Professional Documents
Culture Documents
Ô nhiễm đất và nước ngầm là một trong những vấn đề môi trường chính đối với sức
khỏe và sản xuất lương thực, do sự tồn tại của nhiều địa điểm ô nhiễm và hóa chất ở
nồng độ gây nguy hiểm cho sức khỏe . Ngoài ra, đối với các quốc gia có mật độ dân
số cao, những khu vực này là một trở ngại cho sự phát triển kinh tế và đô thị . Các
chất gây ô nhiễm hữu cơ, cùng với kim loại, là những loại thường được tìm thấy trong
đất và trầm tích, và nếu không được xử lý, những chất này có thể ngấm vào nước
ngầm. Để khắc phục đất, trầm tích và nước ngầm bị ô nhiễm, nhiều nỗ lực đã được
thực hiện để xử lý hoặc ngăn chặn các chất gây ô nhiễm từ việc triển khai một số công
nghệ. Sau khi xử lý hoặc ngăn chặn các chất gây ô nhiễm, cần thực hiện các hình thức
và quy trình đánh giá, giám sát để đánh giá hiệu quả của các công nghệ được áp dụng.
Vì vậy, việc áp dụng công nghệ xử lý là một phần của việc giải quyết vấn đề, tiếp
theo là toàn bộ quá trình quản lý sau xử lý.
Các biện pháp phục hồi đất được chia thành hai loại là xử lý tại chỗ ( in-situ) và xử lý
hiện trường( ex-situ) được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi. Trong đó phục hồi đất
bằng phương pháp xử lý tại chỗ đã và đang cho thấy những hiệu quả đáng kể và tiềm
năng áp dụng lớn trong tương lai. Vì vậy để hiểu rõ hơn về những biện pháp phục hồi
ô nhiễm đất tại chỗ, nhóm em xin trình bày đề tài : Trình bày tổng quan về các
phương pháp phục hồi ô nhiễm đất tại chỗ.
1. Tổng quan về phương pháp sinh học phục hồi ô nhiễm đất tại chỗ bằng thực
vật và vi sinh vật
1.1 So sánh sự khác biệt giữa xử lý sinh học tại chỗ và xử lý sinh học ngoại vi:
Xử lý sinh học là hoạt động sử dụng các sinh vật như vi khuẩn, thực vật, nấm và giun
để loại bỏ chất thải độc hại trong đất một cách tự nhiên. Xử lý sinh học của một địa
điểm bị ô nhiễm thường hoạt động theo một trong hai cách sau
1. Xử lý sinh học tại chỗ (in-situ bioremediation): Xử lý tại chỗ là xử lý các chất ô
nhiễm tại nơi phát sinh. Loại chiến lược này nhằm mục đích loại bỏ các chất gây ô
nhiễm khỏi đất hoặc trầm tích mà không làm di chuyển đất hoặc trầm tích. Các quy
trình khắc phục tại chỗ là lựa chọn duy nhất để xử lý một địa điểm bị ô nhiễm lớn,
khi xem xét quy mô của khu vực và mối quan hệ với lợi ích chi phí. Đối với diện tích
đất và/hoặc trầm tích bị ô nhiễm lớn, quy trình xử lý tại chỗ được áp dụng vì ít gây
xáo trộn hiện trường, thao tác tương đối đơn giản và chi phí thấp hơn so với quy trình
xử lý ngoài hiện trường
2. Xử lý sinh học ngoại vi (ex-situ bioremediation): kỹ thuật xử lý đưa các chất gây ô
nhiễm ra khỏi vị trí mà chúng được tìm thấy. Đất bị ô nhiễm được đào lên khỏi vị trí
ban đầu , đặt trên bề mặt đất và được xử lý bằng vi sinh vật trong môi trường được
kiểm soát. Các quy trình xử lý ngoại vi có xu hướng nhanh hơn và dễ quản lý hơn
nhưng đắt hơn so với các quy trình xử lý tại chỗ và có xu hướng gây rối loạn đối với
cấu trúc đất và quần thể sinh học của trong đất, và quá trình phục hồi sau xử lý có thể
mất nhiều thời gian hơn.
1.2 Phục hồi ô nhiễm đất tại chỗ bằng vi sinh vật:
1.2.1 Thông khí( Bioventing)
Thông khí (Bioventing) là phương pháp xử lý sinh học tại chỗ thông dụng, nhất
thường được sử dụng để xử lý các chất gây ô nhiễm có khả năng phân hủy sinh học
trong điều kiện hiếu khí tại các vùng chưa bão hòa của đất
a. Cơ chế:
Thông khí được thực hiện trong vùng vadose đất (tầng không bão hòa phía trên
mực nước ngầm). Không khí được bơm vào đất với tốc độ thấp đủ để kích thích
và duy trì các vi sinh vật hiếu khí phân hủy sinh học các chất gây ô nhiễm hữu cơ.
