You are on page 1of 11

THUYẾT TRÌNH VI SINH – CHỦ ĐỀ: VIRUT HPV

1.HPV là gì ?
Human Papilloma Virus - Virus sinh u nhú ở người
là loài virus sinh u nhú chứa vật liệu di truyền DNA, có ái tính mạnh với biểu mô,
đặc biệt là biểu mô gai lát tầng ở da và niêm mạc.
2,Lịch sử nghiên cứu:
Hạt cơm thường ở da được biết từ thời Hy Lạp và Roma cổ đại, nhưng cho đến
những năm đầu thế kỉ 20 thì hạt cơm sinh dục cũng chỉ được cho là một dạng của
bệnh giang mai hay bệnh lậu [15].
Năm 1907, Ciuffo chứng minh bản chất của virus [16].
Năm 1922, Lewandosky và Lutz báo cáo bệnh loạn sản thượng bì dạng hạt cơm
[16]
Năm 1966, Crawford đã giải mã cấu trúc bộ gen HPV [8].
Năm 1972, tại Ba Lan, Stefania Jablonska đề cập mối liên quan giữa HPV với ung
thư da trong bệnh loạn sản thượng bì dạng hạt cơm [11].
Năm 1976, bốn týp HPV đầu tiên được xác định là căn nguyên gây ra hạt cơm (bàn
chân: HPV 1,2; phẳng: HPV 3, mụn cóc: HPV 4) [16]. Cũng trong năm này,
Harald zur Hausen đã đưa ra giả thiết vai trò của HPV trong căn nguyên của ung
thư cổ tử cung.
Năm 1978, Jablonska và Gerard Orth phát hiện HPV5 trong bệnh EV[11]. Còn hạt
cơm sinh dục (sùi mào gà) đã được các nhà khoa học chứng minh là do HPV 6 gây
ra năm 1980 [15].
Năm 1983 và 1984, Harald zur Hausen và cộng sự đã chứng minh sự hiện diện của
HPV 16, 18 trong ung thư cổ tử cung [11], [17], [18].
Năm 1999, kết quả xét nghiệm PCR cho thấy sự hiện diện DNA của HPV trong
99.7% mẫu ung thư cổ tử cung được nghiên cứu [10],[11].
3,Phân loại
Virus HPV đa dạng và phân bố rộng.
Virus HPV phân bố rộng rãi và được phát hiện trên cả động vật và con người. Có
hơn 200 type virus HPV được xác nhận dựa trên chuỗi DNA quy định hệ gene
khác biệt, trong đó 85 cấu trúc gene đã được mô tả đặc tính đầy đủ và phân lập hơn
120 cấu trúc gene mới tiềm năng, được mô tả một phần các đặc tính. HPV là một
nhóm virus phổ biến trên toàn thế giới. Hiện có hơn 200 type
(HPV đã được công nhận, với hơn 100 loại được nhân bản vô tính cho đến nay,
trong đó có khoảng 40 kiểu gen có thể gây nhiễm trùng đường sinh dục. Mặc
dù có một số tác nhân nhiễm trùng khác cũng được nhắc tới, nhưng HPV chủ
yếu lây truyền qua đường tình dục và hầu hết mọi người bị nhiễm HPV không
lâu sau khi bắt đầu có QHTD).
1.Tùy theo cơ quan đích:
Nhóm HPV trên da có cơ quan đích là da bàn tay và bàn chân ( Nhóm HPV thích
ứng biểu mô sừng): Nhừng HPV ở nhóm này có khả năng xâm nhiễm trên da, hình
thành các hạt cơm thông thường, hạt cơm phẳng, hạt cơm butcher.

Nhóm HPV niêm mạc xâm nhiễm lớp tế bào trong cùng của niêm mạc môi, miệng,
đường hô hấp( Ngoại trừ niêm mạc đường sinh dục): Gồm những HPV có khả
năng gây bệnh ở niêm mạc miệng và hầu họng, gây đa bướu gai hô hấp tái diễn.

