và thay đổi mục
đích sử dụng đất.
1.2.3. Năng lượng mặt trời
Năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng phong phú nhất trong tất cả các nguồn
năng lượng và thậm chí có thể được khai thác trong thời tiết nhiều mây. Tốc độ mà
năng lượng mặt trời bị Trái đất chặn lại lớn hơn khoảng 10.000 lần so với tốc độ loài
người tiêu thụ năng lượng.
Công nghệ năng lượng mặt trời có thể cung cấp nhiệt, làm mát, chiếu sáng tự
nhiên, điện và nhiên liệu cho nhiều ứng dụng. Các công nghệ năng lượng mặt trời
chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành năng lượng điện thông qua các tấm quang điện
hoặc qua các gương tập trung bức xạ mặt trời.
1.2.4. Năng lượng gió
Năng lượng gió khai thác động năng của không khí chuyển động bằng cách sử
dụng các tua-bin gió lớn đặt trên đất liền (trên bờ) hoặc trên biển hoặc nước ngọt
(ngoài khơi). Năng lượng gió đã được sử dụng trong nhiều thiên niên kỷ, nhưng các
công nghệ năng lượng gió trên bờ và ngoài khơi đã phát triển trong vài năm qua để tối
đa hóa lượng điện được sản xuất - với các tua-bin cao hơn và đường kính cánh quạt
lớn hơn.
Mặc dù tốc độ gió trung bình thay đổi đáng kể theo vị trí, tiềm năng kỹ thuật của
thế giới đối với năng lượng gió vượt quá sản lượng điện toàn cầu và tiềm năng dồi dào
tồn tại ở hầu hết các khu vực trên thế giới để cho phép triển khai năng lượng gió đáng
kể.
Nhiều nơi trên thế giới có tốc độ gió mạnh, nhưng những địa điểm tốt nhất để tạo
ra năng lượng gió đôi khi lại là những địa điểm xa xôi. Năng lượng gió ngoài khơi
mang lại tiềm năng to lớn.
1.2.5. Năng lượng đại dương
Năng lượng đại dương bắt nguồn từ các công nghệ sử dụng động năng và nhiệt
năng của nước biển - ví dụ như sóng hoặc dòng chảy - để sản xuất điện hoặc nhiệt .
Hiện nay có năm loại công nghệ đại dương đang được phát triển nhằm khai thác
nguồn năng lượng từ các đại dương, bao gồm:
Năng lượng thủy triều: năng lượng tiềm năng liên quan tới các triều cường có
thể được khai thác bằng cách xây dựng đập hoặc các công trình xây dựng khác ngang
qua cửa sông.
Các dòng thủy triều (biển): động năng kết hợp với các dòng thủy triều (biển) có
thể được khai thác bằng việc sử dụng các hệ thống mô-đun.
Năng lượng sóng: động năng và thế năng kết hợp với sóng đại dương có thể
được khai thác bởi một loạt các công nghệ đang được phát triển.
Gradient nhiệt độ: gradient nhiệt độ giữa bề mặt nước biển và nước sâu có thể
được khai thác bằng việc sử dụng các quá trình chuyển đổi năng lượng nhiệt đại
dương khác nhau (OTEC).
Gradient muối: Tại cửa sông, nơi giao thoa giữa nước ngọt và nước mặn, năng
lượng liên kết với gradient muối có thể được khai thác bằng việc sử dụng quá trình
“áp suất thẩm thấu chậm” và các công nghệ chuyển đổi có liên quan
1.2.6. Năng lượng địa nhiệt
Năng lượng địa nhiệt sử dụng năng lượng nhiệt có thể tiếp cận được từ bên trong
Trái đất. Nhiệt được chiết xuất từ các hồ chứa địa nhiệt bằng cách sử dụng giếng hoặc
các phương tiện khác. Các hồ chứa đủ nóng và thấm tự nhiên được gọi là các hồ chứa
thủy nhiệt, trong khi các hồ chứa đủ nóng nhưng được cải thiện bằng kích thích thủy
lực được gọi là các hệ thống địa nhiệt tăng cường. Khi ở trên bề mặt, chất lỏng có
nhiệt độ khác nhau có thể được sử dụng để tạo ra điện. Công nghệ phát điện từ các hồ
thủy nhiệt đã hoàn thiện và đáng tin cậy, đã vận hành hơn 100 năm .