Tốc độ thấp của luồng không khí nhằm mục đích giảm thiểu sự bay hơi và giải
phóng vào bầu khí quyển của các chất hữu cơ và thường được sử dụng để xử lý
đất bị ô nhiễm với hydrocarbon ít bay hơi.
Trong thông khí, hoạt động của vi khuẩn trong đất được tăng cường bằng cách tạo
ra luồng không khí (hoặc oxy) vào vùng không bão hòa (sử dụng giếng khai thác
hoặc phun) và bổ sung thêm chất dinh dưỡng.
Quy trình xử lý: Khí oxy và chất dinh dưỡng sẽ được đưa vào vùng không bão
hòa qua đường ống vào (Injection) để cung cấp cho hoạt động sống của VSV. Tại
đây, VSV sẽ tiến hành quá trình phân giải các chất ô nhiễm thành các chất vô hại.
Sau đó, các chất sản phẩm của quá trình (khí bay hơi- nếu có) sẽ được đưa ra
ngoài nhờ đường ống ra (Extraction).
Hình . Cơ chế tích lũy liên tục và tăng cường trong chiết xuất thực vật
a. Cơ chế liên tục
Cơ chế tích lũy liên tục của Phytoextraction sử dụng các loại cây có khả năng tích lũy
một lượng rất lớn kim loại nặng trong sinh khối. Khả năng tích lũy kim loại nặng
trong những cây này có thể gấp 100 lần trong các cây không có khả năng tích lũy.
Hiện tại, hơn 450 loài thực vật từ ít nhất 45 họ thực vật hạt kín các loại thảo mộc hàng
năm đến cây bụi và cây lâu năm đã được xác định là siêu tích lũy kim loại, như các
họ Brassicaceae, Fabaceae, Euphorbiaceae, Asterraceae, Lamiaceae và
Scrophulariaceae. Một số loài thậm chí có thể tích lũy nhiều hơn hai yếu tố, chẳng
hạn như Sedum alfredii, có thể tăng cường Zn, Pb và Cd. Mặc dù có khả năng tích lũy
kim loại cao nhưng hầu hết chúng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn với sản lượng sinh
khối thấp và tốc độ tăng trưởng chậm, điều này làm hạn chế hiệu quả của quá trình
phytoextraction.
Vì vậy các cây không có khả năng tích lũy lớn, nhưng có sản lượng cao cũng được sử
dụng để bù đắp cho các khó khăn này, chẳng hạn như Helianthus annuus, Cannabis
sativa, Nicotiana tabacum và Zea mays. Cỏ cũng có thể được sử dụng để
phytoextraction vì vòng đời ngắn, tốc độ tăng trưởng cao, sản xuất sinh khối nhiều
hơn và khả năng chịu đựng cao đối yếu tố khí hậu. Ví dụ, Trifolium alexandrinum
phù hợp cho chiết xuất thực vật của Cd, Pb, Cu và Zn, sở hữu khả năng tăng trưởng
nhanh, khả năng chống lại tải lượng ô nhiễm, sinh khối cao và nhiều vụ thu hoạch
trong một giai đoạn tăng trưởng duy nhất. Các loài thân gỗ có thể tạo ra một lượng
sinh khối rất cao khi so sánh với các loại thảo mộc và cây bụi, tạo điều kiện cho sự
tích tụ hàm lượng kim loại nặng cao trong sinh khối trên mặt đất của chúng. Chúng có
hệ thống rễ sâu, có thể làm giảm xói mòn đất một cách hiệu quả và ngăn chặn sự phân
tán của đất bị ô nhiễm ra môi trường xung quanh.
b, Cơ chế tăng cường hóa học
Các chất hóa học cũng được sử dụng để hỗ trợ cho chiết xuất thực vật. Các chất hóa
học giúp tạo phức với các ion kim loại ( ở dạng ion, dạng hòa tan, dạng vô cơ, hòa tan
kết tủa kim loại ban đầu). Các phức này dễ dàng được cây hấp thụ và chuyển hóa
trong mô thực vật.