Nhóm HPV niêm mạc xâm nhiễm lớp tế bào


biểu mô sinh dục (Nhóm thích ứng tế bào niêm
mạc đường sinh dục) : Nhóm HPV gây bệnh tại
đường sinh dục như sùi mào gà, UTCTC, ung
thư dương vật, ung thư âm hộ, ung thư âm đạo.
2.Với hiểu biết hiện nay, HPV được phân thành 5 genera - chi bao gồm alpha, beta,
gamma, mu, nu. Những týp HPV đóng vai trò quan trọng nhất đối với y học là các
týp có nguy cơ gây ung thư sinh dục hoặc ung thư biểu mô niêm mạc thuộc các chi
alpha

Trong các HPV tấn công niêm mạc sinh dục, các HPV có liên quan đến ung thư cổ
tử cung và những tổn thương tiền ung thư nên có thể chia thành nhóm:
Nhóm HPV nguy cơ thấp
Nhóm HPV nguy cơ cao
Nhóm nguy cơ thấp gồm các type 6,11, 42, 43 và 44.
Nhóm nguy cơ cao gồm các HPV type: 16, 18, 31, 33, 34, 35, 39, 45, 51, 52, 56,
58, 59, 66, 68 và 70.
Cấu trúc HPV
HPVs thuộc loại virus trần, có sức đề kháng rất mạnh, cấu tạo là khối hình
cầu với hai mươi mặt, đối xứng, đường kính 55-60 nm. Genome (bộ gen) của
HPVs chứa chuỗi đôi DNA hình tròn gồm 7200-8000 cặp base kèm theo các
histone hình thành nên một cấu trúc được so sánh như là minichromosome.
- Bộ gen HPV có thể chia ra làm 3 vùng:
+ Vùng điều hòa thượng nguồn URR (Upstream Regulatory Region)hay còn được
gọi là vùng điều hòa dài LCR (Long Control Region)
+ Vùng gen sớm (Early- E)+ Vùng gen muộn (Late – L)
Đặc điểm cấu trúc: Cấu trúc bộ gen:
- Vùng điều hòa dài LCR: chứa DNA không mã hóa, có chức năng điều hòa quá
trình sao chép DNA và quá trình phiên mã.
+ Trình tự vùng LCR bao gồm: trình tự tăng cường, promoter, điểm khởi đầu sao
chép .
- Vùng gen sớm (Early- E): bao gồm các khung đọc của các gen E1, E2 ,E4, E5,
E6 và E7.
- Vùng gen muộn (Late – L): Gồm 2 gen tổng hợp protein L1 và L2.
Chức năng các gen và sản phẩm của gen HPV:
Gen E1: là một trong hai vùng gen bảo tồn nhất của HPV (cùng với L1) mã hóa
các protein chức năng có vai trò cần thiết cho quá trình sao chép DNA và plasmid.
Gen E2:đóng vai trò chủ đạo trong quá trình phiên mã cũng như trong quá trình
điều hòa giải mã và duy trì chuỗi gen vi rút ở ngoài nhiễm sắc thể.
Gen E4:Có chức năng giúp cho quá trình trưởng thành và phóng thích vi rút ra
khỏi tế bào mà không làm tan tế bào chủ.
Gen E5: mã hóa cho sản phẩm là protein E5, một protein cần thiết cho quá trình
xâm nhập và tồn tại của virus trong tế bào chủ.
Gen E6: protein E6 của HPV nhóm “nguy cơ cao” liên kết hoặc không liên kết với
protein E7 gây kích thích tế bào chủ phân chia mạnh mẽ và sự phân chia này là mãi
mãi, gây bất tử hóa tế bào.
Gen E7: protein E7 được mã hóa từ gen E7 có vai trò quan trọng trong cơ chế gây
ung thư ở tế bào chủ
Gen L1 và L2: là hai vùng gen cấu trúc còn gọi là vùng gen mã hóa muộn cho
protein vỏ capsid chính và phụ.
(Cơ chế hình thành tế bào bất tử khi nhiễm HPV.
p53 là một protein có tính năng ngăn chận ung thư của tế bào. p53 hoạt động bằng cơ chế ức
chế hiện tượng kích hoạt DNA, giữ cho tế bào ở G1-G2, và đảm nhận nhiệm vụ điều hòa chết
chương trình của tế bào (apoptosis). E6 của HPV sẽ kết hợp với p53 và gây ra thoái giáng của
p53. Tế bào mất khả năng ức chế phát triển, không còn tuân theo cái chết chương trình và trở
thành tế bào bất tử.
Protein Rb là một protein ức chế sinh ung. Ở tế bào lành mạnh, pRb gắn với yếu tố giải mã
E2F1 và ngăn không cho yếu tố này tương tác với hệ thống sao mã tế bào. Khi vắng mặt pRb,
E2F1 kích hoạt E2F1 gene và chuyển đổi tế bào từ G1 thành S. E77 của HPV sẽ gắn với pRb và
làm bất hoạt pRb, giải phóng E2F1 và biến tế bào thành tế bào bị kích hoạt.)

