You are on page 1of 26

Họ và tên:Nguyễn Thị Trường Giang

Lớp:Luật 2 – k9
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề bài

Câu 1: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng
Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc
son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là
tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc
tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của
cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và
đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò
lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây,
cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời,
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách
mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính
là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ
lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng
diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển
mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho
sự tập  hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng
chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành
những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt
86 năm qua.

Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào
cách mạng thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng
góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới
vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Câu 2: Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng(2/1930)
– Cương lĩnh đã nêu “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đó là mục đích lâu dài,
cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam.
 Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho nhân dân được tự do hội họp,
nam nữ quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam
hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công – nông –
binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản
lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân
cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ.
Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng
tha thiết của nhân dân ta.
– Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư
sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế
giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn
địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập,
người cày có ruộng.
– Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách
mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng Mác –
Lênin.
– Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính
xác tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ,
huyện bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.

Câu 3:Vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1930
đến năm 1945
 Vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Ngọn cờ cứu nước của giai
cấp phong kiến đã lỗi thời, ngọn cờ của giai cấp tư sản cũng không phất
cao lên được, điển hình là thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt
Nam Quốc dân Đảng tiến hành. Cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước thực chất là cuộc khủng hoảng về sự lãnh đạo cách mạng của
một giai cấp tiên tiến mà đại biểu là chính đảng cách mạng. Đất nước
trong cơn bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”, năm 1911,
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu và truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và
tổ chức để thành lập Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
    Qua một quá trình chuẩn bị, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời. Đây là kết quả của quá trình vận động cách mạng trong hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại; là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình phát triển
của cách mạng Việt Nam từ đó đến nay. Đảng ra đời sớm có Cương lĩnh
cách mạng đầu tiên đúng đắn. Cương lĩnh xác định: “Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản… Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”(1). Cương lĩnh đáp ứng đúng
yêu cầu của cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho Đảng giành được quyền
lãnh đạo phong trào cách mạng, đồng thời phản ánh vai trò lãnh đạo
cách mạng Việt Nam của Đảng ngay từ khi mới ra đời. Đánh giá sự kiện
này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta.
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng”(2).
    Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng
1930-1931, đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo
quần chúng công nông cả nước đấu tranh chống ách thống trị của bọn đế
quốc, phong kiến. Thành quả lớn nhất của cao trào cách mạng 1930-
1931, mà cuộc khủng bố trắng tàn khốc của đế quốc và phong kiến
đã không thể nào xóa nổi là ở chỗ, nó khẳng định trong thực tế quyền
lãnh đạo duy nhất thuộc về Đảng ta; ở chỗ, nó đem lại cho quần chúng
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi khẳng định đường lối
cách mạng đúng đắn của Đảng ta, khả năng cách mạng to lớn của công
nông, nó cũng chứng tỏ tính chất phiêu lưu, cải lương của giai cấp
phong kiến và tư sản mại bản. Đó là thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển về sau của cách mạng Việt Nam. “Trực tiếp
mà nói, không có những trận chiến đấu rung trời chuyển đất những năm
1930-1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi
thường của mình, thì không thể có cao trào những năm 1936-1939”(3).
Đây là “cuộc tổng diễn tập đầu tiên” cho thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.
    Những năm 1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp
pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước
ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng coi đây là một
cơ hội tốt để đưa cách mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ
này là “chống phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh,
đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”. Cao trào cách mạng 1936-1939
dưới sự lãnh đạo của Đảng là thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi
với nhiều hình thức tổ chức và hoạt động linh hoạt, phong phú, kể cả
việc lợi dụng các “Viện dân biểu”, các “Hội đồng quản hạt” do thực
dân Pháp lập ra. Đảng đã động viên, giáo dục cho hàng triệu quần chúng
trong các cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp. Sự lãnh đạo của Đảng thời
kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng lực lãnh đạo
của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến
đấu quyết liệt trong những năm 1940-1945. 
    Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp quỳ gối dâng
nước ta cho phát xít Nhật, dân ta một cổ hai tròng. Đảng nhận định đây
là thời kỳ mà ách áp bức, bóc lột và chiến tranh đế quốc làm cho nhân
dân ngày càng cách mạng hóa, cách mạng sẽ bùng nổ. Đảng quyết định
lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc
dân chủ, đồng thời xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị vũ trang
đầu tiên, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ.
Khi Nhật hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau
lẹ, phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, tiến hành cuộc Cách
mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền nhanh gọn trong cả
nước, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa
Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm quyền. Đánh giá về cuộc Cách mạng
Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc”(4) .
    Sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền cách mạng còn trứng
nước, trước nguy cơ cực kỳ nghiêm trọng do thù trong giặc ngoài gây ra,
tình hình đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Với sự lãnh đạo sáng
suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng đã
lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở, lướt
sóng đi lên. Lúc thì tạm hòa hoãn với Tưởng để rảnh tay đối phó
với Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc thì tạm hòa hoãn với
Pháp để đuổi quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai, giành thời
gian củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cả nước bước vào cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Những biện pháp cực kỳ sáng
suốt đó cho thấy sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta và đã “được ghi vào lịch
sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược
lêninnít”. 
    Sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta còn thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp 1946-1954. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
quân và dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” và đã giành được thắng lợi vẻ
vang, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội
năm châu, chấn động địa cầu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản
để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng lãnh
đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp có ý nghĩa không chỉ
với nước ta mà còn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước
thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó
là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời, cũng là một
thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và XHCN trên thế giới”(5).
    Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước
bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần
chiến đấu vô cùng anh dũng và quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Giải phóng miền Nam, xây dựng CNXH ở miền Bắc. Với đường
lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng đã kết hợp
sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên đến mức cao
nhất lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
một cuộc kháng chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình độ cao
những truyền thống cách mạng và năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn
đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH trên đất nước
ta. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử
dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng
ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con
người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu
sắc”(6).
    Hơn 30 năm đổi mới là giai đoạn lịch sử quan trọng của cách mạng
Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng
ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến
sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta, thể hiện tài năng lãnh đạo của Đảng ta.
Đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá; nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN từng bước được hình thành; chính trị - xã hội
ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước
phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; dân chủ
XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức
mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối
ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
    Thời gian là hòn đá thử vàng, 90 năm qua là giai đoạn đặc biệt của
cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất là Đảng
Cộng sản Việt Nam, là thời gian mà đất nước và dân tộc vượt qua nhiều
thách thức, có lúc hiểm nghèo. Mỗi lần vượt qua thách thức, Đảng và
dân tộc ta lại trưởng thành, vươn lên tạo dựng những mốc son
mới. Những mốc son chói ngời đó chứng minh rõ tài năng lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam. Chỉ điểm qua những kết quả nêu trên, có
thể khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 
Câu 4:Ý nghía lịch sử cách mạng tháng Tám năm 1945
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu
tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại
trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn
hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân
Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm
chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng
sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền.

- Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng
lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-
Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển
tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao
của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của
dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với
xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống
trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản,
cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ
có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu
nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước

Câu 5:Đường lối kháng chiến chống thực dân dân Pháp của
Đảng (1946-1954)
Từ cơ thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo
con đường của chủ nghĩa xã hội.sở thực tiễn đấu tranh ngày càng phong
phú của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng lâu dài, đường lối
quân sự của Đảng ngày càng có thêm những cơ sở khoa học vững chắc,
có tính chiến đấu cao nên ngày càng hoàn chỉnh và trở thành ngọn cờ
trăm trận trăm thắng của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam và
toàn dân tộc Việt Nam.
Đường lối quân sự của Đảng là đường lối khởi nghĩa vũ trang toàn dân;
Tính chất kháng chiến: trường kì kháng chiến, toàn diện kháng chiến.
Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.
– Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng
Tháng Tám, “đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất
và độc lập”.
– Nhiệm vụ kháng chiến: “Cuộc kháng chiến này chính là một cuộc
chiến tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do…
nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và phát triển dân chủ
mới”.
– Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính.
+ Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam
phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
+ Kháng chiến toàn diện: đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
 Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân
tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
 Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du
kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “triệt để dùng du
kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… vừa
đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
 Về kinh tế: tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cấp, tập trung
phát triển nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công
nghiệp quốc phòng. 
 Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền văn
hóa dân chủ theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
 Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm
phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập,…
+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa
lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. + Dựa vào sức
mình là chính: “phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn
phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song
lúc đó cũng không được ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất
định thắng lợi.

