Professional Documents
Culture Documents
Trong thời gian này, số ca mắc sởi cho trẻ em dưới năm tuổi vượt quá nhóm từ 5 đến 19
tuổi. Có 123 trường hợp tử vong vì các bệnh liên quan đến bệnh sởi trong số các trường
hợp với 50% dưới 5 tuổi.
90% những người mất mạng đã không được tiêm phòng. Có 64 trường hợp tử vong được
báo cáo vào năm 1990; đây là con số lớn nhất đã được nhìn thấy trong gần 20 năm.
Bùng phát được báo cáo vào năm 1993 trong các quần thể đã từ chối tiêm phòng sởi. Điều
này bao gồm các cộng đồng ở Utah và Nevada, và trong các trường Khoa học Cơ đốc ở
Missouri và Illinois. Điều này đã thay đổi với sự gia tăng của vắc-xin một lần nữa.
Sởi là một trong những bệnh truyền nhiễm nhất thế giới. Nó lây lan qua ho và hắt hơi, tiếp
xúc cá nhân hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết mũi hoặc họng bị nhiễm bệnh.
Virus vẫn hoạt động và truyền nhiễm trong không khí hoặc trên các bề mặt bị nhiễm bệnh
trong tối đa 2 giờ. Nó có thể được truyền bởi một người nhiễm bệnh từ 4 ngày trước khi
phát ban đến 4 ngày sau khi phát ban bùng phát.
II virus sởi
1 cấu trúc
Virus Sởi có hình cầu, đường kính 120 -250 nm, có thể có hình sợi. Virus có cấu
trúc điển hình của nhóm Paramyxovirus: bộ gen gồm sợi đơn RNA không phân đoạn,
nucleocapsid đối xứng xoắn và có màng bọc ngoài.
Có 6 loại protein cấu trúc khác nhau.Virus sởi có 6 protein, trong đó có 3 protein tạo
phức hợp với các bộ gen ARN (L, NP và P) và 3 protein tham gia vào cấu trúc vỏ của
virus là protein H, M và F. Protein polymeraza và protein L đều liên quan đến chức năng
polymerase và tham gia vào sự hình thành nucleocapsid.
Trên màng bọc có các gai chứa hemagglutinine gây tiêu huyết và có vai trò giúp virus
bám vào thụ thể của các tế bào cảm thụ, sau đó protein hòa màng và virus nhân lên trong
tế bào cảm thụ.
Nhiều nghiên cứu tinh khiết hạt virus sởi, quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy
virus sởi thường rất đa dạng: hình khối hoặc hình sợi. Chúng có vỏ bọc và lõi là một
nucleocapsit hình xoắn. Nhận dạng về hình thể thì virus sởi và các Paramyxovirus khác rất
khó phân biệt.
3. Cấu trúc hạt virus
Thành phần hạt virus cấu tạo từ trong ra ngoài như sau:
Genome của virus sởi là một sợi đơn acid ribonucleic ARN phân cực âm có cấu trúc mở,
không phân đoạn, trọng lượng phân tử 4,5x 106 Daltons, dài khoảng 16000 ribonucleic, có
trật tự 3’ – N – P – M – H – F – L Polymerase 5’, mã hóa 6 protein cấu
trúc từ 6 gen tương ứng và 2 gen phi cấu trúc (C và V) từ gen P, kết hợp với polymeraza,
phụ thuộc ARN gọi là transcriptaza. Tổng thể ARN – transcriptaza nằm trong một capsid
hình xoắn ốc, đó là Nucleocapsid.
Acid nucleic chiếm 5% trọng lượng của hạt virus với các thành phần
base như sau:
+ Cytosin (C) 21.3%
+ Adenin (A) 22.1%
+ Uracin (U) 34.8%
+ Guanin (G) 21.8%
Nucleoprotein (N) bao bọc bộ gen (ARN đơn) và cùng với protein P, L tạo nên phức
hợp ribonucleoprotein (RNP).
Vỏ capsid: Capsid của virus sởi có cấu trúc hình khối, đường kính khoảng 21nm;
Vỏ ngoài (envelope):Vỏ ngoài của virus sởi là màng lipid 2 lớp có nguồn gốc từ tế bào vật
chủ. Chiều dài từ 10 – 20 nm bọc lấy RNP của virus bao gồm bộ gen ARN
kết hợp với các protein. Cả hai loại protein màng (F=Fusion và H=Hemagglutinin)
(Hemagglutinin (HA) là glycoprotein kháng nguyên được tìm thấy trên bề mặt của virus
cúm (cũng như là những loại vi khuẩn và virus khác) Nó có nhiệm vụ kết nối virus với tế
bào chủ. Cái tên "hemagglutinin" có nghĩa là khả năng làm đông tụ (agglutinate) hồng
cầu) đều nằm trên bề mặt
của vỏ, chồi ra như những gai nhỏ H và F dài 9 – 15nm, đó là các glycoprotein
mang kháng nguyên đặc hiệu.
Trên mô hình của hạt virus nhận thấy: vật liệu di truyền là sợi ARN xoắn bọc lại bỏi
nucleoprotein (N), được liên kết lại với phosphoprotein (P) và polymerase protein Large
(L). Còn protein nền M (Matrix) nằm bên trong lớp vỏ xung quanh vldt. Các gai
glycoprotein nằm chồi lên trên bề mặt hạt virus khoảng 6 – 10nm ( có thể quan sát được
dưới kính hiển vi điện tử) các gai này đóng vai trò quan trọng trong việc gây nhiễm và
sinh miễn dịch. Nó cũng dễ dàng bị phân hủy bởi Ethanol, Clorofom, Tripsin hoặc các
dung môi hòa tan lipid khác.