Chu kì sống của HPV:


 Giai đoạn xâm nhập
 Giai đoạn tiềm tàng
 Giai đoạn nhân bản mạnh
 Giai đoạn giải phóng
Sự lây truyền
Papillomavirus có ái tính mạnh với biểu mô và lây nhiễm chọn lọc sang các tế bào
biểu mô da, niêm mạc nhưng không gây ra tình trạng nhiễm virus hệ thống cũng
như phá hủy tế bào. Đối với sự nhiễm trùng liên tục, hạt virus phải xâm nhập lớp
biểu mô thông qua những tổn thương rất nhỏ và lây qua lớp tế bào đáy có khả năng
phân chia tế bào (tế bào mầm hay tế bào khuếch đại thoáng qua). Quá trình nhiễm
diễn ra chậm, mất khoảng 12-24h cho lần nhân bản đầu tiên. Cũng chính vì sự lây
nhiễm HPV thường qua lớp biểu mô đáy nơi mà các vi chấn thương dễ xảy ra nên
người ta thấy rằng mụn cơm thông thường hay ở bàn tay và ngón tay. Tuy nhiên,
các nghiên cứu phát hiện HPV bằng cách lai giống tại chỗ đã chỉ ra rằng sự nhân
lên mạnh mẽ nhất của virus diễn ra ở lớp gai bề mặt và chúng hoàn chỉnh các phần
của virus tại lớp hạt. Thương tổn do HPV thường lành tự nhiên do cơ chế miễn
dịch của cơ thể,thường là miễn dịch qua trung gian tế bào.
(Miễn dịch qua trung gian tế bào hay miễn dịch tế bào là đáp ứng miễn dịch không
có sự tham gia của kháng thể. Thay vào đó, miễn dịch qua trung gian tế bào là sự
kích hoạt các thực bào, tế bào lympho T gây độc tế bào đặc hiệu cho kháng
nguyên và giải phóng các cytokine khác nhau để đáp ứng với một kháng nguyên).
Khác với các virus có vỏ khác như HIV, virus Herpes simplex (HSV), HPV là
virus không có vỏ bao lipoprotein, HPV có tính đề kháng tương đối với quá trình
làm khô (exsiccation) hay các chất tẩy rửa. Nhiễm HPV thường xảy ra qua sự ma
sát trực tiếp ở da hay niêm mạc. Sự tự lây cũng là một cách nhiễm HPV, bằng
chứng là có sự xếp thành đường của hạt cơm phẳng. Người ta thấy rằng sùi mào gà
ở trẻ em có thể không do sự lạm dụng tình dục bởi việc phát hiện những týp HPV
da (HPV2) gợi ý sự tự nhiễm do cào gãi.
Sự đào thải HPV
HPV có thể sẽ tồn tại ở tế bào bị nhiễm trong một khoảng thời gian nhất định, hầu
hết ở trạng thái tiềm tàng, nhưng cũng có thể gây ra triệu chứng hoặc bệnh. 70%
nhiễm HPV sẽ hết sau 1 năm, 90% sau 2 năm và hầu hết các trường hợp sẽ lành tự
nhiên. Khoảng 5-10% phụ nữ nhiễm HPV, mắc bệnh dai dẳng, sẽ dễ phát triển tiền
ung thư cổ tử cung và ung thư xâm lấn sau đó.