1.3. Xu hướng phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam
Tại Việt Nam, kể từ năm 2000, đã bắt đầu làm quen với xu hướng phát triển kinh
tế xanh của thế giới, một số ít các dự án năng lượng xanh được triển khai ở dạng thử
nghiệm. Sau một thời gian tìm hiểu và học tập kinh nghiệm của các quốc gia về phát
triển kinh tế xanh, Việt Nam nghiên cứu và triển khai dự án 3R (Reduce – giảm thiểu,
Reuse – tái sử dụng, Recycle – tái chế) quá trình và kết quả nghiên cứu được các
chuyên gia nước ngoài đánh giá tốt về mặt lý thuyết.
Ở nước ta, những năm qua, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch hành động và văn bản chỉ
đạo điều hành về phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng bền vững và bảo vệ môi trường.
Trong đó, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ: “Tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh
mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý, khai
thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi
trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những
dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng
sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với
môi trường”.
Định hướng và mục tiêu xanh hóa nền kinh tế cũng được thể hiện qua “Chiến
lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” với các
nhiệm vụ chiến lược như giảm cường độ phát thải khí nhà kính thông qua khai thác,
sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, tài nguyên; phát triển kết cấu hạ tầng xanh,
bèn vững, xây dựng lối sống xanh hóa đảm bảo quá trình chuyển đổi xanh theo
nguyên tắc, bình đẳng, nâng cao năng lực chống chịu trong phạm vi toàn bộ nền kinh
tế. Đây là chiến lược quốc gia toàn diện về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt
Nam, hướng tới sự phát triển bền vững.
Thực tiễn cho thấy, với lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa, có nguồn
năng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió phong phú, sinh vật tăng trưởng nhanh,
đồng thời tiếp nối xu hướng sử dụng năng lượng xanh của các quốc gia trên thế giới,
hiện nay, Việt Nam đã thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch thông
qua việc ban hành Chiến lược Phát triển Năng lượng tái tạo ở Việt Nam đến năm 2030
và tầm nhìn đến 2050; Xây dựng khung pháp lý về sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả trong sản xuất và đời sống; Tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu và dán
nhãn năng lượng cho các sản phẩm tư liệu sản xuất và thiết bị tiêu dùng.
1.4. Các chỉ số đo lường nền kinh tế xanh
Các chỉ số giúp đo lường và đánh giá mức độ bền vững của nền kinh tế xanh, từ
đó có thể đưa ra các biện pháp cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững trong
tương lai. Các chỉ số này bao gồm:
1.4.1. Chỉ số tăng trưởng GDP xanh (Green GDP Growth):
Chỉ số này Đánh giá chất lượng môi trường đô thị, đo lường sự tăng trưởng kinh
tế trong bối cảnh phát triển bền vững. Bao gồm các hoạt động kinh tế như sản xuất
năng lượng tái tạo, vận chuyển sạch, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, không khí,
nước và quy hoạch đô thị.
Chỉ số tăng trưởng GDP là một chỉ số kinh tế được tính toán dựa trên GDP
truyền thống, tuy nhiên nó còn tính đến các yếu tố môi trường và xã hội. Nó đo lường
mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia hoặc khu vực, trong đó các hoạt động
sản xuất và tiêu dùng không gây hại cho môi trường và xã hội, và thậm chí còn có thể
mang lại lợi ích cho chúng.
Chỉ số tăng trưởng GDP xanh thường tính bằng cách lấy GDP truyền thống và
trừ đi các chi phí liên quan đến tác động của sản xuất và tiêu dùng đến môi trường và
xã hội. Ví dụ, nó có thể tính toán bằng cách trừ đi chi phí khắc phục ô nhiễm môi
trường, chi phí sử dụng tài nguyên không bền vững, chi phí giảm thiểu các tác động
xã hội như thất nghiệp, thiếu an sinh xã hội, v.v.
Không có một chỉ số tăng trưởng GDP xanh cụ thể được định nghĩa chung, bởi
vì cách tính chỉ số này có thể khác nhau tùy thuộc vào phương pháp và tiêu chí đo
lường được sử dụng.