Câu 6: Đại hội II(9/1960) của Đảng:nội dung,ý nghĩa


* Nội dung:
- Đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của
cách mạng từng miền:
+ Miền Bắc: thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, có vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước.
+ Miền Nam: thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có vai
trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng Miền Nam.
- Cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác động lẫn nhau
nhằm thực hiện hòa bình thống nhất đất nước.
- Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng và
thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965).
- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới, bầu Bộ Chính trị của
Đảng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất.
* Ý nghĩa:
- Đánh dấu bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đường lối đấu tranh thống nhất đất
nước.
- Là cơ sở cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ thành một khối thống nhất.
- Là “nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng, toàn dân ta
xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình
thống nhất nước nhà.”

Câu 7:Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
giai đoạn 1965-1975
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền
Nam, các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã
nêu chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được
sau cuộc "đồng khởi" năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi
nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô
toàn miền.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (tháng 11-1963), ngoài việc xác
định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng
Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam.
Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi
đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu
cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác
định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền
Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối phó
với âm mưu đánh phá của địch.
Trước hành động gây "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiến hành chiến
tranh phá hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần
thứ 11 (tháng 3-1965) và lần thứ 12 (tháng 12-1965) đã tập trung đánh
giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, círu nước trên
cả nước.
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho
rằng, cuộc "Chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn
là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong
thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn
về chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương Đàng quyết
định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc,
coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam
chí Bắc.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu "Quyết tâm đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược", "kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà".
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát
động chiến tranh nhân đân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền
Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng
đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả
hai miền để mở những cuộc tiến công lớn. tranh thủ thời cơ giành thắng
lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền
Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và
phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến ông và liên tục tiến công: "Tiếp
tục kiên trì phương châm đẩu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính
trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công", đánh địch trên cả ba vùng chiến
lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết
định trực tiếp và giữ một vị tri ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế,
bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc
phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất
để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích
cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều
mình mở rộng "Chiến tranh cục bộ" ra cả nước.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến
lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả
nước, vì miền Bắc "Xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong
cuộc chién tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về
mọi mặt nhằm bảo đảm chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng
mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó
nhau. Khẩu hiệu chung của nhân đân cả nước lúc này là "Tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Câu 8:Thành tựu,hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khủng


