You are on page 1of 257

UNIVERSITY OF ECONOMICS HO CHI MINH CITY

UEH YOUTH UNION

JOURNAL OF STUDENTS’ SCIENTIFIC INQUIRIES


FOR DEVELOPMENT - JSSID
Tập San Phát Triển Nghiên Cứu Khoa Học Sinh Viên

COMPREHENSIVE AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT


IN THE CONTEXT OF GLOBALIZATION
Phát Triển Kinh Tế Toàn Diện Và Bền Vững
Trong Bối Cảnh Toàn Cầu Hóa

ISSUE 1 (MARCH, 2023)


Số 1 (Tháng 3/2023)
JOURNAL OF STUDENTS’ SCIENTIFIC INQUIRIES
FOR DEVELOPMENT - JSSID
1(1), 3/2023
STEERING COMMITTEE

Su Dinh Thanh
Dinh Cong Khai Nguyen Phong Nguyen
Vo Duc Hoang Vu Nguyen Dinh Hoang Uyen

SCIENTIFIC COMMITTEE

Diep Gia Luat Nguyen Hong Thang


Tran Dang Khoa Vo Tat Thang
Tran Thi Tuan Anh Dinh Khuong Duy
Phan Quoc Tan Do Thi Hai Ninh

REVIEWING COMMITTEE

Bui Thi Thanh Bui Thanh Trang


Nguyen Thi Thu Hien Ngo Quang Huan Hoang Cuu Long
Duong Kim The Nguyen Quach Doanh Nghiep Le Thi Hong Minh
Tu Thi Kim Thoa Huynh Thi Thu Thuy Phan Chung Thuy
Trinh Huynh Quang Canh Mai Nguyen Dung Nguyen Ngoc Danh
Lam Manh Ha Ho Thu Hoai Le Thanh Nhan
Hoang Trong Tran Gia Tung Tran Ha Quyen

EDITORIAL COMMITTEE

Du Phuc My Kim Huynh Thien Tu

Nguyen Thi Tuong Vy Pham Thi Thuy Ha Le Ngoc Ngan


Nguyen Khanh Hien Nguyen Huynh Ai Nhi Chau Hoang Chi Ton
Truong Nguyen My Anh Hoang Khanh Nhi Nguyen Ngoc Xuan Mai
Pham Gia Huy Nguyen Anh Binh Minh Le Phuong Duyen
TẬP SAN
PHÁT TRIỂN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
SỐ 1 (THÁNG 3/2023)
BAN CHỈ ĐẠO

GS. TS. Sử Đình Thành


TS. Đinh Công Khải PGS. TS. Nguyễn Phong Nguyên
ThS. Võ Đức Hoàng Vũ ThS. Nguyễn Đình Hoàng Uyên

HỘI ĐỒNG CHUYÊN MÔN

PGS. TS. Diệp Gia Luật PGS. TS. Nguyễn Hồng Thắng
PGS. TS. Trần Đăng Khoa PGS. TS. Võ Tất Thắng
TS. Trần Thị Tuấn Anh TS. Đinh Khương Duy
TS. Phan Quốc Tấn TS. Đỗ Thị Hải Ninh

HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN ĐỘC LẬP

PGS.TS. Bùi Thị Thanh PGS.TS. Bùi Thanh Tráng


TS. Nguyễn Thị Thu Hiền TS. Ngô Quang Huân TS. Hoàng Cửu Long
TS. Dương Kim Thế Nguyên TS. Quách Doanh Nghiệp TS. Lê Thị Hồng Minh
TS. Từ Thị Kim Thoa TS. Huỳnh Thị Thu Thủy TS. Phan Chung Thủy
ThS. Trịnh Huỳnh Quang Cảnh ThS. Mai Nguyễn Dũng ThS. Nguyễn Ngọc Danh
ThS. Lâm Mạnh Hà ThS. Hồ Thu Hoài ThS. Lê Thành Nhân
ThS. Hoàng Trọng ThS. Trần Gia Tùng ThS. Trần Hà Quyên

BAN BIÊN TẬP

ThS. Dư Phúc Mỹ Kim ThS. Huỳnh Thiên Tứ

Nguyễn Thị Tường Vy Phạm Thị Thúy Hà Lê Ngọc Ngân


Nguyễn Khánh Hiền Nguyễn Huỳnh Ái Nhi Châu Hoàng Chí Tôn
Trương Nguyễn Mỹ Anh Hoàng Khánh Nhi Nguyễn Ngọc Xuân Mai
Phạm Gia Huy Nguyễn Ánh Bình Minh Lê Phương Duyên
FOREWORD
Dear beloved readers,

Innovation and curiosity have led us humanity through thick and thin. Science - the ultimate
answer to exploring the unknown and bringing about changes, is our gift to unlock the quests of
existence. In times of uncertainty, science, through the works of restless minds, solves issues and
provides the path to a better future. Research, therefore, is the key to sustainable development.

As a leading institution in training and research, UEH inspires and supports learners' research
through numerous activities. We focus on methodological training, increase the diversity of
approaches, and encourage learners to practice disseminating research outcomes to the public.

In this respect, the UEH Youth Union proudly presents the Journal of Students' Scientific
Inquiries for Development - JSSID. JSSID is a place for UEH students to publish their latest
research results, subscribing to the professional practice of peer-reviewing and integrity in publishing.
To nominate and honor the scientific projects delivered by UEH students, we have collected the
articles on "Comprehensive and Sustainable Development in the context of Globalization" and
introduced them in this issue. Spreading across disciplines from economics, finance and business
administration to marketing, law and statistics, JSSID brings together rich research results by our
young yet promising future researchers.

The digital Journal presented to you is the work of a group of enthusiastic, inquisitive young
people at the UEH Youth Union. Nevertheless, establishing this Journal is only possible with the
estimable lecturers' guidance, support and help. Please allow us to express our deepest gratitude to the
University's Boards of Management for the precious guidance in the organization and operation of
JSSID. We sincerely thank the lecturers and experts of the Independent Review Council who have
accompanied JSSID during its preparation and drafting process.

Although several articles were sent to us for review, unfortunately, we had to limit this issue to
a few of the articles closest to the topic. In addition, during the drafting and editing process, we must
have made several mistakes without knowing. We sincerely apologize for our errors, and we ask
lecturers, authors, and readers for forgiveness. For any further suggestions, please get in touch with us
via email: ht-nckh@ueh.edu.vn.

In conclusion, we hope readers enjoy the Journal of Students' Scientific Inquiries for
Development - JSSID. We secretly wish this humble collection would contribute to the bigger
picture of students' research in Vietnam. Trusted and loved, The Journal will nurture and be the
starting place for potential professionals.

EDITORIAL COMMITTEE
LỜI NGỎ
Quý bạn đọc thân mến,

Trước muôn vàn đổi thay và bất định, nghiên cứu khoa học là công cụ đem đến câu trả lời.
Nghiên cứu chính là phương tiện giúp sinh viên giải thích cũng như có giải pháp cho những vấn đề
kinh tế - xã hội. Là chìa khóa cho sự đổi mới và phát triển bền vững, hoạt động nghiên cứu khoa học
trong sinh viên cần được đẩy mạnh để tạo ra nhiều sản phẩm hơn, phục vụ những nhu cầu cấp thiết
của đời sống kinh tế - xã hội.

Là một trong những cơ sở đào tạo và nghiên cứu dẫn đầu, Đại học UEH luôn tích cực đổi mới
sáng tạo và nâng cao chất lượng đào tạo thông qua hoạt động nghiên cứu học thuật. UEH nâng đỡ và
truyền cảm hứng cho phong trào nghiên cứu của người học bằng nhiều hoạt động, trong đó chú trọng
hỗ trợ về phương pháp, gia tăng tính đa dạng của tiếp cận, đồng thời thúc đẩy người học thực hành
phổ biến kết quả nghiên cứu đến công chúng.

Trân trọng và tôn vinh các đề tài nghiên cứu khoa học mà sinh viên UEH đã hết lòng ươm
dưỡng, Đoàn trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh cho ra đời Tập san Phát triển Nghiên cứu
Khoa học Sinh viên (Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development - JSSID). Trải
khắp các lĩnh vực từ kinh tế, tài chính quản trị đến marketing, luật học và thống kê, sinh viên UEH
không ngần ngại mang tài năng của mình đóng góp để làm giàu cho công cuộc xây dựng và phát triển
nước nhà. Chúng tôi đã kêu gọi và nhận được nhiều bài viết của các nhóm tác giả gửi về, để từ đó,
chúng tôi có thể biên tập và giới thiệu các bài viết xoay quanh chủ đề “Phát triển kinh tế toàn diện và
bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa” (Comprehensive and Sustainable Development in the context
of Globalization) trong tập san lần này.

Tập san điện tử trước mắt quý vị là công sức của tập thể đoàn viên thanh niên nhiệt huyết,
ham học hỏi và đầy sức trẻ từ Đoàn Trường UEH. Song chúng tôi không thể làm được nếu không có
sự chỉ đạo, ủng hộ và giúp đỡ từ Quý Thầy, Cô. Chúng tôi xin kính gửi đến Ban lãnh đạo Nhà trường
lời tri ân sâu sắc nhất vì những định hướng chỉ đạo đúng đắn trong việc tổ chức và vận hành Tập san.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Quý Thầy Cô, Quý chuyên gia thuộc Hội đồng Phản biện Độc lập
đã đồng hành cùng Tập san trong suốt quãng thời gian qua.

Song vừa làm, vừa học hỏi, dò dẫm qua sông hẳn không tránh khỏi lúc sơ sẩy. Dù thu hút
được số lượng lớn bài viết đổ về, do khuôn khổ rất có hạn của một số tập san, chúng tôi đành giới hạn
đăng tải những bài viết gần với chủ đề nhất. Quá trình xây dựng và soạn thảo, chúng tôi không tránh
khỏi sai sót. Với tinh thần sửa chữa để tiến bộ, chúng tôi thành thực nhận lỗi và kính mong Quý Thầy
Cô, Quý tác giả cùng Quý vị bạn đọc lượng thứ. Mọi đóng góp ý kiến, xin vui lòng gửi qua địa chỉ
email: ht-nckh@ueh.edu.vn.

Chúng tôi chân thành hy vọng Tập san Phát triển Nghiên cứu khoa học Sinh viên được quý
bạn đọc gần xa yêu mến. Chúng tôi thầm ước tập tin nhỏ này sẽ góp được chút gì trong việc nhóm lên
ngọn lửa nghiên cứu của sinh viên. Được tin yêu, Tập san rồi sẽ ươm mầm và nâng đỡ các tài năng
trẻ đâm chồi, đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội.

BAN BIÊN TẬP


TABLE OF CONTENTS

Page
No. Field Articles Authors
No.

FOREWORD 00

PART I: ORIGINAL WORKS SUBMITTED TO JSSID

ESG TRANSPARENCY AND FIRM


Nguyễn Hưng Long
01 Finance VALUE - EVIDENCE FROM G7 01
Nguyễn Đức Hưng
COUNTRIES

Lê Ngọc Quỳnh Anh


Finance DO VIETNAMESE BANKS USE Phan Ngọc Tùng Quyên
02 FINTECH IN THE RIGHT WAY?
18
Nguyễn Thị Thanh Hằng

KHẢ NĂNG PHÒNG NGỪA RỦI RO VÀ Hoàng Tiến Đạt


Finance ĐA DẠNG HÓA CỦA BITCOIN ĐỐI VỚI Hoàng Thị Phương Linh
03 THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU VÀ TỶ GIÁ
33
HỐI ĐOÁI Lê Thành Đạt

Nguyễn Hoàng Long


DETERMINANTS OF BITCOIN Hoàng Nguyễn Tuyết Nhi
04 Economics INVESTMENT INTENTION OF 47
GENERATION Z IN HO CHI MINH CITY Bùi Hoàng Quang Huy
Đỗ Hoài Phương

Bùi Thị Huyền


TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHỈ SỐ KINH TẾ
05 Economics XÃ HỘI ĐẾN PHÁT THẢI C02 TẠI VIỆT Nhang Thị Mỹ Hậu 64
NAM GIAI ĐOẠN 1990 - 2018 Trần Mỹ Huyền

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN Nguyễn Thị Thúy Linh
LÝ NGUỒN NHÂN LỰC XANH DÀNH Hồ Thị Tâm Diệu
CHO HÀNH VI CỦA CÔNG DÂN TỔ Trần Thị Lê Na
06 Economics
CHỨC ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG VÀ
75
HOẠT ĐỘNG VÌ MÔI TRƯỜNG TRONG Lê Hiếu Ngân
KHUÔN VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Thái Ngọc Bích Trâm

Nguyễn Văn Hưng


NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC
Nguyễn Phương Uyên
ĐỘNG ĐẾN HÀNH VI VÀ NHẬN THỨC
07 Economics CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT VỀ VẤN Phạm Ngọc Khánh Ngân 92
ĐỀ SỬ DỤNG TÚI VẢI THAY CHO TÚI Phan Thị Như Quỳnh
NILON
Huỳnh Ngọc Bích

FACTORS AFFECTING ATTITUDE TO


USE AND INTENTION TO CONTINUE Nguyễn Thị Bảo Trang
USING SUBSCRIPTION VIDEO ON Nguyễn Thị Thảo Trang
08 Marketing
DEMAND (SVOD) SERVICE IN
110
VIETNAM: A STUDY ON NETFLIX Đặng Đinh Gia Thảo
USERS IN HO CHI MINH CITY
Page
No. Field Articles Authors
No.

