Professional Documents
Culture Documents
VÀ BỆNH
NH PH
PHỔI
NỘI DUNG BÀI HỌC
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản của chuyên khoa lao
Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis (MTB)
Nguyễn Thanh Tú
Vi khuẩn Mycocbacterium không điển hình (NTM)
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng – Phó Chủ Nhiệm Bộ Môn Lao ĐH YKPNT
Chương 2 : Lao phổi
Chẩn đoán lao phổi
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng
TS. BS. Phan Vương Khắc Thái – Trưởng khoa B1 bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Tiếp cận và điều trị cấp cứu ho ra máu
PGS.TS.BS Ngô Thanh Bình – Bộ môn Lao ĐHYD TP.HCM
Chương 3 : Lao ngoài phổi
Lao màng não
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng
BS.CKII Lê Tấn Phong – Trưởng khoa A6 bệnh viện Phạm Ngọc Thạch
Lao đa màng : màng phổi, màng tim, màng bụng
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng
Chương 4 : Điều trị và dự phòng lao
Thuốc điều trị lao
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng
ThS.DS Trần Thị Thu Hằng – Nguyên Chủ Nhiệm BM Dược Lý ĐHYK PNT
Phác đồ điều trị lao
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng
Dự phòng lao
BS Văn Lộc Vũ
Chương 5 : Mối liên hệ giữa lao với các bệnh lý khác
Bệnh lao và bệnh phổi với nhiễm HIV/AIDS
ThS.BS Nguyễn Đình Thắng
Lao phổi trên bệnh nhân đái tháo đường
PGS.TS BS Nguyễn Thị Thu Ba – Nguyên chủ Nhiệm BM Lao ĐHYD TP.HCM
Chương 6 : Bệnh phổi thường gặp
Ung thư phổi nguyên phát
TS.BS Nguyễn Hữu Lân – Giám đốc BVPNT, Chủ Nhiệm Bộ Môn Lao PNT
Tràn khí màng phổi
BS Văn Lộc Vũ
Tràn dịch màng phổi
BS Văn Lộc Vũ
BS.CKII Đoàn Lê Minh Hạnh – Phân môn Hô Hấp BM Nội ĐHYK PNT
Ghi chú :
- Những bài được bôi xanh KHÔNG nằm trong nội dung thi lý thuyết.
- Tuy nhiên đề thi có khoảng 30% không hỏi trong file giảng viên đưa, theo khuyến cáo
của cá nhân biên tập nên xem thêm 2 bài : Vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis và
Tràn dịch màng phổi.
- Bài : Mycobacterium không lao ra ít vì bài này sâu dành cho sau đại học
- Hai bài : Ung thư phổi nguyên phát và áp xe phổi là bài đọc thêm, số câu hỏi thi sẽ ít hơn.
MYCOBACTERIUM TUBERCULOSIS
I.Đại cương :
1.Tổng quan :
Lao là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis) gây nên.
Bệnh lao có thể gặp ở tất cả các bộ phận của cơ thể, trong đó lao phổi là thể lao phổ biến nhất
(chiếm 80 - 85% tổng số ca bệnh) và là nguồn lây chính cho người xung quanh.
2.Dịch tễ học :
- Theo WHO năm, trong năm 2010 có khoảng 8,8 triệu trường hợp lao mới được phát hiện.
- Việt Nam đứng thứ 14/30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao cao và đứng thứ 11/30 nước có
gánh nặng bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất trên toàn cầu.
- Mỗi năm 130.000 người mắc lao mới, trong đó có 7000 người mắc lao đồng nhiễm HIV,
hơn 5000 bệnh nhân lao đa kháng thuốc, đáng lo ngại là có gần 6% là lao siêu kháng
thuốc. Số người mắc lao phổi chiếm hơn 1/2.
- Tuy nhiên, theo báo cáo WHO global report 2016, chỉ có 79% số người mắc được phát
hiện, tư vấn, điều trị và quản lý, 21% còn lại vẫn tồn tại trong cộng đồng mà không được
điều trị, khống chế nguồn lây.
- Việt Nam đang hướng đến mục tiêu không còn bệnh lao vào năm 2030
3.Khái niệm :
Nguồn lây:
- Tiếp xúc với những người bị lao ho khạc, đặc biệt có AFB trong đàm, tỷ lệ lây lao cao.
- Trẻ em dễ bị lây lao nhưng ít khi là nguồn lây.
Đường lây:
- Hô hấp: do hít phải chất tiết có chứa BK khi khạc, hắt hơi, nói chuyện.
- Tiêu hoá: do sử dụng thực phẩm có chứa AFB như sữa không được tiệt trùng…
- Da niêm: VK xâm nhập qua những vùng da bị tổn thương như đứt hay dập nát và gây
bệnh (lao da khởi phát ở vùng da dễ thấy, lúc đầu là một nốt mụn, sau đó bệnh nhân nặn
ra, không lành và đi điều trị da liễu không hết)
II.Vi sinh :
1.Phân loại :
- Vi khuẩn lao thường chỉ ký sinh ở người, nhưng cũng có thể được tìm thấy ở vài giống
gia súc sống cạnh người như chó, mèo, vẹt…. Người ta không tìm thấy vi khuẩn lao ở
trạng thái hoại sinh, chúng chỉ tồn tại trên các vật thể bị nhiễm bởi những người mắc
bệnh lao. Nhưng đa số các vi khuẩn khác trong giống Mycobacteria sống hoại sinh trong
thiên nhiên.
- Lao là bệnh lây truyền qua đường hô hấp. Nguồn lây chính là những bệnh nhân
lao phổi có khả năng ho khạc hoặc hắt hơi, tạo ra những hạt khí dung có chứa vi
khuẩn lao. Hang lao có đường kính 2cm chứa khoảng 200 triệu vi khuẩn lao.
Vị trí lây nhiễm đầu tiên thường là phổi.
b) Hình thái :
- Trực khuẩn có kích thước 0.2-0.6 μm x 1-10 μm, dạng hình que, hơi cong, không
di dộng, không có lớp vỏ bao bọc bên ngoài và không tạo bào tử.
- Vi khuẩn lao có màu đỏ hồng khi nhuộm bằng phương pháp Ziehl - Neelsen, đứng đơn lẻ
hay thành nhóm.
- Màng tế bào vi khuẩn có thành phần chủ yếu là lipid (chiếm 60% trọng lượng
thành tế bào).
- Lipid gồm có 3 thành phần chính: mycolic acid, yếu tố thừng và chất sáp wax-D :
Mycolic acid: là phân tử kỵ nước, được cho là tác nhân chính gây nên độc
tính của vi khuẩn lao.
Yếu tố thừng: được tạo ra nhiều ở chủng vi khuẩn lao có độc lực cao.
Chất sáp Wax-D: Không cho aniline và các thuốc nhuộm khác thấm qua
màng tế bào trừ khi có sự hiện diện của phenol trong thuốc nhuộm.
- Thành phần lipid cao ở màng tế bào có liên quan đến các tính chất sau của vi khuẩn :
Khó bắt màu thuốc nhuộm nhưng khi đã bắt thì giữ màu tốt hơn
Kháng với các chất acid và kiềm ở một nồng độ nhất định
Kháng với nhiều loại kháng sinh
Kháng với các chất ly giải thẩm thấu
Kháng với các chất oxy hóa và sống tồn tại bên trong đại thực bào.
- M.tuberculosis có khả năng gây độc không phải dựa vào sự tiết độc tố (không có ngoại
độc tố) mà dựa vào các đặc tính cấu trúc và sinh lý của nó (do lipit)
Có cơ chế đặc biệt để xâm nhập vào tế bào ký chủ, tiết ra protein ức chế sự hòa
màng của phagosome và lysosome và giúp nó tồn tại và tăng sinh bên trong đại
thực bào
Màng tế bào chứa nhiều lipid (chủ yếu là axit mycolic) giúp làm giảm tính thấm
của màng tế bào và ức chế sự hấp thu các chất có hại cho nó…
- Biến dị di truyền: Đây là biến dị tự nhiên do cấy chuyền liên tục làm mất một số gen của
vi khuẩn. BCG chính là chủng M.bovis đã khử được độc tính qua cấy chuyền 230 lần.
- Đột biến kháng thuốc: Tính kháng thuốc di truyền của vi khuẩn lao là do đột biến gen tự
phát. Đột biến gen tự phát xảy ra với tần xuất 10-6 – 10-8 lần nhân đôi của vi khuẩn. Tần
suất phát triển đột biến kháng thuốc ở M.tuberculosis là 10-5 – 10-6 đối với INH, 10-7-8
đối với RIF, 10-5 đối với STR và 10-5 đối với EMB. Một số gien được xác định là có
liên quan đến tính kháng thuốc của M.tuberculosis là ropB, katG, inhA, embB, pncA,
rprL…
3.Sức đề kháng :
a) Đối với tác nhân vật lý :
- Nhạy cảm với nhiệt độ cao, ánh sáng mặt trời, tia X và tia UV.
- Có thể tồn tại ở nhiệt độ rất thấp, ở 2-40C đến -700C trong thời gian dài.
- Ở trong nước, vi khuẩn lao tồn tại hơn 1 năm; trong đất – 6 tháng; trên các trang
giấy – 3 tháng; trong đàm khô – 2 tháng; trong nước cất – vài tuần.
- Trực khuẩn lao bền vững hơn các loại vi trùng khác khi tiếp xúc với các chất hóa
học như NaOH, H2SO4 …
- Nhạy cảm với cồn: Một huyền dịch khuẩn lao trở thành vô trùng khi tiếp xúc với
cồn 900C trong vòng 5 phút.
- Sát trùng khuẩn lao: có thể dùng cồn 70%, Formol 5%, phenol 5%, Sodium
hypochloride 1g/l hoặc 5g/l, Peracetic acid 2%, Javel…
1.Sinh lý bệnh :
Giai đoạn 1: (ngày thứ 1-7 sau nhiễm)
- Ngày 1: Sau được hít vào, vi khuẩn sẽ ở phế nang cận màng phổi và được các bạch cầu
đa nhân trung tính nuốt chửng nhưng không tiêu diệt được.
- Ngày 2: Đại thực bào phế nang tấn công vi sinh vật qua hiện tượng thực bào.
- Vi trùng có thể bị giết ở thời điểm này làm bệnh ngưng tiến triển.
- Hay vi trùng phóng thích từ đại thực bào bắt đầu giai đọan 2.
Giai đoạn 3:
- Phát triển vi trùng diễn tiến chậm do họat động miễn dịch qua trung gian tế bào và đáp
ứng tăng nhạy cảm.
- Củ lao trở thành sang thương bả đậu chắc.
- Sự phân chia giảm trong chất bả đậu do thiếu ôxy: Nhiều củ lao trở thành vô trùng, calci
và xơ hóa, một số khác có thể chứa những vi sinh vật sống tiềm ẩn.
Giai đoạn 4:
- Chất bã đậu hóa: Điều này cho phép vi sinh vật nhận vừa đủ ôxy để bắt đầu phân chia lại.
Đáp ứng miễn dịch không hiệu quả với số lượng lớn vi trùng lao. Hang được tạo thành
phát tán vi trùng lao.
Đặc điểm mô bệnh học của lao là viêm hạt – một dạng đặc biệt của viêm mạn đối với các tác
nhân khó tiêu diệt với hình ảnh đặc trưng là : sự hình thanh các u hạt lao (củ lao) hay còn gọi
nang lao. Khi đã khống chế được vi khuẩn, u hạt sẽ chuyển thành sẹo xơ ngấm vôi do tăng mô
sinh mô kết và lắng đọng canxi.
- Là một tập hợp tế bào dạng biểu mô, được bao quảnh bởi một viền limphô và tương bào
- Tế bào dạng biểu mô có thể hòa nhập thành đại bào Langhans (các nhân ở ngoại vi) và
đại bào ăn dị vật (các nhân rải rác trong bào tương)
Khi các tế bào dạng biểu mô và đại bào Langhans ở trung tâm nang lao bị hoải tử, sẽ tạo ra một
chất chứa màu vàng kem, mềm, giống như bã đậu nên còn được gọi là chất hoại tử bã đậu. Khi
đó nang lao trở thành nang bã đậu.
Để phản ứng với vi khuẩn lao, cơ thể đáp ứng miễn dịch theo kiểu quá mẫn qua trung gian tế bào
(typ IV). Chính vì vậy, kháng thể tuy có được tạo ra nhưng không giúp ích gì nhiều cho việc
chống lại vi khuẩn.
Khi bị hít vào phổi, vi khuẩn nhân lên chậm chạp trong phế nang, dưới dạng các đám mờ tròn
nhỏ ở nhu mô phổi, gọi là phức hợp nguyên thủy.
Sau khi bị các đại thực bào phế nang nuốt chửng, vi khuẩn lao chứa yếu tố dây, LAM ức chế
hòa nhập túi thực bào với tiêu thể ĐTB bị tan vỡ.Các đại thực bào ngày càng nhiều kích thích
phản ứng viêm, hóa ứng động miễn dịch huy động các tế bào lympho bao vây giúp cô lập trực
khuẩn lao.
Sau 2-3 tuần, một số ĐTB phân hủy được VK lao, luân chuyển theo đường bạch huyết cạnh phế
quản đến hạch trung thất trình diện kháng nguyên với limphô T hoạt hóa quá mẫn typ IV ,
dẫn đến hình thành :
Vậy sau khi nhiễm vi khuẩn lao, có các trường hợp sau có thể xảy ra :
TH1 : Không hoặc chưa tiến triển thành bệnh lao nhiễm lao tiềm ẩn được xác định bằng phản
ứng Tuberculin skin test (TST) hay phản ứng Mantoux và xét nghiệm tìm Interferon Gamma
TH2 : Phức hợp nguyên thủy có thể biến mất (tự đào thải) hoặc ngược lại tăng kích thước, thâm
nhiễm vào nhu mô phổi cạnh chúng và/hoặc màng phổi lao phổi, lao màng phổi
TH3 : Nhân lên nhiều lần trong hạch kèm hoại tử trung tâm, nguy cơ lan tỏa theo đường máu,
đánh dấu giai đoạn lây nhiễm, phát tán vào phổi và có thể là các cơ quan lân cận Bệnh lao
TÓM LẠI :
NTM (Non – tuberculous mycobacteria) là nhóm vi khuẩn cùng họ với vi khuẩn lao gây bệnh ở
phổi, nhưng điểm khác biệt là nó được phân tán rộng rãi trong môi trường, đặc tính gây bệnh rất
linh động, diễn tiến âm ỉ và không lây từ người này sang người khác Chính vì vậy phải cấy ít
nhất 2 mẫu dương mới xác định là nhiễm NTM, tiếp theo cần phải cấy định danh xem cụ thể
là con nào. NTM có hơn 140 loài khác nhau nó có thể được gọi với những tên khác nhau như :
-NTM phổ biến trong môi trường và chủ yếu được phân lập từ nước hay trong đất, bụi, vật nuôi,
sữa, thực phẩm.
-Tại vùng có dịch tễ lao cao chỉ một số ít trường hợp của bệnh phổi do Mycobacteria được gây ra
do NTM.
-Ghi nhận ở Anh hay Canada tác nhân phổ biến là M. xenopi, M. malmoense là tác nhân phổ
biến thứ 2 ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu hay M ulcerans nhiễm chủ yếu xảy ra ở Úc và các
nước nhiệt đới.
-NTM gây bệnh phổi đáng kể ở người có cấu trúc phổi bất thường (Ví dụ: bệnh nhân giãn phế
quản và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính thường bị nhiễm M. kansasii)
-Những nghiên cứu gần đây đã ghi nhận sự gia tăng các ca bệnh NTM xảy ra trên toàn cầu đặc
biệt là các trường hợp nhiễm trùng do M. avium-intracellulare complex (MAI) đã trở nên phổ
biến đặc biệt ở những bệnh nhân như:
HIV có tế bào lympho CD4 thấp hoặc đã ở giai đoạn AIDS. (M.avium ở bệnh
nhân HIV-AIDS)
Tuy nhiên MAI lại hiếm thấy ở những người Châu Phi – nơi dịch tễ của AIDS
mắc dù phân lập được từ môi trường nơi đó.
Nếu như NTM dương tính, nhưng cấy định danh không ra M. avium-intracellulare
complex thì theo dịch tễ tại Việt Nam con này phổ biến hàng đầu nên ta vẫn đánh
thuốc nhắm vào con này và đánh cả trong khi chờ kết cấy
Lưu ý : % NTM gây lao hạch ở trẻ em > % NTM gây lao hạch ở người lớn (do người lớn phần
lớn là do MTB), nhưng NMT không phải là tác nhân gây lao hạch hàng đầu ở trẻ em.
Dựa vào tính chất sinh sắc tố và thời gian sinh trưởng nhanh trong quá trình nuôi cấy , nhóm
NTM được chia làm 4 nhóm nhỏ:
Có thể xảy ra như một tình trạng nhiễm trùng lan tỏa, nhưng thường chỉ ảnh hưởng đến phổi.
Theo các thống kê thì bệnh phổi do NTM ngày càng có xu hướng tăng dần trong nhóm nhiễm do
Mycobacteria chung trong đó MAC (Mycobacterium avium complex) phổ biến nhất.
Bệnh phổi do NTM thường gặp trong 5 nhóm bệnh như sau:
- Các triệu chứng toàn thân thường không đặc hiệu, có thể có các triệu chứng như: sốt nhẹ về
chiều, ớn lạnh, đổ mồ hôi ban đêm, mệt mỏi, gầy sút ăn uống kém, một số bệnh nhân có thể
không có các triệu chứng này.
- Các triệu chứng tại chỗ bao gồm: ho (ho khan, hoặc ho khạc đờm kéo dài, số lượng đờm không
nhiều), có thể ho ra máu, xuất hiện không thường xuyên , có thể có tức ngực, khó thở. Triệu
chứng tại phổi thường là các triệu chứng của bệnh phổi nền.
Trên hình ảnh X quang phổi thường quy có những tổn thương đa dạng, không đặc hiệu
như dạng nốt, tổ chức liên kết, hình ảnh giãn phế quản, hình ảnh các hang cũ, hình ảnh
dày dính, xơ hóa…
Trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính phân giải cao (HRCT) có thể thấy hình ảnh nốt trung
tâm tiểu thùy - nốt hình nụ cây (tree-in-bud)…
Các xét nghiệm thường quy như xét nghiệm máu, sinh hóa thông thường không có gì đặc biệt.
Các xét nghiệm đặc biệt đánh giá hệ miễn dịch có thể thấy tình trạng giảm các tế bào lympho,
đặc biệt khi số lương CD4 < 50 tế bào/1ml, ngoài ra có thể thấy các bất thường khác liên quan
đến các cytokine, hệ thống Ig.
Nhuộm soi trực tiếp thông thường người ta chỉ thấy hình ảnh vi khuẩn kháng cồn kháng
toan nói chung.
Chính vì vậy mà hầu hết các trường hợp bệnh nhân được bắt đầu bằng việc điều
trị lao hoặc tái điều trị lao trước khi phát hiện NTM.
Tuy nhiên trên thực hành lâm sàng đứng trước một trường hợp xuất hiện AFB (+),
đặc biệt ở người có tiền sử điều trị lao thì ngoài chẩn đoán lao tái phát cần phải
nghĩ tới nguyên nhân NTM.
