You are on page 1of 17

ĐỀ CƯƠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH QUỐC PHÒNG

Đề cương được soạn thảo dựa trên tài liệu của các nhóm gửi vào
Nguồn tổng hợp: Tập thể lớp QLNN
A: Tầm quan trọng của quốc phòng, an ninh
I. Tổng quan về quan ninh quốc phòng
1. Khái niệm:
An ninh: An ninh quốc gia là sự ổn định và phát triển vững mạnh về mọi mặt của một chế độ xã hội
và độc lập chủ quyền, thống nhất của một quốc gia.
“Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh
quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt." (Điều 2 Luật Quốc phòng 2018)
Nền quốc phòng toàn dân: là việc xây dựng tiềm lực mạnh mẽ về kinh tế với quốc phòng, kết hợp
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ Quốc.
2. Đặc trưng của quốc phòng, an ninh
2.1 Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng.
• Đặc trưng thể hiện sự khác nhau về bản chất khi so sánh tiềm lực quốc phòng an ninh của những
quốc gia có độc lập chủ quyền phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa với các nước láng giềng.
• Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an ninh đất nước hùng mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong,
giặc ngoài, giữ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
2.2 Đó là nền quốc phòng, an ninh vì dân, của dân và do chính nhân dân làm chủ.
• Đặc trưng vì dân, của dân, do dân của nền quốc phòng, an ninh nước ta là thể hiện bản lĩnh, kinh
nghiệm của ông cha ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
• Cho phép chúng ta huy động mọi người, mọi phương tiện, mọi nguồn lực để tham gia xây dựng
nền quốc phòng, an ninh phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng và khả năng của nhân dân, là đặc
trưng trong đường lối của Đảng, luật pháp của nhà nước.
2.3 Đó là nền quốc phòng, an ninh có chức năng tổng hợp từ nhiều nhân tố tạo nên.
• Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nước ta tạo nên từ rất nhiều nguồn lực về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quân sự, kỹ thuật….cả ở trong nước, ngoài nước, của dân tộc
và nhất thời đại, trong đó các yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng.
• Là tiền đề, nền tảng và là phương tiện giúp nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
2.4 Nền quốc phòng, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện và từng bước hiện đại.
• Việc tạo ra sức mạnh quốc phòng, an ninh không chỉ là sức mạnh quân sự, an ninh mà còn phải
huy động được sức mạnh của toàn dân tộctrên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, xã hội, đối
ngoại, khoa học.
• Phải kết hợp hữu cơ giữa quốc phòng, an ninh với mọi mặt hoạt động của xã hội và kết hợp chặt
chẽ giữa quốc phòng, an ninh với công tác đối ngoại.
• Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh mạnh cần gắn với phát triển nền quốc phòng, an ninh
hiện đại là một tất yếu khách quan.
1
• Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân từng bước hiện đại hoá.
• Kết hợp giữa xây dựng con người có giác ngộ chính trị, có kiến thức với vũ khí trang bị kỹ thuật
hiên đại.
• Phát triển công nghiệp quốc phòng, từng bước trang bị đầy đủ cho các lực lượng vũ trang nhân
dân.
• Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với củng cố quốc phòng an ninh.
2.4 Nền quốc phòng toàn dân gắn liền với an ninh nhân dân.
• Nền quốc phòng và nền an ninh nhân dân của chúng ta đều được xây dựng không chỉ nhằm tự vệ,
mà còn phải chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
• Giữa nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân chỉ khác nhau ở cách thức bố trí lực
lượng và hoạt động cụ thể, theo nhiệm vụ đã được giao mà thôi.
• Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh nhân dân được quán triệt và tiến hành đồng bộ, toàn
diện từ trong chiến lược, qui hoạch, kế hoạch đầu tư, phát triển của cả nước cũng như các vùng,
miền, địa phương, mọi ngành, mọi lĩnh vực.
3 Vị trí của quốc phòng, an ninh
Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân giữvị trí chiến lược hết sức quan trọng trong sựnghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đảng ta đã khẳng định:” trong khi đặt trọng tâmvào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chngs ta
không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng – an ninh, coi
đó lànhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC XÂY DỤNG NỀN QUỐC PHÒNG AN NINH
HIỆN NAY:
_ Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là chủ trương chiến lược, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước
ta, nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, khả năng phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong
mọi tình huống. Vì vậy, các cấp, ngành, lực lượng, địa phương cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt,
triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương này trong thực tiễn.
_ Xây dựng nền quốc phòng, an ninh vững mạnh hiện nay: tạo ra sức mạnh tổng hợp của đất nước
cả về chính trị, quân sự, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ để giữ vững hòa
bình, ổn định, đẩy lùi, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược
dưới mọi hình thức và quy mô. Đồng thời, tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp Công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư
tưởng văn hóa - xã hội; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình phát triển đất nước theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa.
_ Xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa đẩy lùi
đánh bại mọi âm mưu hành động xâm hại đến mục tiêu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta
không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng an ninh, coi đó
là nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ”.
2
Vị trí, vai trò nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của lĩnh vực quốc phòng có nguồn gốc từ mối quan
hệ biện chứng giữa quốc phòng, an ninh đối ngoại với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội; giữa
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nếu quốc phòng được giữ vững và tăng cường, tất yếu sẽ góp phần quan trọng vào việc
tạo lập, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định đất nước, phát triển kinh tế-xã hội, chủ động hội nhập
kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại... tạo nền tảng vững chắc thực hiện khát vọng của nhân dân,
sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng ta vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
III. BIỆN PHÁP CỦNG CỐ NỀN QUỐC PHÒNG- AN NINH TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, cần kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức
mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo được sức mạnh tổng hợp lớn nhất
bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương phải tích cực, chủ động hơn nữa trong
triển khai đường lối, chính sách, chiến lược đối ngoại nhằm khai thác cao nhất sức mạnh thời đại,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bảo
đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh. Hoàn thiện các chiến lược
quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới;
tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các quy chế phối hợp quân đội, công an và
các tổ chức chính trị - xã hội.
Tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên để nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè
quốc tế hiểu rõ, hiểu đúng và đủ về đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh của Việt Nam, từ đó
nhận được sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, quán triệt, học tập Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng với tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách
nhiệm và nghĩa vụ trong tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây
dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Dựa vào
nhân dân, tổ chức vận động, khai thác, huy động cao nhất trách nhiệm và mọi nguồn lực của nhân
dân kết hợp với nguồn lực của Nhà nước tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh. Trong xây dựng lực lượng cần coi trọng xây dựng cả lực lượng chính trị (lực lượng
của các ngành, ở các cấp và nhân dân trong các cộng đồng dân cư...) và lực lượng vũ trang nhân
dân, trong đó quan tâm đặc biệt đến xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh làm nòng cốt.