EFFECTS OF ELECTRONIC WORD OF


MOUTH ON BRAND IMAGE AND Phạm Gia Huy
09 Marketing PURCHASE INTENTION. AN 134
EMPIRICAL STUDY IN VIETNAM’S Lê Ngọc Ngân
CINEMA INDUSTRY

Lê Thị Thu Trang


FACTORS IMPACTING ON THE Vũ Thị Trang
INTENTION TO START AN Nguyễn Thị Hồng Thắm
10 Administration
E-BUSINESS: A CASE STUDY OF
146
UNIVERSITY STUDENTS Nguyễn Thị Yến Nhi
Lê Thanh Hiền

Phan Thị Vân Anh


TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI CÓ SỨC ẢNH
11 Administration HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH MUA HÀNG CỦA La Nhật Minh 162
GIỚI TRẺ TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM Nguyễn Thị Thanh Quyên

Nguyễn Thị Nhạn


CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý
12 Administration ĐỊNH MUA SẮM QUẦN ÁO CŨ CỦA Trần Tiểu Thành 172
NGƯỜI TRẺ Ở TP. HCM Lê Thị Cẩm Tiên

BẢO VỆ DỮ LIỆU CÁ NHÂN XUYÊN Bùi Hoàng Lộc Anh


13 Law BIÊN GIỚI: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 184
VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM Trần Tú Uyên

Nguyễn Hoàng Ngọc Trâm


SỰ ƯNG THUẬN TRONG PHÁP LUẬT
14 Law HỢP ĐỒNG MẪU Ở LĨNH VỰC Bùi Hoàng Lộc Anh 195
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Nguyễn Thị Phương Linh

QUẤY RỐI TÌNH DỤC TẠI NƠI LÀM Nguyễn Phạm Thu Thúy
VIỆC: MỘT TIẾP CẬN ĐỊNH TÍNH TỪ Bùi Hoàng Lộc Anh
15 Law
VIỆC SỬ DỤNG DỮ LIỆU CỦA CÁC
204
NHÓM FACEBOOK BÍ MẬT Nguyễn Hoàng Ngọc Trâm

Hà Thị Ngọc Anh


Đặng Trần Minh Phương
ỨNG DỤNG CỦA XÁC SUẤT TRONG Nguyễn Thị Duyên
16 Statistics
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
214
Huỳnh Phương Thảo
Hoàng Nhật

PART II: 2022 UEH STUDENTS’ RENOWN AWARDED RESEARCH WORKS


Retrieved from MOET University Student’s Research Award of Science and Technology,
the National Students’ Olympic Competition of Econometrics and Applications, &
223
the Euréka Award for Student’s Scientific Research.
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

ESG TRANSPARENCY AND FIRM VALUE


EVIDENCE FROM G7 COUNTRIES
Nguyễn Hưng Long
Nguyễn Đức Hưng
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: longnguyen.31191023511@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT
Received date: 06/12/2022 This study investigates the relationship between ESG scores
Revised date: 27/02/2023 and firm value from G7 countries in the period 2015 – 2020 to find
Accepted date: 28/02/2023 evidence for the benefits of ESG. Investing in community
responsibility is increasing according to the trend of sustainable
development. Environmental, social, and governance (ESG)
indicators gradually become essential when assessing the firm value.
This study applies the Feasible Generalized Least Squares (FGLS)
method to examine this issue. The research sample of 111 listed
companies focusing on the G7 countries (France, Germany, Italy,
Japan, the United States, the United Kingdom and Canada) is used
Keywords:
environmental, across the period from 2015 to 2020. The research results show that
firm performance, the application of ESG positively impacts firm value. The study
governance (ESG), makes valuable recommendations for firms to quickly and effectively
social, deploy and take full advantage of the benefits of transparent
sustainable development implementation of ESG.

1. Introduction
A press release on research published by PwC (November 2021) shows that Environmental,
Social, and Governance (ESG) criteria have become a critical determinant of top investors'
investment decisions. Focusing on ESG standards is considered the core of sustainable development -
the right hand to lead businesses globally to go further effectively. Dynamic business leaders often set
ambitious goals, are ready to quickly adjust how the business is run, and are willing to take on
responsibility. In addition, business leaders can re-examine their business models to respond well to
requirements from new realities or to capitalize on new opportunities, all of which can turn risk into a
competitive advantage.
Investing in ESG previously did not attract much attention compared to economic benefits.
However, many people were still "half-hearted" about ESG until they poured more money into
ESG-compliant businesses than ever. According to a report from Morningstar, a leading financial
services company, in 2020, for the first time in history, total assets under management at funds will
comply with ESG guidelines. The announcement of the ESG attracts domestic and international
investors (Chauhan & Kumar, 2019). When the COVID-19 epidemic broke out, developing a
business according to ESG criteria was no longer an option but became a vital decision. It is the

1
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Covid-19 pandemic that has contributed to accelerating this trend, the investment strategy shifts to
ESG factors rather than traditional financial indicators. In addition, sustainable investment
instruments have shown significant growth even during the COVID-19 pandemic, making investors
and regulators more concerned about the transparency of information related to ESG. Over time, the
reasonable and transparent implementation of ESG targets has increasingly affirmed the position and
strength of the business.
Coupled with the growing demand for ESG pillars from businesses and investors, the ESG has
also brought unanswered puzzles and heated debates, calling for academic scrutiny. In addition to
studies showing consensus, many studies have denied the benefits of ESG for businesses. Yuyama et
al. (2019) found no significant association between ESG disclosure and investment returns on the
stock market in Japan. Arribas et al. (2019) did not find a substantial difference between socially
responsible and conventional investments in the United States.
Amidst many conflicting opinions on the impact of ESG reports on businesses, the authors
found the following issues. Most past studies focused on analyzing the effect of ESG within a specific
country or region. However, ESG disclosure is a subset of non-financial information; its practices are
flexible and do not follow a standardized format like financial information (Elzahar et al., 2015). That
means the level of ESG disclosure and its impact will vary from region to region. Maria Assunta et al.
(2018) study and institutional theory have also demonstrated that the country factor can reduce or
improve the level of disclosure on ESG.
Recognizing the limitation in the scope of analysis from previous studies, the authors aim to
understand the impact of ESG on a broader and broader scale – the G7 group of countries, which are
developed countries and share a standard orientation towards sustainable development. G7 leaders
expressed special attention to environmental factors from the Paris Agreement (2015) on Climate
Change at the G7 Summit meeting in 2016. They claim to support moving towards mandatory
climate-related financial disclosure and social responsibility.
Inheriting and supplementing previous studies, the study aims to examine the effect of
applying and disclosing the ESG report on firm value. Inherently with their status as the great powers
with the most developed industrial economies in the world, G7 enterprises can easily cause a domino
effect and create positive changes in the global economy. The study also provides policy implications
to help businesses quickly and efficiently deploy and take full advantage of the benefits of transparent
implementation of ESG.
The next parts of the paper are organized as follows. Section 2 presents reviews of the
Theoretical Basis of the literature in this area. Section 3 provides the methodology and the empirical
models. Section 4 demonstrates the results of the research. And the last section will present some
conclusions
2. Theoretical Basis
2.1. The Basic Concepts
Sustainable Development
Sustainable development goals are not a new concept. The term, which has a long history of

2
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

origin, first appeared in 1980 in the World Conservation Strategy published by the International
Union for Conservation of Nature and Natural Resources (IUCN). It was then widely disseminated in
1987 thanks to the Brundtland Report of the World Committee for Environment and Development
(WCED), which defined sustainable development as "development that can meet current needs
without compromising or harming the needs of future generations." In 2002, at the World Summit on
Sustainable Development in Johannesburg, Republic of South Africa, nearly 200 countries
summarized the action plan on sustainable development over the past ten years and made relevant
decisions. Gradually over time, the issue of sustainable development became popular and was noticed
by everyone, and the trend of socially responsible investment and the environment also increased.
ESG Report
Sustainable development is not only a concept that requires the necessary adjustments but a
process that is being applied slowly but firmly at all levels. For businesses, sustainable development
means applying effective business strategies while maintaining the protection, maintenance, and
enhancement of human and natural resources needed in the future. The cultivation of environmental,
social, and governance capital positively affects sustainable business models (Kluza et al., 2021).
Therefore, ESG (Environment – Social – Governance) appears and is a proxy of the firm responsible
for the environment, society, and governance.
Environment
Environmental standards consider a business's impact on the natural environment.
Environmental criteria include how companies use renewable energy sources, how they handle waste
management, use solar energy to reduce CO2 emissions, use biogas systems, and a circular economy
(3REs: Reduce, Recycle, Reuse) to limit the amount of waste. According to a study by Weber (2013)
analyzing the reports of the top 100 Chinese companies in terms of green environment, good ESG
reporting results provide better financial returns and improve corporate environmental performance.
In addition, how the business handles potential air or water pollution issues and its attitudes and
actions toward climate change issues.
Social
Social criteria are basically about social relationships. They are often judged by the fairness of
employee pay, the diversity of bonuses and compensation, and the benefits for workers. Investors
interested in ESG can make a big difference in evaluating the business if it possesses unique benefits
and privileges. Because workplace policies involve diversity, inclusion, and improving the quality of
labor, employee satisfaction is a criterion that contributes to many long-term benefits (Zumente &
Bistrova, 2021). Diplomatically, social standards are assessed by the relationship with customers and
the extent to which a business contributes to charitable causes.
Governance
Management is basically about how the business is managed. This criterion is often evaluated
by how the manager operates, how the board shares benefits with employees and partners, and
avoiding conflicts of interest with shareholders. Financial transparency, accounting ownership, and
full, honest financial statements are essential to good firm governance. Besides, the issue of
compensation for executives is the primary concern of many ESG investors. Appropriate and worthy

3
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

remuneration for executives is a proper way to increase the long-term value of the business's
management capacity and profitability.
2.2. ESG and firm value
The theoretical framework for the impact of ESG transparency on firm value
Stakeholder theory
Stakeholder theory is a view of capitalism that emphasizes the interconnected relationship
between a business and all customers, suppliers, employees, investors, communities, and other
stakeholders in that business. This doctrine holds that any company should aim to create value for all
parties responsible for the business.
The theory of stakeholders (Freman, 1984) holds that the organization is obliged to treat
stakeholders fairly if the parties involved have a conflict of interest, and the business must be obliged
to achieve the optimal balance between them. This theory accounts for the motivation for
organizations to select and voluntarily apply the ESG report - to meet the increasing demand for
information about society, governance, and the environment on the part of government agencies,
credit institutions, investors, and consumers, the community.
Social responsibility theory
Social responsibility theory allows organizations to release information without any
censorship freely. However, it is necessary to ensure that such content is discussed publicly and that
businesses are obliged to explain and prove the purity of the information in public. This theory lies
between both authoritarian theory and liberal theory: on the one hand, it allows for the entire freedom
of communication of the business but has external control. This theory has helped to create
professionalism in communication by establishing a high level of accuracy, honesty, and reliability.
The ESG rating can be considered a good "representation" of social responsibility (Marina Brogi and
Valentina Lagasio, 2019). In recent years, pressure from the media and investors has put
environmental sustainability at the top of the board's agenda. A more proactive approach comes from
the desire to demonstrate a commitment to corporate social responsibility because they believe this
will bring a competitive advantage.
Agency theory
Agency theory (also known as the theory between the owner and the representative) is a
classic theory in organizational economics, initiated by Ross (1973) as the first to explain the
important relationships between principals and their relative agents. In the most basic sense, the
principal relies heavily on an agent to execute specific financial decisions and transactions that can
result in fluctuating outcomes. The purpose of the representation theory is to clearly define the
contracts and the optimal conditions for the performance of the agreement to minimize the adverse
consequences. The nature of the problem can come from the lack of information between the two
parties. Therefore, the theory of representation recommends the development of fully informed,
transparent, and public reports, especially on the social responsibilities of enterprises. Cheng, Hong,
and Shue (2013) found that managers of large U.S. businesses enjoy personal benefits from investing
in ESG at the expense of shareholders' value, in line with representation theory. Agency theory is also

4
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

often referred to as the "agency dilemma" or the "agency problem."


Signaling theory
Michael Spence (1973) proposed a solution to overcome asymmetric information by signaling
mechanisms. Signal theory describes how parties behave when approaching information that is not
the same. One party chooses how to communicate information, and the other chooses how to interpret
it. A party with a lot of information can send an honest and reliable signal to less informed parties.
Bini et al. (2010) argue that highly profitable businesses will provide signals through demonstrations
to increase their competitiveness. Thus, the signal theory is based on asymmetrical information; when
there is an information asymmetry, the holder of the information needs to signal to the party that
needs the information to achieve a particular goal. In listed firms, asymmetric information appears in
managers' relationships with shareholders and firm relations with stakeholders.
Managers get a lot of information about the business because they are the operators; if
deliberately concealed, it may affect the shareholders' decision to the detriment. Companies that do
not send signals or send incorrect signals to the outside can influence decisions and cause damage to
stakeholders. Firms are not transparent in information disclosure, especially in firm performance,
leading to errors in tax payment and in making decisions of investors or creditors in disbursement or
investment. Thus, according to signal theory, to minimize information asymmetry, businesses need to
signal to stakeholders, emphasizing and promoting the role of transparency of ESG reporting -
representing enterprises' social responsibility and ethics.
Value enhancing theory
On the one hand, the value enhancement theory holds that integrating activities that
demonstrate social responsibility into strategies will help businesses build a competitive advantage,
promoting long-term value for shareholders. Other benefits include improving brand reputation and
employee productivity, helping increase operational efficiency, and improving relationships with
regulatory, social, and other stakeholders (Godfrey et al., 2009), access to better investment projects,
and greater financial resources (Charlo et al., 2015). Based on this theory, businesses that make the
ESG index report will receive a positive assessment of the stock market.
Empirical evidence on the effect of ESG transparency on firm value
Aboud and Diab (2018) investigate the impact of the publication of environmental, social, and
corporate governance information on the value of businesses in Egypt. The results show that ESG
scores significantly impact and are in the same direction as corporate values. Therefore, from the
results drawn from the research paper, the ESG index plays a vital role in evaluating business value in
Egypt. From here, businesses can promote transparency and publish enough information to upgrade
reporting standards, improving sustainability and governance practices in Egypt.
Balatbat et al. (2012) analyzed ESG scores of 208 companies in Australia across various
industry sectors from 2008 to 2010. A strong positive link between financial performance and
sustainability practices, as measured by ESG scores, could not be established by looking at financial
performance measures one at a time. The study results show that financial performance has little to
no correlation with ESG scores. There could be a blurring between certain ESG practices. While
some practices may positively impact a firm's profit, other practices may not necessarily be