Nuôi cấy trên môi trường lỏng: các vi khuẩn NTM thường gây bệnh hiện nay là những vi
khuẩn mọc nhanh, sau 10 ngày có thể thấy xuất hiện các khuẩn lạc, ở bước này dựa vào
hình thái hoặc các phương pháp sinh hóa học khác nhau mà người ta đã có thể xác định
được vi khuẩn lao hay vi khuẩn NTM.
Tuy nhiên để xác định chính xác hơn là thuộc chủng nào thì cần làm các phương pháp
sinh học phân tử xác định gen vi khuẩn …
Lưu ý : Giải phẫu bệnh không giúp phân biệt được MTB và NTM vì hình ảnh mô bệnh học là
viêm hạt lao giống nhau
Tiêu chuẩn lâm sàng ( đồng thời hai tiêu chuẩn sau ):
Triệu chứng phổi, tổn thương nốt hoặc hang, hoặc hình nhiều ổ giãn phế quản trên phim
CT đi kèm với nhiều nốt nhỏ khác ( VÀ )
Loại trừ hợp lý những chẩn đoán phân biệt khác
Nuôi cấy dương tính từ ít nhất hai bệnh phẩm đờm riêng biệt. Nếu kết quả này không đủ
để chẩn đoán có thể lặp lại việc soi hoặc cấy đờm ( HOẶC )
Nuôi cấy dương tính ít nhất một bệnh phẩm dịch rửa hoặc trải phế quản ( HOẶC )
Sinh thiết xuyên thành phế quản hoặc bênh phẩm sinh thiết phổi khác có tổn thương mô
bệnh do Mycocbacteria và nuôi cấy dương tính vi khuẩn lao không điển hình, hoặc Bệnh
phẩm sinh thiết có tổn thương mô bệnh do Mycobacteria và có 1 hoặc nhiều mẫu nuôi
cấy dương tính với vi khuẩn lao không điển hình, và có một hoặc nhiều mẫu đờm hay
mẫu dịch rửa phế quản nuôi cấy dương tính với NTM
Mục tiêu: nuôi cấy âm tính trong hoặc sau 12 tháng điều trị
Bộ Sách Lâm Sàng Chuyên Khoa : Lâm Sàng Lao 15
Phẫu thuật vẫn còn là một lựa chọn quan trọng trên bệnh nhân thất bại với điều trị bằng thuốc ở
bệnh nhân bệnh phổi do NTM.
Lưu ý : Các Mycobacteria không lao kháng hầu hết các thuốc lao hàng 1
Phác đồ 12 tháng cho trường hợp AFB (-) hoặc có thể kéo dài:
Rifampin 600mg/ngày
INH 300mg/ngày
Ethambutol 25mg/kg/ngày trong 2 tháng sau đó 15mg/kg/ngày
Có thể sử dụng SM 500-1000mg TB/ngày hoặc Clarithromycin 1g trong 2-3
tháng tấn công trong trường hợp bệnh tiến triễn.
PZA không hiệu quả trong trường hợp này.
Phác đồ 12 tháng cho trường hợp AFB (-) hoặc dài hơn : M.kansasii kháng Rifampin
M. chelonae điều trị phác đồ 6 tháng hiệu quả với Clarithromycin 1g/ngày đơn trị liệu
1.Hỏi bệnh sử :
2.Triệu chứng :
●Ho : kéo dài > 2 tuần (ho khan, ho có đờm, ho ra máu) là triệu chứng nghi lao quan trọng nhất.
Ho (là triệu chứng thường gặp) : kích thích và liên tục, ban đầu có thể ho khan khi bệnh
tiến triển và hiện tượng bã đậu hóa xảy ra tạo hang trong nhu mô phổi, bệnh nhân có thể
ho có đàm.
Ho ra máu (là triệu chứng đặc hiệu) : khi sang thương lao xâm lấn làm vỡ mạch máu gây
ho ra máu, ít khi bệnh lao gây tử vong do ho ra máu lượng nhiều. 4 mức độ ho ra máu :
- Nhẹ : ho khạc đàm vướng máu đến dưới 50ml/24 giờ
- Vừa : ho ra máu từ 50-200 ml/24 giờ
- Nặng : ho ra máu trên 200 ml/24 giờ
- Rất nặng hay ho ra máu sét đánh : trên 1000 ml/24 giờ nguy cơ tử vong cao dù
đang nằm tại ICU.
●Mệt mỏi : khởi phát dần dần cho đến sau vài tuần bệnh nhân hầu như chỉ muốn nghỉ ngơi
không họat động.
●Sốt : thường nhẹ, hiếm khi cao trên 40°C , khuynh hướng thấp vào buổi sáng và cao vào buổi
chiều.
●Mất cân : dần dần nhưng nếu không điều trị sẽ suy sụp nhanh trong vòng vài tháng. Bệnh nhân
có thể mất 50% trọng lượng cơ thể hay hơn.
●Đổ mồ hôi nhiều (là một triệu chứng quan trọng trên bệnh lao / HIV dương) : Ra mồ hôi “trộm”
ban đêm, có thể tiếp tục vài tháng sau khi bắt đầu điều trị.
●Khó thở : thường giai đoạn nặng khi hơn 20% nhu mô phổi bị hủy họai.
●Triệu chứng thực thể: nghe phổi có thể có tiếng bệnh lý (ran ẩm, ran nổ, ....).
Lưu ý : lao thứ phát có thể không có triệu chứng gì chỉ phát hiện qua chụp Xquang phổi định kỳ
hay tầm soát bệnh
- Lao ban: sốt cao có thể lên 40ºC, sốt riêng rẽ với lưỡi sạch. Cấy máu thường âm tính.
- Hồng ban nút: các nút hồng ban nằm ở sâu trong da và lớp dưới da, khu trú mặt trong
cẳng chân, nằm sát bờ xương, thường kèm sốt đau nhức xương khớp, cần chẩn đoán phân
biệt với sarcodosis và nhiễm streptococcus hay một dị ứng thuốc.
- Viêm kết mạc mắt phỏng ít gặp.
- Tùy vị trí tốn thương có thể lao ngoài phổi (LNP) khác như: lao hạch (siêu âm thấy mất
rốn hạch), mắt, ruột, họng…
Lao nguyên phát (nhất là bệnh nhi) thường tổn thương đa cơ quan. Tuy nhiên khám
phổi đa số không phát hiện gì
●Phì đại hạch trung thất : 85% trường hợp bị phì đại hạch 1 bên, 15% còn lại bị cả 2 bên.
5 nhóm hạch trung thất : cạnh khí quản (T, P); rốn phổi (T,P); hạch carina. Trong đó, trên
Xquang dễ thấy cạnh khí quản (P); rốn phổi (P) do bên trái bị cung động mạch chủ che.
Riêng hạch carina thì không thấy
Nghi ngờ có phì đại hạch rốn phổi khi trên X-quang thẳng thấy hình ảnh rốn phổi bất
thường (một bên rốn to hơn hay đậm hơn bên kia, rốn mất hình cong lõm bình thường).
Hạch phì đại ở rốn phổi hoặc cạnh khí quản thường có bờ ngoài rõ, dạng đa cung (phân
biệt với mạch máu: bờ trơn láng, liên tục, K phế quản trung tâm: bờ không rõ, dạng chân
cua hay nhiều gai).
Khi điều trị, hạch trung thất sẽ nhỏ dần cùng với việc xóa tổn thương nhu mô phổi và sự hồi
phục tình trạng xẹp phổi nếu có. Một số trường hợp (36%) sẽ để lại nốt vôi hóa ở rốn phổi.
●Nốt
●Thâm nhiễm
●Hang
●Dải xơ mờ
Lao cũ (đã điều trị)
●Nốt vôi hoá
Hình ảnh tràn dịch màng phổi : mờ đồng nhất , lượng (tù góc sườn hoành, đường cong Damo…)
Tràn dịch màng phổi lượng nhiều : đẩy trung thất về phía đối diện ≠ Xẹp phổi : kéo
trung thất về phía nó ≠ Đông đặc phổi : không ảnh hưởng cấu trúc lân cận
Hình ảnh tràn khí màng phổi : khoảng sáng vô mạch có đường trắng màng phổi tạng
Tràn khí màng phổi : có chỉ định dẫn lưu màng phổi ≠ kén khí (ổ cạnh màng phổi)
không có chỉ định dẫn lưu màng phổi
Lao nguyên phát : tổn thương lao có thể gặp bất kì vùng nào của phổi nhưng thường gặp ở thuỳ
trên khác với trong lao thứ phát thường gặp ở phân thuỳ đỉnh và sau của thuỳ trên.
Hình ảnh kinh điển nhất là phức hợp nguyên thủy gồm 3 thành phần:
- CT scan có thể xác định khối lượng và mức độ hoại tử của các hạch lao, phát hiện các tổn
thương nốt nhỏ ở nhu mô phổi .
- Các sang thương trung tâm thùy (centri-lobular), phân nhánh (tree-in-bud), hang và nốt
lớn 5-8mm đường kính thường gặp nhất trong lao họat tính. Các sang thương xơ, xoắn
cấu trúc mạch máu-phế quản, khí phế thủng, dãn phế quản là những hình ảnh thường thấy
trong lao phổi cũ.
Giúp phát hiện những hình ảnh không thấy trên Xquang và phân biệt được : tràn
dịch với xẹp phổi, đông đặc; tràn khí với kén khí…
- Chỉ định khi có rối loạn thông khí do hạch chèn ép khí phế quản, có dò hạch khí phế quản
và giải phóng xẹp phổi do hạch lao chèn ép gây nên tắc nghẽn phế quản.
- Trong những trường hợp chẩn đóan khó hay cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác.
- Soi phế quản sinh thiết tổn thương.
- Soi phế quản còn được dùng để tìm AFB qua dịch chải rửa phế quản phế nang.
- Phản ứng lao tố của Mantoux (1908): dùng ống tiêm 1ml tiêm trong da 1/10 ml (1UI)
Tuberculine PPDRT 23 Tween 80 vào mặt trước cẳng tay sau khi sát khuẩn bằng cồn.
- Đọc kết quả sau 48 – 72h, đo đường kính nốt sẩn cứng theo chiều ngang cánh tay, quầng
đỏ xung quanh không quan trọng.
- Khi TST ≥ 10mm là ngưỡng dương tính ở Việt Nam.
Ý nghĩa : Có nhiễm vi khuẩn Mycobacterium hay không ? , không phân biệt được là
nhiễm MTB hay NTM, cũng không phân biệt được đang nhiễm hay đã nhiễm
- TST ≥ 15 hay TST chuyển dương nghĩ nhiều đến lao nguyên phát.
- TST (-) trong các tình huống như sau thì không thể loại trừ lao nguyên phát: Những cơ
địa suy giảm miễn dịch, suy dinh dưỡng, sau sởi, đang dùng Corticoides…
- Hiệu ứng Booster (hiệu ứng tái hoạt động) :
Ý nghĩa : Trường hợp trước đây test dương, nay thử lại và thấy âm. Để xác định có
thật sự có âm tính hay không, ta dùng tác dụng “boosting” của lần 1 giúp cơ thể
“nhớ lại”
Thực hiện 2 test TST cách nhau 1-2 tuần
Lần 1 âm tính (< 10mm) , lần 2 dương tính = sự chuyển dương TST gợi ý lao
nguyên phát
Lần 1 và 2 đều âm tính = không nhiễm lao, trừ các tình huống trên thì không thể
loại trừ
Lưu ý : Nhiễm vi khuẩn lao tiềm ẩn là khi bệnh nhân không có bất cứ triệu chứng gì, nhưng phản
ứng lao tố dương tính. Trường hợp này, vi khuẩn đã bị các tế bào miễn dịch bao vây, canh giữ và
ngủ yên trong cơ thể và không gây lây nhiễm.
- Xét nghiệm đàm tìm vi trùng lao, cần lấy 2 mẫu đàm.
- Soi lam : độ nhạy 50-60%, độ đặc hiệu >98%, thời gian có kết quả nhanh 1 ngày.
Tùy thuộc vào vị trí tổn thương gần phế quan dẫn, rốn phổi sẽ dễ soi đàm ra kết quả
dương tính : nên kết quả không quyết định tiên lượng nặng nhẹ, chỉ quyết định khả
năng lây cao hay thấp. Bệnh nhân AFB (+) khả năng lây cao gấp 10 lần người soi âm.
- Cấy – kháng sinh đồ : MT đặc LJ (Lowenstein Jensen) hay MT lỏng (MGIT:
Mycobacterial Growth Indicator Tube) với độ nhạy là 81%, độ đặc hiệu 99,6% cần 2 tuần
có kết quả.
- PCR (Polymerase Chain Reaction): dùng để phát hiện DNA của vi khuẩn lao. PCR lao có
thể được thực hiện đối với những bệnh phẩm là đàm, dịch phế quản qua nội soi, dịch
màng phổi, dịch não tủy...Duy nhất PCR đàm chỉ giúp gợi ý lao do độ đặc hiệu thấp.
- Test Mutiplex PCR, Genotype MTBDRplus (HAIN test) giúp chẩn đóan sớm lao kháng
thuốc và điều trị lao.
- Xpert MTB/RIF : là một test phân tử tự động xác định lao và kháng RiF. Test có khả
năng xác định 98,2% bệnh nhân lao phổi đàm soi trực tiếp dương tính và 72,5% bệnh
nhân lao phổi đàm âm. Độ đặc hiệu của test này là 99,2%.
- Công thức máu : thường bạch cầu bình thường hay tăng nhẹ, thành phần Lymphô tăng.
Tăng vận tốc lắng máu, có thể > 5 lần bình thường. Có thể có thiếu máu với hồng cầu,
Hct và Hb giảm. Nếu lao diễn tiến lâu ngày xâm lấn vào tủy có thể giảm 3 dòng máu.
- Các xét nghiêm máu: glycemie, creatinin/máu, BUN, SGOT/SGPT, Bilirubin
TP/TT/GT, Ion đồ, tổng phân tích nước tiểu, acid uric...
- Xét nghiệm HIV
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định lao dựa vào 1 trong 2 điều kiện dưới đây :
- Có bằng chứng sự hiện diện của vi khuẩn lao trong mẫu bệnh phẩm
- Giải phẫu bệnh thấy hình ảnh nang lao
Lưu ý : Khó có thể tìm thấy vi khuẩn lao trong lao màng não
Theo phác đồ Bộ Y Tế :
Chẩn đoán xác định khi có tổn thương trên Xquang phổi nghi lao và 1 trong 2 tiêu chuẩn
dưới đây :
- Xác định sự có mặt của vi khuẩn lao trong đàm, dịch phế quản, dịch dạ dày.
- Đủ lâm sàng, cận lâm sàng nghi lao mà không xác định được sự có mặt của vi khuẩn lao,
cần có ý kiến của thầy thuốc chuyên khoa lao để quyết định chẩn đoán (hội chẩn lao)
Lưu ý : Trường hợp có tiền căn được chẩn đoán lao bởi bác sĩ chuyên khoa lao thì đã xác lập
chẩn đoán xác định lao rồi, không cần phải làm lại
Lao phổi AFB (+): Có ít nhất 1 mẫu đờm hoặc dịch phế quản, dịch dạ dày có kết quả soi
trực tiếp AFB (+) tại các phòng xét nghiệm được kiểm chuẩn bởi Chương trình chống lao
Quốc gia.
Lao phổi AFB (-): Khi có ít nhất 2 mẫu đàm AFB (-), người bệnh cần được thực hiện quy
trình chẩn đoán lao phổi AFB (-) .
Người bệnh được chẩn đoán lao phổi AFB (-) cần thoả mãn 1 trong 2 điều kiện sau:
Có bằng chứng vi khuẩn lao trong đàm, dịch phế quản, dịch dạ dày bằng
phương pháp nuôi cấy hoặc các kỹ thuật mới như Xpert MTB/RIF.
Được thầy thuốc chuyên khoa chẩn đoán và chỉ định một phác đồ điều trị lao
đầy đủ dựa trên (1) lâm sàng, (2) bất thường nghi lao trên Xquang phổi và (3)
thêm 1 trong 2 tiêu chuẩn sau : HIV (+) hoặc không đáp ứng với điều trị kháng
sinh phổ rộng.
- Là thể lao lan toả toàn thân, biểu hiện rõ nhất ở phổi, có thể có tổn thương màng não,
gan, tuỷ xương hay nhiều bộ phận quan trọng khác. Hay xảy ra ở trẻ em, người nhiễm
HIV hay bị suy giảm miễn dịch.
- Lâm sàng: triệu chứng cơ năng thường rầm rộ: sốt cao, khó thở, tím tái. Triệu chứng thực
thể tại phổi nghèo nàn (có thể chỉ nghe thấy tiếng thở thô). Ở những người bệnh suy kiệt
triệu chứng lâm sàng có thể không rầm rộ.
- Chẩn đoán xác định:
Lâm sàng: cấp tính với các triệu chứng ho, sốt cao, khó thở, có thể tím tái.
X-quang phổi có nhiều nốt mờ, kích thước đều, đậm độ đều và phân bố khắp 2
phổi (3 đều: kích thước, mật độ và đậm độ cản quang các hạt kê).
Xét nghiệm đờm thường âm tính. Ngoài ra xét nghiệm vi khuẩn trong các mẫu
bệnh phẩm (dịch phế quản, dịch não tủy, máu) có thể dương tính.
1.Đối tượng nguy cơ mắc lao kháng thuốc : (đọc tham khảo)
2.Lâm sàng :
- Người bệnh khi đang điều trị lao nhưng các triệu chứng sốt, ho, khạc đàm không thuyên
giảm hoặc thuyên giảm một thời gian rồi lại xuất hiện trở lại với các triệu chứng tăng lên,
người bệnh tiếp tục sút cân.
- Tuy nhiên bệnh lao kháng thuốc có thể được chẩn đoán ở người chưa bao giờ mắc lao và
triệu chứng lâm sàng của lao đa kháng có thể không khác biệt so với bệnh lao thông
thường.
- Xét nghiệm AFB, nuôi cấy dương tính liên tục hoặc âm tính một thời gian rồi dương tính
trở lại hoặc âm tính, dương tính xen kẽ ở người đang điều trị lao.
Căn cứ vào kết quả kháng sinh đồ hoặc các xét nghiệm chẩn đoán nhanh được WHO chứng thực
(Hain test, Xpert MTB/RIF…)
a) Tiêu chuẩn chẩn đoán cho các thể bệnh lao kháng thuốc : (quan trọng)
Kháng đơn thuốc Chỉ kháng với duy nhất một thuốc chống lao hàng một khác Rifampicin.
Kháng nhiều thuốc Kháng với từ hai thuốc chống lao hàng một trở lên mà không cùng đồng
thời kháng với Isoniazid và Rifampicin.
Đa kháng thuốc Kháng đồng thời với ít nhất hai thuốc chống lao là Isoniazid và Rifampicin.
Tiền siêu kháng Lao đa kháng có kháng thêm với hoặc bất cứ thuốc nào thuộc nhóm
Fluoroquinolone hoặc với ít nhất một trong ba thuốc hàng hai dạng tiêm
(Capreomycin, Kanamycin, Amikacin).