Gắn kết tình cảm quân - dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc
Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh toàn diện, trong đó chú trọng các tiềm lực cơ bản, như
chính trị tinh thần, văn hóa, xã hội, kinh tế, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Đồng thời, với xây dựng lực lượng, tiềm lực cần xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân cả về “thế trận lòng dân” và thế trận quân sự, an
ninh; phát huy sức mạnh tổng hợp trong tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu
hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh

3
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục
tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối
đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình
huống. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, có số lượng hợp lý, với chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, đồng thời quan tâm xây dựng
lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
trong mọi tình huống.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo
đảm cho các lực lượng vũ trang từng bước được trang bị hiện đại. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu
khoa học, nghệ thuật quân sự, an ninh, đánh thắng chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của các
lực lượng thù địch.
B: Vai trò của quốc phòng an ninh với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt nam hiện nay
I. Khái niệm Quốc phòng, An ninh:
- Quốc phòng là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó sức mạnh
quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.
- An ninh là trạng thái yên bình của xã hội, của đất nước và sự phát triển bền vững của hệ thống
chính trị xã hội.
II. Quan điểm của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
+ Thứ nhất, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh phải toàn
diện, cơ bản lâu dài ngay từ trong chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và củng
cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; trên từng địa bàn lãnh thổ, trong đó có sự quan tâm đặc biệt
đến các vùng, địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
Đại hội XII nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN và QPAN với kinh tế,
văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.”.
Việc kết hợp QPAN với kinh tế, kinh tế với QPAN trên các địa bàn lãnh thổ khác nhau cũng có nội
dung, phương thức kết hợp cụ thể khác nhau, phù hợp với đặc điểm, tình hình cụ thể của từng địa
bàn lãnh thổ, đồng thời bảo đảm tính liên kết vùng, trong đó cần chú trọng những vùng, địa bàn
chiến lược trọng yếu về QPAN như vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
+ Thứ hai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong quá trình kết hợp quốc phòng, an
ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững
chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân.
Đại hội XII nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ QPAN và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về
QPAN. Xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
nền an ninh nhân dân”.
+ Thứ ba, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh phải vừa đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, vừa nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

4
Mọi hoạt động QPAN là nhằm tạo ra và gìn giữ được môi trường hòa bình, ổn định để đẩy mạnh
phát triển kinh tế, bảo vệ sự phát triển kinh tế, bảo vệ cuộc sống của dân cư và tạo ra cơ sở chính trị
tinh thần của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững chắc. Các hoạt động QPAN có thể
chuyển sang phục vụ kinh tế và dân sinh, từ đó tiết kiệm chi phí, phát huy hiệu quả các nguồn lực
cho phát triển kinh tế đồng thời tạo điều kiện nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân.
III. Vai trò của quốc phòng an ninh đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay
_ Thứ nhất, quốc phòng, an ninh góp phần tạo lập môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và
phát triển đất nước. Theo đó xây dựng nền quốc phòng, an ninh đủ mạnh để tăng cường khả năng tự
vệ, giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước là quan điểm nhất quán của
Đảng. Những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh đã được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII xác định: Tác động tích cực đến việc thực hiện cả hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo điều kiện thuận lợi mới cho công cuộc xây dựng kinh tế (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 1991). vị trí, vai trò nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của lĩnh vực quốc phòng có
nguồn gốc từ mối quan hệ biện chứng giữa quốc phòng, an ninh đối ngoại với các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội; giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu quốc phòng được giữ vững và tăng cường, tất yếu sẽ góp
phần quan trọng vào việc tạo lập, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định đất nước, phát triển kinh tế-
xã hội, chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại... tạo nền tảng vững chắc thực hiện
khát vọng của nhân dân, sự lựa chọn đúng đắn của Ðảng ta vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
_ Thứ hai, những đóng góp to lớn của lĩnh vực quốc phòng, an ninh trong giai đoạn đổi mới đã kịp
thời ngăn chặn, vô hiệu hóa nhiều âm mưu, thủ đoạn gây rối, bạo loạn, khủng bố, bảo vệ tuyệt đối
an toàn các mục tiêu chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, các sự kiện chính trị, văn hóa đất nước,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
_ Thứ ba, quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc chính là tạo ra tiềm lực đủ mạnh để bảo vệ
thành quả cách mạng mà các thế hệ người Việt Nam đã nối tiếp nhau sẵn sàng hy sinh tất cả vì sự
trường tồn của dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân
_ Thứ tư, quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc còn là điều kiện quan trọng mở rộng đầu tư,
thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Hiệu quả
trong việc giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, xây dựng môi trường hòa
bình dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa Việt Nam trở thành điểm đến an toàn, hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư và du khách quốc tế.
_ Thứ năm, hợp tác về quốc phòng, an ninh tạo thời cơ thuận lợi cho hợp tác quốc tế ổn định, bền
vững, đi vào chiều sâu, tạo điều kiện cho hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, thu
hút nguồn lực, nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ tiên tiến. Nâng cao hiệu quả hợp tác
kinh tế thương mại của doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, mở rộng xuất nhập khẩu sản phẩm quốc
phòng và kinh tế, viễn thông ,… làm cho thị trường hàng hóa phục vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế
ngày càng phong phú hơn, có điều kiện đầu tư, đổi mới công nghệ, từng bước hiện đại hóa vũ khí,
trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, đẩy nhanh hiện đại hóa Quân đội và Công an.
_ Thứ sáu quốc phòng an ninh giúp đảm bảo an ninh và trật tự trong xã hội, đây là điều kiện tiên
quyết để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế:
Để thu hút các nhà đầu tư, doanh nghiệp đến địa phương hoạt động sản xuất, kinh doanh, triển khai
các dự án, bên cạnh những chính sách ưu đãi, còn phải coi trọng việc bảo đảm an ninh chính trị, trật
5
tự an toàn xã hội, tạo môi trường đầu tư ổn định. Bởi vì ta thường thấy, các khu đô thị, tỉnh thành có
độ trật tự xã hội và an ninh cao thường tăng cảm giác an tâm hơn, thuận lợi hơn trong việc thu hút
đầu tư.
Trong những năm qua, cùng với quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước, khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài cũng phát triển nhanh, hiệu quả, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội
đất nước. Tuy nhiên, khu vực kinh tế này cũng có không ít những nguy cơ tác động bất lợi, tiêu cực
đến bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước. Do đó, vai trò của quốc phòng, an ninh trong bảo đảm
an ninh, trật tự an toàn xã hội, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là to lớn và cần thiết được
quan tâm
_ Thứ bảy, Quốc phòng an ninh có mối quan hệ biện chứng với kinh tế, chúng tác động qua lại lẫn
nhau giữa các yếu tố, lĩnh vực trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Khi nền kinh tế
phát triển sẽ tạo nền tảng vật chất , kỹ thuật và công nghệ và nhân lực cho quốc phòng an ninh hi
kinh tế phát triển, nguồn vốn tích lũy, nguồn thu ngân sách không ngừng được tăng lên chính là điều
kiện để phát triển đất nước về mọi mặt. Từ đó, góp phần củng cố và tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh. Kinh tế phát triển gắn với đổi mới kỹ thuật, công nghệ là cơ sở để đổi mới kỹ thuật,
công nghệ trong công nghiệp quốc phòng, sản xuất ra các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật phục vụ
quốc phòng, an ninh. Kinh tế phát triển cũng là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
tăng cường cho các lực lượng vũ trang. Khi kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, từ đó củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường ổn định xã hội và tiềm lực quốc phòng, an ninh.
