Nội dung và nghệ thuật trong tập thơ “ Góc sân và khoảng
trời” của Trần Đăng Khoa
Nghệ thuật Góc sân và khoảng trời đã tạo nên những lớp không gian đa dạng, phong phú. Trong tập thơ tồn tại cả không gian bầu trời lẫn không gian mặt đất, không gian vũ trụ lẫn không gian xã hội... Tất cả đã làm nên một thế giới nghệ thuật muôn màu, muôn sắc. Trong đó, không gian nghệ thuật trung tâm của tập thơ Góc sân và khoảng trời chính là không gian làng quê. Rất hiếm khi Trần Đăng Khoa để cho thơ mình chạy ra khỏi môi trường này. Làng quê đã trở thành nơi ẩn náu bình yên nhưng cũng rất quyến rũ của một hồn thơ bé nhỏ. Trong mênh mang cảnh sắc nông thôn mộc mạc ấy, Khoa dành nhiều tâm tư cho không gian nghệ thuật "góc sân", một không gian đặc trưng cho nền "văn minh thôn dã", không gian có vị trí đặc biệt đối với đời sống tâm linh người dân quê. Nhàthơ Xuân Diệu đã phát hiện ra ý nghĩa đặc biệt của không gian này khi nhận định rằng: "Cái vũ trụ tí hon ấy như lòng đỏ trứng gà". Với Khoa, không gian nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc này là một thế giới diệu kì của tuổi thơ. Góc sân ấy là điểm tựa để em nhìn ra thế giới: Góc sân nho nhỏ mới xây Chiều chiều em đứng nơi này em trông Thấy trời xanh biếc mênh mông Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy Từ khoảng không gian này, Khoa đã thả tuổi thơ bay lên cùng với ánh trăng đêm rằm, bay lên cùng với cái diệu kì của đất trời... Và cũng tại nơi đây đã chứng kiến bao sinh hoạt của con người và loài vật. Đó là cảnh những chú gà con liếp nhiếp đi tìm mồi cùng mẹ (Gà con liếp nhiếp), cảnh thôn xóm vào mùa với chiếc máy tuốt lúa mở miệng cười ầm ầm, với thóc vàng óng một màu no đủ, với ấm chè nóng thơm hương lúa đồng đang cùng ông trăng và các đội bình công mừng một mùa bội thu (Thôn xóm vào mùa). Góc sân ấy cũng trở thành sân khấu để tiếng trống chèo sâu vợi, tiếng mõ đưa hương hoa đại len vào tâm tư con người (Cô Thị Mầu). Tuổi thơ luôn bị mê hoặc bởi những trò vui. Niềm hân hoan của chú bé Khoa nhỏ tuổi cũng vút lên từ góc sân nhỏ với bao sinh hoạt hấp dẫn: Em thường rải cái nong Ra góc sân ngồi học Những đêm có trăng mọc Em chơi cho đến khuya (Cái sân) Trong hồn nhiên của thế giới trẻ thơ, Trần Đăng Khoa luôn lấy cái sân làm địa điểm diễn ra mọi trò chơi. Nào là trò xỉa cá mè, trò mèo đuổi chuột, trò hứng nước mưa... Ở đấy, em đã chạy nhảy tung tăng, đã múa hát say mê quanh ông trăng đêm rằm. Lắm lúc sân cũng trở thành nền bản vẽ để trẻ phác họa lên những bức tranh về cô tiên, về đồng lúa chín... Không phải ngẫu nhiên mà Khoa viết nhiều về góc sân. Đối với người dân quê Việt Nam nói chung, đối với những trẻ thơ chưa bao giờ vượt khỏi lũy tre xanh như Khoa thì đây là không gian thân thuộc, gắn bó như là máu thịt. Bao nhiêu sinh hoạt của người dân quê, bao nhiêu trò chơi của trẻ nhỏ đều gắn với địa điểm này. Chính không gian này cũng là nhịp cầu đưa trẻ đến với những không gian rộng lớn hơn.Càng ngày thơ Trần Đăng Khoa càng mở rộng không gian nghệ thuật và đó đều là những khoảng không gian thấm đượm hồn quê Việt Nam. Đến với thơ Khoa, ta được ngắm nhìn những mảnh vườn quê hương ở nhiều giác độ khác nhau. Là vườn cải tốt tươi, "lá xanh như mảnh mây trời lao xao" khi gió đến (Vườn cải). Là khu vườn "dậy