Siêu kháng thuốc Lao đa kháng có kháng thêm với bất cứ thuốc nào thuộc nhóm
Fluoroquinolone và với ít nhất một trong ba thuốc hàng hai dạng tiêm
(Capreomycin, Kanamycin, Amikacin).
■ Lao kháng Rifampicin là gì ?
- Lao kháng Rifampicin: Kháng với Rifampicin, có hoặc không kháng thêm với các thuốc
lao khác kèm theo (có thể là kháng đơn thuốc, kháng nhiều thuốc, đa kháng thuốc hoặc
siêu kháng thuốc) quan trọng nhất chỉ cần kháng R là điều trị lao kháng thuốc và
phải cần 2 mẫu Xpert đối với bệnh nhân trẻ mới bị lao lần đầu mà thử ra kháng R.
- Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, các chủng đã kháng với Rifampicin thì có tới trên 90%
có kèm theo kháng Isoniazid, vì vậy khi phát hiện kháng Rifampicin người bệnh được coi
như đa kháng thuốc và thu nhận điều trị phác đồ IV.
Lao đa kháng mới bệnh nhân lao đa kháng chưa có tiền sử điều trị lao hoặc mới điều trị lao
dưới 1 tháng (còn có thể gọi là lao đa kháng nguyên phát).
Tái phát là bệnh nhân đã có tiền sử điều trị lao trước đây, được kết luận khỏi bệnh
hay hoàn thành điều trị, nay được chẩn đoán là lao đa kháng.
Thất bại công thức I bệnh nhân lao đa kháng có tiền sử là bệnh nhân lao thất bại điều trị công
thức I trước đây.
Thất bại công thức II bệnh nhân lao đa kháng có tiền sử là bệnh nhân lao thất bại điều trị công
thức II trước đây.
Điều trị lại sau bỏ trị là bệnh nhân đã có tiền sử điều trị lao trước đây, được kết luận là bỏ trị,
nay được chẩn đoán là lao đa kháng.
Lao đa kháng khác là bệnh nhân lao đa kháng không rõ kết quả điều trị trước đây.
- Mới : người bệnh chưa bao giờ dùng thuốc chống lao hoặc mới dùng thuốc chống lao
dưới 1 tháng.
- Tái phát : người bệnh đã được điều trị lao và được thầy thuốc xác định là khỏi bệnh, hay
hoàn thành điều trị nay mắc bệnh trở lại với kết quả AFB(+) hoặc có bằng chứng vi
khuẩn.
- Thất bại điều trị, khi người bệnh có :
AFB(+) từ tháng điều trị thứ 5 trở đi, phải chuyển phác đồ điều trị
Có chẩn đoán ban đầu AFB(-), sau 2 tháng điều trị xuất hiện AFB(+)
Lao ngoài phổi xuất hiện thêm lao phổi AFB(+) sau 2 tháng điều trị
Vi khuẩn đa kháng thuốc được xác định trong bất kỳ thời điểm nào trong quá
trình điều trị với thuốc chống lao hàng 1.
- Điều trị lại sau bỏ trị : người bệnh không dùng thuốc liên tục từ 2 tháng trở lên trong quá
trình điều trị, sau đó quay trở lại điều trị với kết quả AFB(+) hoặc có bằng chứng vi
khuẩn.
- Khác :
Lao phổi AFB(+) khác : là người bệnh đã điều trị thuốc lao trước đây với thời
gian kéo dài trên 1 tháng nhưng không xác định được phác đồ và kết quả điều trị
hoặc không rõ tiền sử điều trị, nay chẩn đoán là lao phổi AFB(+).
Lao phổi AFB (-) và lao ngoài phổi khác : Là người bệnh đã điều trị thuốc lao
trước đây với thời gian kéo dài trên 1 tháng nhưng không xác định được phác đồ
và kết quả điều trị hoặc được điều trị theo phác đồ với đánh giá là hoàn thành điều
trị, hoặc không rõ tiền sử điều trị, nay được chẩn đoán lao phổi AFB(-) hoặc lao
ngoài phổi.
Chuyển đến : người bệnh được chuyển từ đơn vị điều trị khác đến để tiếp tục điều
trị (lưu ý: những bệnh nhân này không thống kê trong báo cáo “Tình hình thu
nhận bệnh nhân lao” và “Báo cáo kết quả điều trị lao”, nhưng phải phản hồi kết
quả điều trị cuối cùng cho đơn vị chuyển đi).
- Người bệnh lao/HIV(+): Người bệnh lao có kết quả xét nghiệm HIV(+).
- Người bệnh lao/HIV(-): Người bệnh lao có kết quả xét nghiệm HIV(-), các người bệnh
lúc đầu kết quả HIV(-) nhưng sau đó xét nghiệm lại có kết quả HIV dương tính cần được
phân loại lại.
- Người bệnh lao không rõ tình trạng HIV: Người bệnh lao không có kết quả xét nghiệm
HIV, những người bệnh này sau khi có kết quả xét nghiệm HIV cần được phân loại lại.
Tắc nghẽn đường dẫn khí:Xơ hóa từ lao nội phế quản có thể gây tắc nghẽn đường dẫn khí giống
bệnh cảnh bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Tổn thương phổi nặng:
Xơ lan tỏa đưa đến hủy họai nhiều và đưa đến tâm phế mạn. Suy hô hấp có thể do bệnh giới hạn
gây nên bởi mủ màng phổi lan tỏa và bệnh lý màng phổi, ...
Amyloid: Đây là biến chứng hiếm do điều trị lao sớm.
Carcinoma phổi: Tỷ lệ ung thư phổi sau lao phổi đã được báo cáo trong y văn.
Rối loạn đông máu Bệnh lý huyết học, sử dụng thuốc kháng đông
Cơ học Dị vật đường hô hấp, do thủ thuật
II.Đánh giá và theo dõi bệnh nhân :
- Tình trạng hô hấp: ho ra máu có tắc nghẽn đường thở gây suy hô hấp? Theo dõi SpO2của
bệnh nhân.
- Tình trạng tim mạch: theo dõi mạch, huyết áp xem có trụy tim mạch?
- Tình trạng tinh thần của bệnh nhân: bệnh nhân có bình tĩnh, có hợp tác với thầy thuốc
hay không, hay quá lo lắng vật vã không hợp tác với thầy thuốc.
- Bệnh nhân còn tiếp tục ho ra máu hay không, ước lượng số lượng máu mất.
- Xác định nguyên nhân để điều trị đặc hiệu.
Xét nghiệm:
- Công thức máu, nhóm máu, creatinin huyết, đường huyết, ion đồ.
- Chụp phim X-quang lồng ngực.
III.Điều trị :
Mục tiêu :
- Phòng ngừa cho bệnh nhân không bị suy hô hấp, suy tuần hoàn do ho ra máu.
- Giảm lượng máu mất.
- Cấp cứu hồi sức kịp thời khi có tình trạng ho ra máu tắc nghẽn gây suy hô hấp – tuần
hoàn.
Ho ra máu ít, vài ml hoặc máu chỉ thành từng vệt trong chất khạc: chỉ cần các biện pháp chăm
sóc chung như trên là đủ. Có thể dùng các thuốc như sau:
Thuốc:
- Carbazochrome sodium sulfonate 25 mg (Adona 25 mg), tiêm tĩnh mạch 1 ống/ lần, mỗi
ngày 2-4 lần, hoặc
- Tranexamic acide 250 mg (Transamine 250 mg), tiêm bắp hoặc tĩnh mạch 1 ống/ lần, mỗi
ngày 2-4 lần.
- Toplexil, uống 1-2 viên, ngày 3 lần.
- Chlorpheniramine 4mg hoặc Diazepam 5 mg, tối uống một viên.
- Có thể dùng thêm: Sandostatin 0,05- 0,1 mg tiêm dưới da hoặc pha trong 500 ml NaCl
0,9%, truyền tĩnh mạch.
4. Ho Ra Máu Nặng (Nhưng Khạc Ra Được, Không Tắc nghẽn đường thở):
Thuốc:
- Carbazochrome sodium sulfonate 25 mg (Adona 25 mg), tiêm tĩnh mạch 1 ống/ lần, mỗi
ngày 2-4 lần, hoặc:
- Tranexamic acide 250 mg (Transamine 250 mg), tiêm bắp hoặc tĩnh mạch 1 ống/ lần,
mỗi ngày 2-4 lần.
Truyền dịch, truyền máu bồi hoàn khối lượng tuần hoàn, điện giải:
- Dùng máu và các chất thay thế máu (các dịch cao phân tử, dịch điện giải, glucose). Bồi
hoàn điện giải chú ý Na,K.
- Bồi hoàn máu: truyền theo lượng máu mất, trung bình 250-750 ml, tùy trường hợp. Nên
ưu tiên truyền hồng cầu lắng.
- Bồi hoàn điện giải và máu không để người bệnh có nguy cơ trụy tuần hoàn, đảm bảo cho
người bệnh được an toàn trong những lần ho ra máu sau nếu có. Lượng dịch có thể từ 1-3
lít / 24 giờ, tùy trường hợp.
- Xử trí như ho ra máu nặng nhưng trước hết phải bảo đảm thông khí phế nang: hút thông
đường thở, đặt nội khí quản, mở khí quản, nếu cần thì chỉ định thông khí cơ học.
- Không dùng các thuốc chống ho, an thần khi đang có tình trạng tắc nghẽn.
- Thường do đứt, vỡ một mạch máu, phình mạch trong hang ở vùng phổi bị tổn thương.
- Bệnh nhân ho ra máu rất nhiều, tỉ lệ tử vong cao. Can thiệp như ho ra máu tắc nghẽn và
ho ra máu lượng nhiều.
- Chỉ định cho BN ho ra máu lượng nhiều hoặc tái phát nhiều lần.
- Hiệu quả cầm máu có thể đạt được 90%.
- Chỉ định trong ho ra máu lượng nhiều hoặc tái phát nhiều lần và tổn thương khu trú có
khả năng phẫu thuật.
Lao ngoài phổi là tổn thương lao nằm bên ngoài hai phổi.
Bao gồm các thể bệnh như : lao màng phổi, lao màng não, lao hạch, lao màng tim, lao ổ bụng,
lao xương khớp, lao niệu sinh dục, lao da, lao tai mủi họng, lao hốc mắt, lao phần mềm …
Lao ngoài phổi (LNP)có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Trẻ em dưới 2 tuổi có nguy cơ mắc lao toàn
thể như lao kê, lao màng não. LNP thường thứ phát sau lao sơ nhiễm. Nguyên nhân do vi khuẩn
lao người (M. tuberculosis), đôi khi cũng do vi khuẩn lao không điển hình (M.A). Trong tổng số
các LNP gặp 15% ở người HIV(-) và gặp nhiều hơn ở người HIV(+) với tỉ lệ 70%
Lao hệ thống thần kinh trung ương bao gồm ba thể lâm sàng là:
LMN chủ yếu do vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis gây ra, ở một số nước có thói quen
dung sử bò tươi có thể gặp vi trùng lao M. bovis, một số trường hợp đặc biệt có thể do vi trùng
lao không điển hình Mycobacterium Atypic.
●Trên thực nghiệm, Peron và cộng sự khi tiêm vi trùng lao vào động mạch cảnh thì không gây
được LMN, nhưng khi tiêm vi trùng lao vào khoang dưới nhện thì gây được LMN, do đó sự gây
bệnh cần có một cơ chế trung gian.
●LMN có thể xảy ra sớm sau xơ nhiễm lao thường gặp ở trẻ em trong 2-3 tháng đầu sau khi tiếp
xúc với nguồn lây. Khả năng mắc LMN giảm nhiều sau 3 tháng kể từ khi xuất hiện dị ứng lao.
Thời hạn kể từ khi chuyển dương tính đối với tuberculine đến khi có thể bị LMN là không quá 5
năm. Trên thực tế, đa số trường hợp này có thời gian từ 6 tháng đến 2 năm.
●LMN có thể xảy ra do tái nhiễm nội sinh. Từ các ổ lao RICH hình thành trong quá trình tiến
triển lao xơ nhiễm, các ổ lao xuất phát từ những nốt lao trong cơ thể, theo đường máu đến não
sát màng não là căn nguyên của LMN, ổ lao đã tái hoạt động vỡ vào khoang dưới nhện, ổ này
lớn dần trong não, tủy sống gieo rắc vi trùng lao gây LMN.
●LMN hình thành do tái nhiễm ngoại sinh, trên nền cơ thể bị suy giảm miễn dịch do nhiễm HIV,
dùng corticostroide kéo dài, bệnh luput…LMN xuất hiện cùng với lao kê do một nốt lao vỡ vào
vách tỉnh mạch màng não gây LMN.
●LMN tạo nên một xuất tiết đặc nhầy trải dài trên trục não từ cầu nhãn đi quanh và vào trong
dây thần kinh sọ đưa đến tình trạng viêm toàn màng não vùng đáy. Các đám rối màng mạch và
mạch máu lớn ở vùng giữa não hay động mạch cảnh trong bị các chất xuất tiết từ phản ứng viêm
làm tắc nghẽn mạch đưa đến nhồi máu não. Hiện tượng trướng nước não (Hydrocephalus) xuất
hiện là do tắc nghẽn bể đáy (basilar cisterns) hay các lỗ thông ở não đưa đến tăng áp lực sọ não
làm giãn não thất.
●Các u lao ở não được bao bọc bởi một vỏ u hạt cứng, có thể có hoại tử trung tâm, khu trú ở mô
não hay ở tủy sống, các u lao này gây ra triệu chứng thần kinh khu trú hay mất tri giác.
- Hội chứng màng não, biến đổi dịch não tủy nghĩ lao.
- X quang phổi có tổn thương lao.
- AFB(+)/đàm, dịch dạ dày, mủ hạch, mủ màng phổi.
- Lao cơ quan khác đã được chẩn đoán xác định.
- Khởi bệnh kéo dài > 7 ngày.
- Hội chứng màng não.
- Tiền căn lao cũ.
- DNT màu vàng, Đường/DNT < 50% so với đường huyết, Lymphocyte/DNT chiếm đa số.
- ADA / DNT ≥ 9 UI/L
- Rối loạn tri giác, dấu thần kinh khu trú.
3.Chẩn đoán phân biệt:
Viêm màng não do siêu vi, vi khuẩn, nấm candidas albican, nhiễm ký sinh trùng ở não,
áp xe não, u não, bệnh tâm thần.
Đối với người có HIV(+) cần phân biệt:
Viêm màng não do nấm Cryptococcus
Viêm não do Toxoplasma
V.Điều trị :
Phác đồ B1: 2RHZS/10RHE ở người lớn
Dựa trên các bằng chứng về hiệu quả và an toàn của thuốc corticosteroide trong điều trị lao, hiện
nay Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo dùng corticosteroide cho điều trị lao màng não. Đối với
lao màng tim, chỉ sử dụng trong một số trường hợp tràn dịch nhiều, nhanh tuỷ theo quyết định
lâm sàng.
Mục đích điều trị corticosteroide còn giúp giảm di chứng sớm
Sự thay đổi tâm trạng, lo lắng, trầm cảm có thể do corticosteroide nhưng
khó phân biệt với độc tính thần kinh của cycloserine khi điều trị trong phác đồ lao
kháng thuốc.
Khi điều trị lao màng não kháng thuốc cần lưu ý khả năng thấm qua hàng rào máu não
của các thuốc sau :
- Ngấm tốt : FQs, Pto, Cs, Lzd, Z, H
- Ngấm khi đang có phản ứng viêm : Km, S
- Ngấm kém : PAS, E
- Chưa có đủ bằng chứng : Cm, Cfz, Bdq, Dlm
Điều trị phối hợp :
Bù nước và điện giải: đa phần bệnh nhân lao màng não có rối loạn nước và điện giải do
hội chứng tiết ADH không thích hợp.
Kháng sinh chống bội nhiễm như viêm phổi, nhiễm trùng tiểu nhất là ở bệnh nhân lơ mơ
không tiếp xúc, hôn mê, liệt.
Hôn mê có chỉ định đặt nội khí quản để bảo vệ đường thở
Dùng Manitol 20% điều trị chống phù não với liều 10mg/kg/ 5ngày, có thể kéo dài thêm
vài ngày nếu tình trạng còn nặng, nhức đầu không giảm, co giật, hoặc nôn ói nhiều hơn.
Chăm sóc điều dưỡng tích cực, nhất là bệnh nhân ở độ II, III (hôn mê, liệt vận động):
- Chống loét, xoay trở thường xuyên.
- Nuôi ăn qua thông dạ dày đối bệnh nhân ở độ II, III hàng ngày.
- Vệ sinh răng miệng, cơ thể hàng ngày.
- Tập phục hồi chức năng sớm đối người yếu liệt chi.
I.Lâm sàng:
- Triệu chứng nhiễm lao chung: ho, sốt về chiều, ăn uống kém, mệt mỏi, sụt cân.
- Triệu chứng cơ năng: Đôi khi không khó thở chỉ có cảm giác nặng ngực, khó thở từ nhẹ
đến nặng, đau nhức vai hoặc vùng xương sườn tương ứng bên tràn dịch.
- Triệu chứng thực thể: khó thở đôi khi phải ngồi mới dễ thở, âm phế bào giảm, hội chứng
3 giảm bên phổi tràn dịch.
Thể lâm sàng lao màng phổi (LMP):
- Điển hình: LMP có tràn dịch màng phổi tự do, khó thở tăng dần, khám hội chứng 3 giảm, dịch
màng phổi màu vàng dịch tiết – lympho chiếm ưu thế.
Tràn dịch khu trú: rãnh liên thùy, vùng nách, trung thất, trên cơ hoành.
LMP thể khô: tiếng cọ màng phổi
Tràn dịch, tràn khí màng phổi: HC 3 giảm thấp, HC tràn khí ở vùng cao.
LMP phối hợp lao phổi.
Lao đa màng: TDMP- TDMB, TDMT, TDMP 2 bên
II.Cận lâm sàng:
- TDMP ác tính: Dịch màu đỏ, có tế bào K trong dịch, chụp CT Scan ngực gợi ý tổn
thương u ác tính ở phổi, u trung thất, soi phế quản, soi màng phổi sinh thiết có giá tri
chẩn đoán.
- TDMP do vi khuẩn gây mủ màng phổi, cấy mủ có vi khuẩn
- TDMP phản ứng của viêm phổi, nhồi máu phổi, áp xe gan (bên phải)
- Tràn dịch dưỡng chấp màng phổi, nồng độ triglyceride/DMP > 110mg/dL
- Ngoài phổi: Suy tim, HC thận hư, xơ gan, HC Demoins Meigs (u nang buồng trứng gây
TDMP), viêm tụy cấp hay mạn gây TDMP có Amylase tăng cao trong DMP hơn là trong
huyết thanh.
- TDMP trong bệnh hệ thống: Lupus ban đỏ rải rác, viêm khớp dạng thấp, HC collagen
- Tại Việt Nam: TDMP dịch tiết, màu vàng chanh, không xác định được các nguyên
nhân khác nên được chẩn đoán như là TDMP do lao.
IV.Điều trị và theo dõi :
Xử lý cấp cứu: chọc tháo dịch màng phổi khi bệnh nhân có khó thở, tức ngực nhiều.