Đánh giá chỉ số tăng trưởng GDP xanh (green GDP) có thể sử dụng các phương
pháp sau:
1. Đo lường giá trị kinh tế của các tài nguyên thiên nhiên: tập trung đo lường giá
trị kinh tế của các tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả những tài nguyên không được
tính toán trong GDP truyền thống nhưng lại góp phần quan trọng đến tăng trưởng kinh
tế xanh, chẳng hạn như giá trị của rừng, đất đai, nguồn nước và khí hậu.
2. Sử dụng chỉ tiêu về tài nguyên tái tạo: tập trung đánh giá tài nguyên tái tạo
trong quá trình sản xuất kinh tế, bao gồm cả việc sử dụng năng lượng tái tạo, sử dụng
nguyên liệu tái chế và các sản phẩm tái chế, giảm thiểu chất thải và khí thải ra môi
trường.
3. Đo lường chỉ số môi trường: tập trung đo lường mức độ ảnh hưởng của các
hoạt động kinh tế đến môi trường, bao gồm các chỉ tiêu về khí thải, chất thải, sử dụng
nước, ô nhiễm không khí và nhiễm độc đất.
4. Đánh giá các chi phí môi trường: tập trung đánh giá chi phí liên quan đến các
vấn đề môi trường do hoạt động kinh tế gây ra, chẳng hạn như chi phí điều trị bệnh tật
do ô nhiễm không khí, chi phí đối phó với hạn hán và lũ lụt, và chi phí tái thiết kế hệ
thống sản xuất để giảm thiểu tác động đến môi trường.
Tuy nhiên, việc đánh giá chỉ số tăng trưởng GDP xanh cũng cần phải cân nhắc
đến những thách thức như khó khăn trong việc đo lường giá trị thực sự của các tài
nguyên thiên nhiên, sự phức tạp của các vấn đề môi trường và những khó khăn trong
việc tính toán chi phí môi trường.
1.4.2. Chỉ số môi trường đô thị (Urban Environmental Index - UEI):
Chỉ số này đo lường sự khác biệt giữa chất lượng môi trường trước và sau khi
thực hiện các biện pháp kinh tế xanh, bao gồm chất lượng không khí, chất lượng nước
và chất lượng đất.
Phương pháp đánh giá chỉ số môi trường đô thị:
1. Thu thập dữ liệu: Để đánh giá chỉ số môi trường đô thị, cần thu thập dữ liệu về
các yếu tố như chất lượng không khí, nước và đất, cảnh quan, mật độ xây dựng và các
tiện ích công cộng khác. Các dữ liệu này có thể được thu thập thông qua các cuộc
khảo sát, thăm dò dư luận hoặc thông qua các báo cáo chính thức từ cơ quan chức
năng.
2. Chọn các chỉ tiêu đánh giá: Sau khi thu thập dữ liệu, cần chọn các chỉ tiêu
đánh giá tốt nhất để tính toán chỉ số môi trường đô thị. Các chỉ tiêu này có thể bao
gồm các chỉ số về chất lượng không khí, nước và đất, cảnh quan, mật độ xây dựng và
các tiện ích công cộng khác.
3. Tính toán chỉ số: Sau khi đã chọn các chỉ tiêu đánh giá, cần tính toán chỉ số
môi trường đô thị bằng cách áp dụng một phương pháp tính toán nhất định. Một số
phương pháp phổ biến để tính chỉ số này là phương pháp trọng số bình đẳng (Equal
Weighting Method) hoặc phương pháp trọng số khác nhau (Different Weighting
Method).
4. Đánh giá và so sánh: Sau khi tính toán chỉ số môi trường đô thị, cần đánh giá
kết quả và so sánh với các chỉ số khác hoặc với các chuẩn mực quốc tế để đưa ra nhận
xét về mức độ bền vững của môi trường đô thị trong khu vực đó. Phương pháp đánh
giá chỉ số môi trường đô thị có thể khác nhau tùy vào mục đích và điều kiện cụ thể
của từng khu vực.
Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp và chỉ tiêu thống nhất sẽ giúp đánh giá
mức độ bền vững của môi trường đô thị một cách khách quan và chính xác hơn.