tiếng dịu hiền" từ vị ngọt của luống cà, ranh khoai, từ âm thanh của tiếng lá vẫy gió trong những đêm "lấp ló trăng lên" (Vườn em). Là mảnh vườn xanh biếc tiếng chim, rộn rã trong tiếng dơi khua lúc chạng vạng, nên thơ trong hình ảnh ông trăng vàng dạo chơi dưới lùm nhãn (Hương nhãn). Rồi khi thu về lành lạnh ta lại được nghe "Vườn sau nổi gió nghe như mưa rào" (Đêm thu) v.v... Với hình ảnh con đường - nơi giữ sự liên thông giữa những không gian của mặt đất, Khoa cũng dành cho nhiều quyến luyến. Đã có lần cậu bé này "hỏi đường" rằng: Đường ơi, có nhớ chăng là Ngày nào dạy học, thầy qua đường này? Con đường ấy đã một thời in bàn chân thầy giáo. Vậy mà giờ đây thầy đã đi xa rồi. Bóng cây vẫn rợp con đường mà người xưa đã vắng. Không gian con đường vì thế mà trở thành điểm nhấn của tâm tư và hoài niệm. Với người nông dân, cánh đồng là ngôi nhà thứ hai. Người thơ rất trẻ của chúng ta đã chín sớm trong suy tư và cảm xúc nên đã viết về không gian này thật tinh tế. Cánh đồng Điền Trì thân thuộc đi vào thơ mang theo tâm tình của người con quê hương: Cánh đồng làng Điền Trì Sớm nay sao mà rộng Sương tan trên mũi súng Trên sừng trâu cong veo Cánh đồng này có in bóng hình những bác nông dân đang cày ruộng, những chị thôn nữ tát gầu giai và cấy mạ, in bóng em chở phân ra lót ruộng... Nơi ấy có hồn nhiên tiếng cười, có bọt tung trắng hoa nhài khi nước reo trong lòng máng, có lúa vàng trong đáy mắt, có luống cày tỏa hương, có mây hong trên gốc rạ... Không gian này đã tạo nên một âm sắc rất riêng cho thơ Khoa bởi nó đã chiết được mùi hương riêng cho mình. Nhớ lắm những cánh đồng nồng mùi bùn ngấu, mùi phân đang hoai và còn hăng mùi vôi chưa tan hẳn dưới những rãnh cày. Nhớ lắm những giọt mồ hôi đang ủ mật cho đồng lên hương, cho hạt giống bốc men trong đất. Nhớ lắm khung cảnh yên bình, đẹp tựa bài thơ: Đồng ẩm trăng non Luống cày sực nức Mưa rào bữa trước Nắng nồng chiều nay (Hương đồng) Có thể nói, viết về cánh đồng quê là cuộc dạo chơi ân tình không ngừng nghỉ trong đời thơ Trần Đăng Khoa. Trong cuộc dạo chơi này anh không phải là khách qua đường. Vị khách thơ trẻ tuổi này dẫu bước chân có đi lạc không gian ấy thì trái tim vẫn "neo đậu bến quê": Sáng đứng đỉnh Côn Sơn Hương đồng thơm trong túi (Côn Sơn) Tình lưu luyến ấy không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi lẽ, Khoa đã thú nhận với chúng ta rằng: Thịt da ta cũng Tỏa hơi ruộng đồng (Hương đồng) Nhắc đến không gian nông thôn trong thơ Khoa chúng ta không thể bỏ qua dòng sông Kinh Thầy. Dòng sông này đã từ đồng bằng Bắc Bộ chảy tràn vào thơ Trần Đăng Khoa, trở thành một vùng thẩm mĩ thi vị. Dòng "sông Kinh bên lở bên bồi" đã thực sự thăng hoa trong trang thơ Khoa. Phù sa của dòng sông đã ngấm sâu vào thiên nhiên, để rồi cảnh vật đã trỗi dậy trong một sức sống mãnh liệt: Hàng chuối lên xanh mướt Phi lao reo chập chùng Vài ngôi nhà đỏ ngói In bóng xuống dòng sông (Bên sông Kinh Thầy) Không gian này đã cùng với hương sen thơm, với lời mẹ hát, với bão tháng bảy, mưa tháng ba, với giọt mồ hôi... để làm nên "hạt gạo làng ta". Khoa không quên điều đó khi anh viết: Hạt gạo làng ta Có vị phù sa Của sông Kinh Thầy (Hạt gạo làng ta) Chính vì thế mà lòng biết ơn với dòng sông đã trở thành tình cảm thường trực trong