Điều trị thuốc kháng lao theo hướng dẫn Chương Trình Chống Lao Quốc Gia.
Tập thở thổi bong bóng, phục hồi chức năng phổi
Hút dịch màng phổi: chọc hút dịch sớm 1- 2 lần, mỗi lần không nên quá 700ml vì hút
nhiều có thể gây shock tim, phù phổi cấp.
Tái khám sau thời gian điều trị khoảng 1 tháng
Can thiệp ngoại khoa :
- Khi LMP biến chứng ổ cặn, rò màng phổi thành ngực, rò màng phổi phế quản:
- Can thiệp qua nội soi (VATS: video-assisted thoracosopy) phá các vách ngăn fibrin làm
cho việc dẫn lưu khoang màng phổi không hiệu quả.
- Bóc vỏ màng phổi trong trường hợp có sự hiện diện vỏ màng phổi trên 4- 6 tuần, có sự
suy giảm chức năng hô hấp và nhu mô phổi bị ép bởi lớp vỏ màng phổi.
- Mở cửa sổ màng phổi được thực hiện trên ổ cặn màng phổi và tình trạng bệnh nhân
không đảm bảo cho phẫu thuật bóc tách màng phổi.
I.Lâm sàng:
Triệu chứng nhiễm lao chung: ho, sốt về chiều, ăn uống kém, mệt mỏi, sụt cân.
Triệu chứng cơ năng: ho, đau ngực, nặng tức ngực, cảm giác chèn ép tim, hồi hộp đánh
trống ngực. Cảm giác mệt khó thở , triệu chứng sẽ nặng lên khi bệnh nhân nằm ngữa và
thuyên giảm khi bệnh nhân ngồi thẳng đứng hay chồm người ra phía trước.
Triệu chứng thực thể:
- Nhịp tim nhanh, mạch nghịch, tiếng tim mờ, tiếng cọ màng tim, tĩnh mạch cổ nổi.
- Áp lực mạch hẹp (HA kẹp)
- Dấu hiệu phản hồi gan- tĩnh mạch cổ dương tính
- Khó thở từ nhẹ đến nặng.
- Gan to, báng bụng
- Mạch ngoại biên giảm, phù chi, xanh tím
II.Cận lâm sàng:
- X quang lồng ngực: thường có bóng tim to (tim có hình bầu nước). Để có thấy
hình bóng tim trên XQ ngực dịch khoang màng tim từ 250-500ml, 1/3 TDMT có
TDMP phối hợp( TDMP 1 bên hay 2 bên), có thể thấy thâm nhiễm ở phổi.
- ECG: điện thế thấp, so le điện thế, đoạn ST chênh lên, nhip nhanh, thay đổi ST-T
không đặc hiệu…
- SÂ tim: được xem là phương tiện chẩn đoán tràn dich màng tim tiêu chuẩn, xác
định mức độ TDMT, tình trạng chèn ép tim, đo độ dày màng ngoài tim. TDMT
được gọi là nhiều khi bề dày lớp dịch > 1 cm ở tất cả các khoang và TDMT lượng
ít khi chiều dày dưới < 1 cm.
Xét nghiệm dịch:
- Chọc dò màng ngoài tim (dưới sự hướng dẫn của siêu âm) có kết quả là dịch tiết,
tăng protein với tế bào lympho chiếm ưu thế.
- Dịch khoang màng tim là dịch tiết khi:
Tỉ lệ protein DMT/ protein HT > 0,5
Tỉ lệ LDH DMT/ LDH huyết tương > 0,6
LDH DMT lớn hơn 2/3 giá trị trên của LDH huyết tương bình thường.
- Tìm thấy VK lao trong DMT bằng phương pháp nhuộm soi trực tiếp và cấy Mgit,
LPA đa kháng, Xpert/Rif, PCR lao cho kết quả dương tính.
- Xét nghiệm ADA trong dịch màng tim tăng có giá trị chẩn đoán (> 40UI/ml)
III.Điều trị và theo dõi:
Xử lý cấp cứu khi có dấu hiệu chèn ép tim cấp bằng cách chọc tháo dịch màng ngoài tim với sự
hướng dẫn của siêu âm.
Các dấu hiệu chèn ép tim cấp:
I.Tổng quan :
LMB là bệnh cảnh nằm trong lao hệ thống tiêu hóa có chiều hướng tăng lên theo đại dịch
HIV/AIDS, cao gấp 30-40 lần so với người HIV(-), đứng hàng thứ 6 sau lao phổi, màng phổi,
xương khớp, não và hạch.
Đường lây truyền của VK lao đối với lao màng bụng:
Từ hạch mạc treo ruột bị lao: vi khuẩn lan tràn theo đường bạch huyết tới màng bụng.
Đường máu: do lao tản mạn đường máu trong giai đoạn lan tỏa nên nhiều thanh mạc
nhiễm lao như màng phổi, màng bụng, màng tim.
Đường tiếp cận: từ một ổ lao ở ruột, ở ống vòi trứng, vòi Fallope, buồng trứng… vi
khuẩn lao tới màng bụng.
II.Lâm sàng:
- Triệu chứng nhiễm lao chung: ho, sốt nhẹ về chiều, ăn uống kém, mệt mỏi, gầy sút, suy
kiệt.
- Triệu chứng cơ năng: chán ăn, đầy bụng, khó tiêu, đau bụng âm ỉ, chướng hơi, sôi bụng,
vị trí đau không rõ ràng, đi cầu phân lỏng, đôi khi táo bón, triệu chứng bán tắc và tắc ruột
- Triệu chứng thực thể: có cổ trướng, không có tuần hoàn bàng hệ, gan lách không to
nhưng có thể sờ thấy những mảng chắc, rải rác khắp bụng, xen kẽ vùng mềm.
- Triệu chứng của lao cơ quan khác phối hợp như hạch cổ, tràn dịch màng phổi, tràn dịch
màng tim…
Thể cổ trướng tự do: màng bụng viêm đỏ, phù nề, xuất tiết nhanh lượng dịch trong ổ
bụng tăng dần và nhiều, sau đó dịch giảm dần.
Thể loét bã đậu: các củ lao dính với nhau thành đám bã đậu hóa, rồi nhuyễn hóa tao nên
áp xe lạnh, có thể dò ra ngoài da hoặc vào ruột.
Thể xơ dính: tổ chức xơ và dính phát triển ở màng bụng gây nên co kéo và dính các tạng
thành từng đám gồm các mạch máu, mạc treo, ruột…
- X quang phổi có thể thấy tổn thương lao phổi kết hợp hay kèm theo tràn dịch màng phổi
– màng tim.
- Siêu âm bụng phát hiện mức độ tràn dịch, đặc biệt trong trường hợp dịch báng ít, giúp
định vị chọc dò và sinh thiết màng bụng, siêu âm thấy dịch bị đóng vách ngăn hoặc nằm
tự do trong ổ bụng, dầy phúc mạc và dính các quai ruột vào nhau hoặc dính vào thành
bụng, hạch ổ bụng, phân biệt với những khối u ổ bụng.
- Sinh thiết mù màng bụng hoăc sinh thiết qua nội soi ổ bụng làm giải phẫu bệnh thấy nang
lao, nội soi ổ bụng thấy các hạt lao như kê trên phúc mạc thành và phúc mạc tạng, trắng
đục rải rác hoặc tụ lại thành đám dính che lấp các tạng
- Nội soi dạ dày, nội soi đại tràng thấy tổn thương lao là các vết loét lớn, hình oval, hình
nón bờ nổi rõ. Sinh thiết làm giải phẩu bệnh phát hiện lao manh tràng, lao đại tràng, nội
soi để loại trừ các trường hợp bệnh lý ác tính đường tiêu hóa.
- Chụp CT Scan ổ bụng cho thấy mức độ và vị trí tràn dịch, các vách ngăn dầy dính, co kéo
các tạng trong ổ bụng và các quai ruột. chẩn đoán phân biệt các khối u trong ổ bụng nghi
ác tính.
IV.Điều trị và theo dõi :
- Xử lý cấp cứu khi báng bụng nhiều chèn ép gây khó thở, bệnh nhân cần được chọc tháo
dịch giải áp.
- Điều trị thuốc kháng lao theo Chương Trình Chống Lao Quốc gia.
- Sau thời gian điều trị tấn công nếu tình trạng lâm sàng cải thiện chậm, bệnh nhân vẫn còn
đau bụng nhiều hay âm ỉ, dịch cổ trướng giảm ít, khi đó thời gian tấn công sẽ kéo dài
thêm từ 1-2 tháng, sau đó chuyển giai đoạn củng cố.
- Điều trị triệu chứng: giảm kích thích niêm mạc ruột, điều chỉnh đi cầu, chống táo bón, tiết
chế ăn uống, giảm mỡ béo, chống tiêu chảy.
- Theo dõi và phát hiện các trường hợp bán tắc hoặc tắc ruột, thủng ruột, lồng ruột để kịp
thời can thiệp ngoại khoa
Trắng Uống
5 (4-6)
Isoniazid
Tối đa 300mg
Lưu ý : Thuốc viên tổng hợp thường dùng trên lâm sàng
1.Các yếu tố nguy cơ làm tăng tần suất xuất hiện ADR ở người bệnh lao:
- Phác đồ điều trị kéo dài, sử dụng nhiều thuốc đồng thời, mở rộng các phác đồ lao đa
kháng thuốc.
- Tỷ lệ bệnh mắc kèm (HIV, viêm gan nghiện rượu, đái tháo đường)
- Người bệnh không tuân thủ điều trị, thói quen tự ý dùng thuốc của người bệnh, hiểu biết
và kinh nghiệm hạn chế của Cán bộ Y tế.
- Lớn tuổi tăng nguy cơ tổn thương gan, thận, uống nhiều rượu và nghiện rượu làm tăng
tổn thương gan…..
- Tình trạng dinh dưỡng, suy dinh dưỡng đặc biệt thiếu vitamin B1 làm tăng tác dụng của
thuốc lao với thần kinh ngoại vi.
- Nhiễm vi rút như viêm gan, HIV, CMV, EBV… làm tăng nguy cơ gây ra các phản ứng dị
ứng chậm với thuốc, tổn thương gan.
2.Người bệnh lao có tổn thương gan do thuốc lao :
Theo dõi thường quy các chỉ số men gan cơ bản:
- Ở bệnh nhân < 35 tuổi nếu có các chỉ số men gan bình thường và không có tiền
sử bệnh gan : không yêu cầu bắt buộc theo dõi các chỉ số men gan định kỳ mỗi 4 -
6 tuần, trừ khi bệnh nhân có triệu chứng biểu hiện.
- Ở bệnh nhân > 35 tuổi, bệnh nhân uống rượu hàng ngày, có chỉ số men gan
không bình thường hoặc có tiền sử bệnh gan: cần theo dõi các chỉ số men gan
định kỳ mỗi 4-6 tuần.
a) Nguyên nhân :
INH+Rifampicin > INH >> Pyrazinamid > Rifampicin > Ethionamide.
Lưu ý : Đứng trước một bệnh nhân đang điều trị thuốc lao có vàng da, vàng mắt; ta cần :
Xác định nguyên nhân vàng da trước gan, tại gan hay sau gan ?
Xử trí dựa trên mức độ tăng men gan
Điều trị cho ổn định chức năng gan trước khi test tìm xem thuốc nào gây tăng men gan.
Tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch sử dụng :
Vg5 là thuốc hạ men gan tuy nhiên chỉ giúp hỗ trợ một phần nhưng phải phối hợp
Bộ ba giải độc gan bao gồm :
Glucose 5% 500ml 2 chai
Cevita (Vitamin C) 0,5g 2 ống x 2 TTM L giọt
Chlorpheniramine (kháng histamine)
Test thuốc với liều đủ ngay từ đầu theo thứ tự nguyên nhân, nhưng thường sẽ test
Rifampicin trước vì thuốc này vừa làm tăng men gan, vừa làm tăng bilirubin
- Triệu chứng: chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, đau bụng, đau hạ sườn phải,
vàng da, vàng mắt.
- Dấu hiệu: gan to, tăng men gan
c) Xử trí :
- Ngừng sử dụng thuốc lao, điều trị hỗ trợ chức năng gan cho đến khi men gan về
bình thường, hết vàng da. Cần theo dõi triệu chứng nặng liên quan đến suy gan.
- Nếu chức năng gan không cải thiện hoặc tiến triển nặng hơn, cần chuyển đến
cơ sở chuyên khoa để điều trị.
- Chẩn đoán phân biệt với viêm gan viruts A, B, C…., viêm gan tự miễn và bệnh
lý đường mật, các yếu tố tiềm tàng làm tăng nguy cơ độc tính trên gan, ví dụ: lạm
dụng rượu, tiền sử sử dụng các thuốc có độc tính với gan.
Cân nhắc hướng xử trí dựa trên triệu chứng nhiễm độc gan và tăng men gan với
các mức độ sau :
Men gan tăng nhỏ hơn 5 lần giới hạn trên bình thường không kèm triệu chứng
lâm sàng (đã loại trừ căn nguyên khác và /hoặc không có bệnh gan từ trước,
không có tiền sử lạm dụng rượu hoặc các thuốc gây độc tế bào gan):
Có thể xảy ra trong các tuần điều trị đầu tiên.
Điều trị hỗ trợ chức năng gan. Có thể không cần phải ngừng thuốc hoặc thay đổi
điều trị vì men gan có thể tự trở lại mức bình thường. Nếu duy trì sử dụng thuốc
chống lao cần phải theo dõi chặt chẽ, phát hiện các dấu hiệu gợi ý sớm trên lâm
sàng (mệt mỏi, suy nhược, chán ăn, buồn nôn, đau bụng), xét nghiệm đánh giá
chức năng gan sau 3 - 5 ngày.
Men gan tăng lớn hơn 5 lần và dưới 10 lần giới hạn trên bình thường (có kèm
hoặc không kèm triệu chứng lâm sàng) hoặc lớn hơn 2,5 lần giới hạn trên bình
thường có kèm triệu chứng lâm sàng:
Cân nhắc ngừng toàn bộ hoặc một số thuốc lao gây độc cho tế bào gan gồm
rifampicin, isoniazid, pyrazinamid, điều trị hỗ trợ chức năng gan tích cực, đánh
giá tình trạng lâm sàng chi tiết và toàn diện, xác định các yếu tố tiên lượng xấu:
tăng bilirubin và rối loạn các yếu tố đông máu (định lượng fibrinogen và tỷ lệ
prothrompin).
Men gan tăng lớn hơn 10 lần giới hạn trên bình thường:
Cần phải ngừng toàn bộ thuốc lao, bệnh nhân được điều trị tích cực tại bệnh
viện, cần kết hợp với chuyên khoa tiêu hóa. Nếu bilirubin toàn phần trong máu
huyết thanh tăng kèm triệu chứng lâm sàng nặng, cần xem xét mức độ can thiệp
hoặc điều trị bằng thuốc, sử dụng biện pháp thay huyết tương, điều trị hỗ trợ gan
tích cực ở bệnh nhân suy gan cấp nặng (Bilirubin toàn phần > 250 µmol/l).
Đánh giá lâm sàng chi tiết và toàn diện, xem xét các yếu tố tiên lượng xấu: tăng
bilirubin và rối loạn các yếu tố đông máu (định lượng fibrinogen và tỷ lệ
prothrombin)
Giải mẫn cảm chỉ nên cân nhắc sau khi đánh giá giữa yếu tố nguy cơ/ lợi ích và đặc biệt lưu ý
yếu tố cá thể trên từng người bệnh.
Chỉ định:
Thuốc gây dị ứng là thuốc không thể thay thế bằng thuốc khác trong quá trình
điều trị (điều trị đặc hiệu), thường là R,H và E
Thuốc gây dị ứng là thuốc có hiệu quả tốt nhất cho lựa chọn liệu pháp điều trị
(first line) ví dụ: Thuốc điều trị lao, Cotrimoxazol cho bệnh nhân HIV).
Chống chỉ định:
Bệnh nhân có nguy cơ cao bệnh phối hợp : Hen phế quản (FEV1<70%), tiền
sử shock phản vệ nặng và bệnh gan thận nặng.
Chống chỉ định tuyệt đối ở bệnh nhân nặng, phản ứng độc tế bào miễn dịch
nặng hoặc đe dọa mạng sống (hội chứng Steven - Jhonson), hội chứng Lyell,
Dress.
- Chữa lành bệnh nhân và đem lại chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
- Tránh tử vong trong các trường hợp lao tiến triển hay các biến chứng của lao gây nên.
- Tránh tái phát lao.
- Giảm lây truyền lao cho những người khác
- Ngăn chặn phát triển và giảm lây truyền lao kháng thuốc.
3.Xét nghiệm cần làm khi quyết định điều trị lao :
- Xét nghiệm:
TPTTBM, Glycemie
AST, ALT, bilirubin tp/tt
Ure, Creatinin
HIV
- Khám thị giác và thính giác
- Tìm hiểu thuốc bn đang dùng
- Phát hiện các bệnh lý đi kèm
- Phát hiện các dị ứng
“Phác đồ cần có ít nhất 5 thuốc có hiệu lực, bao gồm 4 thuốc lao hàng hai chủ đạo (1
thuốc nhóm A, 1 thuốc nhóm B, ít nhất 2 thuốc nhóm C) và Pyrazinamid. Trường hợp
không có đủ các thuốc có hiệu lực để xây dựng phác đồ như trên, có thể sử dụng các
thuốc nhóm D2, D3 để đảm bảo đủ 5 loại thuốc”
Khi bệnh nhân có kháng với thuốc FQs (nhóm A) hoặc thuốc tiêm hàng hai (nhóm B),
cần thay thế thuốc khác, tuy nhiên vẫn theo nguyên tắc như đối với bệnh nhân kháng
R/MDR-TB
- Tiêu chuẩn thu nhận: Lao phổi kháng R, chưa có tiền sử dùng thuốc lao hàng hai có trong
phác đồ hoặc dùng dưới 1 tháng.
Thời điểm chỉ định: Ngay sau khi phát hiện kháng R trong thời gian chờ kết quả
Hain hàng hai. Quyết định điều trị tiếp tục hoặc chuyển phác đồ căn cứ vào kết
quả Hain hàng hai.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
Có bằng chứng kháng hoặc không có hiệu lực với 1 thuốc trong phác đồ (trừ H)
Có thai hoặc cho con bú
Người mẫn cảm với bất kỳ thuốc nào trong phác đồ, không dung nạp thuốc hoặc
có nguy cơ ngộ độc thuốc (tương tác thuốc)
Lao ngoài phổi
Bệnh nhân có khoảng QTc ≥ 500 ms trên điện tâm đồ
Bệnh nhân có men gan cao gấp 3-4 lần mức bình thường
(SGOT, SGPT: 120 - 160U/L, AST/ALT: 60 - 120 UI/L)
Bệnh nhân bị viêm dây thần kinh thị giác và thần kinh ngoại vi
Phác đồ chuẩn 20 tháng :
- Lao phổi kháng R đã có tiền sử dùng thuốc lao hàng hai (trừ phụ nữ có thai)
- Lao ngoài phổi (trừ lao màng não) kháng R/MDR-TB.