hoảng kinh tế - xã hội thời kỳ 1975-1986
*Thành tựu kinh tế xã hội giai đoạn 1975-1986 được thể hiện qua 2 kế
hoạch
1. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980)
- Tháng 1 - 1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại
Hà Nội đã:
+ Đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
+ Quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế hoạch Nhà
nước 5 năm (1976 - 1980).
- Nhiệm vụ: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa xây dựng đất
nước vừa cải tạo quan hệ sản xuất.
- Mục tiêu: Xây dựng một nước cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa
xã hội, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
- Thành tựu:
+ Các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp. giao thông vận tải được khôi
phục và bước đầu phát triển.
+ Cải tạo xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh trong các vùng mới giải
phóng ở miền Nam.
+ Xóa bỏ những biểu hiện của văn hóa phản động, xây dựng nền văn
hóa mới cách mạng, giáo dục phát triển.
2. Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 - 1985)
- Đại hội V của Đảng (3 - 1982) khẳng định tiếp tục đường lối xây dựng
CNXH trong phạm vi cả nước, nhưng có sự điều chỉnh, bổ sung và cụ
thể hóa để phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.
- Xác định thời kì quá độ đi lên CNXH ở nước ta trải qua nhiều chặng,
quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Kế hoạch Nhà nước 5
năm (1981 - 1985).
- Phương hướng: sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa nền kinh tế quốc dân.
- Mục tiêu: ổn định tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng những nhu cầu
cấp thiết của đời sống nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối của nền kinh
tế.
- Thành tựu:
+ Sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,9%, sẩn xuất công
nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5%,...
+ Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm 6,4%.
+ Hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình
vừa và nhỏ, bắt đầu khai thác dầu mỏ, nhiều công trình thủy lợi được
xây dựng.
+ Hoạt động khoa học - kĩ thuật được triển khai, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
*, Hạn chế chung của cả 2 kế hoạch:
-Trong giai đoạn mới, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ thẳng tiến lên CNXH, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chuyển từ nền kinh tế sang dựa
sức mình là chính.
-Trong 10 năm từ 1976-1986, bên cạnh việc Đảng khẳng định 3 thành
tựu nổi bật thì tồn tại song song đó là những sai lầm, khuyết điểm nổi
bật như không hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và
V của Đảng đề ra
-Hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh chưa kịp hàn gắn thì chiến
tranh ở biên giới hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó khăn mới.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch không ngừng chống phá cách
mạng Việt Nam
-Hoàn cảnh quốc tế giữa các thế lực cách mạng và thế lực phản cách
mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt
-Nền kinh tế thấp kém dẫn đến thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra
-Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ không tranh thủ được những thành
tựu của Cách mạng Khoa học kỹ thuật - Công nghệ trên thế giới, còn
hanh chế về tiếp thu thành tựu trong phạm vi Liên Xô và các nước
XHCN
-> Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài, sản xuất tăng
chậm và không ổn định, nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt,
không có tích luỹ, lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao vây, cô
lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ bị giảm sút nghiêm trọng.
*, Nguyên nhân:
-Nguyên nhân khách quan là do xây dựng đất nước từ nền kinh tế nghèo
nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao vây, cấm vận nhiều năm,
nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh
-Nguyên nhân chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong đánh giá
tình hình xác định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế,
sai lầm trong cải tạo XHCN, trong lĩnh vực phân phối lưu thông, duy trì
quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, buông lỏng chuyên chính vô
sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.

Câu 9:Nội dung đường lối đổi mới tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986)
*Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng.
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư VI của Đảng đã họp tại Hà Nội từ
ngày 15 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu,
thay mặt cho hơn hai triệu đảng viên, ngoài ra còn có 35 đại biểu quốc
tế.
-Đại hội VI đã đánh giá đúng mức những thành tựu đã đạt được trong 20
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời với tinh
thần nhìn thẳng vào, đánh giá đúng sự thật, Đại hội đã chỉ ra những mặt
yếu kém, những khó khăn gay gắt của kinh tế –xã hội nước ta.
-Đại hội rút ra những bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối
với hoạt động chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
+Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, phát huy quyền làm chủ của nhân dân . Đảng phải xuất
phát từ thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
+Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện lịch sử mới. -Đại hội khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng nước ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
-Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện ,
trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế :
-Vấn đề quan trọng trước tiên là phải xác định lại mục tiêu sát hợp với
quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội từ sản xuất nhỏ. Đại hội xác định rằng,
công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải trải qua
nhiều chặng đường: “Nhiệm vụ bao trùm , mục tiêu tổng quát của những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh
tế – xã hội , tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”
-Đại hội đề ra 5 mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là:
+Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ +Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh
tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất .
+Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển sản xuất .
+Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội .
-Đại hội đã đề ra một hệ thống giải pháp để thực hiện các mục tiêu nói
trên:
+Bố trí lại cơ cấu sản xuất , cơ cấu đầu tư về xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất mới, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh
tế ....Đại hội nhấn mạnh giải pháp tập trung sức người, sức của vào việc
thực hiện ba chương trình mục tiêu: lương thực-thực phẩm; hàng tiêu
dùng; hàng xuất khẩu.
-Đại hội nhấn mạnh ba chương trình mục tiêu đó là sự cụ thể hoá nội
dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ.
+Đại hội khẳng định cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế,coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng
của thời kỳ quá độ. Đó là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược, góp phần
giải phóng và khai thác mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất ,
từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.

+Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế . Đại hội khẳng định dứt khoát xoá bỏ
cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp , chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá
theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ . Những quan điểm về vấn đề kinh tế quan trọng
nói trên là một sự đổi mới rất cơ bản trong tư duy kinh tế của Đảng.

Câu 10: Kinh nhiệm lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi
mới từ 1986 đến nay
*Kinh nhiệm lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới từ 1986
đến nay

Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.

Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn
dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Bởi đổi mới là công cuộc có tính tổng thể, được chuẩn bị bài bản, theo
cách thức, với từng đường đi nước bước cụ thể, được cân nhắc chắc
chắn, triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, cho nên 35 năm qua,
công cuộc đổi mới đã thật sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh
đất nước, gắn bó với mỗi người Việt Nam, và được bạn bè quốc tế hết
sức quan tâm.

Ðổi mới để phát triển, song phải là phát triển trong thế ổn định, theo
đúng định hướng, con đường mà chúng ta đã chọn. Ðổi mới để thực hiện
bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị
trường do Nhà nước quản lý, điều hành theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng thả nổi thị trường; phát triển kinh tế nhưng phải đi đôi
với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu
nghèo. Ðổi mới yêu cầu gắn với mở cửa, hội nhập, với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để đất nước phát triển nhanh, bền vững; xây
dựng, tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản
xuất phù hợp, từ đó nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới.
Sau 35 năm, đất nước đã đạt được những kết quả thiết thực, mà trước hết
là đổi mới tư duy để khắc phục được nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh
giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng càng
được tăng cường, định hướng XHCN được giữ vững, hình thành quan
niệm mới về mục tiêu, bước đi, cách thức phát triển đất nước và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN từng bước hình thành, phát
triển. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố, tăng
cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước
có thu nhập thấp; đời sống nhân dân cải thiện đáng kể, ổn định chính trị
- xã hội được bảo đảm, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc,
quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng. Ðổi mới đã đưa nước ta từ
chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay đã thành nước xuất
khẩu gạo đứng ở tốp đầu thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi
thay từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh
chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống, làm
việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có nhiều nét mới mẻ, tươi tắn
như hôm nay.

Ðổi mới giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp
đạt được trước đây, vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn
khác trước, làm khác trước, phù hợp với trạng thái phát triển mới, vì thế,
đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức chúng ta đi thêm
những bước dài trên con đường đã chọn.

Qua 35 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập
trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế; bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi; dân
chủ XHCN được phát huy và mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi
mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày
càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao…Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất
nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới; đồng thời khẳng
định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và
xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng
ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện
vọng của nhân dân, được nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn
bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận thức, vận dụng, phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa,
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận
dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh
chính trị, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng
thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết sách phù
hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước.
Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng con người,
không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực
vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền
trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.

Song bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm.
Cụ thể như: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập,
chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng
thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học hoạch định đường lối của Ðảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi
lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục
làm rõ. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng,
yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn
định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao. Chất lượng, hiệu quả, năng
suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Phát triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường.
Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã
hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn
một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, lĩnh
vực, còn một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng
thành quả của công cuộc đổi mới…
Từ thành tựu, hạn chế, khuyết điểm đó, có thể đúc rút một số bài
học kinh nhiệm quý báu:

+ Thứ nhất . Quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo
trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Ðảng, là cơ sở
phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định,
hoàn thiện đường lối; đồng thời kế thừa và phát huy truyền thống dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế
phù hợp với Việt Nam. Xây dựng đất nước theo con đường XHCN là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật
để có một nước Việt Nam phát triển bền vững. Và trong quá trình đổi
mới, bên cạnh các cơ hội, có thể xuất hiện vấn đề mới, khó khăn, thách
thức mới, Ðảng, Nhà nước và nhân dân cần phải chủ động, không ngừng
sáng tạo để giải quyết và vượt qua.