Tăng cường chiết xuất thực vật bằng cách bổ sung chất xúc tác hoặc chất chelate vào
đất. Chất chelate là chất tạo phức với chất gây ô nhiễm. Trong trường hợp kim loại
nặng, các chất chelate như etylenglyte- axit traacetic (EDTA) hỗ trợ trong việc huy
động và tích lũy các chất gây ô nhiễm đất như Pb, Cd, Cr, Cu, Ni và Zn
trong Brassica juncea (Mù tạt Ấn Độ) và Helianthus anuus (hướng dương). Khả năng
của kim loại khác chất chelate hóa như axit trans -1,2-xyclohexanediaminetetraacetic
(CDTA), die- axit thylenetriaminepentaacetic (DTPA), axit ethyleneglycoltetraacetic
(EGTA), etylenglycol-N, N 0 -bis (axit 2-hydroxyphenylaxetic) (EDDHA) và axit
nitrilotriacetic (NTA) để tăng cường sự tích tụ kim loại cũng đã được đánh giá ở các
loài thực vật khác nhau.
Phạm vi xử lý
Giới hạn của độ sâu của phương pháp này là khoảng 2m kể từ mặt đất.
Với độ sâu này thì thực vật có khả năng xử lý chất ô nhiễm đạt hiệu quả tốt nhất. Để
có thể xử lý với độ sâu lớn hơn, đòi hỏi giống thực vật được chọn phải có bộ rễ sâu và
phù hợp với môi trường xử lý để có thể đạt được hiệu quả mong muốn.
Một số ví dụ
Ví dụ về các loài thực vật được biết là tích tụ các chất gây ô nhiễm sau:
Asen , sử dụng hướng dương ( Helianthus annuus ), [15] hoặc dương xỉ Phanh Trung
Quốc ( Pteris vittata ). Cadmium , sử dụng cây liễu ( Salix viminalis ): đặc điểm cụ
thể như khả năng vận chuyển kim loại nặng cao từ rễ đến chồi và sản lượng sinh
khối lớn.
Cadmium và kẽm , sử dụng cây cải xoong trên núi cao ( Thlaspi caerulescens ),
một chất siêu tích lũy các kim loại này ở mức độ sẽ gây độc cho nhiều loài thực
vật. Cụ thể, lá rau má tích lũy tới 380 mg / kg Cd.
Chì , sử dụng mù tạt Ấn Độ ( Brassica juncea ), cỏ phấn hương ( Ambrosia
artemisiifolia ), cây gai dầu ( Apocynum cannabinum ), hoặc cây dương để cô lập
chì trong sinh khối của chúng.
Cesium-137 và strontium-90 đã được lấy ra khỏi ao bằng cách sử dụng hoa hướng
dương
3.2. Phân hủy thực vật (Phytodegradation)
3.2.1. Định nghĩa
Là sử dụng thực vật hoặc vi sinh vật để phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ trong đất
hoặc trong cơ thể thực vật. Các hợp chất hữu cơ được phân hủy bởi các enzym mà rễ
cây tiết ra và các phân tử này sau đó được cây tiếp nhận và thải ra ngoài qua quá trình
thoát hơi nước. Quá trình này hoạt động tốt nhất với các chất ô nhiễm hữu cơ như
thuốc diệt cỏ, trichloroethylene và metyl tert -butyl ete.
3.2.2. Cơ chế
Quá trình chuyển hóa giai đoạn 1 :
Vi sinh vật sống kết hợp với rễ cây có thể chuyển hóa các chất này trong đất hoặc
nước. Thực vật sẽ xử lý các hợp chất xenobiotic (hợp chất ngoại lai / chất gây ô
nhiễm). Sau khi hấp thụ xenobiotics, các enzym thực vật làm tăng tính phân cực của
xenobiotics bằng cách thêm các nhóm chức năng như nhóm hydroxyl (-OH) bằng các
enzym như peroxidase, phenoloxidase, esterase và nitroreductases.
Quá trình chuyển hóa giai đoạn 2 :
Các phân tử sinh học thực vật như glucose và axit amin được thêm vào xenobiotic
phân cực để tăng thêm độ phân cực (được gọi là liên hợp).Các phản ứng ở giai đoạn 1
và 2 nhằm tăng độ phân cực và giảm độc tính của các hợp chất
Trong giai đoạn cuối cùng của quá trình chuyển hóa thực vật (chuyển hóa giai đoạn
3), quá trình cô lập xenobiotic xảy ra trong thực vật. Xenobiotics polyme hóa theo
cách giống như lignin và phát triển một cấu trúc phức tạp được cô lập trong cây. Điều
này đảm bảo rằng xenobiotic được lưu trữ an toàn và không ảnh hưởng đến hoạt động
của cây.