Khi cuộc sống về mọi mặt của người dân được nâng cao, tiến bộ, công bằng, dân chủ được tăng
cường thì người dân, các lực lượng xã hội yên tâm, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, vững vàng trước sự lôi kéo, xúi bẩy, kích động của các thế lực
thù địch. Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có cơ hội phát triển toàn diện của nhân dân là nền
tảng chính trị vững chắc để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh.
VI. Biện pháp tăng cường phát triển kinh tế xã hội củng cố an ninh quốc phòng
_ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trực tiếp là sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
ủy, chính quyền địa phương và chỉ huy các cấp trong Quân đội.
Bảo đảm cho hoạt động kết hợp phát triển kinh tế xã hội với củng cố quốc phòng an ninh được tiến
hành đúng định hướng và đạt hiệu quả cao. Cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết số
520-NQ/QUTW, ngày 25-9-2012, của Quân ủy Trung ương, về “Lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây
dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội”. Cơ quan quân sự các cấp ở địa phương phải chủ
động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp về bảo đảm yếu tố quốc phòng, an ninh trong các
quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng tiếp
tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý các doanh nghiệp quân đội và hoạt động của các
đoàn kinh tế quốc phòng; quy chế quản lý, sử dụng đất quốc phòng, hoạt động kinh tế đối ngoại;
chính sách đối với doanh nghiệp quân đội đứng chân trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, biển, đảo... Các doanh nghiệp quân đội tập trung chỉ đạo, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước.
_ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
về quan điểm, chủ trương kết hợp phát triển kinh tế xã hội với củng cố quốc phòng an ninh của
Đảng ta.
Điều này rất quan trọng, nhằm định hướng, thống nhất nhận thức, tư tưởng, trách nhiệm cho cán bộ,
đảng viên và nhân.Trong thực tế, nhận thức của các tầng lớp nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng
6
viên về vấn đề này còn chưa đầy đủ, thống nhất. Vì vậy, nội dung tuyên truyền, giáo dục phải làm rõ
quan điểm, đường lối của Đảng ta và yêu cầu, sự cần thiết phải kết hợp phát triển kinh tế xã hội với
củng cố quốc phòng an ninh. Làm rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội
lợi dụng một số hạn chế để xuyên tạc, chia rẽ Quân đội với Đảng và nhân dân ta. Tuyên truyền toàn
diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, để thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, sự tất yếu, khách quan của
việc đó, nhất là hiệu quả toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh từ hoạt động
tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Phương pháp, hình thức tuyên truyền, giáo dục phải đa dạng, phát huy vai trò của các phương tiện
thông tin đại chúng, các lớp bồi dưỡng chính trị, chuyên môn, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho cán bộ, đảng viên.
_ Tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch hóa, bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội
là một bước tăng cường quốc phòng, an ninh.
Cần nghiên cứu, khảo sát, xác định rõ các nguồn lực, kể cả nguồn lực từ các thành phần kinh tế
ngoài nhà nước để xây dựng kế hoạch, nội dung, hình thức kết hợp phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng phù hợp trong từng lĩnh vực hoạt động, ở từng khu vực phòng thủ. Xác định rõ cơ chế,
trách nhiệm trong việc phối hợp thẩm định các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của các cấp, các ngành; trong đó, cơ quan quân sự chủ động thẩm định, các bộ, ngành, địa
phương tăng cường phối hợp, thực hiện tốt cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin để nâng cao hiệu quả
và bảo đảm. Các địa phương, nhất là ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, phải coi
trọng quy hoạch phân bố dân cư để bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quốc
phòng, an ninh; thực hiện tốt các quy định trong Luật Quốc phòng và Nghị định số 164/2018/NĐ-
CP, của Chính phủ, “Về kết hợp quốc phòng với kinh tế - xã hội và kinh tế - xã hội với quốc
phòng”. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng các khu kinh tế quốc phòng; các đơn vị quân đội vừa thực
hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, vừa tham gia giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội,
xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn đóng quân và khu vực dự án. Đầu tư phát triển kinh tế biển
một cách bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng biển, đảo; phát triển
lực lượng dân phòng, các tổ, đội liên kết của ngư dân trong khai thác thủy, hải sản để bảo vệ hoạt
động sản xuất và bảo vệ biên giới, biển, đảo.
Nghiên cứu, dự báo tốt tình hình để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố
quốc phòng an ninh có hiệu quả và phù hợp.
Tổ chức nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình thế giới và khu vực, nắm rõ nguồn lực và xu thế vận
động để xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, chủ động triển khai một cách có hiệu quả. Tiếp tục
đổi mới tư duy về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và chiến tranh công nghệ cao; về xây dựng tiềm lực quốc phòng kết hợp với
phát triển kinh tế. Việc xây dựng tiềm lực quốc phòng không chỉ cần chú trọng tiềm lực tinh thần,
tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự và tiềm lực khoa học - công nghệ, mà còn phải chú trọng cả tiềm
lực con người.
_ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTTT, bảo đảm kết hợp phát triển kinh tế với củng cố tiềm lực
quốc phòng, an ninh.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng có liên quan đến kết hợp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc, phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đều phải được thể chế hoá
thành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất để quản lý và tổ chức
thực hiện hiệu lực, hiệu quả trong cả nước. Cơ chế, chính sách cần được xây dựng theo quan điểm
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Việc phân bổ ngân sách đầu tư theo hướng tập trung cho
những mục tiêu chủ yếu, những công trình có tính lưỡng dụng cao đáp ứng cả cho phát triển kinh tế
7
- xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh, cả trước mắt và lâu dài. Xây dựng chính sách khuyến
khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư có các đề tài khoa
học, các dự án công nghệ có ý nghĩa lưỡng dụng cao, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
_ Nâng cao nhận thức, trách nhiệm về kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với tăng
cường, củng cố QP-AN và các hoạt động trong tình hình mới
_ Nêu bật đối tượng để nâng cao nhận thức là toàn dân, mà trước hết là cán bộ, đảng viên, những
người làm công tác tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các cơ quan, ban, ngành, địa phương.
_ Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm, tư tưởng sai trái làm tổn hại đến lợi ích quốc gia,
dân tộc.
C: Thực trạng và giải pháp quản lý nhà nước về quốc phòng trong tình hình mới
I. Những kết quả đạt được
_ Củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
môi trường ổn định cho đất nước phát triển. Tiềm lực quốc phòng toàn dân được tăng cường, thế
trận quốc phòng, trên các địa bàn trọng điểm được củng cố vững chắc. Nhiều nội dung triển khai
đạt kết quả tốt như: giáo dục quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ địa phương.