1.4.3. Chỉ số hiệu quả tài nguyên (Resource Efficiency Index - REI):
Chỉ số này đo lường sự sử dụng tài nguyên và năng lượng hiệu quả trong các
hoạt động sản xuất và tiêu dùng, bao gồm các chỉ tiêu như tăng trưởng năng suất,
giảm lãng phí tài nguyên và năng lượng.
Các phương pháp đo lường chỉ số này bao gồm:
1. Đo lường năng suất tài nguyên: Phương pháp này tính tỷ lệ giữa giá trị sản
phẩm hoặc dịch vụ và lượng tài nguyên sử dụng để sản xuất chúng. Càng cao thì càng
hiệu quả.
2. Đo lường khối lượng tài nguyên sử dụng trên đơn vị sản phẩm: Phương pháp
này đo lường khối lượng tài nguyên sử dụng trên một đơn vị sản phẩm. Càng thấp thì
càng hiệu quả.
3. Đo lường tỷ lệ tái sử dụng và tái chế tài nguyên: Phương pháp này tính tỷ lệ
tài nguyên được tái sử dụng hoặc tái chế. Càng cao thì càng hiệu quả.
4. Đo lường tỷ lệ chất thải sản xuất: Phương pháp này tính tỷ lệ chất thải được
sản xuất trên đơn vị sản phẩm. Càng thấp thì càng hiệu quả.
5. Đo lường tỷ lệ khí thải sản xuất: Phương pháp này đo lường tỷ lệ khí thải
được sản xuất trên đơn vị sản phẩm. Càng thấp thì càng hiệu quả.
Các phương pháp trên có thể được áp dụng cho các ngành công nghiệp khác
nhau để đo lường hiệu quả tài nguyên. Tuy nhiên, việc đo lường chỉ số hiệu quả tài
nguyên cần phải cân nhắc đến các yếu tố bên ngoài như môi trường và xã hội, những
hệ quả không mong muốn của việc sử dụng tài nguyên, cũng như tình trạng phát triển
kinh tế và độ phức tạp của hệ thống sản xuất và tiêu dùng.
1.4.4. Chỉ số khí hậu (Climate and Ecolabel Index– CEI):
Chỉ số này đo lường tác động của hoạt động kinh tế xanh đến biến đổi khí hậu,
bao gồm các chỉ tiêu như lượng khí thải khí nhà kính, sử dụng năng lượng tái tạo và
giảm thiểu chất thải.
Các phương pháp đo lường chỉ số khí hậu bao gồm:
1. Đo lường lượng khí thải carbon: Phương pháp này đo lường số lượng khí thải
carbon mà một tổ chức hoặc một quốc gia phát thải. Chỉ số này càng thấp thì tình
trạng môi trường càng được cải thiện.
2. Đo lường lượng điện năng tái tạo sử dụng: Phương pháp này đo lường lượng
điện năng tái tạo được sử dụng để sản xuất hoặc cung cấp năng lượng. Chỉ số này
càng cao thì tình trạng môi trường càng được cải thiện.
3. Đo lường lượng năng lượng tiêu thụ: Phương pháp này đo lường lượng năng
lượng tiêu thụ để sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ. Chỉ số này càng thấp thì tình trạng
môi trường càng được cải thiện.
4. Đo lường năng lượng tiêu thụ và khí thải theo sản phẩm: Phương pháp này đo
lường năng lượng tiêu thụ và khí thải phát sinh trong quá trình sản xuất và sử dụng
sản phẩm. Chỉ số này càng thấp thì tình trạng môi trường càng được cải thiện.
5. Đo lường tỷ lệ sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo: Phương pháp này đo
lường tỷ lệ sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió, thủy
điện, nhiên liệu sinh học, v.v. Chỉ số này càng cao thì tình trạng môi trường càng được
cải thiện.
Các phương pháp trên có thể được áp dụng cho các hoạt động và lĩnh vực khác
nhau như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng, v.v. để đo lường chỉ số khí
hậu. Tuy nhiên, việc đo lường chỉ số này cần phải cân nhắc đến những yếu tố bên
ngoài như khí hậu địa phương, thời tiết, các yếu tố kinh tế và xã hội, và cả tình trạng
môi trường tự nhiên.