Nhiều yếu tố nguy cơ của vật chủ như tuổi lớn, liệu pháp thay thếhormone, các
nhiễm trùng sinh dục kèm theo, tình trạng suy giảm miễn dịch, phụ nữ đã sinh con
cũng như sự nhiễm nhiều týp HPVvà các biến thể của HPV đều liên quan đến sự
tồn tại HPV dai dẳng/ giảm khả năng đào thải HPV. Sự đào thải virus này không
tạo ra miễn dịch bền vững, nếu như có sự tái nhiễm hay người bệnh tiếp xúc với
nguồn lây liên tục thì người bệnh vẫn có khả năng nhiễm virus có/không biểu hiện
lâm sàng.
1.3 Dịch tễ học và yếu tố nguy cơ nhiễm HPV( dua len dau slide)
Ở Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu ƣớc tính rằng tại bất kỳ thời điểm nào cũng có
khoảng 20 triệu ngƣời bị nhiễm HPV sinh dục. Các nghiên cứu của Koutsky
L(1997) và Syjranen K (1990) cho thấy khoảng 75% đến 80% nam và nữ trong độ
tuổi có hoạt động tình dục đã tiếp xúc với bạn tình bị nhiễm HPV [35]. Độ tuổi từ
15 đến 24 có nguy cơ cao nhất đối với khả năng nhiễm HPV sinh dục, từ lần quan
hệ tình dục đầu tiên và sự phơi nhiễm với HPV thƣờng xảy ra ngay sau đó [3],
[35]. Trong một báo cáo về tình hình mắc bệnh STDs ở giới trẻ Mỹ, Weinstock và
cộng sự công bố khoảng 4,6 triệu trƣờng hợp nhiễm HPV/một năm, so với
640.000 trƣờng hợp nhiễm Herpessimplex sinh dục và 1,5 triệu trƣờng hợp nhiễm
Chlamydia trachomatis. Tỷ lệ nhiễm HPV này thƣờng xuất phát từ các nghiên cứu
ở nữ vì số lƣợng nghiên cứu nhiễm HPV nam giới chƣa đƣợc thực hiện nhiều.
Tỉ lệ nhiễm HPV ở thanh thiếu niên có quan hệ tình dục thƣờng rất cao, khoảng
50-80% trong vòng 2-3 năm sau lần QHTD đầu tiên [3]. Tỷ lệ này phản ánh hành
vi tình dục và tính nhạy cảm sinh học của cơ thể. Tuy vậy, hầu hết quá trình nhiễm
HPV là thoáng qua, không gây bất thƣờng về mặt tế bào học [3], [8]. Ở một số ít
thanh thiếu niên, sự nhiễm HPV này không mất đi và tình trạng nhiễm virus dai
dẳng liên quan chặt chẽ với sự phát triển của tổn thƣơng nội biểu mô gai bậc cao
(HSIL) cũng nhƣ ung thƣ xâm lấn
Những bệnh gây ra bởi HPV:
1.Ung thư khẩu hầu:
Ung thư hầu- họng là một bệnh mà các tế bào ác tính tạo thành trong các mô của
hầu- họng.
Hầu- họng là một phần giữa cổ họng trong đó bao gồm các cơ sở của lưỡi, amidan,
vòm miệng, và các thành của họng.
Ung thư hầu- họng có thể được chia thành hai loại: ung thư có liên quan đến nhiễm
vi rút gây u nhú ở người (HPV-human Papillomavirus), và ung thư có liên quan
đến rượu hoặc sử dụng thuốc lá.
2.Mụn cóc sinh dục :
Nhiều người có mụn cóc ở bàn tay, cánh tay, chân và lòng bàn chân. Một số chủng
nguy cơ thấp của HPV gây ra mụn cóc ở cơ quan sinh dục và hậu môn (chủng 6 và
11).
Ở phụ nữ, mụn cóc sinh dục xuất hiện ở âm hộ, niệu đạo, cổ tử cung, âm đạo, hậu
môn hay bắp đùi. Ở đàn ông, mụn cóc có ở dương vật, tinh hoàn, hậu môn hoặc
bắp đùi.
Thông thường, mụn cóc sinh dục có màu giống với màu da (hồng hoặc đỏ) mọc
bên trong hoặc xung quanh các cơ quan sinh dục. Các nốt mụn cóc trông giống như
những bông súp lơ nhỏ, thường phát triển thành cụm ba hoặc bốn, sau đó lan rộng
nhanh chóng sang các khu vực khác.
Hầu hết các cụm mụn cóc sinh dục không gây ra đau đớn cho người bệnh, tuy
nhiên, trong một số trường hợp nhất định, chúng có thể gây đau nhẹ, ngứa và chảy
máu.

You might also like