Ví dụ: Những năm qua, đặc biệt từ Đại hội XII của Đảng, nước ta đã ban hành Luật quốc phòng sửa
đổi 2018 trên cơ sở kế thừa tính đúng của Luật QP 2015 và bổ sung hoàn thiện những quy định
mang tính thời đại, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về Xây dựng các tỉnh, thành
phố ven biển thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Xây dựng khu vực phòng
tuyến ven biển được hình thành trên cơ sở làng, xã chiến đấu, các khu vực phòng thủ then chốt, căn
cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần - kỹ thuật… trên các huyện đảo và các tỉnh, thành
phố ven biển.
_ Công tác quản lý nhà nước về quốc phòng kết hợp kinh tế - xã hội đang từng bước được tiến hành
và đi vào nề nếp. Kinh tế tại các vùng địa bàn chiến lược tiếp tục được Đảng quan tâm phát triển,
đặc biệt các khu kinh tế - quốc phòng tại vùng biên giới đã phát huy được vai trò trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đời sống kinh tế của người dân tại các vùng biên giới được cải thiện.
Ví dụ: Nhiều dự án động lực vừa phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, vừa phục vụ thiết
thực cho quốc phòng - an ninh đã và đang chuẩn bị được triển khai như: Cao tốc Vân Đồn - Móng
Cái, đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả, cầu Cửa Lục 1, Cửa Lục 3..
_ Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân đối với lĩnh vực
quốc phòng. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Quốc phòng 2018,…và nhiều chính
sách quốc phòng liên quan đến thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và đã phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả
trong thực tiễn. Trong quá trình tổ chức thực hiện, công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra quốc phòng
được coi trọng, đã kịp thời phát hiện, giải quyết các khiếu kiện, tố cáo liên quan đến luật pháp,
chính sách về quốc phòng.
_ Chú trọng xây dựng lực lượng quân đội nhân dân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. các quân chủng, binh chủng được củng cố, tăng cường, được trang bị
cơ sở vật chất - kỹ thuật đúng mức, phù hợp với tình hình và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đời
sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được quan tâm và cải thiện đáng kể.

8
_ Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức về quốc phòng cho cán bộ, đảng viên và toàn dân được
coi trọng, đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực; góp phần tạo cơ sở, nền tảng cho việc triển khai
thực hiện nhiệm vụ QP, AN, bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng và toàn
dân trong điều kiện mới.
_ Phương thức đấu tranh khi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng đã có nhiều đổi mới, sáng tạo, linh
hoạt. Đã có những chủ trương và giải pháp phòng, chống các thủ đoạn xâm phạm chủ quyền quốc
gia và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng nhân quyền, dân chủ, tôn giáo, kích động
chủ nghĩa yêu nước cực đoan... để chống phá Đảng, Nhà nước. Đã xử lý tương đối hiệu quả, kịp
thời các tình huống quốc phòng để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn không để xảy ra bạo loạn lật đổ, bạo loạn vũ
trang, xung đột vũ trang.
Ví dụ: trên địa bàn huyện Mường Chà, tỉnh Điện Biên khu vực miền núi dễ bị lợi dụng Thủ tướng
Chính phủ Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 09/01/2015 của, đã góp phần nâng cao nhận thức cho nhân dân
các dân tộc khu vực biên giới hiểu rõ ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền an
ninh biên giới của Tổ quốc, để nhân dân luôn giữ vững lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự
nghiệp đổi mới đất nước, nâng cao cảnh giác cách mạng, phòng chống âm mưu "diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch;
_ Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh. Chúng ta đã tích cực,
chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với các quốc gia, nhất là các nước láng
giềng, các nước trong khu vực, bạn bè truyền thống6 và các nước lớn. Đến nay, Việt Nam đã thiết
lập quan hệ hợp tác quốc phòng ở các cấp độ khác nhau với hơn 80 nước, trong đó có các nước lớn.
Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã và đang tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng
Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ví dụ: hợp tác quốc phòng Việt Nam – Australia. Australia đã huy động máy bay vận tải quân sự C-
17 hỗ trợ Việt Nam vận chuyển quân nhân và trang thiết bị trong 4 đợt triển khai bệnh viện dã chiến
cấp 2 tới UNMISS và có kế hoạch tiếp tục hỗ trợ trong đợt triển khai thứ 5 vào năm 2023.
_ Công nghiệp Quốc phòng được tập trung đầu tư phát triển, sản xuất được nhiều loại phương tiện,
thiết bị, vũ khí, công cụ nhằm hỗ trợ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, nhiều thiết bị máy móc, sản
phẩm dân dụng chiếm được chỗ đứng vững chắc thị trường.
Ví dụ: Tập đoàn Công nghiệp-viễn thông Quân đội, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, Ngân hàng
thương mại cổ phần Quân đội...
II. Những khó khăn, hạn chế
* Công tác QLNN về quốc phòng ở nước ta vẫn còn những mặt hạn chế, bất cập:
_ Hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương chưa chặc chẽ. Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng có lúc, có nơi chưa thật đầy đủ, sâu sắc; cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc
phòng chưa thật hoàn thiện. Nhân tố chính trị, tinh thần, thế trận lòng dân chưa được chú trọng đúng
mức. Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng - an ninh có nơi chưa đạt hiệu quả cao; kết hợp nhiệm vụ
quốc phòng với an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh với đối
ngoại chưa thật hài hòa, thiếu đồng bộ, cơ chế kiểm tra, giám sát, nội dung kết hợp chưa thật cụ thể,
kết hợp chưa rõ ràng, xử lý sai phạm thiếu kiên quyết.
_ Tiềm lực quốc phòng đã được tăng cường một bước nhưng vẫn còn có mặt hạn chế, việc xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang bị phương tiện, nâng cao chất lượng vũ khí cho lực lượng vũ trang
mặc dù đã được quan tâm đặc biệt nhưng thực sự còn có mặt hạn chế so với đòi hỏi của yêu cầu,
nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới.
9
_ Chưa phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của nhân dân để thực thi
nhiệm vụ. Sự phối hợp giữa các ban, ngành, cơ quan, đơn vị, địa phương trong công tác bảo đảm
trật tự chưa thường xuyên. Sự phối hợp giữa xây dựng nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh
nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân chưa thật chặt chẽ, vẫn còn
thiếu cơ chế và giải pháp cụ thể. Công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược còn hạn chế,
đánh giá, dự báo tình hình có mặt chưa cụ thể, kịp thời. Chỉ đạo, điều hành có lúc, có nơi chưa thật
tập trung, kiên quyết. Xác định và xử lý đối tượng, đối tác trong một số trường hợp chưa thật linh
hoạt.
_ Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Công tác kiểm tra, thanh tra Quốc phòng có
lúc, có nơi chưa chủ động, thường xuyên.
III. Nguyên nhân của hạn chế
_ Công tác đầu tư trang thiết bị cho công tác an ninh quốc phòng ở một số nơi chưa được đề cao về
chất lượng và số lượng , trang thiết bị còn nhiều yếu kém và hạn chế chưa đáp ứng được đủ nhu cầu.