- Hướng dẫn:
Người lớn: Isoniazid (INH) liều dùng 300 mg/ngày, uống một lần hàng ngày
trong 9 tháng, phối hợp Vitamin B6 liều lượng 25mg hàng ngày.
Trẻ em: Isoniazid (INH) liều dùng 10 mg/kg/ngày, uống một lần vào một giờ nhất
định (thường uống trước bữa ăn 1 giờ), uống hàng ngày trong 6 tháng (tổng số
180 liều INH).
- Chỉ định:
Tất cả những người nhiễm HIV (người lớn) đã được sàng lọc hiện không mắc
bệnh lao.
Trẻ em dưới 5 tuổi và trẻ 0-14 tuổi có HIV sống cùng nhà với người bệnh lao
phổi, những trẻ này được xác định không mắc lao.
III.Điều trị lao cho những trường hợp đặc biệt :
- Sử dụng phác đồ điều trị 2RHZE/4RHE, không dùng Streptomycin vì có khả năng độc
cho tai thai nhi.
- Nên dùng vitamin B6 liều 25mg hàng ngày nếu có dùng INH
- Kháng thuốc cần lưu ý thêm :
Trì hoãn thuốc tiêm trong thai kì (Aminoglycoside…). Bất khả kháng thì có thể
dùng Capreomycin cách nhật
Ngay sau sinh lại phải dùng thuốc tiêm
Tránh dùng Ethionamide / Prothioamid làm tăng nôn, buồn nôn
2.Đang dùng thuốc tránh thai :
- Rifampicin tương tác với thuốc tránh thai, làm giảm tác dụng của thuốc tránh thai.
- Vì vậy nếu phụ nữ đang uống thuốc tránh thai điều trị lao bằng phác đồ có có Rifampicin
có thể chọn một trong hai giải pháp: hoặc dùng thuốc tránh thai có chứa liều lượng
Estrogen cao hơn hoặc dùng biện pháp tránh thai khác.
3.Người bệnh lao có bệnh lý gan :
a) Nếu người bệnh có tổn thương gan nặng từ trước
- Phải được điều trị nội trú tại bệnh viện và theo dõi chức năng gan trước và trong quá trình
điều trị.
- Phác đồ điều trị sẽ do bác sĩ chuyên khoa quyết định tuỳ khả năng dung nạp thuốc của
người bệnh.
- Sau khi người bệnh dung nạp thuốc tốt, men gan không tăng và có đáp ứng tốt về lâm
sàng, có thể chuyển điều trị ngoại trú và theo dõi sát.
- Bệnh nhân có bệnh lao và đồng thời bệnh viêm gan cấp tính (ví dụ như viêm gan siêu vi
cấp tính) không liên quan đến lao hoặc điều trị lao. Đánh giá lâm sàng là cần thiết trong
việc đưa ra quyết định điều trị. Trong một số trường hợp có thể trì hoãn việc điều trị lao
cho đến khi bệnh viêm gan cấp tính đã điều trị ổn định.
- Trong trường hợp cần thiết phải điều trị bệnh lao trong viêm gan cấp tính, viêm gan
không ổn định hoặc tiến triển (có men gan cao gấp 3 lần mức ban đầu), có thể cân nhắc
một trong các lựa chọn sau đây tùy thuộc vào mức độ tiến triển. Mức độ tiến triển càng
nặng thì phác đồ lựa chọn cần sử dụng càng ít thuốc độc với gan.
Các lựa chọn có thể như sau:
Giảm còn 2 thuốc (thay vì 3 thuốc độc với gan) :
9 HRE
2 HRSE/6 RH
6-9 RZE
Chỉ sử dụng 1 thuốc độc với gan: 2 HES/10 HE
Không sử dụng thuốc độc với gan: 18-24 SE FQs
b) Trường hợp người bệnh được xác định có tổn thương gan do thuốc lao:
- Ngừng sử dụng những thuốc lao gây độc cho gan, xem xét sử dụng thuốc fluroquinolones
nếu việc điều trị lao cần thiết, điều trị hỗ trợ chức năng gan cho đến khi men gan về bình
thường, hết vàng da. Cần theo dõi lâm sàng và men gan.
- Nếu không đáp ứng hoặc có biểu hiện viêm gan do thuốc, chuyển đến cơ sở chuyên khoa
để điều trị.
4.Người bệnh lao có bệnh lý thận :
- Phác đồ 2RHZ/4RH có thể áp dụng điều trị lao cho người bệnh suy thận. Các loại thuốc
đầu tay (rifampicin, isoniazid, pyrazinamid) và ethionamide, prothionamide hoàn toàn
chuyển hóa qua gan, có thể được sử dụng một cách an toàn với liều bình thường ở những
a) Đối với bệnh nhân suy thận nặng, chạy thận nhân tạo:
- Trong suy thận nặng hiệu chỉnh liều thuốc lao điều trị là cần thiết được tính theo độ thanh
thải của creatinin.
- Isoniazid đôi khi gây ra bệnh não ở những bệnh nhân có suy thận và trong những ngày
chạy thận (bổ sung điều trị pyridoxine ngăn chặn bệnh thần kinh ngoại vi).
b) Trường hợp bệnh lao nặng nguy cơ cao, đe dọa tính mạng:
- Lựa chọn lợi ích và nguy cơ, có thể lựa chọn Streptomycin và ethambutol điều chỉnh liều
là cần thiết trong suy thận, liều điều trị được tính theo độ thanh thải của creatinin.
- Trong trường hợp cần thiết phải điều trị lao đa kháng, việc dùng thuốc chống lao hàng 2
cho bệnh nhân suy thận phải hết sức chú ý liều lượng và thời gian giữa các liều
Các thuốc chống lao có tác dụng tốt với bệnh lao ở người bệnh lao/HIV. Điều trị lao cho người
bệnh HIV/AIDS nói chung không khác biệt so với người bệnh không nhiễm HIV/AIDS. Khi
điều trị cần lưu ý một số điểm sau:
- Tiến hành điều trị lao sớm ở người HIV có chẩn đoán lao.
- Phối hợp điều trị thuốc chống lao với điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội khác bằng
Cotrimoxazol và ARV càng sớm càng tốt, ngay sau khi người bệnh dung nạp thuốc
chống lao (sau 2 tuần đầu tiên).
Trong quá trình điều trị người bệnh cần được theo dõi như sau:
- Người bệnh cần được theo dõi kiểm soát việc dùng thuốc.
- Theo dõi đánh giá đáp ứng lâm sàng, X-quang và tác dụng phụ của thuốc. Đối với trẻ em
phải cân hàng tháng để điều chỉnh liều thuốc theo cân nặng.
- Xét nghiệm đờm theo dõi: người bệnh lao phổi cần phải xét nghiệm đờm theo dõi 3 lần
Phác đồ 6 tháng: xét nghiệm đờm vào cuối tháng thứ 2, 5 và 6.
Phác đồ 8 tháng: xét nghiệm đờm vào cuối tháng thứ 3, 5,7 (hoặc 8).
- Khỏi: người bệnh lao phổi có bằng chứng vi khuẩn học tại thời điểm bắt đầu điều trị, có
kết quả xét nghiệm đờm trực tiếp hoặc nuôi cấy âm tính tháng cuối của quá trình điều trị
và ít nhất 1 lần trước đó.
- Hoàn thành điều trị: người bệnh lao hoàn thành liệu trình điều trị, không có bằng chứng
thất bại, nhưng cũng không có xét nghiệm đờm trực tiếp hoặc nuôi cấy âm tính vào tháng
cuối của quá trình điều trị và ít nhất 1 lần trước đó, bất kể không làm xét nghiệm hay
không có kết quả xét nghiệm.
- Thất bại: người bệnh lao có kết quả xét nghiệm đờm trực tiếp hoặc nuôi cấy dương tính
từ tháng thứ 5 trở đi của quá trình điều trị.
- Chết: người bệnh lao chết do bất cứ nguyên nhân gì trước hoặc trong quá trình điều trị
lao.
- Không theo dõi được (bỏ): người bệnh lao ngừng điều trị liên tục từ 2 tháng trở lên.
- Không đánh giá: người bệnh lao không được đánh giá kết quả điều trị. Bao gồm các
trường hợp chuyển tới đơn vị điều trị khác và không có phản hồi kết quả điều trị, cũng
như các trường hợp đơn vị báo cáo không biết kết quả điều trị của bệnh nhân.
- Điều trị thành công: tổng số khỏi và hoàn thành điều trị.
- Khỏi: Hoàn thành liệu trình điều trị và không có bằng chứng thất bại, đồng thời có ít nhất
2 mẫu nuôi cấy âm tính liên tiếp cách nhau ít nhất 30 ngày ở cuối giai đoạn duy trì.
- Khỏi: hoàn thành liệu trình theo hướng dẫn của CTCLQG và không có dấu hiệu thất bại,
đồng thời có 3 mẫu nuôi cấy âm tính liên tiếp cách nhau ít nhất 30 ngày trong giai đoạn
duy trì.
- Hoàn thành điều trị: hoàn thành liệu trình theo hướng dẫn của CTCLQG và không có
dấu hiệu thất bại, tuy nhiên không đầy đủ bằng chứng về 3 mẫu nuôi cấy âm tính liên tiếp
cách nhau ít nhất 30 ngày trong giai đoạn duy trì.
- Thất bại: Ngừng điều trị hoặc thay đổi vĩnh viễn ít nhất 2 thuốc chống lao trong công
thức điều trị vì các lý do:
Không âm hóa vào cuối giai đoạn tấn công (*) hoặc,
Dương tính trở lại trong giai đoạn duy trì sau khi đã âm hóa (**) hoặc,
Có bằng chứng kháng thêm với fluoroquinolon hoặc thuốc tiêm hàng hai, hoặc,
Có phản ứng bất lợi của thuốc (ADRs).
- Chết: người bệnh chết do bất cứ nguyên nhân nào trong quá trình điều trị lao kháng
thuốc.
- Không theo dõi đƣợc: người bệnh ngừng điều trị liên tục từ 2 tháng trở lên do bất cứ lý
do gì.
- Không đánh giá: người bệnh không được đánh giá kết quả điều trị (bao gồm cả
các trường hợp chuyển đến đơn vị điều trị khác và các trường hợp không biết kết
quả điều trị)
- Điều trị thành công: tổng cộng của khỏi và hoàn thành điều trị
(*) Âm hóa nuôi cấy: có ít nhất 2 mẫu nuôi cấy âm tính liên tiếp (cách nhau ít nhất
30 ngày).
(**) Dương tính trở lại: có ít nhất 2 mẫu nuôi cấy dương tính liên tiếp (cách nhau ít
nhất 30 ngày) sau khi đã âm hóa. Chỉ sử dụng để kết luận là thất bại nếu dương
tính trở lại trong giai đoạn duy trì.
Trong nghiên cứu sinh bệnh học bệnh lao những năm gần đây người ta đưa ra khái niệm về “thời
gian nguy hiểm” của nguồn lây. Đó là thời gian từ lúc người bệnh có triệu chứng lâm sàng
(hay gặp là kho khạc đàm) đến khi được phát hiện và điều trị.
- Thời gian nguy hiểm càng dài thì sự lây truyền bệnh lao trong cộng đồng càng tăng. Khi
bệnh nhân mới được phát hiện và điều trị lao thì các triệu chứng lâm sàng hết rất nhanh
(trung bình 1 – 2 tuần), trong đó có triệu chứng ho khạc đàm, tức là người bệnh giảm
nhiễm khuẩn ra môi trường xung quanh.
- Do đó để dự phòng được bệnh lao trong cộng đồng nghĩa là phải rút ngắn “thời gian nguy
hiểm” để giảm sự lây lan bệnh lao bằng cách giải quyết được nguốn lây và bảo vệ cơ thể
khỏi bị lây bệnh.
- Bình thường sau 2 tháng điều trị lao tốt thì người bệnh không còn khả năng lây nhiễm
nữa nhưng vi trùng lao vẫn còn tồn tại trong cơ thể nên cần được tiếp tục điều trị theo
phác đồ.
Nguồn lây : Những người tiếp xúc với nguồn lây nhất là nguồn lây chính dễ có nguy cơ
bị bệnh. Trẻ em càng nhỏ tiếp xúc với nguồn lây càng dễ bị bệnh hơn. Nhất là những trẻ
chưa tiêm phòng BCG.
Một số bệnh tạo điều kiện thuận lợi dễ mắc bệnh lao :
- Trẻ em: Suy dinh dưỡng, còi xương, giảm sức đề kháng của cơ thể là điều kiện
thuận lợi mắc bệnh lao.
- Người lớn: Một số bệnh tạo điều kiện cho bệnh lao dễ phát sinh và phát triển như
bệnh đái tháo đường, bệnh bụi phổi, bệnh loét dạ dày - tá tràng ...
- Đại dịch HIV/AIDS là một trong những nguyên nhân làm cho bệnh lao “quay trở
lại”. HIV đã tấn công vào tế bào TCD4, là tế bào đóng vai trò quan trọng trong
đáp ứng miễn dịch của cơ thể chống lại vi khuẩn lao.
- Phụ nữ ở thời kỳ thai nghén: Bệnh lao dễ phát sinh và phát triển trong 3 tháng đầu
của thời kỳ thai nghén và sau đẻ. Điều này được giải thích do thay đổi nội tiết của
cơ thể mẹ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển.
- Các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới bệnh lao
- Yếu tố cơ địa
III.Mục đích dự phòng bệnh lao :
Phòng bệnh lao là áp dụng các biện pháp nhằm:
Giảm đậm độ các hạt nhiễm khuẩn trong không khí bằng thông gió tốt :
- Cửa đi và cửa sổ của buồng khám, khu chờ và buồng bệnh cần được mở cho
thông gió tự nhiên hoặc dùng quạt điện đúng chiều để làm loãng các hạt nhiễm
khuẩn và đẩy vi khuẩn ra ngoài, dưới ánh nắng mặt trời vi khuẩn lao sẽ dễ bị tiêu
diệt.
- Bố trí vị trí làm việc hợp lý theo chiều thông gió: Không để không khí đi từ người
bệnh đến cán bộ y tế.
- Lấy đờm xét nghiệm đúng nơi quy định, tốt nhất là ngoài trời, môi trường thông
thoáng. Nếu không, cần ở nơi có thông gió tốt, ít khả năng tiếp xúc của nhân viên
y tế và những người khác. Không nên đặt nơi lấy đờm ở những phòng nhỏ đóng
kín hoặc nhà vệ sinh.
Thay đổi hành vi của người bệnh (vệ sinh hô hấp) nhằm làm giảm các hạt nhiễm khuẩn ra
môi trường :
- Dùng khẩu trang hoặc ít nhất có khăn che miệng khi tiếp xúc nói chuyện với
người khác (cán bộ y tế), khi hắt hơi, ho.
- Khạc đờm vào giấy hoặc ca cốc, bỏ đúng nơi quy định, rửa tay xà phòng thường
xuyên.
- Vệ sinh nhà cửa, thoáng mát, đầy đủ ánh sáng .
Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân cho nhân viên y tế:
- Khẩu trang thông thường ít có tác dụng bảo vệ nhiễm vi khuẩn lao. Những nơi có
nguy cơ lây nhiễm cao cần dùng khẩu trang đạt chuẩn như loại N95 hoặc tương
đương trở lên.
Giảm tiếp xúc nguồn lây:
- Cách ly: Nên có nơi chăm sóc điều trị riêng cho người bệnh lao phổi AFB(+), đặc
biệt với lao phổi kháng đa thuốc.
- Trong các cơ sở đặc biệt như trại giam, trung tâm chữa bệnh, giáo dục và lao động
xã hội có thể có nhiều người HIV(+) khả năng lây nhiễm rất cao, cần cách ly thoả
đáng những người bệnh để điều trị mới tránh được các vụ dịch nghiêm trọng.
- Nhân viên y tế cần tuân thủ quy trình khám, chăm sóc người bệnh: Tiếp xúc gián
tiếp qua vách kính, khám, hỏi bệnh, thực hiện tư vấn để người bệnh quay lưng lại.
1.Nguyên lý :
Dựa vào hiện tượng Koch (1918) những cơ thể đã nhiễm lao thì hình thành đáp ứng miễn dịch
chống vi khuẩn lao. Đáp ứng miễn dịch này giúp cho cơ thể khu trú và tiêu diệt được vi khuẩn
lao, không cho chúng lan tràn khi xâm nhập vào cơ thể lần thứ hai.
2.Bản chất :
Năm 1908 hai nhà bác học người Pháp là Calmett và Guerin đã lấy một chủng vi khuẩn lao bò
chứa nhiều độc lực, nuôi cấy sau 231 lần chuyển môi trường trong vòng 13 năm, các tác giả đã
tạo ra một chủng vi khuẩn lao có khả năng tạo nên miễn dịch và dị ứng nhưng không gây độc
cho cơ thể. Chủng vi khuẩn này gọi BCG (Bacillus Calmett Guerin). Vaccin BCG được sử dụng
để phòng bệnh lao cho người từ năm 1921 cho đến nay vẫn là vaccin phòng lao được dùng phổ
biến, rộng rãi ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
3.Phân loại:
- BCG sống: Dùng phổ biến hiện nay là loại đông khô, ưu điểm là giữ được lâu, tác dụng
mạnh, nếu giữ ở điều kiện môi trường và bảo quản tốt có thể giữ được 12 tháng, loại này
phù hợp với hoàn cảnh của nước ta.
- BCG chết: Từ 1947 – 1950 Chouroun và Yamada (Nhật) nghiên cứu vaccin BCG chết
nhưng hiệu quả ít. Từ 1959 – 1960 Viện chống lao và Viện vệ sinh dịch tễ nghiên cứu
vaccin BCG chết ở 430C, gây được miễn dịch dị ứng như vaccin BCG sống. Nhưng thời
gian tồn tại của vaccin BCG chết ngắn, phải tái chủng hàng năm tốn kém.
Người chưa nhiễm lao khi làm phản ứng Mantoux sẽ âm tính. Ở Việt Nam hiện nay tiêm
chủng tập trung chủ yếu ở trẻ sơ sinh và tiêm vét ở trẻ dưới một tuổi. Đối với trẻ đã
nhiễm HIV nhưng chưa có triệu chứng lâm sàng, sống ở nơi có nguy cơ mắc lao cao cần
tiêm vaccin BCG ngay lúc mới sinh hoặc càng sớm càng tốt. Đối với trẻ đã nhiễm HIV
có triệu chứng lâm sàng thì không nên tiêm.
Nếu mẹ bị nhiễm HIV, con có nguy cơ nhiễm lao tiêm càng sớm càng tốt. Khả năng bảo
vệ của BCG giảm dần theo thời gian, vì vậy nếu có điều kiện thì tiêm nhắc lại ở lứa tuổi
học cấp I cấp II, tổ chức tiêm 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng tiêm vét một đợt.
Không có chống chỉ định tuyệt đối, chống chỉ định tương đối trong những trường hợp:
- Tiêm vaccin BCG là một phương pháp gây miễn dịch chủ động cho cơ thể, đặc biệt với
vi khuẩn lao, có tác dụng phòng bệnh lao. Đây là một trong những điểm cơ bản quan
trọng trong Chương trình Chống lao quốc gia.