1.4.5. Chỉ số xã hội:
Chỉ số này đo lường tác động của hoạt động kinh tế xanh đến cộng đồng và xã
hội, bao gồm các chỉ tiêu như tạo ra việc làm mới, cải thiện chất lượng cuộc sống và
sự chia sẻ lợi ích của phát triển kinh tế xanh.
Các phương pháp đo lường chỉ số xã hội bao gồm:
1. Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI): Đây là chỉ số
được sử dụng phổ biến nhất để đo lường chỉ số xã hội. Chỉ số HDI bao gồm ba yếu tố
chính là: tuổi thọ, giáo dục và GDP theo đầu người.
2. Chỉ số cơ hội giáo dục (Education Index): Chỉ số này đo lường mức độ tiếp
cận của dân số với giáo dục, bao gồm tỷ lệ biết đọc biết viết, tỷ lệ tốt nghiệp phổ
thông và tỷ lệ tốt nghiệp đại học.
3. Chỉ số sức khỏe con người (Health Index): Chỉ số này đo lường mức độ sức
khỏe của dân số, bao gồm tuổi thọ, tỷ lệ tử vong do bệnh tật và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
suy dinh dưỡng.
4. Chỉ số an ninh và trật tự (Safety and Security Index): Chỉ số này đo lường
mức độ an ninh và trật tự của một khu vực, bao gồm tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tội phạm bạo
lực, và tỷ lệ cảm thấy an toàn khi đi ra ngoài đường vào ban đêm.
5. Chỉ số tương tác xã hội (Social Interaction Index): Chỉ số này đo lường mức
độ tương tác giữa các tầng lớp xã hội, bao gồm tỷ lệ tham gia các hoạt động xã hội, tỷ
lệ tham gia các câu lạc bộ, tỷ lệ kết hôn, v.v.
Các phương pháp đo lường chỉ số xã hội có thể khác nhau tùy thuộc vào mục
đích và khía cạnh cần đánh giá. Tuy nhiên, các chỉ số này đều mang tính chất đa chiều
và phải cân nhắc đến nhiều yếu tố để đưa ra kết quả đánh giá chính xác.
1.4.6. Chỉ số Phát triển bền vững (Sustainable Development Index -
SDI):
Đánh giá khả năng phát triển bền vững của các quốc gia, bao gồm các chỉ tiêu về
môi trường, kinh tế, xã hội và quản lý.
Chỉ số SDI được tính toán dựa trên các chỉ số con, bao gồm:
1. Chỉ số Kinh tế: Bao gồm GDP, chỉ số cạnh tranh toàn cầu, đầu tư nghiên cứu
và phát triển…
2. Chỉ số Môi trường: Bao gồm các chỉ số như khí hậu, ô nhiễm không khí, tài
nguyên nước…
3. Chỉ số Xã hội: Bao gồm các chỉ số như chất lượng giáo dục, sức khỏe, bình
đẳng giới, bình đẳng thu nhập, hạ tầng…
Từ các chỉ số con này, SDI tính toán ra một chỉ số toàn diện để đánh giá mức độ
phát triển bền vững của một quốc gia. Các quốc gia có SDI cao được cho là có khả
năng phát triển bền vững cao hơn so với các quốc gia có SDI thấp. Việc đo lường chỉ
số SDI có thể giúp các quốc gia xác định các điểm mạnh và điểm yếu của mình trong
việc phát triển bền vững, đồng thời giúp các quốc gia so sánh với nhau và học hỏi các
phương pháp, kinh nghiệm tốt nhất để phát triển bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] http://vista.gov.vn/vn-uploads/tong-luan/2015/tl5_2015.pdf
[2]https://tapchitaichinh.vn/kinh-te-xanh-xu-huong-tat-yeu-cua-phat-trien-ben-
vung-va-nhung-van-de-dat-ra-doi-voi-viet-nam.htm
[3] https://nld.com.vn/goc-nhin/xu-huong-tat-yeu-20230319213458966.htm
[4] https://tusach.fph.gov.vn/upload/data/news/13-05-19/noi-dung.pdf
[5]https://www.unep.org/pt-br/node/23750#:~:text=The%20UN
%20Environment%20Programme%20has,in%20carbon%2C%20resource%20efficient
%20and
[6] https://www.un.org/en/climatechange/what-is-renewable-energy

You might also like