Tình hình thực tiễn ngày nay yêu cầu đa số về kỹ thuật hiện đại cao do đó để phù hợp tình hình thực
tế cần phải chú trọng trong vấn đề nâng cao chất lượng trang thiết bị về quốc phòng
_ Những quy định về quyền hành của các ban ngành, cơ quan đơn vị chưa phân định rõ ràng gây ra
tình trạng chồng chéo, đùn đẩy một số nơi. Còn lơ là và chưa chú trọng đến công tác quản lý Nhà
nước về quốc phòng cần tạo thêm nhiều điều kiện để phát triển về sự phối hợp giữa các ban ngành
cơ quan trong công tác nhằm tạo sự liên kết đạt hiệu quả cao về thời gian và chất lượng cũng nâng
cao hơn khi có sự phối hợp và đồng thời nâng cao trách nhiệm đến các cơ quan tổ chức tránh việc
đùn đẩy, không trách nhiệm trong công tác quản lý của các cơ quan tổ chức
_ Tình trạng kiểm tra giám sát hoạt động đối với các cơ quan, tổ chức còn chưa thường xuyên và
nghiêm khắc. Công tác kiểm tra cần phải được tổ chức thường xuyên và được giám định nghiêm
ngặt tránh các tình trạng tiêu cực xảy ra trong quá trình kiểm tra đồng thời mới có thể nâng cao
được chất lượng trong công tác quản lý nhà nước về quốc phòng.
_ Ngoài ra còn xuất phát từ một số nguyên nhân như sau: Một số bộ phận cán bộ, đảng viên suy
thoái về đạo đức, lối sống và vi phạm đạo đức công vụ. Chưa thống nhất trong nhận thức và hành
động về hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và về việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với quốc
phòng; Một số quy định pháp luật còn chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn; Công tác đào tạo, chọn lọc, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ còn thiếu sót, công tác xử lý sai
phạm, biểu dương khen thưởng chưa kịp thời; Công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc còn
chưa nghiêm, lợi ích nhóm còn hiện hữu.
IV. Giải pháp quản lý nhà nước về an ninh quốc phòng trong tình hình mới
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với quản lý
nhà nước về quốc phòng, an ninh.
Chú trọng việc cụ thể hóa từng vấn đề thành các chủ trương, chính sách, pháp luật trong lĩnh vực
quốc phòng, an ninh; đồng thời, xác định các cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo ở từng cấp cho phù hợp. Các
cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng cần chủ động phối hợp với các cơ quan thuộc các ban, bộ,
ngành có liên quan nghiên cứu, cụ thể hóa chức năng, mối quan hệ, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc
phòng, an ninh trên phạm vi cả nước. Trong tình hình hiện nay, để tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, cần coi trọng xây dựng tổ chức
đảng các cấp trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; tăng cường sự đoàn
kết, thống nhất; thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực; từng bước hoàn
10
thiện phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng; chú trọng kiện toàn cơ quan, cán
bộ làm công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, v.v.
Hai là, triển khai đồng bộ, thống nhất việc quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh; gắn với tăng
cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Đây là nội dung quan trọng, làm cơ sở, nền tảng để giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa
vào nội lực là chính trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh. Các cấp,
ngành, lực lượng, địa phương và toàn dân cần tập trung đầu tư, phát triển và nâng cao tính độc lập,
tự chủ của nền kinh tế; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh
trên từng khu vực, địa bàn và cả nước.
Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân vững mạnh cả về
tiềm lực, lực lượng và thế trận, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại là nội dung cốt lõi, biện pháp quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của quản lý nhà
nước về quốc phòng, an ninh. Trước hết, cần nhận thức sâu sắc nhiệm vụ, quyết tâm bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chú trọng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho các
lực lượng, nhất là khả năng làm chủ vũ khí, trang bị, phương tiện chiến đấu mới của các đơn vị tiến
thẳng lên hiện đại; kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư, mua sắm vũ khí, trang bị mới với cải tiến, nâng cao
hiệu quả sử dụng các loại vũ khí, trang bị hiện có.
Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, an ninh.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh sẽ góp phần nâng cao vị thế, uy tín của
đất nước; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình
để xây dựng, phát triển đất nước. Qua đó, đưa quan hệ, hợp tác quốc phòng, an ninh đi vào chiều
sâu, gia tăng mức độ đan xen lợi ích chiến lược với tất cả các nước, nhất là với các đối tác chiến
lược, các nước láng giềng, các nước trong khu vực ASEAN; tránh xung đột, đối đầu, bị cô lập, phụ
thuộc.
Năm là, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của các cấp
từ Trung ương đến địa phương.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ quốc phòng là công việc hết sức quan trọng trong
QLNN về quốc phòng. Để tăng cường công tác này, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Trước hết,
cần củng cố tổ chức, nâng cao trình độ, năng lực của các cơ quan chức năng về pháp luật để có đủ
sức hoàn thành nhiệm vụ quản lý. Đồng thời, cần đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong
QLNN về quốc phòng. Đặc biệt, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội để động viên quần chúng
tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ QP-AN ngay tại cơ sở. Trong kiểm tra, thanh
tra thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, cần nắm vững các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát các quy hoạch, kế hoạch tổ chức thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng
D: Thực trạng và giải pháp quản lý nhà nước về an ninh trong tình hình mới
I Mặt đạt được
1. Thuận lợi trong thực tiễn lịch sử
Từ thực tiễn cách mạng, tổng kết lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quán triệt sâu sắc, toàn
diện các quan điểm của Đảng, hệ thống lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia được hình thành, nghiên
cứu bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Từ bước đầu nhận thức về an ninh quốc gia được
11
xác định chủ yếu là an ninh chính trị, bảo vệ an ninh quốc gia chủ yếu là phòng ngừa, đấu tranh với
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia” đã mở rộng
khái niệm: An ninh quốc gia là sự vững mạnh, trường tồn của Đảng, sự ổn định, phát triển bền vững
về mọi mặt của đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; là sự ổn định về chính trị, về biên giới, chủ quyền lãnh thổ và an ninh, an toàn xã hội. Nghị
quyết số 51-NQ/TW cũng cho thấy, tư duy về an ninh quốc gia được hiểu không chỉ là trạng thái
vững vàng, ổn định của một chủ thể chính trị độc lập, có chủ quyền trong quan hệ quốc tế, mà còn
bao hàm cả sức mạnh tổng hợp và khả năng ứng phó linh hoạt của quốc gia trước các mối đe dọa
bên trong và bên ngoài nhằm bảo đảm trạng thái vững mạnh, ổn định của quốc gia, khu vực và toàn
cầu. Từ đó, nội hàm “bảo vệ an ninh quốc gia” được mở rộng không chỉ phòng, chống âm mưu,
hoạt động của các thế lực thù địch, mà còn chủ động xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia; đó là khả
năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong và ngoài nước có thể huy động để bảo đảm
trạng thái bình yên của đất nước, sự ổn định vững chắc của chế độ.