Cả hai loại glycoprotein F và H sau khi gây nhiễm đều thúc đẩy hệ miễn dịch sinh ra
kháng thể trung hòa. Protein H có khả năng ngưng kết hồng cầu cừu, hồng cầu khỉ (nhưng
không ngưng kết hồng cầu người).THẮC MẮC:virus rất dễ biến thể, đơn cử như virút
cúm,Virut cúm có tỉ lệ đột biến cao và kháng nguyên bề mặt luôn có xu hướng biến
đổi.Trong đó kháng nguyên H( Hemagglutinin) và kháng nguyên N ( Neuraminidaza) là
thay đổi rõ nhất. Chính những đột biến nhỏ đã dẫn tới sự biến đổi kháng nguyên này, tạo
ra một biến chúng cúm mới, kí hiệu H và N cũng là chỉ 2 kháng nguyên này) VẬY TẠI
SAO virus sởi cũng có kn H nhưng lại ko biến chủng, dc tuyên bố chấm dứt hoàn toàn…
TL: Virus sởi khác với các Paramyxovirus khác là nó ko ngưng kết hồng cầu ng, ng là ổ
bệnh duy nhất, không có hoạt tính enzyme neuranamidaza.
Protein virus đặc biệt được hình thành bám vào bề mặt tế bào vật chủ: Tế bào
thụ thể của virus sởi là phân tử CD46, protein H tương tác với protein F để xâm nhiễm
và hợp nhất vỏ virus với màng tế bào vật chủProtein F được protease của tế bào chủ cắt
và cho phép dung hợp với màng tế bào để đưa nucleocapsid vào tế bào chất.,, cho phép
virus xâm nhập vào tế bào. Các chức năng chính của protein H là liên kết với các thụ thể
của tế bào vật chủ. Hai thụ được xác định là CD46 và CD150 (còn được gọi là SLAM).
CD46 là một phân
tử điều bổ sung được thể hiện trên tất cả các tế bào có nhân ở người. SLAM (tín hiệu phân
tử kích hoạt tế bào lympho) được thể hiện trên tế bào lympho T và B và tế bào trình diện
kháng nguyên.
Các protein H liên kết các thụ thể chồng lên nhau và chủng virus sởi khác nhau về hiệu
quả mà mỗi thụ thể được sử dụng. Ví dụ đối với virus sởi hoang dại liên kết với tế bào chủ
yếu thông qua các thụ thể SLAM di động, trong khi hầu hết các chủng vaccine liên kết với
CD46, cũng như SLAM. Không xác định thụ thể khác cho phép virus sởi có thể tồn tại
trên các tế bào biểu mô ở người. Các protein còn lại của virus sởi tham gia được nhân lên.
Các protein P điều chỉnh sao chép, nhân bản và hiệu quả mà các nucleoprotein lắp ráp vào
nucleocapsid.
Protein M liên kết với protein vỏ ribonucleoprotein khi lắp ráp virion. Các chức năng của
protein V và C chưa được xác định rõ ràng, nhưng cả hai protein dường như đóng góp vào
độc lực của virus bằng cách điều hòa phiên mã và nhạy cảm với các tác dụng kháng virus
của IFN (Interferon).
Sau khi gắn kết vào tế bào chủ, vỏ ngoài virus dung hợp với màng tế bào vật chủ, các
protein bề mặt của virion gắn với tế bào hồng cầu tạo thành cục đông, sau đó các vật chất
di truyền được giải phóng vào nucleocapsid của tế bào
- Các sản phẩm của các gen chồng lớp và tiếp đó là các sản phẩm của các gen P/C/V/D
dùng trong điều hoà chu trình nhân lên.
- Phiên mã tiến hành trong cấu trúc RNP lõi, bắt đầu tại đầu 3’ và kết thúc khi thêm đuôi
poly (A) vào gen đầu tiên.
- Số lượng bản sao mRNA nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sự tái khởi động phiên mã. Phiên mã
hết gen này rồi đến gen khác rồi quay lại tái khởi đầu phiên mã để được các protein NP, P,
M, F, HN và L.
d- Tổng hợp protein
- Tiến hành tổng hợp protein từ mRNA trong tế bào chất.
- Protein F và Hn cài vào màng mạng lưới nội chất, hình thành bọng rồi chuyển đến gắn
vào màng tế bào.
- Protein M liên kết với protein gai trong màng tế bào chất.
- Protein NP phong bế vị trí khỏi đầu và ICS cho phép bắt đầu phiên mã sợi cRNA ARN
BỔ TRỢ (cRNA)
e- Sao chép genome
- Từ sợi gRNA (-) làm khuôn tổng hợp sợi tương bù cRNA (+), rồi đến lượt cRNA mới
sinh ra làm khuôn để tổng hợp genome RNA.
- gRNA mới sinh lại làm khuôn để tổng hợp mRNA và thêm nhiều cRNA.
- gRNA liên kết với các protein NP, P và L để tạo cấu trúc lõi.
f- Lắp ráp và giải phóng
- Protein NP gắn vào vị trí đặc hiệu bao quanh RNA tạo nucleocapsid nảy chồi ra ngoài.
- Các protein heamagglutinin cắt axit sialic nằm trên bề mặt tế bào cho phép virus thoát
khỏi tế bào.