- Kiểm tra khả năng miễn dịch của BCG thường sau khi tiêm 3 tháng, có thể dùng phản
ứng Mantoux hoặc BCG test để kiểm tra.
Nếu tiêm tốt, đúng kỹ thuật thấy 100% trẻ có sẹo.
- BCG có tác dụng tạo miễn dịch 10 – 15 năm
- Làm giảm tỷ lệ mắc lao 14 – 30 lần so với trẻ không được tiêm BCG
- Làm giảm tỷ lệ mắc lao nặng từ 5 – 7 lần.
- Làm giảm tỷ lệ tử vong do lao xuống 5 lần, tuy nhiên khả năng bảo vệ của BCG phụ
thuộc vào chủng, kỹ thuật và tuỳ từng bước.
Lưu ý : Hiệu lực bảo vệ của vaccine chỉ là 70%. Nếu như nguồn lây trong gia đình quá mạnh, tức
là có 3-4 người lớn cùng mắc lao (dù có biểu hiện triệu chứng hay không) thì trẻ sẽ rất dễ mắc
bệnh này dù đã tiêm phòng
Tiêm vắc-xin BCG là để phòng chống bệnh lao, BCG không giúp chúng ta chống lại việc bị
nhiễm khuẩn lao nhưng nó thực sự bảo vệ cơ thể khỏi bị chuyển từ dạng nhiễm khuẩn thành
bệnh lao (khoảng 70%) và gần như bảo vệ 100% chúng ta khỏi các dạng biến chứng lao nguy
hiểm như lao màng não, lao xương, lao khớp và lao phổi nặng. Miễn dịch qua trung gian tế bào ,
tiêm BCG 90% Tuberculin skin test (+) duy trì trong khoảng 4 năm
8.Phản ứng bình thường tại nơi tiêm và biến chứng sau tiêm BCG:
Thông thường sau khi tiêm 1 – 2 ngày, nốt tiêm sẽ tiêu đi. Sau 3 – 4 tuần sẽ thấy một cục nhỏ nổi
lên tại nơi tiêm rồi to dần, mặt da sưng đỏ, bóng. Sau 6 tuần một lỗ rò xuất hiện, tiết dịch trong 2
– 3 tuần rồi làm vẩy, ở tuần thứ 9 – 10 hình thành vòng tròn 5 – 6mm, xung quanh có quầng đỏ,
sau vài tuần vẩy rụng đi dần thành sẹo tồn tại nhiều năm. Tính chất của sẹo màu trắng, có thể hơi
lõm. Có thể căn cứ vết sẹo này để kiểm tra biết được trẻ đã được tiêm BCG hay chưa.
●Theo một số thống kê của Viện Lao - Bệnh phổi trung ương và của Chương trình Tiêm chủng
mở rộng thì có khoảng 10 – 20% trường hợp nốt loét có thể to hơn (đường kính 5 – 8mm), làm
mủ và kéo dài 3 – 4 tháng. Trong một số trường hợp nốt loét kéo dài trên 4 tháng mới đóng vẩy
và biến thành sẹo, có thể dùng dung dịch isoniazid 1% hoặc bột isoniazid rắc tại chỗ những
trường hợp này.
9.Tái chủng:
- Tái chủng hay tiêm nhắc lại phụ thuộc vào việc đánh giá thời gian tồn tại của miễn dịch
sau khi tiêm BCG. Một vaccin tốt bảo quản đúng kỹ thuật, tiêm đúng có thể gây miễn
dịch 10 – 15 năm. Do vậy tái chủng không nhất thiết phải thực hiện.
- Ở Việt Nam coi tiêm vaccin BCG phòng lao cho trẻ sơ sinh và dưới 1 tuổi là một việc
làm quan trọng trong Chương trình Chống lao quốc gia, được tiến hành từ 1959 – 1960.
Hiện nay được lồng ghép vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng toàn quốc.
Hóa dự phòng lao còn gọi là điều trị dự phòng, thực hiện từ khi phát minh ra tính năng tác dụng
của isoniazid. Dự phòng hoá học đối với bệnh lao được áp dụng dưới 2 hình thức:
Dự phòng trước khi bị nhiễm lao: Đối tượng là những người tiếp xúc với nguồn lây trực tiếp,
thường xuyên và liên tục. Cơ thể dễ có nguy cơ bị nhiễm lao, kể cả người nhiễm HIV.
Dự phòng sau khi bị nhiễm lao:
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy những trường hợp bị nhiễm lao (thể tiềm ẩn chưa
biểu hiện triệu chứng), được uống INH trong vòng 6 tháng đến 1 năm với liều 5-
8mg/kg/24giờ đã làm giảm tỷ lệ bị bệnh lao xuống 3 – 6 lần so với nhóm không được
điều trị dự phòng. Đối tượng điều trị dự phòng là trẻ em mới bị nhiễm lao, phản ứng
Mantoux dương tính quá mạnh.
Ngày nay với nguy cơ nhiễm HIV, hoá dự phòng lại có chỉ định rộng rãi hơn. Theo một
số tác giả thì nên thực hiện hoá dự phòng trong thời đại HIV cho những đối tượng sau:
- Người nhiễm HIV dương tính, có phản ứng Mantoux cũng dương tính dù ở lứa
tuổi nào.
- Người có phản ứng Mantoux dương tính thuộc nhóm có nguy cơ nhiễm HIV cao
dù chưa rõ phản ứng với HIV.
Nhiễm HIV ở người lớn được chẩn đoán trên cơ sở xét nghiệm kháng thể HIV. Một người được
xác định là nhiễm HIV khi có mẫu huyết thanh dương tính cả ba lần xét nghiệm kháng thể HIV
bằng ba loại sinh phẩm khác nhau với nguyên lý phản ứng và phương pháp chuẩn bị kháng
nguyên khác nhau (theo quy định của Bộ Y tế).
Có dấu hiệu bệnh lý thuộc giai đoạn lâm sàng 3 hoặc 4 (chẩn đoán lâm sàng hoặc xác
định) và/hoặc
Số lượng CD4 < 350 TB/mm3
Có bất kỳ bệnh lý nào thuộc giai đoạn 4 (chẩn đoán lâm sàng hoặc xác định) hoặc
Số lượng CD4 giảm xuống < 200 TB/mm3
Người bệnh có tiền sử chữa bệnh trong các cơ sở cai nghiện hoặc ở trại giam.
2.Tác động của nhiễm HIV trên triệu chứng, dấu hiệu lâm sàng của bệnh lao
Lưu ý :
- Giai đoạn đầu lao / HIV (+) chỉ tổn thương hạch trung thất, mô kẽ trên Xquang chứkhông
tổn thương dạng hang
- Bệnh nhân đang điều trị ARV không ho, không sốt có đổ mồ hôi trộm về đêm phải nghĩ
HIV
Lưu ý : AFB (-) mà lâm sàng, Xquang, Xpert nghi lao thì là điều trị lao liền chứ không điều trị
kháng sinh phổ rộng như trên bệnh nhân HIV (-)
- Người nhiễm HIV cần được đăng ký và điều trị lao sớm ngay sau khi có chẩn đoán lao.
- Điều trị lao theo phác đồ của Chương trình chống lao quốc gia giống như bệnh nhân lao
không nhiễm HIV
- Cần phối hợp với điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội khác bằng Cotrimoxazole. Điều
trị ARV cần được xem xét sớm và chú ý đến tương tác giữa ARV và rifampicin, INH.
Lưu ý :
Bắt đầu điều trị ARV ngay lập tức ở bệnh nhân được chẩn đoán HIV bất kể giai đoạn
Bệnh phát hiện lao và HIV thì ưu tiên điều trị lao trước, sau 2 tuần thấy không có tác
dụng phụ của thuốc lao thì mới bắt đầu điều trị ARV để phòng trường hợp bệnh nhân bị
tác dụng phụ thì còn biết là do thuốc lao hay ARV gây ra
Trường hợp bệnh nặng như nghi ngờ viêm phổi PCP (xét nghiệm đàm thấy PCP) thì có
thể vừa điều trị lao, vừa điều trị viêm phổi PCP. Trường hợp không nghi ngờ viêm phổi
PCP thì cũng phải điều trị dự phòng PCP
III.Lâm sàng :
- Đau ngực: không có địa điểm đau rõ rệt, thường đau bên tổn thương đau kiểu thần kinh
liên sườn. Có khi đau quanh bả vai, mặt trong cánh tay.
- Khó thở: khó thở ít gặp, thường do khối u phổi chèn ép gây tắc khí phế quản hoặc do tràn
dịch màng phổi làm bệnh nhân khó thở.
- Nói khàn, giọng đôi do thần kinh quặt ngược bị chèn ép.
- Khó nuốt: do thực quản bị chèn ép.
- Các triệu chứng do khối u chèn ép vào tĩnh mạch chủ trên: phù mặt, cổ bạnh to, hố trên
xương đòn đầy, tĩnh mạch nổi rõ ở cổ, ngực.
- Tràn dịch màng phổi: do khối u phổi xâm lấn ra màng phổi gây tràn dịch màng phổi,
chẩn đoán xác định dựa vào khám lâm sàng và chụp x quang phổi. Chọc dò khoang màng
phổi thấy dịch giúp chẩn đoán chắc chắn.
- Một số bệnh nhân có biểu hiện: nửa mặt đỏ, khe mí mắt hẹp, đồng tử nhỏ, nhãn cầu tụt về
phía sau.
IV.Chẩn đoán :
Bất kỳ triệu chứng hô hấp nào trên bệnh nhân hút thuốc, trên 40 tuổi, đều phải nghĩ đến ung thư
đặc biệt khi có thay đổi tính chất ho, ho máu, đau ngực không đáp ứng giảm đau…nhất là khi có
kèm theo hội chứng trung thất, hạch to và tràn dịch màng phổi. Đau xương, biểu hiện thần kinh
khu trú, u gan đa ổ…kèm thay đổi tổng trạng trên bệnh nhân có triệu chứng hô hấp gợi ý u phổi
tiến xa toàn thân. Các hội chứng cận ung đôi khi là bệnh cảnh khởi đầu ung thư, tiếp cận bệnh
nhân một cách hệ thống có thể phát hiện nguyên nhân bệnh. Chụp X quang ngực: thường nhất
phát hiện hình bóng mờ, bờ rõ hoặc các tổn thương hạch, xâm lấn thành ngực, tràn dịch màng
phổi kèm. Chụp cắt lớp điện toán lồng ngực: nên tiếp nối X quang, giúp chọn lựa phương pháp
tiếp cận chẩn đoán thích hợp. Các đặc tính hình ảnh học trên CT gợi ý ung thư là: tổn thương mật
độ mô, tăng quang sau tiêm thuốc, không đồng nhất.
Chẩn đoán mô học là chẩn đoán xác định qua việc lấy mẫu (sinh thiết) mô u nguyên phát và/hoặc
tổn thương di căn. Với u nguyên phát, nội soi phế quản dưới gây tê/gây mê cho phép khảo sát
đến các phế quản dưới tiểu thuỳ. Sinh thiết nên được thực hiện nhiều tầng, nghĩa là sinh thiết
theo thứ tự tại vị trí u nguyên phát, phế quản thuỳ, phế quản gốc hoặc cựa khí quản để đánh giá
chính xác độ lan rộng của bướu. Trường hợp không phát hiện tổn thương khi nội soi, cần thực
hiện rửa phế quản, rửa phế quản-phế nang, sinh thiết xuyên thành phế quản mù hoặc dưới hướng
dẫn của X quang hay chụp cắt lớp điện toán lồng ngực. Sinh thiết u nguyên phát xuyên thành
ngực bằng chọc hút bằng kim dưới hướng dẫn của siêu âm hay chụp cắt lớp điện toán lồng ngực
nếu các phương pháp trên không cho kết quả chẩn đoán. Nếu không có di căn, lâm sàng nhiều
khả năng ung thư, bệnh nhân có thể mổ được; mở ngực kèm xét nghiệm giải phẫu bệnh tức thì u
nguyên phát là một lựa chọn tốt giúp vừa chẩn đoán vừa điều trị. Khi có di căn, nên chọn thương
tổn nào có tiên lượng xấu nhất để ưu tiên lấy mẫu. Với tràn dịch màng phổi, đóng khối tế bào
dịch màng phổi có độ nhạy cao hơn sinh thiết màng phổi. Các tổn thương hạch thượng đòn, gan
hay thượng thận có thể được sinh thiết lấy mẩu chẩn đoán. Các hạch trung thất tùy vị trí có thể
tiếp cận bằng sinh thiết hạch xuyên khí phế quản qua nội soi, sinh thiết hạch xuyên khí phế quản
dưới hướng dẫn siêu âm qua ngã nội soi (hoặc nội soi phế quản hoặc nội soi thực quản) hoặc qua
nội soi trung thất, mở trung thất.
UTP tế bào nhỏ: chiếm khoảng 15%, u thường khởi phát tại các phế quản lớn.
UTP không phải tế bào nhỏ: chiếm khoảng 75% các UTP, gồm có ba loại:
Carcinôm tuyến: thường là tổn thương nhỏ ở vùng ngoại vi của phổi, tế bào ung
thư có khuynh hướng xâm lấn các hạch bạch huyết và di căn xa. Hầu như xảy ra
ở người không hút thuốc lá, thường gặp ở bệnh nhân nữ. Một phân nhóm của
Carcinôm tuyến là ung thư tiểu phế quản phế nang (BAC: Bronchiolo Alveolar
Carcinoma).
Carcinôm tế bào gai (Carcinôm tế bào vẩy): có khuynh hướng xảy ra ở trung tâm
của phổi, hầu hết bệnh diễn tiến khu trú tại chỗ.
Carcinôm tế bào lớn: thường là những tổn thương lớn nằm ở ngoại vi của phổi,
cho di căn hạch bạch huyết và di căn xa. Ít gặp hơn so với Carcinôm tế bào gai và
Carcinôm tuyến.
Ngoài ra còn có: Carcinôm không biệt hóa, Carcinoid và Carcinôm bọc dạng
tuyến (loại trụ - Cylindromatous type).
Xác định giai đoạn là một vấn đề quan trọng khi chẩn đoán xác định ung thư. Phân giai đoạn là
một cách để mô tả một bệnh ung thư, như kích thước của khối u, nơi ung thư đã lan đến. Phân
giai đoạn là công cụ quan trọng nhất để xác định tiên lượng bệnh. Phương pháp điều trị phụ
thuộc vào giai đoạn ung thư. Phân giai đoạn ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư phổi tế
bào nhỏ thì khác nhau. Hiệp hội kiểm soát ung thư quốc tế (UICC) và Liên Ủy ban ung thư Hoa
Kỳ (AJCC) đã đưa ra định nghĩa, xem xét định kỳ, cải tiến những hệ thống phân giai đoạn.
Điều trị ung thư phổi phụ thuộc vào giai đoạn và loại tế bào ung thư phổi. Các phương pháp điều
trị ung thư bao gồm:
- Phẫu trị
- Xạ trị
- Hóa trị (Lựa chọn bao gồm kết hợp các loại thuốc)
- Liệu pháp nhắm trúng đích
- trị ung thư phổi thường kết hợp nhiều phương pháp điều trị
Bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn khu trú ở lồng ngực (giới hạn trong một khu
vực của ngực) được điều trị bằng xạ trị và hóa trị đồng thời.
Bệnh nhân ung thư tế bào nhỏ lan tỏa (khối u đã di căn xa hay có tràn dịch màng phổi do
ung thư) chỉ được điều trị bằng hóa trị.
Vì ung thư phổi tế bào nhỏ có thể di căn đến não, xạ trị não phòng ngừa được khuyến cáo
thực hiện thường quy cho tất cả các bệnh nhân có khối u biến mất sau hóa trị và xạ trị.
I.Đại cương :
II.Phân loại :
Tràn khí màng phổi tự phát: là TKMP tự khởi phát, không có nguồn gốốc chấn thương,
do vỡ kén khí hoặcc bong bóng khí làm khí thoát vào trong khoang màng ph phổi.
TKMP tự phát nguyên phát: là TKMP tự phát xảy ra trên những ng bbệnh nhân
không tìm thấy bệệnh lý phổi trước đó, chủ yếu ở nam giới trẻ tuổi,
i, cao và ggầy, hút
thuốc lá.
TKMP tự phát thứ th phát: là hậu quả của một quá trình bệnh
nh lý nnền, đa số là do
BPTNMT (70%), Lao phổi, ph phổi mô kẽ, viêm phổi PCP, Xơ phổi, i, K ph
phổi…
Tràn khí màng phổii do tai biến
bi điều trị
Nguyên nhân hay gặp nhấất là do đặt CVP, sinh thiết phổii xuyên thành, sinh thi
thiết màng
phổi, chọc hút dịch
ch màng phổi
ph bằng kim nhỏ và đôi khi do châm cứu
Tràn khí màng phổii do chấnch thương
Xảy ra sau một chấn n thương trực
tr tiếp (đâm, nổ ) vào lồng ngực hoặc gẫyy xương sư sườn làm
rách lá tạng màng phổi.i. Hoặc
Ho có sự thay đổi áp suất như thợ lặn,
n, đi máy bay
II.Lâm sàng :
- Điển hình là đau ngực độột ngột bên tổnn thương, tăng khi hít sâu và kèm theo khó th
thở, suy
hô hấp.
- Thể tích lồng ngựcc bên tràn khí tăng
- Tam chứngng Galliard bao gồm:
g âm phế bào giảm, rung thanh giảm, m, gõ vang.
III.Cận lâm sàng :
Xquang CTScan
- Tràn khí màng phổi lượng ít: lá thành lá tạng tách ra ≤ 2cm; Thể tích tràn khí/ thể tích
phổi bên tổn thương < 20%.
- Tràn khí màng phổi lượng nhiều: lá thành lá tạng tách ra > 2cm ; Thể tích tràn khí/ thể
tích phổi bên tổn thương > 20%.
V.Biến chứng :
- Suy hô hấp
- Ngưng tim, ngưng thở
- Tràn máu-khí màng phổi.
- Dò PQ- màng phổi.
- Ổ cặn màng phổi
- Nhiễm trùng mủ màng phổi qua không khí vào màng phổi.
- TKMP tái phát sau nhiều năm.
VI.Điều trị :
1. TKMP tự phát nguyên phát:
TKMP lượng ít, lâm sàng BN ổn định: thở oxy 10l/ph, theo dõi trong 6h, chụp phim lần
2, nếu không nặng thêm, cho về, tái khám sau 2 ngày, hầu hết phổi sẽ nở trong 10 ngày.
TKMP lượng nhiều:
Đặt ống dẫn lưu
Sau 6h chụp X quang ngực kiểm tra, nếu phổi không nở tốt, hút áp lực âm. Theo
dõi sát 30 sau hút, đề phòng biến chứng phù phổi do phổi tái dãn nở đột ngột.
Rút ODL: chụp X quang thấy phổi nở, kẹp ODL sau 24h. Nếu ổn định thì rút.
Nếu sau 5 ngày mà phổi chưa nở, cân nhắc phẫu thuật nội soi lồng ngực.
2. TKMP tự phát thứ phát:
- ODL màng phổi, theo dõi nếu phổi nở tốt thì rút ống sau 5-7 ngày.