5
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

value-adding but only burden the firm with additional costs. Besides, research shows that the ESG
scores may not reflect the actual ESG practices of companies.
Eibad Jamil (2020), the study of environmental, social, and governance (ESG) performance
affects the financial performance of businesses in Pakistan. With the dependent variable of the study
paper being FINP (including ROA, ROE, and Tobin Q), the results showed that ESG performance
had a significant positive impact on ROA but did not affect Tobin Q. The remaining variables also
had a negligible effect associated with Tobin Q. As a result, the findings have shown that ESG
performance and financial performance are partly related.
Fuente et al. (2022) researched and presented a fresh theoretical and empirical approach to the
relationship between ESG performance and a firm's total value through the real options lens. With the
research team's idea, looking at the "right" side of the value of ESG practices imposes the need to
shift attention to one source of a large portion of a firm's total value, namely G.O. value. This
provides valuable insight for interpreting the thus far ambiguous empirical evidence on the
ESG-value relationship based on heterogeneity among firms. Moreover, these latter findings
indirectly reveal that the value of ESG performance is mainly leveraged by its assets in place. As a
consequence, G.O. can relieve the firm of the need to incur additional effort in ESG practices which
can be competitive in resource allocation and which can detract resources from the optimal
maintenance and future exercise of a firm's G.O.
Saygili et al. (2021), studying in Istanbul, Turkey, shows a negative impact of environmental
disclosure on CFP. Regulations related to shareholder rights and the board of directors positively
impact CFP in terms of governance. Their analysis shows that, among ESG dimensions,
governance-related disclosures have a more significant influence on CFP. It is realized that future
studies could expand on the ESG indices and investigate practices in other groups of companies in
Turkey and other emerging markets.
Shaista et al. (2021) investigate the impact of environmental, social, and governance (ESG)
factors on the competitive advantage and operational efficiency of enterprises in Malaysia. The study
results show that participation in ESG transparency has improved business performance and
competitive advantage due to better access to external financial resources. In addition, the ESG factor
also increases the competitiveness of enterprises in each specific industry. And from this study, with
the findings found, it is possible to encourage businesses to view the disclosure of non-financial
information as an essential criterion for long-term development.
3. Data and Methodology
Research Data
The study focuses on G7 enterprises (France, Germany, Italy, Japan, the United States, the
United Kingdom, and Canada) from 2015 to 2020. The countries in the G7 group were chosen as a
research sample because they are all the most developed economic powers. The G7 group was
formed to work together to solve problems - in the international financial sector. G7 leaders have
expressed concern about environmental factors since the 2016 G7 Summit. This study also employs
several criteria for sample identification. First, restrict the sample to non-financial enterprises,
excluding companies in the financial, insurance, and real estate sectors. Second, companies must

6
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

access basic financial data such as total assets and liabilities and ESG scores. The companies chosen
for the index, such as CAC40, DJ30, etc., are all large cap companies, resulting in 666 observations
from 111 listed companies. However, data with outliers are removed from the sample during data
preprocessing. The data comes from Refinitiv's Eikon, which includes ESG scores in addition to
annual financial data (Worldscope) and market data (Datastream).
Hypothesis
Stakeholder theory is related to sustainable development, as expressed here through ESG (a
set of standards to measure factors related to sustainable development and the impact of businesses
on the community). Today, a prominent issue is how companies that publish a sustainability report
(ESG) will affect their value. According to the stakeholder theory, a company's excessive focus on
environmental protection and social responsibility instead of business activities will create agency
problems. From there, a company's market value reflects information for investors. As a result, a
statement of financial position or operational strategy is published that affects the value of the
business. Besides, investors have always been more interested in corporate governance issues than
environmental and social issues (Eccles et al., 2011). Many people assume that a high ESG will
reduce the company's value because companies place a high value on environmental, social, and
governance activities, which will cause agency problems.
Furthermore, studies show that sustainability reporting has a positive impact on the value of
Turkish businesses. Another study that aggregated the results of more than 200 previous studies
showed one finding, finding that 80% of the studies analyzed showed a positive correlation between
ESG performance and financial performance in the market (TobinQ) (Clark et al., 2015). A research
paper on the Korean market from 2013 also showed that a firm's ESG score is positively correlated
with both stock returns and TobinQ (Kim et al., 2013).
According to the authors, the studies were only conducted in one country. Furthermore, when
a company now cares about ESG, it does not deprive future generations of growth opportunities.
Firstly, the environment is a sensitive issue, particularly for industrial enterprises, and contaminating
the environment will result in higher costs to deal with the consequences and fines. Second, the ESG
rating can be regarded as an effective "representative" of social responsibility (Marina Brogi and
Valentina Lagasio, 2019). According to social responsibility theory, ESG helps lower capital cost and
increase market value (George H et al., 2019). Third, having the right management strategy,
respecting copyright, and caring about the business's management board will help the company gain
more appreciation from stakeholders.
Furthermore, when deciding to invest in a business, both domestic and foreign investors are
interested in the issue of sustainable development. The authors, however, agree with several previous
studies that ESG has only a moderate impact on firm value. With the above arguments, we
hypothesize the effects of the three ESG pillars on firm value below:
Hypothesis : Environmental, social, and governance (ESG) has a positive impact on firm value
Research Model
The authors construct the model as follows based on the hypotheses proposed by the group,
using theory and previous research:

7
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Model (1) tests hypothesis , based on the work of Ebru Saygili et al. (2021), Fuente et al. (2021):
TobinQt = β0 + β1EPSEit + β2SPSit + β3GPSit + β4GROWTHit + β5SIZEit +
β6LEVit + β7TAAit + β8CASHit + uit (1)
Where:
Tobin Q: Corporate value
EPSE: Environmental pillar point
SPS: Social pillar score
GPS: Administrative pillar point
GROWTH: Growth rate
SIZE: Firm size
LEV: Financial leverage
TAA: Tangible assets
CASH: Cash holding ratio
Variables
Dependent Variable
Firm value is measured through Tobin's Q index (Tobin Q).
Tobin's Q index is used as a proxy for firm value because Tobin's Q index is an index that
represents the value of assets of enterprises adjusted to market value. Tobin's Q coefficient measures
how the market assesses a business's performance and its financial well-being to estimate whether a
business is overvalued or undervalued.
Independent Variables
The independent variables for the research models are measured using a trio of indicators in
the sustainability report (ESG), namely Environment (EPSE), Social (SPS), Governance (GPS) from
Refinitiv Eikon (Cheng et al., 2013; Caroline Flammer, 2021). ESG reports and indicators are also
important factors that present the overall business picture of an enterprise, related to issues such as
energy efficiency, worker safety, and the board of directors' independence. Investors who use ESG
scores to supplement their financial analysis can get a broader view of a business's long-term
potential. ESG scoring is based on the Thomson Reuters model, corresponding to a scale from D - to
A+ on Eikon.
Environmental policy stringency index (EPSE)
The Environmental Score refers to the relationship between business and environmental
protection. It shows the extent to which a firm uses management criteria to reduce environmental
risks, including energy use, CO2 emissions, energy saving policies, etc. There are 61 indicators that
contribute to this score. (Ortas, 2015; Cheng et al., 2014)
Social policy stringency index (SPS)

8
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

The Social Score measures a business's potential to create trust, manage human relationships
through methods such as how well it treats customers, contribute to community projects, local
communities, and gender equality in the corporate environment. There are 63 indicators contributing
to this score. (Ortas, 2015; Cheng et al., 2014).
Governance policy stringency index (GPS)
The Governance Score reflects issues related to the corporate governance structure to evaluate
a company's systems to ensure its executives and board members act in the company's and long-term
shareholders' interests. Fifty-one indicators contribute to this score. (Ortas, 2015; Cheng et al., 2014).
Table 1. ESG score conversion table on Eikon

Rating based
D- D D+ C- C C+ B- B B+ A- A A+
on Eikon

Redemption
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
points

Source: Synthesis of the research team


Control Variables
During the research process, the authors refer to control variables based on previous studies by
Rio Murata and Hamori (2021), Masliza and Wasiuzzaman (2021), and Alsayegh et al. (2020).
GROWTH: The growth rate (GROWTH) is a ratio that measures the growth of sales in year t
compared to year t-1.
SIZE: Firm size (SIZE) is a control variable measured by the logarithm of total assets. SIZE is
one of the essential financial factors contributing to an enterprise's financial performance. The larger
the SIZE, the easier it is to access loans.
LEV: A research paper by Alsayegh et al. (2020) measured the financial leverage variable
through the D/E ratio (Debt to equity ratio). More specifically, it reflects the ability of shareholders'
equity to cover all outstanding liabilities in the event of a business downturn. The debt-to-equity
(D/E) ratio is calculated by dividing a company's total liabilities by its shareholders' equity.
TAA (Tangible Assets): According to Fuente et al. (2021), the ratio of fixed assets to total
assets has an impact on firm value. Typically, companies in the manufacturing sector will have a
higher ratio of fixed assets to total assets than companies in the service sector.
CASH: The authors inherit the study of Li et al. (2018) when using the cash holding ratio to
assess the impact of this ratio on the firm value. A high cash holding ratio indicates that a business
can quickly pay its due debt obligations. However, this too-high ratio can also give analysts
information that the business is leaving too much cash idle without investing in profitable projects.
4. Research Results
4.1. Descriptive statistics results
Table 2 presents the results of descriptive statistics showing an overview of the research data

9
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

sample. Accordingly, the research sample includes 111 G7 companies (France, Germany, Italy, Japan,
USA, U.K., and Canada) in the period 2015 – 2020.
Table 2. Descriptive statistics

Number of Standard
Variables Mean Min Max
observations deviation

TOBIN Q 648 1.652 1.425 0.167 13.775


EPSE 648 9.456 1.789 3 12
SPS 648 9.361 4.409 2 111
GPS 648 8.527 2.058 2 12
GROWTH 648 0.027 0.149 -1 0.9
SIZE 648 10.698 2.338 6.550 19.075
LEV 647 1.220 2.961 0.010 48.79
TAA 648 0.623 0.180 0.120 0.96
CASH 635 0.092 0.112 0.001 0.79

Source: Synthesis of the research team


For the dependent variable TobinQ, with an average of 648 observations taken from Eikon of
Refinitiv reliably, the team calculated the mean value of the ratio between values through the
regression results from STATA software. Market and the firm's replacement value is 1,652; along
with the model standard error of 1.425, the value between the ratio of market value to the
replacement value of the smallest enterprise is 0.167, and the maximum value is 13.775.
For independent variables, with 648 observations, the results obtained with mean, standard
error, minimum and maximum values are clearly and fully shown in Table 2 mentioned by the group.
All variables generally have large standard deviations because their data are randomly selected from
companies in G7 countries.
4.2. Correlation matrix
Before proceeding with further analysis, it is necessary to check for the presence of
multicollinearity between the independent variables. Table 3 presents the correlation coefficients
between the variables included in the research models. Table 3 shows that the correlation coefficient
between EPSE variables with SPS and GPS is 0.3035 and 0.5241, respectively, at a low level. The
remaining variables in the model are correlated with each other, have a correlation coefficient of less
than 70%, and therefore do not show signs of multicollinearity (Hair et al. (2010)). Consequently, it is
possible to put these variables in the same research model simultaneously.

10
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Table 3. Correlation matrix

TOBINQ EPSE SPS GPS GROWTH SIZE LEV TAA CASH

TOBIN
1
Q
EPSE 0.152 1
SPS 0.0422 0.3035 1
GPS 0.1282 0.5241 0.2375 1
GRO
0.2643 0.0788 0.0032 0.0965 1
WTH
SIZE -0.2857 0.0159 -0.0221 -0.114 -0.1107 1
LEV -0.0689 -0.0273 -0.0325 0.0082 0.1321 -0.039 1
TAA -0.0449 -0.0555 0.0008 0.0414 -0.0552 0.1105 0.0336 1
CASH 0.0798 -0.0547 -0.0427 -0.0232 0.1249 -0.0515 0.0279 -0,358 1

Source: Synthesis of the research team


4.3. Results and Discussion
This content will analyze how a business that publishes a sustainability report will affect its
value. The research results are presented below.
Table 4. Regression results of enterprise value model by Pooled OLS, FEM, REM methods

Pooled OLS FEM REM


TobinQ
Coef. P-value Coef. P-value Coef. P-value
EPSE 0.2547 0.000*** 0.2607 0.000*** 0.2547 0.000***
SPS -0.0023 0.697 -0.0048 0.387 -0.0023 0.697
GPS 0.0898 0.011** 0.0952 0.014** 0.0968 0.011**
GROWTH 0.1712 0.361 -0.1137 0.418 0.1639 0.361
SIZE -0.0074 0.927 0.6592 0.000*** -0.0074 0.927
DE 0.005 0.602 0.0101 0.372 0.005 0.602
TAA -0.271 0.566 -1.2546 0.018** -0.271 0.566
CASH 0.3188 0.625 -1.2263 0.165 0.3188 0.625
R-square 43.24% 47.6% 43.74%
Obs. 634 634 634

11
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Group 108
F-test 51.47***
L.M. test 321.84***
Hausman test 57.24***
Wald test 56202.1***
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Source: Synthesis of the research team


F-test results show that p-value < 5%, rejecting hypothesis H0, the FEM regression method is
more suitable than the Pool OLS model. The results of the LM-test show that the p-value < 5%,
hypothesis H0 is rejected, REM regression method is more suitable than the Pool OLS model.
Comparing FEM and REM methods, Hausman test results show that p-value < 5%, the FEM model is
more suitable than REM. Because the FEM model was chosen, the research conducted a defect test
against this model. Since FEM is a model without series correlation, the research team only uses the
Wald test to test the phenomenon of variable variance. Wald test results show that p < 5%, hypothesis
H0 is rejected, so there is evidence to conclude that the FEM model has a variable variance. The
research used the FGLS method to regress the model to overcome this phenomenon. The results of
the FGLS regression method are presented in Table 5.
Table 5. Summary of regression results of enterprise value model by the FGLS method

FGLS
Tobin Q
Coef. P-value

EPSE 0.1113 0.000***

SPS -0.0011 0.495


GPS 0.0315 0.000***

GROWTH 2.0264 0.000***

SIZE -0.1535 0.000***

LEV -0.0208 0.065*

TAA 0.4247 0.000***

CASH 0.8513 0.004***


Obs. 634
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Source: Synthesis of the research team

12
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

The FGLS results found again that EPSE was statistically significant at a 1% significance
level and positively impacted Tobin Q. This finding is in line with the theory of value enhancement. It
could be explained that businesses with more attention to investment in environmental protection
could improve their relationship with environmental resource management agencies while helping
businesses reduce costs to deal with the consequences of environmental pollution and future fines.
These results are consistent with the experimental study in Malaysia by Shaista et al. (2021) and in
Egypt by Abound and Dilab (2018). The results for EPSE are also in contrast to the experimental
study of Saygili, E et al. (2021) in Turkey.
Similar to EPSE, GPS has statistical significance and positively affects Tobin Q. We based on
signaling theory and asymmetric information background to argue for the impact of GPS on TobinQ
as follows. An enterprise with good performance in operational management, business ethics, and
respect The importance of intellectual property rights has a positive incentive to disclose information
truthfully and completely to less informed parties such as individual investors and foreign investors.
This reduction of information asymmetry will protect investors' interests and help the company's
market value be appreciated—the positive impact of governance quality on the firm value (Saygili et
al., 2021).
Beyond the research expectations, we argued based on the theory of value enhancement that:
An enterprise ensures diversity, fairness in the use of labor, the confidentiality of the information, and
a public relationship. Positive contracts will improve employee productivity, increase production
efficiency and improve relationships with stakeholders, thereby helping the market to value the
company well. This study did not find evidence that SPS positively affects Tobin Q. Instead, SPS was
not statistically significant at any appropriate significance level. The authors believe that the sampling
of data of enterprises in many different countries has made the regression results for the SPS variable
not very meaningful. Because each country has a heterogeneous social environment, companies in
each country will have different levels of social concern. In addition, as argued in the hypothetical
section, socially concerned companies are often not-for-profit companies, so the effect of the social
score is not important for companies within the scope of the study. The estimated results for the SPS
variable are similar to the results of the study in Pakistan by Jamil and Siddiqui D.A (2020). This
shows that although the study scope was extended to a group of countries instead of just studying in
an individual country, there is still not enough evidence to conclude how businesses publishing social
scores will affect their value.
In addition, the research also found several other factors that affect this dependent variable,
including GROWTH, SIZE, TAA, and CASH, all of which are statistically significant at 99%
confidence level, and D.E. is statistically significant at 90% confidence level.
GROWTH has a positive impact on corporate value. Businesses with high revenue growth
show that their goods and services quickly attract market demand. This also implies that the company
will have growth potential in terms of profit and cash flow in the future. Therefore, a business with
high revenue growth will be noticed by investors and force them to spend more money to own part or
all of that business. The above effect is also the result of an experimental study by Trieu (2019).
The regression coefficient of SIZE has a negative sign, which indicates that an increase in firm
size will decrease their market value. The results of SIZE analysis on Tobin Q in this study are in