Năm 2022, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị,
sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế, đặc biệt là sự chỉ đạo
sát sao của Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an, lực lượng công an nhân dân (CAND) đã
đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, thậm chí hy sinh, đổ máu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị mà Đảng,
Nhà nước và nhân dân tin cậy giao phó; đạt được những kết quả hết sức to lớn, toàn diện hơn, cao
hơn so với năm 2021 và những năm trước đây, như đánh giá của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước tại Hội nghị Đảng ủy Công an Trung ương ngày 7/12/2022 vừa qua.
2. Thuận lợi trong chủ động
Nắm chắc tình hình, giữ vững thế chủ động chiến lược, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước
nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng về an ninh, trật tự (ANTT), xây dựng lực lượng, phát triển
kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước, vì mục tiêu "xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn,
lành mạnh để phát triển đất nước", "vì bình yên, hạnh phúc của nhân dân".
Gương mẫu đi đầu trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; chủ động tham mưu Bộ
Chính trị ban hành và tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW
ngày 16/3/2022 về "đẩy mạnh xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy,
tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới".
3 Thuận lợi vị trí địa lý
Nước ta nằm ở cửa ngõ khu vực Đông Nam Á, là nơi giao lưu của các nền kinh tế. Lợi thế vừa tiếp
giáp 4 nước đất liền, vừa giáp biển, nước ta trở thành nơi giao lưu kinh tế của các nước trong và
ngoài khu vực, là cửa ngõ mở ra các khu vực khác. Đặc biệt là Biển Đông, với vị trí đắc địa, Biển
Đông là một trong những khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với các nước thuộc khu vực
châu Á – Thái Bình Dương nói riêng cũng như có tầm ảnh hưởng đến cả châu Mỹ và nhiều quốc gia
trên thế giới.
Với lợi thế về kinh tế và chính trị mà biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của khoảng
300 triệu người trong khu vực này. Giao thông đường biển nắm giữ vai trò chủ chốt trong trao đổi
hàng hóa giữa các nước trong và ngoài khu vực, đây được coi là con đường huyết mạch chiến lược
để giao thông thương mại và vận chuyển quân sự quốc tế (nằm trên tuyến đường giao thông biển
huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á).
Vì thế nước ta có vị trí vừa giáp đất liền vừa giáp biển, nước ta có một vị trí đặc biệt quan trọng ở
khu vực Đông Nam Á.
12
Cộng thêm lợi thế biển ta có nhiều cảng vịnh nước sâu, thích hợp để làm các cảng quân sự vì thế mà
Biển Đông có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ an ninh
quốc gia (an ninh đất nước).
4 Thuận lợi trong nghiệp vụ
Triển khai toàn diện các mặt công tác công an, nhất là công tác nghiệp vụ cơ bản theo phương châm
"chủ động phòng ngừa, kết hợp đấu tranh, đánh mạnh, đánh trúng, đánh đúng trọng tâm, trọng điểm
các đối tượng trọng điểm, phản động, tội phạm". Nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật, chống tiêu
cực, vi phạm ngay trong nội bộ, kiên quyết xử lý các tập thể, cá nhân sai phạm, vi phạm bảo đảm sự
nghiêm minh của pháp luật, kỷ cương, kỷ luật của ngành. Công tác xây dựng đảng, xây dựng lực
lượng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện bài bản, đúng quy trình, quy định và đạt nhiều kết
quả quan trọng. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy tinh, gọn, mạnh; xây dựng công an xã, thị trấn,
công an phường điển hình, kiểu mẫu về an ninh trật tự và văn minh đô thị, góp phần bảo đảm an
ninh trật tự ngay từ đầu và tại cơ sở.
Chủ động tham mưu, hoàn thiện cơ chế pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác, chiến đấu.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có bước phát triển, huy động cả hệ thống chính trị, thu
hút các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia. Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế được tăng cường
theo hướng sâu rộng, thực chất, ổn định và hiệu quả, tiên phong mở đường, góp phần chung vào đối
ngoại của đất nước. Bộ Công an cử sĩ quan tham gia gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc, đánh dấu sự
lớn mạnh, trưởng thành, nâng cao vị thế của lực lượng Công an nhân dân trên trường quốc tế.
II. Khó khăn
1. Nguy cơ, thách thức từ bên ngoài
Nguy cơ rơi vào thế mắc kẹt giữa các cường quốc hiện nay, thách thức trong triển khai chính sách
đối ngoại, đối với các mối đe dọa. Cục diện thế giới, khu vực biến đổi mau lẹ, sự cạnh tranh, mặc cả
chiến lược giữa các nước lớn; diễn biến khó lường, các điểm nóng khiến môi trường chính trị, an
ninh khu vực ngày càng phức tạp.Việt Nam bị các nước tác động, gây ảnh hưởng, lôi kéo tham gia
vào các cơ chế nhằm kiềm chế lẫn nhau, có thể đặt Việt Nam vào tình thế khó khăn trong ứng xử
với từng nước và tại các diễn đàn quốc tế.
Thách thức an ninh đối với chủ quyền quốc gia ngày càng lớn, tạo môi trường bất lợi, gia tăng áp
lực bảo vệ lợi ích quốc gia. Các tranh chấp lãnh thổ giữa nước ta với các nước lân cận khó có thể
giải quyết triệt để, tiềm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột. Vấn đề Biển Đông gia tăng, bất ổn, phức tạp do
Trung Quốc hành động cứng rắn hơn, phức tạp, khó lường hơn, đặc biệt là sử dụng các biện pháp
thô bạo để giải quyết tranh chấp làm tăng nguy cơ trên biển, chủ quyền lãnh thổ bị xâm phạm. Các
bên tranh chấp khác không từ bỏ, tăng cường tiềm lực, chạy đua vũ trang khiến tình hình ngày càng
phức tạp, tạo ra mối đe dọa với an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định,
phát triển đất nước.
Nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc kinh tế vào các nước phát triển, các nước lớn, các định chế quốc tế
ngày càng tăng. Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào nhiều định chế kinh tế, tài chính quốc
tế, chịu nhiều bất lợi và sức ép cải cách chính sách, thể chế, nguy cơ bị các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề kinh tế để can thiệp chủ quyền, xâm phạm an ninh quốc gia.
Thách thức phát triển khoa học công nghệ, áp đặt các giá trị, tư tưởng, văn hóa. Các nước phát triển,
nước lớn tăng cường sử dụng các ưu thế sức mạnh vượt trội về kinh tế, khoa học, công nghệ để can
thiệp, ra điều kiện trong quan hệ kinh tế, áp đặt các giá trị tư tưởng, văn hóa phương Tây vào Việt
Nam; phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc và những giá trị tinh thần
của chủ nghĩa xã hội; nguy cơ an ninh mạng càng hiện hữu.