Khoa. Và cũng bởi cái ơn sâu nặng đó nên thi sĩ đã một đời không thôi tìm kiếm bí mật về không gian này: Sông ơi nhớ thương ai Mà bốn mùa nước đỏ Con chim nghiêng mắt ngó Phù sa hồng đôi chân (Cầu Cầm) Những không gian trên đã tập hợp lại làm nên không khí thanh bình, yên ả ngàn đời của thôn quê Việt Nam. Nhưng bên bến bờ bình yên ấy, gương mặt chiến tranh lại hiện về. Là tiếng bom rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn đầy tiếng đàn bầu, một không gian căng tràn đã "tự rung lên sức mạnh Việt Nam". Là hình ảnh những hố bom, những ngôi trường tốc mái... Chiến tranh còn hiện hình trong đôi nạng gỗ bên bàn thầy giáo, bên mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, bên cả những bài học dang dở... Nhưng đó chỉ là phông nền làm hiển hiện và thăng hoa một không gian khác – không gian của sự sống và niềm tin. Hàng cau đã ngã xuống nhưng tiếng đàn bầu vẫn tuôn trào vô tận như những suối nguồn mát trong để xóa đi những âm thanh dơ bẩn của cuộc chiến. Hình ảnh cánh diều vươn cao ngạo nghễ bên bờ hố bom là một sự tương phản rất đẹp của không gian nghệ thuật, thể hiện được sức sống vĩnh hằng của con người: Tiếng diều vàng nắng Trời xanh cao hơn Dây diều em cắm Bên bờ hố bom (Thả diều) Ngoài ra, Góc sân và khoảng trời cũng đã đưa đến cho người đọc những khoảng không gian tâm lí giàu sức biểu cảm. Con người là một thực thể tồn tại trong không gian. Nhưng tự bản thân con người cũng là một thế giới, một không gian với những chiều kích và tính chất riêng. Ý thức được điều ấy nên Trần Đăng Khoa luôn có thiên hướng khai thác không gian con người với bề sâu tâm hồn. Câu thơ: "Nắng mưa từ những ngày xưa Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan" đã làm chúng ta xúc động. "Nắng mưa" vốn là không gian của vũ trụ đã được xã hội hóa thành một không gian gợi nhớ những vất vả, khó nhọc. Không dừng lại ở đó, "nắng mưa" còn thâm nhập vào không gian con người, tạc nên vóc dáng, hình hài chứa đầy nhọc nhằn của người mẹ. Từ "lặn" đã cụ thể hóa sự di chuyển của không gian biểu trưng vốn rất trừu tượng ấy. Bàn chân của thầy giáo trong bài thơ cùng tên cũng là một không gian như thế. Ẩn sau một bàn chân đã mất ấy là âm vang của chiến trường, của sự hi sinh lặng lẽ. Đằng sau hình hài không hoàn hảo ấy là cả một tấm lòng rạch ròi những yêu thương, hờn ghét, là cả một lẽ sống cao đẹp. Chính vì thế mà "bàn chân thầy, bàn chân đã mất, vẫn dẫn chúng em đi trọn cuộc đời". Đứng trước bàn chân ấy, những thế hệ học trò đã ngỡ ngàng nhận ra được cái chưa hoàn hảo của chính cuộc đời mình. Góc sân và khoảng trời, tựa đề của tập thơ đồng thời cũng đã mở ra hai thế giới đối lập. Đối lập giữa không gian mặt đất nhỏ bé với không gian bầu trời rộng lớn. Đối lập giữa không gian thân thuộc với khoảng xa vời, vô tận. Nhưng đó chỉ là sự đối lập bề ngoài của không gian thực. Còn trong ý nghĩa biểu trưng thì hai miền thẩm mĩ này lại tìm được mối liên thông chặt chẽ. Góc sân đại diện cho khoảng không gian gần gũi, quen thuộc đối với trẻ thơ. Còn khoảng trời mang ý nghĩa biểu trưng cho một chân trời trong mơ ước, cho những nơi xa rộng bao la của cuộc đời đầy hấp dẫn đang mời gọi tuổi thơ. Chân trời ấy được kiến tạo bởi những con người có tình yêu đằm sâu với không gian đời thường.