13
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

contrast to the studies of Taimur et al. (2015), Abdul Rauf (2015), and Ramadan (2016), who found a
positive effect of the process on the market value of firms. The role of the SIZE variable in our study
is mainly to supplement the full range of factors that can affect the firm's value. The size of the
business increases the value of the business as long as that level of size still benefits from the
reduction in fixed costs per unit (cost advantage of scale). If the optimal size is exceeded, the cost
advantage of scale will diminish and potentially reduce the firm value.
The regression coefficient of LEV shows the negative impact of financial leverage on firm
value. Specifically, debt only helps increase business value when the debt ratio is lower than the
optimal debt ratio. If this optimal level is exceeded, the costs associated with financial distress will
outweigh the tax shield benefits of interest, thereby reducing the firm's value. Therefore, adding the
LEV variable to the research model only aims to avoid missing the important variable and reinforce
the impact of the ESG pillar scores on Tobin Q.
Another empirical result from the regression analysis shows a positive effect of fixed asset
ratio (TAA) on firm value. This result could be a result that further strengthens the empirical study of
Gharaibeh et al. (2017), who was the first scholar to find a positive effect of TAA on firm value. The
research makes two main arguments for the above result. First, the enterprises in the data sample are
mostly large-scale enterprises. Therefore, when making investment decisions in any fixed asset, the
management of these businesses will carefully calculate to ensure that this investment will bring
additional net value to the company. Second, increased investment in fixed assets means increased
depreciation costs, the most obvious benefit of depreciation expense is the benefit from the tax shield.
Finally, there is a positive impact of cash holdings ratio (CASH) on firm value. This effect is
in line with expectations as we assume a firm can use its cash reserves to finance some competition
policy aimed at competitors or even use this money to gather more productive employees. Research
by Benoit (2004) indicates that one can consider holding cash to prevent competitors from entering
the industry or expanding the scale. The experimental research results for the CASH variable of the
research team are similar to the study of Ferreira and Vilela (2004) and Amahalu and Beatrice (2017).
5. Conclusion
According to the results presented in the study, ESG reporting has improved the performance
of companies, helping them to become more stable and develop. In this study, we investigated
whether environmental, social, and governance (ESG) disclosures relate to corporate values for G7
countries: U.S., UK, France, Germany, Canada, Italy, and Japan. The transparency of the company's
ESG situation can bring many benefits to stakeholders such as the company's strategic partners and
investors because they can see the company's entire image to make decisions better and stick with the
company for a long time. This study considers ESG disclosure as a proxy for corporate ethical
behavior and disclosure trends. We expect that more active companies, regarding the disclosure of
information about ESG, provide more transparent information, especially paying more attention to
environmental protection, and create relationships with agencies. Environmental resource
management agency thereby helping businesses reduce costs in dealing with the consequences of
environmental pollution and fines in the future, leading to an increase in firm value.
We performed regression analysis for panel data Pooled OLS, FEM, REM, and FGLS on the

14
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

effect of disclosure on firm value after controlling for growth rate, firm size, financial leverage,
tangible assets, and cash holdings. Our findings show that ESG transparency will increase business
value when EPSE positively impacts TobinQ, with businesses paying more attention to environmental
protection and improving their relationship with the company. Similar to EPSE, GPS positively
affects TobinQ, meaning that a business with a strong track record in operations management will
protect the interests of investors and thereby help the company's market value be appreciated.
However, in terms of SPS, there is no statistical significance at any appropriate significance level to
Tobin Q. Our estimation results for the variable SPS are similar to the experimental results of Jamil
and Siddiqui (2020). In addition, we have discovered the level of influence of the ESG pivot point on
firm value. The research also found other factors that affect this dependent variable; these control
variables determine the value of a business.
In addition, with the announcement of the ESG, companies' business practices are becoming
more and more accountable to their customers. For some countries where ESG reporting is not
mandatory, the results of this study will encourage companies to be more transparent about some
non-financial factors to look to the long-term future of development and sustainable development.
And especially when ESG is considered an indispensable factor in the company's business, the future
result will be higher profits for the company and its shareholders. In addition, companies that are well
managed by the ESG situation will make substantial strides in the market and attract more and more
trust from the public.
The G7 countries have mostly issued directives on non-financial factors in ESG reports to
create better competition and a healthy business environment. In this study, with the selection of G7
companies to analyze ESG factors affecting company value to create a general overview that can be
applied to developing countries when the concept and publication of ESG were still too new.
Implication
Businesses, especially at the helm of a company, need to be aware of the long-term benefits
with a focus on ESG – not only for the company but also for social benefits. As a leader and
visionary, business leaders must ensure that their development strategy is geared toward creating
long-term values and pursuing financial and profit goals. Businesses must fulfill their responsibilities
to the environment and the community and publicly and transparently report on ESG factors that are
pivotal to creating corporate value. The ESG should not be a stand-alone initiative, dependent on an
organization's key financial measures to be effective. Instead, it should be fully integrated into the
strategy, performance, and work program of the Board of Directors, CEO, and executive
compensation. In the Environmental factor, businesses need to make efforts to reduce waste and
emissions, classifying and measuring materials used by enterprises to reuse, limiting the use of plastic
and nylon items, thereby saving costs that the company uses to solve water pollution problems.
Regarding the social factor, the Board of Management regularly surveys employees about the
working environment and has remuneration for employees: vacation mode, periodic travel, and
training classes to improve efficiency and productivity and publicly report on those regimes, create
excitement for employees to actively work, create external social relations, organize customer
gratitude services to create satisfaction and satisfaction customer loyalty. In addition, the Governance
factor makes an essential contribution to enhancing the value of the business, so it is necessary to

15
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

implement financial transparency, declare legal documents and complete and truthful financial
statements, and have a remuneration and salary policy suitable for senior managers and employees.
ESG reports should be prepared according to a common standard for enterprises across the
country to unify the targets; simultaneously, it is also convenient for stakeholders to compare, classify
and select suitable investment portfolios. In this regard, businesses can refer to the Global Reporting
Initiative standards (GRI standards) and additional published indicators according to GRI's guidelines
specific to each sector.

References
Alareeni, B. A., & Hamdan, A. (2020). ESG impact on performance of US S&P 500- listed firms.
Corporate Governance: The International Journal of Business in Society, 20(7), 1409-1428.
Alsayegh, M. F., Abdul Rahman, R., & Homayoun, S. (2020). Corporate economic, environmental,
and social sustainability performance transformation through ESG disclosure. Sustainability,
12(9), 3910.
Arayssi, M., & Jizi , M. I. (2019). Does corporate governance spillover firm performance? A study of
valuation of MENA companies. Social Responsibility Journal, 15(5), 597-620.
Awaysheh, A., Heron, R. A., Perry, T., & Wilson, J. I. (2020). On the relation between corporate
social responsibility and financial performance. Strategic Management Journal, 41(6), 965-987.
Balatbat, M. C., Siew, R. Y., & Carmichael, D. G. (2012). ESG scores and its influence on firm
performance: Australian evidence. In Australian School of Business School of Accounting, School
of Accounting Seminar Series Semester, 2, 1-30.
Broadstock, D. C., Chan, K., Cheng, L. T., & Wang, X. (2021). The role of ESG performance during
times of financial crisis: Evidence from COVID-19 in China. Finance research letters, 38,
101716.
Chauhan, Y., & Kumar, S. B. (2019). The value relevance of non-financial disclosure: Evidence from
foreign equity investment. Journal of Multinational Financial Management, 52, 100595.
Cheng, B., Ioannou, I., & Serafeim, G. (2014). Corporate social responsibility and access to finance.
Strategic management journal, 35(1), 1-23.
de la Fuente, G., Ortiz, M., & Velasco, P. (2022). The value of a firm's engagement in ESG practices:
Are we looking at the right side? Long Range Planning, 55(4), 102143.
Flammer, C. (2015). Does corporate social responsibility lead to superior financial performance? A
regression discontinuity approach. Management Science, 61(11), 2549- 2568.
Flammer, C. (2021). Corporate green bonds. Journal of Financial Economics, 142(2), 499-516.
Gharaibeh, A. M., & Qader, A. A. (2017). Factors influencing firm value as measured by Tobin's Q:
Empirical evidence from the Saudi Stock Exchange (TADAWUL). International Journal of
Applied Business and Economic Research, 15(6), 333-358.
Kluza, K., Ziolo, M., & Spoz, A. (2021). Innovation and environmental, social, and governance

16
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

factors influencing sustainable business models-Meta-analysis. Journal of Cleaner Production,


303, 127015.
Kuzey, C., & Uyar, A. (2017). Determinants of sustainability reporting and its impact on firm value:
Evidence from the emerging market of Turkey. Journal of cleaner production, 143, 27-39.
Li, Y., Gong, M., Zhang, X.-Y., & Koh, L. (2018). The impact of environmental, social, and
governance disclosure on firm value: The role of CEO power. The British Accounting Review,
50(1), 60-75.
Lins, K. V., Servaes, H., & Tamayo, A. (2017). Social capital, trust, and firm performance: The value
of corporate social responsibility during the financial crisis. The Journal of Finance, 72(4),
1785-1824.
Mohammad, W. M., & Wasiuzzaman, S. (2021). Environmental, Social and Governance (ESG)
disclosure, competitive advantage and performance of firms in Malaysia. Cleaner Environmental
Systems, 2, 100015.
Saygili, E., Arslan, S., & Birkan, A. O. (2022). ESG practices and corporate financial performance:
Evidence from Borsa Istanbul. Borsa Istanbul Review, 22(3), 525-533.
Shah, N. S., Yusuf, N. H., Zain, R. S., Rosli, S. A., & Azman, M. E. (2021). Determining the
financial performance of Malaysian green technology companies using Tobin's Q. Malaysian
Management Journal, 25, 213-234.
Zumente, I., & Bistrova, J. (2021). ESG importance for long-term shareholder value creation:
Literature vs. practice. Journal of Open Innovation: Technology, Market, and Complexity, 7(2),
127.

17
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

DO VIETNAMESE BANKS USE FINTECH IN THE RIGHT WAY?


Lê Ngọc Quỳnh Anh
Nguyễn Thị Thanh Hằng
Phan Ngọc Tùng Quyên
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: qanhleee@gmail.com

INFORMATION ABSTRACT
Received date: 16/12/2022 The research studies the role of Fintech in reducing credit risk
Revised date: 18/02/2023 in banks by analyzing the nonperforming loan ratio and loan loss
Accepted date: 19/02/2023 reserves ratio of 19 Vietnamese commercial banks for the period from
2011 to 2020. The research uses the word frequency analysis and web
crawler technologies to measure Fintech level in banks, and use
two-way fixed effect, system GMM and DID to do quantitative
regression tests. The results show that the development of FinTech
banks reduces credit risk, but the degree of influence is not
significant, only in a few banks.. The main reason may come from
there are many limitations in the way Vietnamese banks use Fintech,
Keywords:
bank credit risk, when they are still struggling with legacy infrastructure, a
banking system, long-standing banking system and an existing platform, so the
fintech, compatibility ability to adapt to new technological advances is still
Vietnam, poor. The research also gives recommendations to promote Fintech’s
web crawling abilities in a more effective way.

1. Introduction
1.1. Research statement and motivation
Nowadays, the industry is bringing banking into the digital age. Being aware of this, the
Vietnamese banking industry has been moving towards a digital banking model, transforming core
banks, equipping them with high technology, and digitizing assets to keep up with the global trend.
For the banking system in general, credit risk is one of the oldest and largest types of risks in the
financial markets, frequently occurring and causing severe consequences for the banking business
because credits often account for more than half of total assets and create from 70 percent - 90
percent of income for the bank. This is the post-WTO period, credit and bad debts have begun to
appear and increase, and banks have also entered a process with many changes (in terms of financial
structure, business performance and business environment). Most empirical literature analyzing credit
risk determinants focuses on developed countries, while very few studies focus on such a new
emerging country with a fast growth rate and a relatively small size of the economy like Vietnam.
The objective of our study is to examine how bank FinTech affects credit risk of 19
Vietnamese commercial banks in the period from 2011 to 2020. Using Non-performing loans ratio