3.2.3. Một số ví dụ về thực tế
Trong một tuần, nồng độ TNT hòa tan trong đất ngập giảm từ 128 ppm đến 10 ppm
với sự hiện diện của lông vẹt thực vật thủy sinh (Myriophyllum aquum) , sản xuất
enzyme nitroreductase có thể phân hủy một phần TNT.
Cây dương ( Populus spp.) Có khả năng biến đổi TCE trong đất và sự suy thoái của
TCE cũng đã được xác nhận trong nuôi cấy tế bào dương và trong cây dương lai.
Bentazon thuốc diệt cỏ đã bị phân huỷ trong cây liễu đen, cây dương vàng
( Liriodendron tulipifera ) , cây bách hói ( Taxodium chưng cất ) , bạch dương sông
( Betula nigra ) , sồi vỏ anh đào ( Quercus falcata ) và sống sồi ( Quercus viginiana ).
3.3 Bay hơi thực vật (Phytovolatilization)
a, Định nghĩa
Phytovolatilization: Đây được hiểu là biện pháp sử dụng thực vật để hút các chất ô
nhiễm, sau đó những chất ô nhiễm này sẽ được biến đổi và chuyển vào trong thân sau
đó lên lá và cuối cùng chúng được bài tiết ra ngoài qua lỗ khí khổng cùng với quá
trình thoát hơi nước của cây.
c. Cơ chế của quá trình :
Sự bay hơi thực vật có thể tồn tại ở hai dạng khác nhau: sự bay hơi thực vật trực tiếp
và gián tiếp. Sự bay hơi trực tiếp từ thực vật là hình thức trực quan hơn và được
nghiên cứu kỹ hơn, là kết quả của việc cây hấp thụ và chuyển vị các chất gây ô nhiễm,
cuối cùng dẫn đến sự bay hơi của hợp chất từ thân cây và lá.
Hình .Cơ chế xử lý chất ô nhiễm bằng bay hơi thực vật
c, Đối tượng xử lý
Các chất gây ô nhiễm dạng vô cơ và hữu cơ. Các dạng dễ bay hơi của một số hợp chất
vô cơ có thể bị bay hơi từ thực vật, bao gồm Se, As và Hg; trichloroethylene (TCE) và
tetrachloroethylene (PCE), 1,1,1-trichloroethane (TCA) sử dụng các loại cây
phytoremediation truyền thống như liễu (Salix sp.) và cây dương lai (Populus sp.
× P. sp.)
f, Một số loài thực vật đang được nghiên cứu và ứng dụng vào thực tế:
Một loài cỏ dại trong họ mù tạt đã được chuyển gen bao gồm có enzym có khả năng
chuyển đổi những muối thủy ngân thành dạng thủy ngân kim loại và phát tán vào
không khí ay như loài cây mù tạt Ấn Độ được sử dụng để dịch chuyển selen và được
áp dụng trong công nghệ xử lý ô nhiễm đất bằng bay hơi thực vật. Tại đây selen được
biến đổi thành dạng khí và phát tán vào trong môi trường.
Mù tạt Ấn Độ (Brassica Arabidopsis thaliana Cỏ linh lăng (Medicago
juncea) sativa) chuyển hóa TCE
And
r opo
g on
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn phương pháp xử lý:
1. Độ pH
Độ pH quyết định đến sự tồn tại và khả năng di chuyển của các chất ô nhiễm trong đất. Đối
với kim loại nặng các cation kim loại di động nhất trong điều kiện axit. Do đó, ở độ pH thấp,
tính khả dụng sinh học của kim loại tăng lên khi nhiều kim loại được giải phóng vào dung
dịch đất .Ở pH cao, các cation kết tủa hoặc hấp phụ lên bề mặt khoáng chất, làm giảm tính
llinh động của kim loại, tuy nhiên khiến cho cây trông khó hấp thụ được chúng vào cơ thể.
Các nghiên cứu của Traunfeld và Clement, sau khi bón vôi (làm tằn độ pH lên 6,0-7,0) đã
làm giản lượng chì mà cây hấp thụ.
2. Kết cấu đất
Kết cấu phản ánh sự phân bố kích thước hạt của đất liên quan đến các hạt như đất cát và đất
sét. Sự phân bố kích thước hạt có thể ảnh hưởng đến mức độ ô nhiễm kim loại trong đất. Các
hạt mịn (<100 µm) phản ứng mạnh hơn và có diện tích bề mặt cao hơn vật liệu thô hơn. Kết
quả là, phần mịn của đất mười chứa phần lớn ô nhiễm đã báo cáo rằng đất có kết cấu mịn
chứa lượng Pb cao hơn (3889 mg/kg) và đất có kết cấu thô chứa (530 mg/kg).