- Nếu sau 7 ngày phổi không nở ( TKMP kéo dài ) hút áp lực âm
- Nếu sau 10 ngày phổi chưa nở:
BN lớn tuổi, suy hô hấp, có bệnh lý nền như COPD, cân nhắc làm dính màng phổi
bằng bột Talc, Povidine.
BN trẻ tuổi, không suy hô hấp, cân nhắc hội chẩn điều trị ngoại khoa(cắt bóng
khí, hoặc khâu lỗ thủng ).
- Nếu có đặt ODL, Giải thích rõ tình trạng bênh, trấn an bệnh nhân.
- Chuẩn bị y dụng cụ:
Ống dẫn lưu: là dụng cụ để dặt vào khoang màng phổi bệnh nhân.
Ống nối: 1 đầu gắn với ODL, 1 đầu gắn với chai
Chai dẫn lưu: đổ vào khoảng 400ml nước muối sinh lý. Trong chai có 2 ống
Ống dài ngập nước: đây là phần tiếp xúc với Ống nối.
Ống ngắn: giúp đưa không khí ra ngoài
Dụng cụ khác: dao mổ, kềm, Kelly, thuốc tê, gạc vô trùng, khăn trải….
Đánh giá ODL hoạt động : ODL ra nhiều bọt khí, có mức nước dao động theo nhịp thở.
Ống dẫn lưu có cố định an toàn không, đánh dấu vị trí số của ODL.
Dây nối có bị tắc, có bẩn không? Nếu có thì bơm rửa hoặc thay dây.
Lâm sàng :
1.Xquang
Màu sắc :
Màu Nguyên nhân Xét nghiệm tiếp theo
Đỏ Tràn máu màng phổi Hct dịch / Hct máu > 0,5
Trắng sữa Dưỡng chấp Triglyceride dịch
Đục Mủ Lao soi, cấy, LPA
Vi khuẩn tìm tạp trùng
Amip soi
Tính chất :
Dịch thấm (thường là 2 bên) : nguyên nhân nội khoa (tim, gan, thận, dinh dưỡng)
Dịch tiết : lao, ung thư, viêm
Phân biệt dịch thấm hay dịch tiết dựa vào :
Bộ tiêu chuẩn Light : Dịch tiết khi thỏa 1 trong 3 tiêu chuẩn
Protei dịch / máu > 0,5
LDH dịch / máu > 0,6
LDH dịch > 2/3 giá trị ngưỡng trên phòng xét nghiệm (tại BV PNT : 450)
ADA : một loại protein do tế bào lympho sản xuất, đáp ứng với tình trạng nhiễm trùng (ví
dụ nhiễm MTB) ủng hộ và củng cố thêm chẩn đoán
ADA > 30 µ/L 90% do lao
ADA > 70 µ/L 99% do lao
Giá trị càng thấp nghĩ hướng tới K nhiều hơn
Đếm tế bào :
Bình thường : 1000-3000 tế bào / mm3
Neu ưu thế nhiễm trùng
Lympho ưu thế Lao
Trường hợp dịch màng phổi màu đục, nghi ngờ là vi khuẩn thì cần dùng kháng sinh. Nhưng nếu
lâm sàng bình thường (không sốt), bạch cầu máu không cao thì mới màu đục cũng đủ nghĩ tràn
mủ màng phổi và cần dùng kháng sinh ngay lập tức. Mặc khác, trong trường hợp lâm sàng và
công thức máu ủng hộ nhiễm trùng thì trong lúc chờ kết quả cấy (vài ngày) vẫn phải sài kháng
sinh theo thứ tự dưới đây nếu không đáp ứng :
2.Cefalosporin : Ceftazidim 1g
Collistin (Polymicin E)
- Hạn chế corticoid tối đa muốn kháng viêm sài dạng viêm
- Bất khả kháng phải dùng corticoid dùng lượng ít + đường dùng tại chỗ (hít)
I.Định nghĩa :
Viêm phổi là tình trạng viêm và đông đặc nhu mô phổi do tác nhân vi sinh vật: vi khuẩn, vi
khuẩn không điển hình, virus, nấm…
Viêm phổi cộng đồng (CAP, community-acquired pneumon): Viêm phổi phát triển ngoài
bệnh viện
CAP là một căn bệnh phổ biến và nghiêm trọng. Cùng với cúm, viêm phổi cộng đồng là
nguyên nhân nhiễm trùng gây tử vong nhiều nhất tại Mỹ và toàn cầu và cũng là bệnh gây
tử vong hàng thứ 8 tại Mỹ.
Viêm phổi bệnh viện (HAP, Hospital-Acquired Pneumonia): Viêm phổi mắc phải sau
khi nhập viện 48 giờ.
Viêm phổi liên quan đến thở máy (VAP, Ventilator-associated pneumonia ) : Viêm
phổi được chẩn đoán 48 giờ hoặc hơn sau khi đặt nội khí quản.
1.Triệu chứng cơ năng quan trọng: Sốt lạnh run, ho đàm mủ, đau ngực kiểu màng phổi.
- Sốt thường xuất hiện, một vài bệnh nhân có thể hạ nhiệt độ (tiên lượng xấu), 20% không
sốt.
- Rale ẩm nổ tại vùng phổi tổn thương, 20% có hội chứng đông đặc (gõ đục, rung thanh
tăng, âm phế bào giảm): 20%.
- Tiếng cọ màng phổi: 10%.
- Giai đoạn sớm triệu chứng thực thể có thể bình thường.
- Điều quan trọng nhất là đếm nhịp thở ở những trường hợp nghi ngờ.
Nhịp thở ≥28 l/p ở người lớn là dấu hiệu của viêm phổi nặng và cảnh báo rằng những
bệnh nhân đó có nguy cơ cao bị suy hô hấp.
- Mạch nhanh, hạ huyết áp…
Ngoài ra đám mờ trên X quang có thể do thuyên tắc phổi, xuất huyết, dịch màng phổi, ung thư,
viêm do thuốc ...
4.Xét nghiệm sinh hóa : chưa có xét nghiệm nào là tiêu chuẩn để chẩn đoán
- CRP : bình thường < 10, viêm thì 40-200 (Mức CRP ở bệnh nhân viêm phổi phế cầu
khuẩn trung bình 178 mg / L), nhưng độ nhạy và đặc hiệu không cao bằng procalcitonin
- PCT (Procalcitonin máu) : nội độc tố do vi khuẩn, phản ứng viêm sẽ ức chế procalcitonin
thành calcitonin > 0,25 ng/mL mức chẩn đoán viêm phổi
- Công thức máu: Bạch cầu tăng (Neu% chiếm ưu thế) hoặc giảm thấp.
5.Xét nghiệm vi sinh : ở BV Phạm Ngọc Thạch chỉ làm được 2 cái đầu
- Tạp trùng (soi, cấy, kháng sinh đồ): Dịch đàm, dịch phế quản…
- Cấy máu[+] : Không phải tất cả trường hợp CAP đều cấy (cấy khi nhiệt độ miệng ≥
380C), có thể ngoại nhiễm (nên cấy 2 mẫu cùng lúc)
- Kháng nguyên vi khuẩn hòa tan trong nước tiểu (S. pneumoniae, L. pneumophila): Độ
nhạy thấp.
- Kháng nguyên trong mẫu đàm, quệt mũi bằng ELISA, MDHQ: Phát hiện tác nhân
virus, VKKĐH: Độ nhạy thấp.
- Huyết thanh học tìm kháng thể đặc hiệu phát hiện tác nhân virus, vi khuẩn không điển
hình (M.pneumoniae, C.pneumoniae, L.pneumophila ): IgG cần có huyết thanh kép 10
ngày (không hữu dụng), IgM tùy thuộc giá trị cắt (Đặc hiệu thấp).
- Real – time PCR (độ nhạy cao, đặc hiệu cao).
1.Thang điểm CURB-65 : thường dùng nhất trên lâm sàng phải nhớ
Confusion : Lú lẫn.
Uremia : Uree máu > 7 mmol/L.
Respiratory rate: Tần số thở > 30 lần/ phút.
Blood pressure: Huyết áp tâm thu < 90/60 mmHg hoặc huyết áp tâm trương < 60 mmHg.
Tuổi ≥ 65.
2.Chỉ số tiên lượng nặng viêm phổi mắc phải cộng đồng (PSI): thường dùng trong nghiên cứu
nên chính xác hơn không cần nhớ
Nhập khoa ICU được chỉ định cho người có ≥ 3 tiêu chuẩn phụ hoặc ≥ 1 tiêu chuẩn chính.
- Giảm oxy máu (bão hòa oxy máu < 90% khi thở khí trời).
- Huyết động học không ổn định.
- Đang có bệnh lý khác hoạt động cần nhập viện.
- Không thể dung nạp thuốc đường uống.
3.Khuyến cáo điều trị viêm phổi cộng đồng của IDSA/ATS 2007 :
Bệnh nhân nằm trong vùng nhiễm phế cầu kháng thuốc macrolide mức cao (>25%) với
MIC ≥ 16 mg/mL.
Nghiên cứu SOAR 2010 - 2011 tại Việt Nam. > 80% phế cầu (S. pneumoniae) kháng
Macrolide, gần 40% H. influenzae không nhạy cảm Azithromycin, có một tỷ lệ kháng
fluoquinolones (cũng không nên sài trong vùng dịch tễ lao)
Lâm sàng chỉ sài Betalactam (Amoxicillin + Acid clavulanic) + Macrolide
- Từ ngày 2-3 : xem mạch, nhịp thở có còn nhanh; bệnh nhăn ăn uống có ngon không; vẻ
mặt; triệu chứng hô hấp; procaltonin (giúp khi nào dừng kháng sinh); CRP; công thức
máu
- Từ 1-2 tuần : mới dùng Xquang, nhưng ngày 2-3 mà bệnh nhận nặng hơn thì cũng nên
chụp để xem có biến chứng gì không
- Xem xét lại chẩn đoán phân biệt: Thuyên tắc phổi, ung thư, viêm do thuốc, viêm phổi
tăng eosinophil…
Điều quan trọng là phải chứng minh rằng viêm phổi đã giải quyết X quang cho những người
đang ở nguy cơ ung thư phổi. Nói chung, tất cả những người hút thuốc lá và những người từ 50
tuổi trở lên và bị viêm phổi nên chụp X-quang ngực để xác định xem có phải là viêm phổi hay
không chưa đã hoàn toàn giải quyết.
- Vi khuẩn Gram âm hiếu khí là tác nhân phổ biến gây viêm phổi bệnh viện.
- Các yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn đa kháng, yếu tố nguy cơ nhiễm MRSA, yếu tố nguy cơ
nhiễm Pseudomonas ở bệnh nhân viêm phổi bệnh viện: Sử dụng kháng sinh tĩnh mạch
trong vòng 90 ngày.
- Các yếu tố nguy cơ tử vong cao ở HAP: Viêm phổi phải thở máy, sock nhiễm trùng.
- Đối với bệnh nhân HAP, điều trị khoảng ≥7 ngày kháng sinh.
- Đối với những bệnh nhân HAP không có nguy cơ nhiễm MRSA và không có nguy cơ tử
vong cao, điều trị kháng sinh có hoạt tính chống lại MSSA: chúng tôi đề xuất một chế độ
bao gồm piperacillin-tazo-bactam, cefepime, levofloxacin, imipenem, hoặc meropenem.
- Đối với bệnh nhân HAP: Nên sử dụng kháng sinh diệt P. aeruginosa và trực khuẩn gram
âm khác trong điều trị ban đầu.
Trên lâm sàng, có bộ phối hợp kinh điển : Cefa + Amikacin + 2 kháng sinh trị MRSA
Theo dõi sau xuất viện: tái khám sau 6-8 tuần sau xuất viện
Chụp X quang ngực theo dõi diễn biến lâm sàng và loại trừ bệnh lý ác tính
CT Scan ngực khi lâm sàng không cải thiện hay lâm sàng xấu đi.
I.Định nghĩa :
- Áp xe phổi là tình trạng nung mủ trong hang mới thành lập do mô phổi bị hoại tử trong
quá trình viêm cấp tính không do vi trùng lao.
- Từ định nghĩa trên thì những bội nhiễm trong hang lao, nung mủ trong các hang có sẵn (u
phổi có tạo hang, kén khí, bóng khí, nang sán, …) không được gọi là áp-xe phổi.
- Áp xe phổi diễn tiến mạn tính khi ổ áp xe kéo dài trên 2 tháng.
II.Các hình thức của áp xe phổi :
1.Áp-xe phổi nguyên phát:
Chiếm đa số các trường hợp áp-xe phổi, do hít vào phổi các tác nhân gây bệnh hoặc tiếp theo sau
tình trạng viêm phổi mà không có các yếu tố cơ học tại chỗ hay lân cận.
Các yếu tố thuận lợi thường gặp đưa đến áp-xe phổi nguyên phát là:
- Suy nhược cơ thể do nghiện rượu cấp tính hoặc mạn tính (60% trường hợp).
- Suy dinh dưỡng, thiếu ăn.
- Hút thuốc lá.
- Tình trạng kém vệ sinh răng miệng (thường có liên quan đến rượu và thuốc lá).
- Tiểu đường.
2.Áp-xe phổi thứ phát:
Xảy ra sau khi có 1 ổ nhiễm trùng ngoài phổi và đến phổi bằng đường máu hoặc đường tiếp cận.
Tắc nghẽn phế quản không hoàn toàn (dị vật phế quản, u phế quản lành tính)
Nhiễm trùng máu có huyết khối nhiễm trùng (thường do Staphylococcus).
Tình trạng hít sặc có nhiễm trùng
III.Tác nhân gây bệnh :
1.Vi trùng kỵ khí: thường gặp nhất, sống thường trú ở họng, miệng, chân răng, dễ phát hiện
chúng vì hơi thở và đàm rất hôi thối, chúng có thể gây nên những áp xe lan tỏa, bán cấp và
thường kết hợp với các loại vi khuẩn khác như liên cầu, phế cầu...
- Gram (-): Fusobacterium nuclatum, Bacteroides fragilis, Bacteroides melaninogenicus.
- Gram (+): Clostridium spp, Eubacterium spp, …
2.Vi trùng ái khí:
- Staphylococcus aureus
- Trực trùng Gram (-): Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa, Enterobacter sp,
Streptococcus.
V.Lâm sàng :
Diễn biến của áp xe phổi chưa điều trị: qua bốn giai đoạn
- Khởi bệnh là bệnh cảnh viêm phổi cấp với sốt, đau khu trú, cường độ đau thay đổi, khó
thở vừa, ho, khạc đàm nhầy hoặc mủ nhầy.
- Thăm khám: Nghe phổi thường không phát hiện triệu chứng bất thường.
- X quang phổi: Hình ảnh bóng mờ, không đồng nhất, giới hạn không rõ.
- Do đó cần phát hiện những triệu chứng định hướng như: tổng trạng kém, vẻ mặt nhiễm
trùng, bạch cầu tăng cao.
- Điều trị kháng sinh trong giai đoạn này có kết quả tốt, khỏi bệnh trong đa số các trường
hợp.
2. Giai đoạn “ộc mủ”:
- Mủ thoát qua đường phế quản, ộc mủ lượng nhiều thường hiếm gặp.
- Sốt giảm.
- Cần ghi nhận lượng mủ khạc ra, sự thay đổi tính chất mủ, hơi thở hôi, ho ra máu.
3. Giai đọan “mở”:
- Bệnh nhân tiếp tục khạc đàm mủ, sốt dao động, tổng trạng thay đổi.
- Nghe phổi: Triệu chứng nghèo nàn.
- X quang, CTscan phổi: Vùng đông đặc dạng tròn, giới hạn không rõ, không đồng nhất, có
hình ảnh hang ở giữa, trục thẳng đứng, với mực nước hơi nằm ngang khá cao: Hình ảnh
mực nước hơi.
- Đôi khi quan sát thấy hình ảnh phế quản dẫn từ hang vảo rốn phổi. Hình ảnh, kích thước
ổ áp-xe thay đổi từng ngày tùy vào tình trạng khac mủ của bệnh nhân.
- Hình ảnh X quang phổi không điển hình: Bóng mờ không đồng nhất, khi đó chỉ trên
CTscan mới nhìn thấy hình ảnh gợi ý của ổ áp-xe.
4. Giai đoạn mạn tính:
- Bệnh nhân ho khạc đàm mủ có thể có máu, sốt cao, tổng trạng suy sụp khi mủ ứ lại trong
ổ áp-xe và cải thiện khi mủ được khạc ra ngoài.
- Tổng trạng kém, thiếu máu, có thể có ngón tay dùi trống.
3.Nội soi phế quản: Tìm vi khuẩn gây bệnh, phát hiện ung thư phế quản.
4.Chọc dò ổ áp-xe ở đáy phổi phải để soi tươi tìm amíp.
VI.Diễn tiến :
1.Trước khi có kháng sinh:
- 1/3 trường hợp lành bệnh.
- 2/3 trường hợp còn lại trở thành mạn tính, ổ xơ mủ, ổ nung mủ lan rộng, biến chứng vào
màng phổi.
1.Lao:
- Mực nước hơi rất mỏng trong bệnh cảnh tổng trạng suy giảm, có hình ảnh nốt, thâm
nhiễm chung quanh hang, có sự hiện diện của BK/ đàm.
- Tìm BK/ đàm là xét nghiệm thường qui khi có hình ảnh bóng mờ tạo hang.
2.Ung thư phổi:
- Thành hang dày, không đều, nội soi phế quản giúp chẩn đoán xác định.
- Hình ảnh X quang không cải thiện với điều trị bằng kháng sinh, tuy nhiên có thể gặp
bệnh cảnh ung thư phối hợp với áp-xe.
3.Hang bội nhiễm: Kén khí, bóng khí phế thũng bội nhiễm, bệnh cảnh lâm sàng tái đi tái lại
nhiều lần, hình ảnh Xquang là mực nước hơi với bờ hang rất mỏng.
4.Tràn dịch màng phổi đóng kén có lỗ dò: Trên phim X quang thẳng bờ tổn thương không rõ
ràng, chỉ thấy mực nước hơi, cần xác định qua phim phổi nghiêng hoặc CTscan.
IX.Điều trị :
1.Kháng sinh :
- Phối hợp kháng sinh, sử dụng kháng sinh diệt khuẩn cùng với kháng sinh có tác dụng trên
vi khuẩn kỵ khí.
- Điều trị ngay sau khi lấy mẩu bệnh phẩm xét nghiệm.
- Việc chọn lựa kháng sinh ngay ban đầu là dựa trên kinh nghiệm và thực tế dịch tễ. Theo
dõi và đánh giá 2-3 ngày sau đó dựa trên đáp ứng lâm sàng và kết quả kháng sinh đồ.
- Khởi đầu nên dùng kháng sinh đường chích, chuyển sang đường uống khi lâm sàng và
công thức máu ổn định.
- Thời gian điều trị: 6-8 tuần.
2.Dẫn lưu:
- Dẫn lưu tư thế, tập ho khạc chủ động.
- Hút rửa qua nội soi phế quản.
Bệnh phẩm phải được đảm bảo về chất lượng và số lượng; được thu thập, vận chuyển và xử lý
đúng cách.