18
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

and Loan loss reserves ratio to examine the impact of FinTech on credit risk of commercial banks as
measured by the percentage of loan defaults.
In addition, our research paper also suggests solutions for banks to consider adjusting and
developing resources and techniques to achieve high efficiency when applying FinTech. In addition,
the recommendations can help readers have a more objective view of the current state of FinTech in
Vietnamese commercial banks.
1.2. Research objectives
The objective of our study is to examine how bank FinTech affects credit risk of 19
Vietnamese commercial banks in the period from 2011 to 2020. Using Non-performing loans ratio to
examine the impact of FinTech on credit risk of commercial banks as measured by the percentage of
loan defaults. The scope of fintech used in the article is limited to payment activities, loans,
management systems and especially credit balance management.
This is the post - WTO period, credit and bad debts have begun to appear and increase, and
banks have also entered a process with many changes (in terms of financial structure, business
performance and business environment). Most empirical literature analyzing credit risk determinants
focuses on developed countries, while very few studies focus on such a new emerging country with a
fast growth rate and a relatively small size of the economy like Vietnam. In addition, our research
paper also suggests solutions for banks to consider adjusting and developing resources and techniques
to achieve high efficiency when applying FinTech. In addition, the recommendations can help readers
have a more objective view of the current state of FinTech in Vietnamese commercial banks.
1.3. Contribution
Research trends on FinTech in the era of digital transformation is a topical issue that receives a
lot of attention. Especially FinTech in banking. The study findings would shed lights into the
effectiveness of applying FinTech in Vietnam's banking system, especially in terms of credit risk
reduction - an age-old problem that all banks face.
In Vietnam, there are many researches about the effect of Bank Fintech, but the measurement
method often is questionnaire surveys (Do Hoai Linh, 2022) - which is model - limited and subjective
in sample selection. With the desire to have a more comprehensive and practical way to measure
fintech banks, the study used words frequently by python.
2. Literature Review and hypothesis development
Numerous studies have shown that information technology may help banks reduce transaction
costs, improve service quality, optimize business structures, and promote company transformation
and upgrade (Lapavitsas and Dos Santos 2008; Shu and Strassmann 2005). According to Frame and
Wall (2018), FinTech forces banks to rethink and reinvent their underlying business strategies – an
indirect way to avoid credit risk. Acar and Citak (2019) thought that due to the benefits of FinTech
businesses, FinTech companies and commercial banks should enhance their collaboration, familiar
with the approach of our research: the cooperation between banks and Fintech.
Fintech brings greater transparency to risk profiles, and more effective management of credit
risk.According to Lucey and Roubaud (2020), FinTech helps customers borrow money quickly,

19
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

reduces corporate finance costs and improves the economic efficiency of financial services. As a core
component of financial institutions, banks play an important role in allocating scarce financial
resources between borrowers and lenders. The stability of the banking system is considered to be the
main driver reducing credit risk (Levine 1997). FinTech establishes a relatively complete database
and risk management system using cloud computing and artificial intelligence. Besides, FinTech
plans to deal with risks based on intelligent and effective data analysis and management systems. ”At
the same time, accurate and effective risk data reporting can improve work efficiency (Dapp, 2015).
Therefore, with the help of FinTech, banks fully understand the financial situation of borrowers
before issuing loans and eliminate companies that are not eligible for loans or are unable to repay to
control the risk of ineffective debt – the main cause credit risk.” According to research by Deng et al.
(2021), the results show that the development of FinTech has significantly reduced the credit risk of
banks. Based on the above arguments, the authors develop the following hypothesis:
H1. FinTech in banks reduces the credit risk of banks in Vietnam
3. Methodology
3.1. Conceptualization
FinTech
According to Dorfleitner et al. (2017), FinTech refers to businesses that offer financial
services while using cutting-edge technology and creativity. Fintech may be seen as an iconic result
of Industry 4.0 in the financial and banking sectors. FinTech enterprises have ushered in a revolution
in the supply of financial and banking services, delivering new benefits like cost savings, enhanced
convenience, personalized financial products through biometrics, boosting the consumer experience
even further.
FinTech in Vietnam banking system
Discussing the importance of FinTech in the Bank-Fintech collaboration connection, Mr.
Pham Tien Dung - Director of the State Bank of Vietnam's Payment Department - stated that, quoted,
"Without FinTech, banks will rely on Mobile Banking. Banks would be unable to develop at the
current rate, and due to FinTech, banks now have access to a whole digital ecosystem". According to
State Bank of Vietnam figures from 2019, 72 percent of businesses in Vietnam have a banking
relationship, 14 percent provide new services, and 14 percent are prepared to compete with banks.
The bank went through the following steps in developing its technology integration model.
First, the E-banking stage, its features include electronic money transfers for retail
transactions, automated teller machines (ATMs), money transfers, and Internet bill payments. In the
second stage with Digital Banking, which began in 2002, is a branch of banking that digitizes all
traditional banking operations and services and integrates them into a single digital banking
application available by a website or portable gadget. Finally, the appearance of collaboration with
FinTech firms: With the rapid advancement of new technologies such as big data, artificial
intelligence (AI), blockchain technology, and smartphones... FinTech is progressively edging closer
to being the extension arm of banks for their consumers in various ways. FinTech's numerous
applications touch nearly every aspect of the financial - banking system's operation. Although
FinTech has been around for less than a decade, its products have altered the appearance, structure,

20
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

and techniques of traditional financial transactions significantly. Apart from the positives that
FinTech delivers, its operations may have inevitable negative consequences for the financial system.
However, the advantages of FinTech continue to outweigh the drawbacks, making it a never-ending
source of concern. One of the benefits that FinTech brings to the banking sector is that it helps to
mitigate credit risk.
Bank credit risk in Vietnam
Credit risk in Vietnam is mostly associated with the borrower's inability to adhere to the credit
contract's terms, with particular manifestations including late payment, incomplete payment, or
failure to pay the loan when due loan principal and interest, resulting in financial losses and
operational issues for the commercial bank.
If a commercial bank has a high bad debt/total outstanding loan ratio, this indicates that the
bank has a high proportion of uncollectible loans or is prohibited by the State Bank of Vietnam. If a
bank is placed under special supervision, its reputation will suffer significantly. Application of
FinTech such as artificial intelligence and machine learning expectedly should help bank credit
analysts in Vietnam to make decisions at lower cost and efficiently deal with credit risks.
3.2. Empirical model development
The study aims to explore the impact of FinTech on bank credit risks by testing the hypothesis
H1 as developed and mentioned above. To analyze the impact of banking FinTech on credit risk, we
estimate the following basic regression model based on research of Chen, Wu, & Yang (2019), Zhang
A, et al. (2020):
NPLi,t = β0 + β1FINit + β2Controlit + Banki + Yeart + uit
Where NPLi,t is the post-loan risk of bank i in quarter t. Finit reflects the development of the
bank's internal FinTech for bank i in year t. Controlit is a matrix of additional bank controls,
containing the bank size (SIZEit), liquidity ratio (LIQUIDit), bank overhead (OVERHEADit),
cost-to-income ratio (CIRit), net interest margin (NIMit), bank ownership structure (OWNERSHIP),
number of companies shutting down business (FIRMit), outstanding loans (DEBTit).”
3.3. Variable measurement
Dependent variables
In this study, credit risk relates to the possibility of defaults on bank loans. We adopt the
nonperforming loan ratio () as a proxy for credit risk in Viet Nam's banks in our empirical models,
following Festi'c et al. (2011) and Papadopoulos (2019).

Independent variables
Following Rui Wang et al. (2020) to measure the FinTech score through the word frequency
method on the Chinese Baidu search site, we capture media attention on the application of bank
fintech in Vietnam by counting the number of times selected words/phrases appeared in online

21
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

newspaper headlines during the study period. First, we compile a keyword table (in Vietnamese) by
examining several elements of FinTech technology's application in the financial sector, including:
digital payment and banking, risk management, technical base of applying FinTech in the banking
system. Finally, through selection and synthesis, we create a keyword table to measure the degree of
FinTech application into the Vietnam banking system through media attention and coverage as
reported in table 1 below.
Table 1. FinTech word list
Dimension Keyword
Third-Party QR code NFC Clearing
Type of payment
Transaction
Electronic bank Internet Mobile Digital banking Virtual Open
type Banking Banking Bank banking
Management and Credit Security Core Banking ERP CRM
Risk management Insurance Certificate
Big data AI API Machine Cloud Blockchain
Technical base
technology learning computing
Cyber security Biometrics OTP Token eKYC

Source: Author's compilation


Digital wallet
An e-wallet is an online account used to pay for popular online transactions today. The
account of the e-wallet can store all the personal information of the user, it even links the bank
account to conduct transactions faster. More and more banks in Vietnam are launching their own
e-wallets instead of linking to 3rd parties, we have selected the most popular e-wallets that have been
available in Vietnam so far:
Table 2. Digital Wallet Name

Digital Wallet Name (keyword) Owned by Bank


BIDV SmartBanking BIDV
eFAST VietinBank VietinBank
Vietinbank iPay VietinBank
Ví việt LienViet Post Bank
MSB mbank MSB Bank
NCB iziMobile National Citizen Bank
OCB Go Orient Commercial Bank
OCB OMNI Orient Commercial Bank
SOL ShinHan Bank

22
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

SeANet SeABank
SeAMobile SeABank
Sacombank Pay Sacombank
F@st Mobile Techcombank
TPBank Digital Tien Phong Bank
eBank X Tien Phong Bank
TPBank QuickPay Tien Phong Bank
VCB-iB@nking Vietcombank
VCBPay Vietcombank
MyVIB VIBBank
VPBank NEO VPBank

Source: Author's compilation


We filter out the names of e-wallets that are generic and have keywords in the previous group,
such as the name 'MB Bank Mobile Banking' – which will be duplicated with the keyword in group 2.
After summarizing the keyword table, we perform a keyword search in table 1 and 2 incorporating
the bank name, corresponding to a total of 19 banks multiplied by 24 keywords for each bank.
Using Web Crawling technique with Python (see Appendix for Python codes) to count the
word frequency, we obtain the number of news headlines containing the corresponding keyword in
the sample period. We use those numbers as the numerator, the total number of occurrences of all
keywords as the denominator, and perform a quantification of the news occurrence for each word.
Control variables
Sizeit is the logarithm of bank i's total asset value in year t, which is expected to have an
influence on bank risk-taking, although the effect will be uncertain (Afonso et al., 2014; Cubillas and
González, 2014).
Sizeit = Ln(Total Assets)
Liquidityit is the ratio of bank is total loans to its total deposits in year t, representing the
banks’ ability to liquidate (Acharya and Naqvi, 2012; Hartlage, 2012; Wu et al., 2014).

Overheadit denotes the logarithm of bank is overheads in year t.


Overheadit = Ln(Overheads)
CIRit or "cost-to-income ratio" is the ratio of total bank costs to total bank revenue in year t for
bank i and It illustrates the relationship between revenue and the cost of gaining that revenue. CIR are
used to reflect a bank's operational efficiency, which is a critical metric of a bank's success. As a

23
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

general rule, the lower the cost-to-income ratio of a bank, the more effectively it works.
NIMit or Net interest margin denotes the ratio of a bank is net interest income to the average
size of its interest-earning assets in a year. The net interest margin (NIM) is a measure of a bank's
profitability and growth; it reflects the difference between the interest earned on loans and the interest
paid on deposits.

Ownershipit is a dummy variable that equals 1 if a bank is state-owned and 0 if it is not.


Debtit is the total loan balance of each i bank in year t.
Firmit describes businesses that have stopped operating in the year t. Specifically, the data is
taken from the website of the General Statistics Office, the Ministry of Planning and Investment -
https://www.mpi.gov.vn/
4. Results
4.1. Descriptive statistical analysis results
This table presents summary statistics of the variables used in the study. Table 3 presents the
results of descriptive statistics showing an overview of the research data sample.
Table 3. Descriptive statistics

Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max


NPL 190 0.0195 0.0125 0 0.0881
FIN 190 0.0053 0.0137 0 0.1123
NIM 190 0.0320 0.0138 -0.0089 0.0942
CIR 190 -0.9717 6.2248 -86.3024 -0.2908
LIQUID 190 0.8629 0.2014 0.3719 1.8050
OVERHEAD 190 28.6521 0.9773 26.5088 30.5042
SIZE 190 32.7902 0.9541 30.3471 34.9553
OWNERSHIP 190 0.1579 0.3656 0 1
DEBT 190 1.75e+14 2.26e+14 3.66e+12 1.21e+15
FIRM 190 76492.1 22756.83 60553 131275

Source: Author's calculation

The research data sample includes 190 observations, including 19 commercial banks listed on
HOSE (Ho Chi Minh City Stock Exchange) and HNX (Hanoi Stock Exchange) from 2011 to 2020.
The volatility of FinTech (0.0137) changed relatively little during the sampling period, mainly
because FinTech in Vietnam has not been developed strongly, so the difference between banks is not

24
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

too large. The variable FIRM representing enterprises that stop operating every year has a rather high
difference (22756.83), which depends on the economic situation occurring each year.
4.2. Correlation coefficient matrix
Table 4. Correlation coefficient matrix

Variable NPL FIN NIM CIR LIQUID OVERHEAD SIZE OWNERSHIP DEBT FIRM

NPL 1

FIN 0.2387 1

NIM 0.1125 0.0444 1

CIR 0.1158 0.0326 0.2263 1

LIQUID 0.0946 0.1762 0.4138 0.1088 1

OVERHEAD 0.2183 0.3508 0.3230 0.0677 0.2934 1

SIZE -0.4125 -0.0927 0.0365 -0.0073 0.0313 0.5145 1

OWNERSHIP -0.1829 0.2342 -0.0870 0.0394 0.2434 0.5976 0.6927 1

DEBT 0.1082 0.4147 0.0095 0.0643 0.2911 0.7623 0.5072 0.8105 1

FIRM 0.4864 0.3459 0.0763 0.0550 0.2040 0.3014 -0.3130 0 0.2520 1

Source: Author's calculation


Based on table 4, it can be seen that the variables in the model are correlated with each other,
and the correlation coefficient is less than 0.8, so when using the regression model, there will be less
multicollinearity between the variables. Therefore, it is possible to bring these variables into the same
research model simultaneously. Before performing the regression analysis, we checked the
multicollinearity of the variables, the coefficient of variance inflation (VIF) both showed that there is
no multicollinearity.
4.3. Impact of Bank FinTech on credit risk
The most panel data models are estimated under either fixed effects or random effects
assumptions. We perform a Hausman test (Hausman, 1978) to choose between these two basic
models. The Hausman tests (not tabulated for brevity) indicate that the fixed effects model is more
efficient than the random effects model.”
Table 5 reports the results with a two-way fixed-effects model (bank and year fixed effects).
Table 5. Impact of Bank FinTech on credit risk (fixed effect model)

Variables Model 1 Model 2 Model 3 Model 4 Model 5 Model 6 Model 7 Model 8

NPL NPL NPL NPL NPL NPL NPL NPL

-0.1635* -0.1552* -0.1668* -0.1711* -0.1383* -0.1634* -0.1682* -0.1634*


FIN
(0.081) (0.0823) (0.0805) (0.0818 ) (0.0775) (0.0809) (0.0884) (0.0809)

25
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

0.002 0.0871 0.1092* 0.061 0.0713 0.168* 0.1635*


NIM
(0.0036) (0.0819) (0.0623) (0.083) (0.0692) (0.0885) (0.081)

-0.0713 -0.0039 -0.0028 -0.0029 -0.002 -0.0018 -0.002


LIQUID
(0.0691) (0.0049) (0.004) (0.005) (0.0036) (0.0033) (0.0036)

0.0118* 0.0054** 0.0049* 0.0005 0.0047* 0.0047 0.0045*


OVERHEAD
(0.0057) (0.0024) (0.00023) (0.0033) (0.0027) (0.0027) (0.0027)