3. Hàm lượng chất hữu cơ trong đất
Chất hữu cơ trong đất có vai trò chủ đạo trong việc kiểm soát hoạt động của các kim loại vi
lượng trong đất. Chất hữu cơ là một trong những yếu tố có thể làm giảm khả năng gây độc
thực vật của kim loại trong đất do tạo phức kim loại-hữu cơ. Sự hiện diện của carbon hữu cơ
làm tăng khả năng trao đổi cation của đất, giữ lại các chất dinh dưỡng được cây trồng hấp
thụ. Tăng hàm lượng chất hữu cơ trong đất giúp hạn chế quá trình hấp thụ kim loại nặng của
cây trồng. Đất giàu chất hữu cơ tích cực giữ lại các nguyên tố kim loại.
4. Tính oxi hóa khử
Tính oxi hóa khử là một trong những tính chất đất ảnh hưởng nhất đến sự thay đổi sự hình
thành kim loại. Thế oxy hóa khử trong đất được thiết lập bởi các phản ứng oxy hóa - khử do
hoạt động của vi sinh vật. Các phản ứng oxi hóa khử này chuyển đổi chất gây ô nhiễm thành
các hợp chất không độc hại hoặc ít độc hại hơn, ổn định hơn, ít di động hơn hoặc trơ hơn.
Tuy nhiên, trong môi trường đất, các phản ứng này có xu hướng tương đối chậm. Thiếu oxy
trong đất gây ra hiện tượng khởi động và tăng tính linh động của phần lớn kim loại nặng.
5. Lựa chọn thực vật
Thực vật là trung tâm của quá trình phục hổi đất bằng thực vật. Sự hấp thụ của một chất ô
nhiễm bị ảnh hưởng bởi các thuộc tính khác nhau của cây cũng như tốc độ tăng trưởng, khả
năng tạo sinh khối cao, hệ thống rễ và khả năng chống lại sự tích tụ quá mức của các kim
loại nặng. Xác định được loại thực vật có khả năng hấp thụ chất ô nhiễm; cải thiện được sự
tăng trưởng và phát triển của chúng là điều kiện quan trọng để ứng dụng các phương pháp
sinh học trong phục hồi ô nhiễm đất.
Ví dụ: Trong một thí nghiệm được thực hiện bởi Ampiah-Bonney và cộng sự, người ta đã
quan sát thấy rằng Leersiaoryzoides, một loại thực vật trên cạn có thể duy trì sự hấp thụ asen
cao lên đến 6 tuần và cho năng suất tốt.
Cho-Ruk và các đồng nghiệp của mình đã nghiên cứu cây trồng thử nghiệm
(Alternantheraphyloxeroides), cho thấy khả năng hấp thụ chì lên tới 30-80% và bộ rễ diện
tích lớn.
Tiềm năng áp dụng của các phương pháp
Các phương pháp phục hồi đất bằng thực vật nói chung và chiết xuất thực vật nói riêng về cơ
bản mới chỉ được áp dụng rộng rãi ở các nước phát triển (Đức, Anh, Mĩ, Áo, Ý..). Đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam, việc áp dụng mới chỉ ở quy mô nghiên cứu.
Khi xem xét tiềm năng áp dụng, việc lựa chọn các loại cây là yếu tố quan trong quyết định
quá trình chiết xuất thực vật. Các loài thực vật để có thể thực hiện quá trình phytoextraction
nên có các đặc điểm sau:
(i) khả năng chịu đựng cao đối với tác động độc hại của kim loại nặng;
(ii) khả năng khai thác cao với sự tích tụ của các kim loại nặng cao ở các bộ phận trên mặt
đất;
(iii) phát triển nhanh với sản lượng sinh khối cao;
(iv) số lượng chồi phong phú và hệ thống rễ rộng lớn;
(v) thích nghi tốt với môi trường, khả năng phát triển mạnh mẽ trong đất nghèo, dễ dàng
canh tác và thu hoạch;
(vi) có khả năng kháng mầm bệnh và sâu bệnh cao, đẩy lùi động vật ăn cỏ để tránh kim loại
nặng xâm nhập vào chuỗi thức ăn.
Nhìn chung không phải các cây đều có đủ các yếu tố trên, nhưng việc lựa chọn được loại cây
có nhiều các đặc điểm nhất sẽ góp phần quan trọng trong quá trình xử lý.