Tùy theo thể loại bệnh lao mà các loại bệnh phẩm được thu thập khác nhau :
Các bệnh phẩm phải được chuyển đến phòng xét nghiệm ngay lập tức.
Nếu không có điều kiện chuyễn mẫu ngay (đàm), có thể giữ mẫu ở 40C trong vòng 3-4 ngày.
- Xác định sự hiện diện của vi khuẩn kháng acid ( acid –fast bacilli – AFB ) trong mẫu
bệnh phẩm của bệnh nhân. Nếu thấy được AFB (+) thì có thể là các tác nhân :
Mycobacterium tuberculosis (MTB) vẫn điều trị (do nằm trong vùng dịch tễ nên
thà giết lầm hơn bỏ sót chứ không nghĩ là NTM) nếu đó là lao mới
Vi khuẩn Mycobacterium không lao (NTM)
Mycobacterium leprae (Bệnh phong) nhưng không có trong bệnh phẩm phổi
Ý nghĩa : cho biết có AFB (tức là không phân biệt được MTB hay NTM), không biết vi
khuẩn còn sống hay không, không đánh giá được tính kháng hay nhạy thuốc
- Độ nhạy tương đối thấp, phát hiện khoảng 50 – 80% trường hợp
Lâm sàng nghi ngờ thì cần làm thêm xét nghiệm khác
- Dùng để phân lập vi khuẩn gây bệnh còn sống từ trong bệnh phẩm, bằng cách sử dụng
môi trường tăng sinh có chứa chất dinh dưỡng phù hợp cho sự phát triển của vi khuẩn đó.
- Đây là phương pháp chuẩn vàng trong chẩn đoán lao. Chỉ có phương pháp cấy mới xác
định được vi khuẩn còn sống trong mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân.
- Độ nhạy cao hơn khoảng 80 %, cho kết quả dương tính khi có khoảng 100 AFB /ml đàm.
- Các chủng cấy dương có thể dùng để thực hiện :
Các xét nghiệm định danh
Kháng sinh đồ
Sinh học phân tử
- Cho kết quả chậm vì thời gian nhân đôi dài (18-24 giờ)
- Có 2 phương pháp cấy : cấy đặc và cấy lỏng
Phương pháp cấy lỏng (MGIT) : 2-3 tuần
Cơ chế : nếu ống typ giảm oxy thì phát huỳnh quang và máy báo dương tính
Dương tính thì chưa chắc có vi khuẩn lao, vì bất kể vi khuẩn nào sử dụng
được oxy thì sẽ làm giảm oxy .
Bắt buộc phải nhuộm soi trên lam, nếu AFB (+), bước tiếp theo
Làm test định danh tìm protein MPT 64 (kháng nguyên), nếu (+) thì là
MTB, còn nếu (-) thì nghi ngờ NTM
Nghi ngờ NTM thì bác sĩ cần phải xác định còn NTM này gây bệnh
cho bệnh nhân hay do ngoại nhiễm, cần làm thêm
2 mẫu đàm tại các thời điểm khác nhau, đem đi cấy. Tổng cộng có 1
mẫu đầu và 2 mẫu sau, kết quả chung cuộc sẽ theo số đông(Tức là 2
mẫu dương với MPT 64 thì là NTM ngoại nhiễm, còn 2 mẫu âm với
MPT 64 thì là NTM bây bệnh)
Nếu là NTM gây bệnh thì đề nghiệp cấy định danh để điều trị theo tác
nhân cụ thể
Phương pháp cấy đặc (JI) : 3 tuần – 1 tháng
Đặc điểm chung của nhóm xét nghiệm sinh học phân tử là không được dùng để theo dõi chẩn
đoán và theo dõi điều trị lao vì không phân biệt được vi khuẩn sống hay chết.
- Cơ chế : phản ứng PCR và lai sinh học phân tử để tìm đột biến gen katG, inhA gây kháng
Isoniazid và đột biến ropB gây kháng Rifamicin
Ý nghĩa :
Cho biết có nhiễm MTB hay không ?
Có kháng R (Rifamicin) không ?
Có kháng H (Isoniazid) không ?
Nếu kết quả trả về đột biến gen inhA có nghĩa là kháng thuốc nồng độ thấp tăng
liều lên thì vi khuẩn sẽ chết mà chưa cần đổi qua thuốc chống lao hàng 2. Còn đột
biến katG tức là kháng thuốc nồng độ cao bắt buộc phải đổi thuốc.
2.Xpert MTB/RIF :
TÓM TẮT :
Vậy trên lâm sàng khi nào cần áp dụng xét nghiệm nào ?
AFB (+) Sau 2 tháng điều trị tấn công : AFB vẫn (+) thì phải xem :
TH1 : Lâm sàng và Xquang : nếu vẫn không tiến triển tốt hơn
Bệnh nhân không đáp ứng điều trị. Phải hỏi xem bệnh nhân uống thuốc đều, đúng liều
không ? Nếu đủ hết thì lúc này mới nghĩ lao kháng thuốc
Cho bệnh nhân khạc 1 mẫu đàm làm Xpert, nếu kháng R thì không cần làm lại lần 2 mà
hội chuẩn đổi phác đồ
Nếu Xpert âm tính thì có thể do nhóm NTM, tiếp theo cho cấy
TH2 : Lâm sàng và Xquang tốt có thể vi khuẩn chết rồi chỉ còn xác cấy
- Là những biểu hiện tại phổi sau lần tiếp nhiễm đầu tiên với trực khuẩn lao
- Thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn.
- Có thể có biểu hiện lâm sàng hoặc không.
- Xquang thường thấy là X- quang phổi bình thường.
- Tổn thương nhu mô trong lao nguyên phát có thể xảy ra ở bất kỳ phân thuỳ nào của phổi.
Ở trẻ em thường ảnh hưởng đến thuỳ trên nhiều hơn,. Ở người lớn thì có khuynh hướng
ảnh hưởng đến thuỳ dưới nhiều hơn.
●Hình ảnh đông đặc thuỳ phổi (50%): một vùng mờ đồng nhất có bờ rõ ràng, hiếm khi tạo hang
trừ trong suy dinh dưỡng và suy giảm miễn dịch.
- Biểu hiện là những nốt mờ nhỏ (4-10 mm), tương đương với một tiểu thuỳ, có giới hạn
không rõ, lúc đầu rời rạc, về sau có thể tiến triễn dính vào nhau tạo ra những đám mờ khu
trú (10-70 mm).
- Hình ảnh đông đặc phế nang có thể chiếm toàn bộ một phân thuỳ hoặc một thuỳ phổi tạo
hình ảnh viêm phổi thuỳ (cần phải chẩn đoán phân biệt với viêm phổi thuỳ do vi trùng
thường).
- Tổn thương có thể xóa sạch hoàn toàn sau khi bắt đầu điều trị kháng lao.
●Hình ảnh kê ít gặp và thường thấy ở trẻ dưới 3 tuổi hoặc người suy giảm miễn dịch (6%).
- Biểu hiện là những hạt nhỏ, đường kính khoảng 2-3 mm, bờ rõ, có cùng kích thước, phân
bố đều 2 phế trường hay đều trong một thuỳ phổi (thường là thuỳ trên). Ban đầu hạt kê
rất mờ phải để trên đèn đọc phim và đứng sát phim mới đọc được, sau đó hạt kê đậm dần
lên. Ban đầu hạt kê rời rạc, nếu không điều trị, hạt kê có thể to lên, dính với nhau.
- CT Scan ngực: có khả năng phát hiện hạt kê sớm hơn dù chưa thấy trên X-quang phổi, có
biểu hiện là hàng ngàn hạt tròn nhỏ như đầu kim, có cùng kích thước, phân bố đều.
- Khi điều trị, hạt kê xóa sạch hoàn toàn không để lại di chứng, tốc độ xoá nhanh hơn các
dạng tổn thương lao khác.
- Một số trường hợp, di chứng còn lại là những dải hoặc nốt xơ hoặc là những nốt hoá vôi
sau nhiều tháng hoặc nhiều năm.
- Những dải, nốt xơ mờ và nốt vôi đậm trên X-quang phổi phát hiện tình cờ qua những đợt
khám sức khoẻ định kỳ của những người không có tiền căn lao trước đó có thể gợi ý đến
tình trạng lao nguyên phát tự lành.
- Nghi ngờ có phì đại hạch rốn phổi khi trên X-quang thẳng thấy hình ảnh rốn phổi bất
thường (một bên rốn to hơn hay đậm hơn bên kia, rốn mất hình cong lõm bình thường).
- Hạch phì đại ở rốn phổi hoặc cạnh khí quản thường có bờ ngoài rõ, dạng đa cung (phân
biệt với mạch máu: bờ trơn láng, liên tục; K phế quản trung tâm: bờ không rõ, dạng chân
cua hay nhiều gai).
- Phức hợp nguyên thủy: gồm tổn thương nhu mô ở ngoại vi và phì đại hạch trung thất
cùng bên, tổn thương kinh điển của lao nguyên phát.
- Khi điều trị, hạch trung thất sẽ nhỏ dần cùng với việc xóa tổn thương nhu mô phổi và sự
hồi phục tình trạng xẹp phổi nếu có. Một số trường hợp (36%) sẽ để lại nốt vôi hóa ở rốn
phổi.
●Hình ảnh xẹp thuỳ hoặc phân thuỳ phổi có thể là do biến chứng hạch rốn phổi phì đại hay hạch
vỡ vào phế quản gây chèn ép (18%).
●Khí phế thủng phổi và giãn phế quản sau tắc nghẽn là di chứng không phục hồi của lao (12%).
- Khí phế thũng hay tăng thông khí khú trú do tắc nghẽn có thể xảy ra trước hiện tượng xẹp
phổi.
- Tổn thương có thể xóa sạch sau khi điều trị bằng thuốc kháng lao nhưng thường để lại di
chứng giãn phế quản, đặc biệt là những trường hợp phát hiện trễ.
●Tràn dịch màng phổi mức độ nhẹ đến trung bình, thường gặp ở lứa tuổi 13-30 tuổi (24%).
- Trong lao phổi thứ phát tổn thương có thể nằm bất kì vị trí nào tuy nhiên trường hợp lao
phổi còn khu trú có tổn thương nằm ở phân thùy đỉnh hoặc phân thùy sau của thùy trên
(1/3 trên ở phim thẳng) hoặc phân thùy đỉnh của thùy dưới (vùng giữa trên phim thẳng).
- Phân thùy trước của thùy trên hầu như không bao giờ là vùng tổn thương duy nhất của
lao phổi thứ phát. Nếu chỉ có phân thùy này bị tổn thương thì nên nghĩ đến nguyên nhân
khác hơn là lao (ví dụ K phổi).
- Tuy nhiên, những người bị tiểu đường hoặc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch lâu ngày, tổn
thương có thể phân bố không theo quy luật trên mà xuất hiện ở thùy dưới.
●Hang lao : Hình ảnh hang lao gặp ở khoảng 40% trường hợp lao phổi thứ phát.
- Hang là một khoảng chứa khí trong nhu mô phổi có bờ dầy trên 1 mm.
- Hang lao được đặc trưng bởi bờ tương đối dầy, đồng tâm, thường không có mực nước
hơi.
- Một số hang lao ở thùy trên có phế quản dẫn nối từ bờ dưới hang đến rốn phổi cùng bên.
Phế quản dẫn là hình ảnh của một phế quản bị viêm với thành dầy, bên trong có đường
hơi rõ rệt.
- Trên x-quang, khi còn thấy được vỏ hang có một bề dầy thì hang còn hoạt động, lao còn
tiến triễn.
- Khi không được điều trị, theo thời gian, bờ hang càng lúc càng mỏng và tạo nhiều vách
bên trong cũng như nhiều hang có thể gom tụ lại tại 1 vị trí hay chiếm cả một vùng, một
phế trường tạo hình ảnh xơ hang, bên ngoài có nốt vôi hóa và dải xơ. Đây là biểu hiện
của lao mạn tính (lao phổi không điều trị, lao phổi thất bại điều trị, lao phổi kháng thuốc).
- Khi điều trị, hang lao có thể biến mất. Một số trường hợp, thành hang trở thành mỏng
như giấy, tồn tại dưới dạng kén khí (thành < 1mm) hay còn gọi hang tồn lưu. Theo thời
gian, nấm có thể phát triển trong các hang tồn lưu tạo ra hình ảnh u nấm.
●U lao (tuberculoma): nốt hoặc u (1-4 cm), bờ rõ và trơn láng, có thể có điểm hóa vôi và/hoặc
họai tử bên trong, thường gặp ở thùy trên, phải nhiều hơn trái. Thường có tổn thương vệ tinh
(80%), tổn thương càng lớn thì khả năng họat động càng cao.
●Hình xơ là những bóng mờ dài, bề dầy 1-3 mm, chiều dài vô định, chạy theo mọi hướng, phân
bố không đều. Tổn thương xơ trong lao phổi thứ phát thường nằm ở thùy trên, là những dải mờ
tập trung nhau thành từng nhóm, chạy từ rốn phổi đến màng phổi tạng và hơi tách ra ở ngọai
biên.
- Tổn thương “mềm”: nốt mờ bờ không rõ chứng tỏ tổn thương đang phát triễn
- Tổn thương “cứng”: nốt mờ đậm có bờ rất rõ và sắc nét có hay không có xơ
- Những nốt mờ đậm ở rốn hay thùy trên, có hay không có vôi hóa
- Những nốt mờ nhỏ ở thùy trên, giảm thể tích thùy trên đi kèm với sẹo
- Dầy màng phổi vùng đỉnh hoặc u hạt vôi hóa.
Những sang thương này mà có trên phim phổi của những người đã điều trị lao đầy đủ thì khả
năng lao đã lành là rất cao.
- Tổn thương phế nang hoặc đông đặc phần trên phổi.
- Hang thành mỏng hoặc dày từ 20% to 45%.
- Nốt nhỏ từ 2-10mm bờ không rõ phân bố theo từng đám.
- Tổn thương kê.
- U lao: tạo hang, vôi hóa và tổn thương vệ tinh
Tổn thương nhu mô: là các hình mờ dạng nốt, đông đặc, thâm nhiễm, hình xơ, hang…
2.Hội chứng màng phổi: biểu hiện bởi sự hiện diện bất thường của khí, dịch và mô mềm trong
khoang màng phổi hoặc tại màng phổi. Gồm:
4.Hội chứng mô kẽ bao gồm tất cả những dấu hiệu X quang diễn tả tổn thương trong khoảng mô
kẽ do dịch, do tế bào, và hiếm khi do khí gây nên.
a. Có tính chất không hợp lưu, tổn thường nhỏ, rời rạc ở cả hai phổi
b. Thường lan tỏa, hoặc đối xứng
c. Biểu hiện dạng nốt (nốt nhỏ, nốt lớn), đường (Kerley A, B,C,D) , lưới, dạng kính mờ.
Kerley B: đường nằm ngang dày 1-2 mm, dài 1cm tập trung ở đáy phổi và góc sườn hoành.
Kerley A: hình cong, dày 1-2mm, dài 3-5cm tập trung ở giữa và đỉnh phổi.
Chọc dịch màng phổi là kỹ thuật sử dụng kim nhỏ chọc xuyên qua thành ngực người bệnh, hút
dịch từ khoang màng phổi.
I.Chỉ định :
Chọc dò màng phổi chẩn đoán: Tất cả các trường hợp tràn dịch màng phổi chưa rõ nguyên nhân,
được xác định TDMP qua:
Khám thực thể: hội chứng 3 giảm , lồng ngực bên thương tổn gồ cao, gian sườn giãn, đau
ngực…
XQ ngực.
Siêu âm ngực.
Chọc dịch màng phổi điều trị: giúp cải thiện triệu chứng trên bệnh nhân tràn dịch màng phổi
lượng nhiều.
II.Chống chỉ định :
Không có chống chỉ định tuyệt đối
- Giải thích cho người bệnh mục đích của thủ thuật và các tai biến có thể xảy ra + Cam kết
đồng ý chọc dịch màng phổi.
- Hướng dẫn người bệnh hít thở theo yêu cầu.
- Tiêm dưới da một ống Atropin 1/4mg trước khi chọc dịch 15 phút.
- Tư thế người bệnh: tốt nhất ngồi tư thế cưỡi ngựa, trường hợp nặng có thể nằm đầu cao.
Đầy đủ các xét nghiệm công thức máu, đông máu cơ bản, AST, ALT, Bilirubin, Ure, creatinin.
IV.Thực hiện :
Xác định vị trí chọc dịch (vùng có DMP): qua khám lâm sàng,
có thể phối hợp với siêu âm màng phổi.
Trước khi làm thủ thuật, siêu âm tại giường có thể được sử dụng để xác định sự hiện diện và kích
thước của tràn dịch màng phổi, sự khu trú của nó.
Trong suốt thủ thuật , siêu âm có thể được sử dụng để hướng dẫn vị trí kim.
- Sát trùng vùng định chọc dịch: 2 lần bằng cồn iode 1% và cồn.
- Trải săng lỗ.
- Gây tê: chọc kim ở vị trí bờ trên xương sườn dưới, thẳng góc với mặt da. Sau đó
dựng kim vuông góc với thành ngực, gây tê thành ngực từng lớp (trước khi
bơm lidocaine phải kéo piston của bơm tiêm
nếu không thấy có máu trong đốc kim tiêm mới bơm thuốc), tiếp tục gây tê sâu dần
đến khi rút được dịch màng phổi là kim tiêm đã vào đến khoang màng phổi, rút bơm và
kim gây tê ra.
- Lắp bơm tiêm 20 ml vào đốc kim 20 G và hệ thống chạc 3 dây truyền
- Nối đầu kia dây truyền với bình đựng dịch.
- Chọc kim qua da ở vị trí đã gây tê từ trước.
- Đẩy kim vào qua các lớp thành ngực với chân không trong tay (trong bơm tiêm
luôn có áp lực âm bằng cách kéo giữ piston)
- cho đến khi hút ra dịch.
- Muốn đẩy dịchvào dây truyền thì xoay chạc ba sao cho thông giữa bơm tiêm và dây
truyền và khóa đầu ra kim
- Chú ý cố định tốt kim chọc dịch để hạn chế tai biến.
- Tháo kim cẩn thận và băng kín.
V.Tai biến :
- Phù phổi cấp: thở oxy mask, đặt nội khí quản thở máy nếu cần…
- Tràn khí màng phổi: thở oxy, chọc hút khí hoặc dẫn lưu màng phổi.
- Tràn máu màng phổi: mở màng phổi dẫn lưu, nếu nặng
- truyền máu, chuyển ngoại khoa can thiệp phẫu thuật.
- Cần chụp XQ ngực kiểm tra sau chọc dò MP.
- Tràn khí màng phổi lượng nhiều hoặc tràn khí màng phổi gây suy hô hấp
- Tràn mủ màng phổi tự do, hoặc vị trí ổ mủ cho phép đặt ống dẫn lưu.
- Tràn máu màng phổi
- Tràn dưỡng trấp màng phổi (do chấn thương)
- Tràn dịch màng phổi ác tính tái lập nhanh.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH:
NGUYÊN TẮC: Dẫn lưu sớm, Dẫn lưu triệt để, Kín, Một chiều, Vô trùng tuyệt đối