-0.0047* -0.0118* -0.012* -0.0093 -0.0119* -0.0119* -0.119*


SIZE
(0.0027) (0.0058) (0.0058) (0.0055) (0.0068) (0.0067) (0.0057)

0
OWNERSHIP
(omitted)

6.31e-07*** -1.86e-18 -1.28e-18 -1.58e-18 -1.65e-18 -1.76e-18 -1.76e-18


DEBT
(2.05e-07) (1.03e-17) (1.01e-17) (9.78e-18) (1.14e-17) (1.03e-17) (1.03e-17)

-1.76e-18 6.52e-07** 6.31e-07** 5.78e-07** 8.80e-07*** 6.31e-07 6.23e-07***


FIRM
(1.03e-17) (2e-07) (1.98e-07) (1.95e-07) (1.89e-07) (2.05e-07) (1.89e-07)

Bank fixed
Yes Yes Yes Yes Yes Yes Yes Yes
effects

Year fixed
Yes Yes Yes Yes Yes Yes Yes Yes
effects

Cons. 0.5058** 0.520** 0.511** 0.2912 -0.0233 0.5058** 0.5055** 0.5441**

N 190 190 190 190 190 190 190 190

Clustering level Bank Bank Bank Bank Bank Bank Bank Bank

Adjusted-R2 0.7086 0.7067 0.7081 0.7020 0.6823 0.7086 0.7084 0.7086

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Source: Author's calculation


Table 5 shows that the coefficient of the FinTech variable is negative but at a minimal level,
showing that when banks apply FinTech more, credit risk will be reduced but at a negligible level.
This result is consistent with our H1 and similar to the research results of M. Cheng and Yang Qu
(2020). “Due to difficulties in obtaining the bank's internal information, there are little literature that
studies the effects of fintech on commercial banks. Based on the above empirical results, this paper
finds that setting up fintech is a good way for commercial banks to cope with the limitations of credit
activities. Besides, in this way, fintech can serve banks well and help reduce the pre-loan risk.” In
addition, the variable SIZE (bank size) is almost statistically significant in all models, the value of the
regression coefficient of SIZE shows that SIZE has a negative impact on NPL (bad debt), banks The
larger the ratio, the lower the ratio of inefficient loans, which may reflect that large banks have
effectively applied FinTech in managing ineffective debt ratios.
System GMM approach
Although the fixed effects model can solve the lack of variables to a certain extent,
homogeneity is still possible between FinTech and bank credit risk. For example, if FinTech's

26
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

influence on bank credit risk could lead banks to regulate FinTech development, homogeneity could
skew our results. This section estimates an instrumental variable approach to reduce possible
endogeneity, see Roberts and Whited (2013). Arner et al. (2015) believes that the development of
FinTech is related to labor transfers. Therefore, we estimate our experimental results using the
System - General Method of Moments (S.GMM) estimator, Arellano and Bover (1995); Blundell and
Bond (1998).
Table 6. Two-step system GMM

Two-step System GMM

NPLit (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)

FIN -0.2579** -0.187* -0.121 -0.1876* -0.1331* -0.179* 0.258** 0.278**


(0.0979) (0.0925) (0.025) (0.0913) (0.0722) (0.0987) (0.098) (0.0992)
0.0751 0.0255 0.09 -0.0009 -0.0184 0.075 0.2105
NIM
(0.1413) (0.1711) (0.1753) (0.1482) (0.0981) (0.1413) (0.1651)
-0.0001 -0.0002 -6.68e-06 -2.39e-06 -0.00002 -0.0001 -0.0002
CIR
(0.0006) (0.0004) (0.0004) (0.0001) (0.0002) (0.0006) (0.0006)
-0.0004 -0.0024 -0.0038 -0.005 -0.0027 -0.0004 -0.0121
LIQUID
(0.0148) (0.0115) (0.0099) (0.0093) (0.0075) (0.0148) (0.0187)
0.0008 0.0011 -0.002 0.0003 0.00121 0.0008 0.0014
OVERHEAD
(0.0105) (0.0067) (0.0023) (0.0078) (0.004) (0.0105) (0.0079)
-0.0042 -0.0092 -0.0084 -0.0067 -0.0069 -0.0042 -0.0086
SIZE
(0.001) (0.0083) (0.0061) (0.0101) (0.0043) (0.0096) (0.0055)
OWNERSHIP
3.35e-17 2.31e-17 3.73e-17 3.04e-17 3.13e-17 4.99e-17 1.96e-17
DEBT
(3.02e-17) (3.6e-17) 2.46e-17 (2.99e-17) (2.44e-17) (2.93e-17) (3.14e-17)
2.09e-08 2.12e-08 1.60e-08 2.05e-08 2.16e-08 2.33e-08 3.67e-08
FIRM
(7.27e-09) (7.73e-09) 1.11e-08 (6.96e-09) (9.12e-09) 8.84e-09 (1.01e-08)
AR(1)
0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000
p-value
AR(2)
0,523 0,562 0,591 0,544 0,578 0,558 0,573 0,568
p-value
Sargan test
0,834 0,801 0,852 0,832 0,809 0,832 0,841 0,812
p-value

Hansen test
0,766 0,798 0,845 0,852 0,789 0,745 0,815 0,762
p-value

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Source: Author's calculation


The results of Sargan test and Hansen test of the models in the S.GMM method with the
assumption that Ho is the instrumental variable in the model are exogenous variables with p-value >
0.01, leading to the conclusion that there is no such variable by rejecting the null hypothesis H0.
Therefore, the models in table 5 are valid. In addition, testing AR(2) in both models with the

27
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

hypothesis H0 has no 2nd order series correlation with p-value > 0.01, which means there is no
evidence to reject the hypothesis. H0 from the tests of Sargan, Hansen, AR(2), the authors conclude
that the regression results in the two-step S.GMM method are reliable.
Regression results through GMM still show a negative regression coefficient in the FinTech
variable, showing that the development of Bank FinTech still reduces credit risk. These findings are
similar to our main finding, which suggests that our results were not driven by potential endogenous
bias.
Difference in differences approach
This section also uses policy shocks related to the development of banking FinTech to
determine the causal effects between a bank's FinTech and credit risk. On April 11, 2017, in Hanoi,
the State Bank of Vietnam (SBV) held a seminar "Fintech - Development Trends and
Recommendations for the State Bank". The main opinion mostly focuses on supplementing and
perfecting the legal framework and building an appropriate management mechanism to facilitate the
birth and development of Vietnam's FinTech businesses because the FinTech field is still relatively
small new in Vietnam, and at the same time, develop FinTech development strategies and plans in
Vietnam in line with the Government's guidelines and orientations because the FinTech field is still
relatively new in Vietnam. “We consider this seminar as policy shocks related to the development of
FinTech and employ the difference in differences method (DID) to reduce the potential endogeneity
bias in our regression model. We argue that our main result is not driven by potential endogeneity
bias if the treatment effects of this guiding opinion on bank credit risk are negative.”
Table 7. Effects of bank FinTech on credit risk (DID approach)

Variables NPLit NPLit


-0.0063 -0.0049
TREATit*POSTit
(0.0041) (0.0041)
0.0302
NIM­it
(0.0815)
-0.00008
CIRit
(0.0815)
-0.0030
LIQUIDit
(0.0042)

0.0064
OVERHEADit
(0.0031)
0.018**
OWNERSHIP­it
(0.0065)
-5.25e-18
DEBT­it
(6.23e-18)

28
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

-0.0115***
SIZEit
(0.0035)
5.13e-07
FIRMit
1.39e-07
Bank fixed effects Yes Yes
Year fixed effects Yes Yes
Cons. 0.5485*** 0.0028
N 190 190
Clustering level Bank Bank
Adjusted-R2 0.6748 0.7682

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Source: Author's calculation


Then, we distinguish the treatment group and the control group based on the statistical
eigenvalue of the related variables, following existing studies (Irani and Oesch, 2013; Doidge and
Dyck, 2015; Koirala et al., 2018; Deng et al., 2019). Specifically, with the help of original data
obtained from the crawler program, we divide our sample into banks with the high development of
bank FinTech (i.e., the treatment group) and banks with the low development of bank FinTech (i.e.,
the control group) based our bank FinTech-related news disclosure before this quasi-natural
experiment year, i.e., 2015. News disclosure about bank FinTech in the treatment group is above the
median value, and news disclosure about bank FinTech in the control group is below the median
value. Finally, we estimate the following DID model, in which the coefficient of Treatit*Postit reflects
the treatment effects of this regulatory guidance on bank credit risk.
NPLit = Constant + a * Treatit * Postit + r * Controlit + Banki + Yeart + ε
where i indexes for banks, t indexes for time and NPLit is the measurement of credit risk.
Treatit is a dummy variable equal to one for banks with a high development of bank FinTech and zero
for banks with the low development of bank FinTech. Postit equals one if the bank observation is after
the promulgation of the related policy and zero otherwise. Controlit is a matrix of additional bank
controls, including the bank size (Sizeit), liquidity ratio (Liquidit), bank overhead (Overheadit),
cost-to-income ratio (CIRit), net interest margin (NIMit), bank ownership structure (Ownership), Loan
outstanding balance (Debt) and suspension of business (Firm). Banki and Yeart are bank and year
fixed effects, respectively, and ε refers to the error term.
In all two columns, coefficients of Treatit*Postit are significantly positive, indicating that the
treatment effects of bank FinTech on bank credit risk are positive. These results also show that our
main results are driven by potential endogeneity bias.
5. Conclusion
Technology has made great strides over the past few years, especially technology in the
financial sector (Fintech). Credit activities inevitably lead to risk in the lending market with
information asymmetry (Vithessonthi, 2016). This research paper aims to explore whether FinTech

29
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

helps reduce the credit risk of banks. Using theoretical foundations and previous studies, the group
proposed a model to study the relationship between FinTech in banks and bank credit risk with the
dependent variable being NPL, the independent variable being FIN (fintech) and control variables
such as NIM, CIR, LIQUID, OVERHEAD, SIZE, OWNERSHIP, DEBT, and FIRM. Based on the
research results in chapter 4 with a sample of 19 banks, equivalent to 190 observations on the Ho Chi
Minh Stock Exchange (HOSE) during 2011-2020. The models used in the study are 2FE, S.GMM,
and DID which are processed on Stata 16 software. The analysis results show that there is a negative
correlation between FinTech in banks and bank credit risk showing that the development of FinTech
banks reduces credit risk. This result is in line with M. Cheng and Yang Qu (2020), but the degree of
influence is not significant, showing that FinTech adoption has only really taken place in a few banks.
The development of FinTech shows an increasing trend only recently, from 2018 to 2020. Through
the application of FinTech, commercial banks can improve traditional business models, reduce
operating costs, improve service efficiency, enhance risk control ability and create more attractive
business models for customers, thereby enhancing comprehensive competitiveness. Different
commercial bank sizes are affected differently by FinTech developments. The most basic prerequisite
for a commercial bank to achieve deep integration with FinTech and enhance the bank's
professionalism, responsiveness, and inclusivity is the availability of hardware infrastructure and
required software. Hardware requirements include information network facilities, high-performance
computing and cloud servers, and large storage capacity, while required software capacity includes
powerful computing and data mining, distributed storage, batch processing, and advanced artificial
intelligence. This is also a limitation of FinTech in Vietnam when Vietnamese banks are still
struggling with legacy infrastructure, a long-standing banking system and an existing platform, so the
compatibility ability to adapt to new technological advances is still poor. Therefore, the study has not
yet properly demonstrated the influence of FinTech in banks on the problem of bank credit risk.
Limitations
The study also had difficulty measuring the use of FinTech by banks, which currently do not
have indicators of FinTech usage. The choice of keywords is still subjective to the author because
there is no theoretical basis to provide a standard index of keywords in the field of FinTech banking.

References
Acharya, V. V., & H. Naqvi. (2012). The Seeds of a Crisis: A Theory of Bank Liquidity and Risk-Taking
Over the Business Cycle. Journal of Financial Economics, 111 (2): 349–366.
Afonso, G., J. Santos, & J. Traina. (2014). Do “too-big-to-Fail” Banks Take on More Risk? Federal
Reserve Bank of New York. Economic Policy Review 20: 2
Apota. (2018). Viet Nam Mobile App Market Report. UNSW Law Research Paper No. 2016–62
Askitas, N., & K. F. Zimmermann. (2009). “Google Econometrics and Unemployment Forecasting.”
Applied Economics Quarterly 55 (2): 107–120.
Askitasklau, N., N. Barrell, R., Davis, E.P., Karim, D., Liadze, I., (2010). Bank regulation, property prices
and early warning systems for banking crises in OECD countries. J. Bank. Finance. 34 (9),
2255–2264.

30
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Begenau, J., Farboodi, M., & Veldkamp, L. (2018). Big data in finance and the growth of large firms.
Journal of Monetary Economics, 97, 71–87.
Cenni, S., Monferrà, S., Salotti, V., Sangiorgi, M., & Torluccio, G. (2015). Credit rationing and
relationship lending. Does firm size matter? Journal of Banking & Finance, 53, 249–265.
Chaibi, H., & Ftiti, Z. (2015). Credit risk determinants: Evidence from a cross-country study. Research in
international business and finance, 33, 1–16.
Chen, M. A., Wu, Q., & Yang, B. (2019). How Valuable Is FinTech Innovation? The Review of Financial
Studies, 32(5), 2062–2106. https://doi.org/10.1093/rfs/hhy130
Cheng, M., & Qu, Y. (2020). Does bank FinTech reduce credit risk? Evidence from China. Pacific-Basin
Finance Journal, 63, 101398.
Chiu, J., Koeppl, T.V. (2019). Blockchain-based settlement for asset trading. Rev. Financ. Stud., 32 (5),
1716–1753.
Cubillas, E., & González, F. (2014). Financial Liberalization and Bank Risk-Taking: International
Evidence. Journal of Financial Stability, 11, 32–48. https://doi.org/10.1016/j.jfs.2013.11.001
Bouri, E., Lucey, B., & Roubaud, D. (2020). The volatility surprise of leading cryptocurrencies:
Transitory and permanent linkages. Finance Research Letters, 33.
https://doi.org/10.1016/j.frl.2019.05.006
Dapp, T. (2015). Fintech reloaded – Traditional banks as digital eco-systems. Deutsche Bank Research, 6,
1 –26.
Dell’ Ariccia, M.G., Laeven, M.L., Marquez, M.R. (2010). Monetary Policy, Leverage, and Bank
Risk-Taking. Working Paper Series (No. 10–276). International Monetary Fund.
Deng, L., Yongbin Lv., Ye L., and Yiwen Z. (2021). Impact of Fintech on Bank Risk-Taking: Evidence
from China. Risks 9: 99.
Devadevan, V. (2013). Mobile Banking in India Issues and Challenges. International Journal of
Emerging Technology and Advanced Engineering, 3, 516-520.
Festi'c, Mejra, Alenka, K., Sebastijan, R.(2011). The macroeconomic sources of systemic risk in the
banking sectors of five new EU member states. J. Bank. Finance. 35, 310–322.
Fuster, A., Plosser, M., Schnabl, P., & Vickery, J. (2019). The Role of Technology in Mortgage Lending.
The Review of Financial Studies, 32 (5), 1854–1899.
Gottschalk, P., & Dean, G. (2009). A review of organised crime in electronic finance. International
Journal of Electronic Finance, 3(1), 46.
Guo, P., Shen, Y., 2019. Internet finance, deposit competition, and bank risk-taking. Journal of Finance
Research (8), 58–76
Hartlage, A. W. (2012). The Basel III Liquidity Coverage Ratio and Financial Stability. Michigan Law
Review 111: 3
Hou, X., Gao, Z., Wang, Q. (2016). Internet finance development and banking market discipline:
evidence from China. Journal of Financial Stability, 22, 88–100.
Imai, K., & Kim, I. S. (2020). On the Use of Two-Way Fixed Effects Regression Models for Causal

31
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Inference with Panel Data. Political Analysis, 29(3), 405–415.