13
Cùng với toàn cầu hóa, xu hướng “dân chủ hóa” trên thế với, các nước lớn đẩy mạnh phổ biến “sức
mạnh mềm” thúc đẩy thay đổi chế độ chính trị, kích động phong trào ly khai, tự trị, thúc đẩy “môi
trường tự do hóa, dân chủ hóa” theo kiểu phương Tây, làm xuất hiện, mở rộng khuynh hướng tư
tưởng phức tạp trong nội bộ, các trào lưu xâm nhập vào Việt Nam, dẫn đến nguy cơ làm xói mòn
truyền thống văn hóa dân tộc, phai nhạt lý tưởng, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ. Sức ép vấn đề “dân chủ, nhân quyền” ngày càng lớn.
Các vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục gia tăng. Mối đe dọa an ninh phi truyền thống ngày
càng gia tăng với quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, tác động đến lợi ích, an toàn,
an ninh quốc gia Việt Nam, như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh,
an ninh năng lượng, an ninh con người…
2 Nguy cơ, thách thức từ bên trong (nội bộ)
_ Việc xây dựng đồng bộ hệ thống chiến lược thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn chưa đồng
bộ.
Công tác tham mưu chiến lược chất lượng chưa cao, trên một số mặt chưa đáp ứng được đòi hỏi của
tình hình, yêu cầu nhiệm vụ. Đánh giá, dự báo tình hình có mặt chưa được cụ thể, kịp thời, còn bị
động, bất ngờ trong một số tình huống. Chỉ đạo điều hành có lúc, có nơi thiếu sự phối hợp giữa các
cơ quan, đơn vị; công tác bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh tư tưởng còn nhiều bất cập, sơ hở. Nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chưa toàn diện; tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân,
thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân chưa thật vững chắc. Đất nước vẫn tiềm ẩn các nhân tố
có thể gây mất ổn định. Việc kếp hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có lúc,
có nơi chưa thật hiệu quả; kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong thực tiễn còn
có lúc, có nơi chưa thật hiệu quả, có mặt còn hình thức. Đầu tư cho quốc phòng, an ninh, xây dựng
thế trận, khu vực phòng thủ, phát triển khoa học - công nghệ…chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
_ Tình hình an ninh chính trị nội bộ xuất hiện một số biểu hiện tiêu cực.
Các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được đẩy lùi, có mặt bộc lộ rõ nét, nghiêm trọng
hơn mà Đảng ta chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những người giữ vị
trí lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tham nhũng, lãng phí…;
công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ còn bộc lộ những sơ hở, để các đối tượng tác động, phân
hóa, lôi kéo, chia rẽ, mất đoàn kết. Công tác bảo vệ bí mật nhà nước, tình trạng cung cấp tin, tài liệu
bí mật, lũng đoạn nội bộ diễn biến phức tạp, có một số trường hợp bị móc nối làm nội gián, bị lôi
kéo, mua chuộc, tham gia các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Tư tưởng, lối sống một bộ
phận đông đảo, nhất là giới trẻ phai nhạt lý tưởng, đạo đức, lối sống.
_ An ninh kinh tế tiềm ẩn những bất ổn.
Trước tác động của đại dịch, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, các doanh nghiệp tiếp tục đối mặt
với nhiều khó khăn, nợ xấu, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản, lao động thất nghiệp, tiềm ẩn bất ổn
xã hội. Tình trạng trốn thuế, trục lợi hoàn thế, vi phạm pháp luật, làm sai quy định với thủ đoạn tinh
vi, thao túng thị trường, lĩnh vực cơ bản, như tài chính, chứng khoán, bất động sản của nhiều tổ
chức, cá nhân, tập đoàn tư nhân lớn vừa qua gây thất thoát, tác động lớn đến nền kinh tế. Tình trạng
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lập dự án, xin đất, huy động vốn, đưa được người
vào Việt Nam, chuyển giao, chuyển giá, nợ đọng lương, lãn công, biểu tình ở các nhà máy, khu công
nghiệp ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, đối ngoại, môi trường đầu tư ở Việt Nam.
_ An ninh mạng tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát.

14
Các nước lớn xác định an ninh mạng là “vấn đề cốt lõi”, đe dọa an ninh mạng là đe dọa an ninh
quốc gia. Ở Việt Nam, an ninh mạng đặt ra ngày càng cấp bách. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài,
tin tặc thường xuyên lợi dụng điểm yếu này để tấn công xâm nhập, thu thập thông tin, bí mật nhà
nước, cài cắm mã độc, phần mềm gián điệp. Đồng thời, đây là công cụ đắc lực để phá hoại nền tảng
tư tưởng, tuyên truyền xuyên tạc, luận điệu sai trái, thù địch. Các tổ chức phản động lưu vong tăng
cường xâm nhập, móc nối, mua chuộc, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức, hội nhóm chống,
phá quyết liệt. Các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao diễn biến phức tạp, hoạt động tinh
vi, quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, nghiêm trọng. Công tác bảo đảm an ninh mạng,
an toàn thông tin còn nhiều sơ hở, quản lý nhà nước, cơ chế kiểm soát bảo đảm an ninh quốc gia,
bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng còn có hạn chế, bất cập.
_ An ninh xã hội có nhiều yếu tố mất ổn định.
Các thế lực thù địch, phản động lợi dụng tôn giáo gia tăng hoạt động, công khai chống phá quyết
liệt. Số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo tuyên truyền, xuyên tạc, kêu gọi quốc tế gây sức ép,
can thiệp vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”; cổ vũ, kích động, chỉ đạo, ủng
hộ tinh thần, vật chất, hình thành tổ chức, hội nhóm chống phá. Hoạt động của các “đạo lạ”, “tà
đạo”, “hiện tượng tôn tín ngưỡng, tôn giáo mới” có chiều hướng phát triển, lây lan phức tạp, gây
mất an ninh trật tự. Tình hình tranh chấp, khiếu kiện diễn biến phức tạp, bị phần tử xấu lợi dụng,
gây rối trật tự công cộng. An ninh các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vẫn
tiềm ẩn nhiều nguy cơ.
_ Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp.
Hoạt động của các loại tội phạm vẫn diễn ra hết sức phức tạp, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng
nghiêm trọng. Tội phạm xâm phạm thân thể hành vi gây án ngày càng dã man, tàn bạo. Tình trạng
chống người thi hành công vụ, nhất là cán bộ công an, hành vi chống đối manh động, liều lĩnh. Tội
phạm kinh tế, tham nhũng nổi lên trong nhiều lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, đất đai - bất
động sản, y tế, cố ý làm trái tại các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân gây thất thoát, lãng phí lớn.