+ Thứ hai . Ðổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”,
vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh
thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy
sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân
dân, đổi mới sẽ thất bại. Những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của nhân
dân nảy sinh từ thực tiễn là yếu tố quan trọng góp phần hình thành
đường lối đổi mới của Ðảng. Nhân dân làm nên các thành tựu của đổi
mới, đổi mới phải dựa vào nhân dân. Dân chủ XHCN là bản chất của
chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Do
đó, xây dựng, phát huy dân chủ XHCN phải bảo đảm tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và
thụ hưởng thành quả của đổi mới. Ðể phát huy dân chủ XHCN, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc
lợi, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

+ Thứ ba. Ðổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải
tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn,
coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp
thời, hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra.

Thực tế cho thấy, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực đời
sống, từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn, từ hoạt động lãnh
đạo của Ðảng và quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ
phận của hệ thống chính trị, từ hoạt động ở trung ương đến hoạt động
của địa phương, cơ sở. Trong quá trình đổi mới, phải tổ chức thực hiện
quyết liệt với các bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; không
để xảy ra tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp, vì sẽ gây mất ổn định,
thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá. Ðồng
thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình
trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển. Phải tôn trọng quy luật
khách quan, coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu, là cơ sở để đổi
mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước đều
phải xuất phát từ thực tiễn. Ðể dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực
hiện đường lối đổi mới, Ðảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu
quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các
thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở phát
triển.

+ Thứ tư . Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; kiên định độc
lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng,
cùng có lợi. Phải luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong
bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ, và đồng thời
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Trong
đó, phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở kết hợp sức mạnh thời đại,
làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn. Và quan hệ quốc tế dựa trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
+ Thứ năm: phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín
ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Ðảng
trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới; nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội và cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ
mật thiết với nhân dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết
định thành công của công cuộc đổi mới. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Ðảng
phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu; đồng thời thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể trong tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới.

Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức
mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới.

Những bài học kinh nghiệm đó là cơ sở quan trọng để Đảng ta tiếp tục
vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp
chúng ta kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách
thức mới và nhiệm vụ nặng nề hơn khi bước vào nhiệm kỳ khóa XIII.

Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có
nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn,
thách thức.
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị
đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến
lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác
động của đại dịch COVID-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng nhiều mặt.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá
trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia. Các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm
thích ứng với tình hình mới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục
có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường
an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp.

Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền
thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt,
đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới,
khu vực và đất nước ta.

Trong khi đó, dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự
hào, nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và
hạn chế. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng; sau 4 năm
đầu của nhiệm kỳ liên tục tăng trưởng cao, nhưng năm 2020 bị suy giảm
mạnh do tác động tiêu cực của dịch bệnh và thiên tai, hạn hán, bão lũ
liên tiếp xảy ra.

Tính tự chủ và khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa cao. Kinh tế
tập thể, hợp tác xã phần lớn có quy mô còn nhỏ, năng lực nội tại còn
yếu. Hiệu quả hoạt động của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp.
Kinh tế tư nhân trong nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển
nhanh nhưng chưa thật bền vững.

Công tác lãnh đạo, quản lý, bảo đảm an ninh con người, trật tự, an toàn
xã hội; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, gây
bức xúc xã hội. Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt.
Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách
thức.

Giá trị lịch sử, truyền thống văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam
chưa được phát huy đầy đủ. Năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế;
chất lượng luật pháp, chính sách trong một số lĩnh vực còn thấp. Năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn chưa
ngang tầm nhiệm vụ. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước
chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế
hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện
vẫn là khâu yếu.

Những khó khăn, hạn chế và khuyết điểm đó đòi hỏi chúng ta phải có
quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động quyết liệt hơn nữa để khắc phục
cho bằng được. Tuyệt đối không được chủ quan, tự mãn, mất cảnh giác.

Rõ ràng sau 35 năm, chúng ta đã không chỉ đạt được thành tựu to lớn có
ý nghĩa lịch sử, mà còn tiếp tục đẩy mạnh và phát triển với các nguồn
lực phong phú. Hành trình đổi mới với sự hài hòa giữa ý Ðảng với lòng
dân đã và đang kết hợp cả ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ðó là
động lực lớn nhất, yếu tố cơ bản nhất tạo nên thành công của sự nghiệp
cao cả là xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.

You might also like