Krueger, M. (2012). Money: A Market Microstructure Approach. Journal of Money, Credit and Banking,
44(6), 1245–1258.
Laeven, L., Levine, R.(2009). Bank governance, regulation and risk taking. J. Financ. Econ. 93 (2),
259–275.
Linh, D. H. (2022). P2P Lending’s Credit Risk in Vietnam: Determinants and Discussions. Journal of
Economics, 5(4), 2644-0504.
Nakashima, T. (2018). Creating credit by making use of mobility with FinTech and IoT. IATSS Research,
42(2), 61–66.
Philippon, T. (2015). Has the US Finance Industry Become Less Efficient? On the Theory and
Measurement of Financial Intermediation. American Economic Review, 105(4), 1408–1438.
Qiu, H., Huang, Y.P., Ji, Y., 2018. Influence of fintech on traditional bank behavior – from the perspective
of internet financing. J. Financ. Res., 11, 17–29.
Shen, Y., Guo, P., 2015. Internet finance, technology Spillover and commercial banks TFP. J. Financ.
Res., 3, 164–179.
Wang, R., Liu, J., & Luo, H. (2021). Fintech development and bank risk taking in China. The European
Journal of Finance, 27(4/5), 397–418.
Wooldridge, J. M. (2016). Introductory Econometrics: A Modern Approach (6th ed.). Cengage Learning.
Wu, Q. M.A., Chen. Yang, B., 2019. How valuable is FinTech innovation? Rev. Financ. Stud. 32 (5),
2062–2106.
Zhu, C. (2019). Big Data as a Governance Mechanism Gets Access Arrow. The Review of Financial
Studies, 32 (5) , 2021–2061.

32
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

KHẢ NĂNG PHÒNG NGỪA RỦI RO VÀ ĐA DẠNG HÓA CỦA BITCOIN


ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CỔ PHIẾU VÀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Hoàng Tiến Đạt
Hoàng Thị Phương Linh
Lê Thành Đạt
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: dathoang.31201022148@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT


Ngày nhận: 16/12/2022 Bài nghiên cứu xác định về khả năng phòng ngừa rủi ro và đa
Ngày gửi lại: 04/03/2023 dạng hóa của đồng Bitcoin lên một số thị trường chứng khoán và cặp
Ngày duyệt: 05/03/2023 tiền tệ. Dựa vào kết quả nghiên cứu, Bitcoin có thể là công cụ đa dạng
hóa cho 3 chỉ số chứng khoán là S&P500, FTSE và VN-INDEX. Đối
với tỷ giá hối đoái, Bitcoin là tài sản phòng ngừa rủi ro tốt với tỷ giá
hối đoái VND/USD. Đối với 2 tỷ giá hối đoái EUR/USD và
GBP/USD, Bitcoin là tài sản phòng ngừa rủi ro yếu. Tuy nhiên, để tối
Từ khóa: đa hóa tính phòng ngừa rủi ro với 2 tỷ giá hối đoái này Bitcoin cần
bitcoin, được giao dịch với tần suất cao. Điều này là hợp lý, vì trên thị trường
thị trường cổ phiếu, tài chính quốc tế tần suất giao dịch cũng như biến động của Bitcoin là
tỷ giá hối đoái rất lớn so với các loại tài sản khác.

1. Giới thiệu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, với sự bùng nổ của các giải pháp công nghệ đã
tác động sâu rộng đến toàn bộ xã hội và nền kinh tế, thị trường tài chính tiền tệ cũng không nằm
ngoài quy luật chung đó. Với sự bùng nổ của Internet, kéo theo sự bùng nổ về công nghệ dữ liệu
Blockchain, các đồng tiền điện tử cũng từ đấy mà được sinh ra. Đồng tiền kỹ thuật số Bitcoin, được
giới thiệu lần đầu bởi Nakamoto vào năm 2008. Bitcoin khác với bất kỳ tài sản tài chính trước đây
như vàng, cổ phiếu, trái phiếu và do đó nó tạo ra những cơ hội mới cho các nhà đầu tư tài chính toàn
cầu trong việc phân bổ và đánh giá danh mục đầu tư, quản lý rủi ro cũng như phân tích tâm lý thị
trường.
Từ khoảng đầu năm 2020 đến năm 2021, khi Bitcoin trên đà tăng giá kỷ lục, đã có nhiều thông
tin cho rằng Bitcoin có thể thay thế vàng làm một tài lưu trữ giá trị. Điều này ngụ ý rằng xu hướng
tăng giá của đồng tiền kỹ thuật số ít nhất đã gây áp lực lên kim loại quý này ở một mức độ nào đó.
Bitcoin có thể làm suy yếu thêm sức hấp dẫn của vàng khi nó đang dần chiếm tỷ trọng lớn hơn trong
“miếng bánh” phòng ngừa rủi ro và có nhiều đặc tính giống vàng (số lượng hữu hạn, được nhiều
người trên thế giới công nhận và tham gia giao dịch,...).
Do vậy, đề tài nghiên cứu này sẽ làm rõ và lý giải khả năng phân bổ Bitcoin vào danh mục đầu
tư với tư cách là một loại tài sản phòng ngừa rủi ro hay là tài sản đa dạng hóa đối với thị trường cổ

33
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

phiếu của một số nước và một số tỷ giá hối đoái.


1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm xác định khả năng phòng ngừa rủi ro và khả năng đa
dạng hóa của Bitcoin trước những biến động của một số thị trường cổ phiếu và tỷ giá hối đoái quốc tế
cũng như của Việt Nam.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng được sử dụng trong bài là mô hình TGARCH nhằm xác định mối
tương quan tính về mặt trung bình của thị trường cổ phiếu và tỷ giá hối đoái đối với Bitcoin. Tất cả
các ước lượng này được thực hiện trên phần mềm Stata 14 và Eviews 10.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài là kênh đầu tư Bitcoin, cổ phiếu, Forex (Tỷ giá hối đoái), mối
quan hệ về lợi nhuận của các kênh đầu tư.
Phạm vi nghiên cứu sử dụng dữ liệu giá hàng ngày từ ngày 2/1/2013 đến ngày 22/6/2021.
Mô hình TGARCH được nhóm tác giả sử để ước lượng các dữ liệu trên.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Các sản phẩm đầu tư
2.1.1. Cổ phiếu
Cổ phiếu là loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ, hoặc bút toán ghi sổ, xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Giá cổ phiếu không đứng yên mà sẽ lên xuống theo
biến động kinh tế vĩ mô, kinh tế thế giới, hoạt động của doanh nghiệp hoặc tin tức.
2.1.2. Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối (Forex) là một thị trường phi tập trung toàn cầu cho việc trao đổi các loại
tiền tệ. Các ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư, nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia thị trường ngoại hối và kiếm lợi
nhuận thông qua sự thay đổi giá của các tỷ giá hối đoái khác nhau.
2.1.3. Bitcoin
Bitcoin là một loại tiền mã hóa, có cách hoạt động khác hẳn so với các loại tiền tệ điển hình:
không có một ngân hàng trung ương nào quản lý và hệ thống hoạt động dựa trên một giao thức mạng
ngang hàng trên Internet. Ngày nay nhiều nhà đầu tư trên thế giới cũng như các ngân hàng đầu tư,
quỹ đầu tư lớn đã tham gia vào thị trường này.
2.2. Công“cụ phòng ngừa rủi ro”
Một tài sản được coi là công cụ phòng ngừa rủi ro nếu nó có tương quan nghịch hoặc không
tương quan với bất kỳ một danh mục hay tài sản đầu tư khác tính về mặt trung bình. Khi giá của một
tài sản sụt giảm, việc có tài sản phòng ngừa rủi ro trong danh mục đầu tư có thể khiến danh mục đó
đạt lợi nhuận hoặc ít nhất là không thua lỗ.
2.3. Công cụ đa dạng hóa

34
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Một tài sản được coi là công cụ đa dạng hóa nếu nó có tương quan thuận (nhưng không tương
quan tuyệt đối) với bất kỳ một danh mục hay tài sản đầu tư khác tính về mặt trung bình. Dựa vào tính
đa dạng hóa này, nhà đầu tư có thể lựa chọn việc đầu tư vào tài sản đa dạng hóa khi giá của loại tài
sản kia tăng để tối ưu hóa lợi nhuận.
2.4. Tổng quan các nghiên cứu trước
Dyhrberg (2016) đã nghiên cứu về khả năng phòng ngừa rủi ro của Bitcoin bằng cách áp dụng
mô hình TGARCH. Kết quả cho thấy Bitcoin có thể được sử dụng làm tài sản phòng ngừa rủi ro với
chỉ số FTSE100. Tuy nhiên, nghiên cứu của Wu và cộng sự (2019) chỉ ra rằng Bitcoin chỉ là tài sản
phòng ngừa rủi ro yếu trong trường hợp thị trường cổ phiếu quá tích cực hoặc tiêu cực, vì vậy có thể
được sử dụng để làm tài sản đa dạng hóa trong 2 trường hợp trên. Nghiên cứu của Bouri và cộng sự
(2020) cho rằng Bitcoin vượt trội so với vàng và các hàng hóa khác để trở thành tài sản đa dạng hóa
trong bất kỳ tần suất nào ở các thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, Trung Quốc. Dựa vào các nghiên cứu
mới đây nhất, nhóm tác giả đặt ra giả thuyết nghiên cứu H1:
H1: Bitcoin là công cụ đa dạng hóa với thị trường chứng khoán
Đối với các tỷ giá hối đoái, Dyhrberg (2016) kết luận rằng Bitcoin là tài sản phòng ngừa rủi ro
yếu với 2 tỷ giá hối đoái EUR/USD, GPB/USD trong dài hạn. Urquhart và Zhang (2019) cho rằng
Bitcoin có thể phòng ngừa rủi ro cho các đồng CHF, EUR, GBP; tuy nhiên lại là tài sản đa dạng hóa
cho AUD, CAD, JPY. Vì vậy, từ những nghiên cứu trước, nhóm tác giả đặt ra giả thuyết nghiên cứu
H2:
H2: Bitcoin là công cụ phòng ngừa rủi ro với tỷ giá hối đoái
3. Phương pháp nguyên cứu
3.1. Mẫu nghiên cứu và nguồn thu thập dữ liệu
Mẫu dữ liệu nghiên cứu được thu thập dưới dạng giá đóng cửa hàng ngày từ ngày 2/1/2013
đến ngày 22/6/2021 trên trang Investing.com, bao gồm:
- BTC: Giá Bitcoin
- Chỉ số thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ, Anh, Việt Nam:
○ S&P500: Chỉ số cổ phiếu dựa trên cổ phiếu phổ thông của 500 công ty có vốn hóa thị
trường lớn nhất niêm yết trên NYSE hoặc NASDAQ (Hoa Kỳ).
○ FTSE100: Chỉ số 100 chứng khoán của Financial Times, còn được gọi là chỉ số FTSE 100.
○ VN-INDEX: VN Index là ký hiệu chung cho chỉ số chứng khoán Việt Nam.
- Tỷ giá hối đoái:
○ EUR/USD: Là tỷ giá giữa đồng Euro (tiền chung của Liên Minh Châu Âu) so với đô la Mỹ.
○ GBP/USD: Là tỷ giá giữa đồng Bảng Anh so với đô la Mỹ.
○ VND/USD: Là tỷ giá giữa Việt Nam Đồng so với đô la Mỹ.
Bài nghiên cứu sử dụng chỉ số S&P500, FTSE100 của thị trường chứng khoán Mỹ và Anh; tỷ
giá hối đoái EUR/USD, GBP/USD. Chỉ số VN-INDEX và tỷ giá hối đoái VND/USD được thêm vào

35
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

với mục đích như là một gợi ý thêm cho các nhà đầu tư, liệu các nhân tố tài chính ở Việt Nam có ảnh
hưởng đến giá Bitcoin hay không?
3.2. Mô tả khung biến và mô hình nghiên cứu
3.2.1. Mô tả khung biến
RBTC: Lợi nhuận của Bitcoin.
RSP500: Lợi nhuận của chỉ số chứng khoán S&P500.
RFTSE: Lợi nhuận của chỉ số chứng khoán FTSE100.
RVN: Lợi nhuận của chỉ số chứng khoán VN-INDEX.
RVNDUSD: Lợi nhuận của tỷ giá hối đoái VND/USD.
RGBPUSD: Lợi nhuận của tỷ giá hối đoái GBP/USD
REURUSD: Lợi nhuận của tỷ giá hối đoái EUR/USD.
Để tính ra lợi nhuận hàng ngày của một tài sản bài nghiên cứu sẽ tính chênh lệch hàng ngày
của logarit tự nhiên của giá tài sản đó theo công thức sau: Rt = ln (Giá ngày t) - ln (Giá ngày t-1)
3.2.2. Mô hình nghiên cứu
Mô hình GARCH sẽ là mô hình chính được sử dụng trong bài nghiên cứu này. Cụ thể, bài
nghiên cứu sẽ áp dụng mô hình TGARCH (1,1) để đo lường các dao động có điều kiện và không cân
xứng của dữ liệu chuỗi thời gian.
Mô hình TGARCH hay mô hình GJR-GARCH, được giới thiệu bởi Glosten và cộng sự
(1993), và được đề xuất bởi Engle và Ndong (1993), được xem là mô hình họ ARCH tốt nhất để kiểm
tra tác động bất đối xứng của thông tin mới đối với biến động lợi nhuận của một tài sản. Với giả định
rằng thông tin xấu sẽ có ảnh hưởng đến giá của Bitcoin mạnh hơn thông tin tốt. Phương trình trung
bình và phương trình phương sai có điều kiện theo mô hình TGARCH sẽ được cho như sau:
RBTCt = β0 + β1RBTCt-1 + β2Rit + β3Rit-1 + ɛt (1)
s2t = α0 + α1ɛ2t-1 + ldt-1ɛ2t-1 + βs2t-1 (2)
Phương trình (1) là phương trình trung bình của lợi nhuận Bitcoin:
- Hệ số β2 sẽ cho thấy rằng liệu Bitcoin là tài sản phòng ngừa rủi ro hay đa dạng hóa về mặt
trung bình.
- ɛt là sai số ngẫu nhiên với phương sai có điều kiện là s2t, t là tham số biểu thị chuỗi thời gian.
Phương trình (2) là phương trình phương sai có điều kiện:
− dt-1 là biến giả, nhận giá trị như sau:
dt-1 = 1 nếu ɛt-1 < 0
dt-1 = 0 nếu ɛt-1 ≥ 0
Trong đó hệ số l thể hiện tính bất đối xứng hoặc hiệu ứng đòn bẩy. Khi l = 0, mô hình
TGARCH chuyển về mô hình GARCH chuẩn. Mặt khác khi cú sốc dương (ɛt-1 ≥ 0) có thể là tin tức
tốt và cú sốc âm (ɛt-1 < 0) có thể là tin tức xấu, tác động lên biến như sau: Khi cú sốc dương tác động