III. Nguyên nhân của khó khăn
1 Nguyên nhân khách quan
Vị trí địa lý
Ở một số khu vực có tính chiến lược trọng yếu, khu vực vùng sâu vùng xa có yếu tố biên giới hoặc
các khu vực hẻo lánh, ít nhận được sự đầu tư về văn hóa – giáo dục – y tế (phúc lợi xã hội) và đầu
tư phát triển kinh tế, đây thường là các khu vực luôn chịu ảnh hưởng năng nề khi có biến động vể an
ninh, đặc biệt là đối với tình hình an ninh chính trị quốc gia, đây là những khu vực trọng yếu liên
quan đến sự tồn vong cũng như dễ dàng đe dọa đến sự ổn định chính trị trong nước. Đây là những
vùng về cơ bản là thiếu hụt trầm trọng vể khả năng tiếp cận, giao thiệp với bên ngoài. Những khu
vực này vốn có ít người sinh sống và địa hình hiểm trở, là một vị trí rất dễ bị lãng quên nhưng lại
cực kỳ phù hợp trở thành những điểm nóng của bất ổn trong công tác quản lý nhà ước về an ninh
(buôn ma túy, phản động, lâm tặc, cướp,…)
Đây là nơi trực tiếp chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố chính trị ngoại biên xâm nhập nếu không có
sự giám sát, kiểm soát và quan tâm đặc biệt của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội nói
chung, cũng như sự đồng tâm hiệp lực trong vấn đề củng cố tư tưởng của người chính người dân với
nhau nói chung
Khoa học - công nghệ

15
Tiềm lực ứng dụng công nghệ vẫn còn rất hạn chế nên việc đầu tư cho khoa học công nghệ còn
nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất cho hoạt động khoa học công nghệ còn nhiều hạn chế do đặc thù
điều kiện an ninh quốc gia để áp dụng cũng như ở khía cạnh ứng dụng thực tiễn cần yêu cầu về con
người với trình độ nhất định.
Để đảm bảo triển khai được khả năng ứng dụng công nghệ khoa học vào các điều kiện cụ thể ở các
khu vực, mà đặc biệt là các khu vực vùng sâu vùng xa có yêu tố biên giới hoặc các khu vực hẻo
lánh, ít nhận được sự đầu tư về văn hóa – giáo dục – y tế (phúc lợi xã hội) và đầu tư phát triển kinh
tế, thì công tác quản lý nhà nước về an ninh luôn vấp phải những khó khăn sau
2 Nguyên nhân chủ quan
Chủ quan nghiệp vụ con người
Cần phải có và đào tạo được những người vừa có chuyên môn về nghiệp vụ an ninh (thường là lực
lương công an nhân dân, cảnh sát nhân dân, lực lượng cơ động, cảnh sát giao thông; quân đội (hải
quân); hải quan; biên phòng,…) đồng thời phải có trình độ am hiểu về công nghệ để thao tác ứng
dụng các thiết bị song song với hoạt động thực thi công vụ được giao để tối đa hóa khả năng kiểm
soát tình hình an ninh khu vực cụ thể.
Ở khía cạnh người dân nói chung, thì ở các khu vực này yếu tố phổ biến về công nghệ liên lạc, thiết
bị thông tin vẫn còn là điều xa lạ
Theo ghi nhận trên địa bàn xã Mỹ Lung, huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ, đại đa số những người sử
dụng máy tính kết nối internet là cán bộ, công chức, giáo viên... do có sự hỗ trợ ở các chương trình
của tỉnh, huyện. Ở khu vực vùng cao, muốn truy cập internet, hoặc internet không dây (wifi) thì phải
xuống trung tâm xã, điểm bưu điện văn hóa xã hoặc dịch vụ internet công cộng. Một số kênh cung
cấp thông tin như: Radio, cát-sét, báo chí, truyền hình là loại phương tiện chủ yếu và tiết kiệm,
nhưng do nhiều yếu tố về đặc điểm địa hình, nếp sống sinh hoạt... nên phần lớn người dân không
theo dõi thường xuyên. Số lượng điện thoại thông minh của đồng bào dân tộc thiểu số cũng chưa
cao...
Chủ quan công tác quản lý
Công tác quản lý dân cư trên từng địa bàn cụ thể như thôn, bản, làng cũng như tại các xã trên thực tế
rất khó kiểm soát vì ta vẫn chưa có cơ chế quản lý cụ thể, nắm bắt thông tin di trú của người dân,
các đối tượng theo từng mốc thời gian cụ thể, hầu hết những công tác này đều do công an khu vực
nắm, nên các hoạt động thông tin này như là hoạt động tình báo, phải vận dung khả năng phán đoán
nhiều hơn do cơ sở dữ liệu chưa đảm bảo.
Ngay cả bản thân các hoạt động điều tra lý lịch, điều tra di trú, tạm trú đều phải dựa vào sức người,
chứ chưa có cơ sở phương thức khác thay thế hiệu quả.
Chủ quan hệ tư tưởng con người
Đây hầu như chính là yếu tố chủ đạo gây nên bất ổn an ninh nhiều nhất, vì ở các khu vực ít được
tiếp cận và cập nhập thông tin xác thực, người dân dễ dàng bị các đối tượng cực đoan dẫn dụ, xúi
giục gây bất ổn an ninh nói chung, dẫn đến tiền đề bạo loạn chính trị.
Trong quá khứ, sự kiện bạo loạn ba tây (Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ) là một điển hình cực
đoạn, là hậu quả về việc người dân mà đặc biệt là các dân tộc vùng cao dễ bị xúi giục dẫn đến bất ổn
an ninh khu vực, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước về an ninh nói chung.

16
IV. Giải pháp nâng cao công tác quản lý nhà nước về an ninh trong tình hình mới
1. Thống nhất về nhận thức quốc phòng, an ninh là vấn đề trọng yếu, thường xuyên của cách mạng
Việt Nam
Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Quan điểm
này luôn được cụ thể hoá cho phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ của cách mạng ở từng giai
đoạn cụ thể của đất nước.
2. Luôn bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.
Kiên định và giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp
đảm bảo an ninh quốc gia và nguyên tắc Đảng lãnh đạo Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ an ninh kinh tế đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới:
Việc xây dựng lực lượng CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng
chính trị trọng yếu, đặc biệt tin cậy, tuyệt đối trung thành của Ðảng, Nhà nước và nhân dân, gắn bó
máu thịt với nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.
4. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ ANQG theo quan điểm "an ninh toàn diện" và
"an ninh chủ động".
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, nhất là đối với các dự án đầu tư, phát triển
kinh tế xã hội; kịp thời phát hiện, ngăn chặn âm mưu, hoạt động tác động thể chế, chính sách pháp
luật, can thiệp nội bộ, thông qua kinh tế chuyển hóa chính trị, hỗ trợ, hậu thuẫn hoạt động chống đối
ở trong nước của các thế lực thù địch, phản động
5. Tiếp tục tăng cường công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, ổn định,
hiệu quả hơn.
Tích cực tham gia vào cơ chế đối ngoại an ninh song phương, khu vực và toàn cầu, nhất là Liên hợp
quốc, Interpol. Qua đó, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược, gia tăng độ tin cậy, tránh đối đầu, bị cô
lập, phụ thuộc tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
6. Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo vệ an ninh kinh tế; chịu trách nhiệm chính và trước hết xử lý vấn đề an ninh ở lĩnh vực, địa
phương mình.
7. Tăng cường công tác tuyên truyền cho nhân dân trong nước và đồng bào ở nước ngoài về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước.
Mục đích là để hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối của đảng và nhà nước. Bên cạnh đó, Triển khai
đồng bộ, quyết liệt các kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

17

You might also like