36
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

lên biến là α1, nhưng khi cú sốc âm thì tác động lên biến là α1 + l. Như vậy, nếu tham số l có ý nghĩa
thống kê và dương, cú sốc âm có tác động mạnh đến s2t hơn là cú sốc dương.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Thống kê mô tả
4.1.1. Diễn biến lợi nhuận Bitcoin và thị trường cổ phiếu và tỷ giá hối đoái
Trước khi đi vào thực hiện nghiên cứu, tác giả đưa ra các biểu đồ về xu hướng biến động của
lợi nhuận Bitcoin và“lợi nhuận của các thị trường chứng khoán và tỷ giá hối đoái trong thời
gian”nghiên cứu để có cái nhìn trực quan ban đầu về biến động của các loại tài sản này.

Biểu đồ 1: Biến động của lợi nhuận Bitcoin


Nguồn: Nhóm tác giả

Biểu đồ 2: Biến động của lợi nhuận chỉ số S&P500


Nguồn: Nhóm tác giả

37
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 3: Biến động của lợi nhuận chỉ số FTSE100


Nguồn: Nhóm tác giả

Biểu đồ 4: Biến động của lợi nhuận chỉ số VN-INDEX


Nguồn: Nhóm tác giả

Biểu đồ 5: Biến động của lợi nhuận tỷ giá hối đoái EUR/USD
Nguồn: Nhóm tác giả

38
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 6: Biến động của lợi nhuận tỷ giá hối đoái GBP/USD
Nguồn: Nhóm tác giả

Biểu đồ 7: Biến động của lợi nhuận tỷ giá hối đoái VND/USD
Nguồn: Nhóm tác giả
Các giá trị lợi nhuận đều xoay quanh giá trị trung bình 0 và không biến động quá lớn, điều này
thể hiện đặc điểm tính dừng của trung bình chuỗi dữ liệu, phù hợp với phương pháp tiếp cận hồi quy
trên chuỗi dữ liệu thời gian.
4.1.2. Thống kê mô tả dữ liệu
Kết quả chỉ ra phạm vi, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của các biến sử dụng trong nghiên
cứu này.
Bảng 1: Kết quả thống kê mô tả của các biến

Mean Median Max Min Std


RBTC 0.0025 0.0019 1.4742 -0.8489 0.0585
RSP500 0.0003 0 0.0897 -0.1277 0.0089
RFTSE100 5.25E-05 0 0.0867 -0.1151 0.0084

39
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

RVN 0 0 0.0486 -0.0691 0.009


REURUSD -3.21E-05 0 0.0302 -0.0242 0.0004
RGBPUSD -4.95E-05 0 0.0298 -0.084 0.0048
RVNDUSD 3.22E-05 0 0.0137 -0.0135 0

Nguồn: Nhóm tác giả


4.2. Các kiểm định trên phân tích dữ liệu chuỗi thời gian
4.2.1. Kiểm định tính dừng
Ở đây tác giả chọn kiểm định ADF để kiểm định nghiệm đơn vị từ đó xác định tính dừng của
chuỗi dữ liệu. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ADF được thể hiện ở Bảng 2. Giả thuyết H0 của
kiểm định: Chuỗi dữ liệu có nghiệm đơn vị.
Bảng 2: Kết quả kiểm định ADF cho các biến

Hệ số của biến Giá trị thống kê


Chuỗi dữ liệu Giá trị 1% Giá trị 5% Giá trị 10%
độ trễ t-1 tstatistic

RBTC -0.894228*** -21.08344*** -3.432278 -2.862277 -2.567207


[P-value: 0.0000] [P-value: 0.0000]

RSP500 -1.054984*** -16.03384*** -3.432282 -2.862279 -2.567208


[P-value: 0.0000] [P-value: 0.0000]

RFTSE -1.020319*** -56.7284*** -3.4323 -2.8623 -2.5672


[P-value: 0.0000] [P-value: 0.0001]

RVN -0.992283*** -55.15817*** -3.432276 -2.862276 -2.567206


[P-value: 0.0000] [P-value: 0.0001]

REURUSD -1.013587*** -56.40577*** -3.432276 -2.862276 -2.567206


[P-value: 0.0000] [P-value: 0.0001]

RGBPUSD -0.995384*** -55.36333 *** -3.432276 -2.862276 -2.567206


[P-value: 0.0000] [P-value: 0.0001]

RVNDUSD -1.074469*** -59.89134*** -3.432276 -2.862276 -2.567206


[P-value: 0.0000] [P-value:0.0001]
*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
Nguồn: Nhóm tác giả
Kết quả kiểm định này đã bác bỏ giả thuyết H0, có tồn tại nghiệm đơn vị hay chuỗi dữ liệu về
lợi nhuận của các biến là chuỗi có tính dừng ở mức ý nghĩa 1%. Như vậy, các chuỗi dữ liệu của quan
sát trên biến có thể được sử dụng làm dữ liệu đầu vào cho mô hình GARCH.
4.2.2. Kiểm định ảnh hưởng ARCH
Kiểm định tồn tại tác động ARCH được thực hiện nhằm kiểm tra “sự tồn tại của hiện tượng
phương sai thay đổi” có điều kiện trước khi ước lượng mô hình TGARCH. Ảnh hưởng ARCH nếu
có tồn tại sẽ ảnh hưởng tính hữu dụng và phù hợp của mô hình họ GARCH.

40
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Giả thuyết H0: Không tồn tại hiệu ứng ARCH trong mô hình tự hồi quy lợi nhuận giá Bitcoin.
Bảng 3: Kiểm định ảnh hưởng ARCH biến RBTC làm biến phụ thuộc với độ trễ

Giá trị thống kê


Mô hình
Obs*R-squared

368.1286***
Biến phụ thuộc RBTC
[P value: 0.0000]

*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%


Nguồn: Nhóm tác giả
Kết quả kiểm tra hiện tượng ARCH của biến lợi nhuận Bitcoin với độ trễ k=4, ta thấy rằng nhỏ
hơn mức ý nghĩa 1%. Kết quả này thể hiện phương sai của sai số mô hình có lợi nhuận Bitcoin làm
biến phụ thuộc thay đổi theo dạng tương quan ARCH.
4.3. Kết quả mô hình
4.3.1. Bitcoin và thị trường chứng khoán
Bài nghiên cứu dựa trên nghiên cứu trước đó của tác giả Dyhrberg (2016) để xem xét khả
năng phòng ngừa rủi ro và đa dạng hóa của Bitcoin trước 3 chỉ số chứng khoán S&P500, FTSE100,
VN-INDEX. Bài nghiên cứu sẽ sử dụng mô hình TGARCH để ước lượng phương trình trung bình và
phương trình phương sai cho biến phụ thuộc RBTC và xem xét khả năng phòng ngừa rủi ro hoặc đa
dạng hóa của Bitcoin qua hệ số β2:
RBTCt = β0 + β1RBTCt-1 + β2Rstockt + β3Rstockt-1 + ɛt
σ2t = a0 + a1ɛ2t-1 + λdt-1ɛ2t-1 + βσ2t-1

Bảng 4: Các hệ số ước lượng phương trình trung bình và phương trình phương sai của biến phụ
thuộc RBTC với 3 chỉ số cổ phiếu theo mô hình TGARH

S&P500 FTSE100 VN INDEX

Phương trình trung


bình

β0 – Hằng số 0.001588** 0.001587** (2.351829) 0.001577**


(2.399331) (2.295373)

β1 - RBTCt-1 -0.007955 -0.008662 -0.012798


(-0.371964) (-0.409382) (-0.622186)

β2 - Rstockt 0.599660*** 0.360900*** 0.166856***


(15.33068) (10.32571) (3.674091)

41
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

β3 - Rstockt-1 -0.073393 0.158888** (2.083687) 0.090814


(-1.029182) (1.326316)

Phương trình phương


sai

7.48E-05*** 7.41E-0.5*** 7.41E-05***


a0 – Hằng số
(21.59614) (21.45446) (22.14077)

0.163737*** 0.153075*** 0.152267***


a1 - Ảnh hưởng ARCH
(15.98165) (15.80558) (15.89222)

l - Ảnh hưởng 0.042766*** 0.061850*** 0.069770***


TGARCH (3.590439) (5.417289) (6.703166)

β - Ảnh hưởng Garch 0.801488*** 0.805058*** 0.804611***


(154.6741) (157.5041) (161.5541)

*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%


Nguồn: Nhóm tác giả
Các kết quả ước lượng cho mô hình T-GARH cho thấy mức độ phù hợp cao, trong đó hệ số
ảnh hưởng TGARCH (l) đều lớn hơn 0 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Do đó, tác động của tin
tức xấu (α1 + l) sẽ lớn hơn tác động của tin tức tốt (α1).
Hệ số ảnh hưởng đồng thời của biến Rstockt của cả 3 thị trường chứng khoán đều lớn hơn 0 và
có ý nghĩa thống kê. Điều này chứng minh rằng lợi nhuận của Bitcoin có mối tương quan dương
(nhưng không tuyệt đối) với lợi nhuận 3 chỉ số chứng khoán trên. Do vậy Bitcoin sẽ là tài sản đa dạng
hóa với 3 chỉ số S&P500, FTSE100 và VNINDEX tính về mặt trung bình. Khi 3 chỉ số chứng khoán
này tăng điểm có thể sẽ khiến giá của đồng Bitcoin tăng.
4.3.2. Bitcoin và tỷ giá hối đoái
Trước khi ước lượng mô hình TGARCH để xác định mối tương quan giữa lợi nhuận của
Bitcoin và các tỷ giá hối đoái, tác giả thực hiện ước lượng tương quan chéo (Cross-correlation) giữa
RBTC với REURUSD, RGBPUSD, RVNDUSD. Capie và cộng sự (2005), Dyhrberg (2016) đều sử
dụng tương quan chéo để ước lượng về khả năng phòng ngừa rủi ro của vàng và Bitcoin và có kết
luận rằng nếu các mối tương quan chéo này càng gần 0 thì khả năng phòng ngừa rủi ro nếu có xảy ra,
sẽ diễn ra càng ngắn.
Bảng 5: Tương quan chéo (Cross-correlation) giữa biến RBTC và các biến

k = -4 k = -3 k= -2 k = -1 k=0

REURUSD 0.0003 0.0123 0.0083 0.0420 -0.0134

RGBPUSD 0.13 0.009 0.0337 0.0328 -0.0002

42
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

RVNDUSD -0.0176 -0.0117 -0.0133 -0.0009 -0.0067

Nguồn: Nhóm tác giả


Từ bảng tương quan chéo ta thấy rằng các mối tương quan đều rất nhỏ. Với độ trễ k = 0, các
tương quan giữa các biến tỷ giá hối đoái so với Bitcoin đều âm và rất nhỏ. Do vậy Bitcoin có thể
được sử dụng làm tài sản phòng ngừa rủi ro với các tỷ giá hối đoái, tuy nhiên khả năng phòng ngừa
rủi ro này nếu xảy ra thì sẽ rất ngắn. Kết quả này tương đồng với kết luận của Capie và cộng sự
(2005) về khả năng phòng ngừa rủi ro của vàng với đồng Đô la Mỹ và kết luận của Dyhrberg (2016)
về khả năng phòng ngừa rủi ro của Bitcoin với đồng Đô la Mỹ.
Sau khi ước lượng tương quan chéo, bài nghiên cứu tiếp tục ước lượng mô hình TGARCH để
làm rõ hơn về khả năng phòng ngừa rủi ro của Bitcoin với 3 tỷ giá hối đoái nêu trên. Bài nghiên cứu
sẽ sử dụng mô hình TGARCH để ước lượng phương trình trung bình và phương trình phương sai
cho biến phụ thuộc RBTC và xem xét khả năng phòng ngừa rủi ro hoặc đa dạng hóa của Bitcoin qua
hệ số β2:
RBTCt = β0 + β1RBTCt-1 + β2Rexchangeratet + β3Rexchangeratet-1 + ɛt
s2t = α0 + α1ɛ2t-1 + ldt-1ɛ2t-1 + βs2t-1
Bảng 6: Các hệ số ước lượng phương trình trung bình và phương trình phương sai của biến phụ thuộc
RBTC với 3 tỷ giá hối đoái

EUR/USD GBP/USD VND/USD

Phương trình trung bình

β0 – Hằng số 0.001856*** 0.001846*** 0.001894***

(2.700107) (2.698754) (2.780597)

β1 - RBTCt-1 -0.017869 -0.017383 -0.018354

(-0.903955) (-0.880007) (-0.934998)

0.163706 0.140271 -1.049582*


β2 - Rexchangeratet
(1.373321) (1.346577) (-1.909830)

-0.023249 -0.197016 -0.224206


β3 - Rexchangeratet-1
(-0.157189) (-1.638951) (-0.360574)

Phương trình phương sai

α0 – Hằng số 0.0000748*** 0.0000753*** 0.0000737***

(22.24912) (22.30204) (22.04783)

α1 - Ảnh hưởng ARCH 0.153798*** 0.152911*** 0.154614***

43
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

-16.04503 -16.03222 -15.98528

λ - Ảnh hưởng TGARCH 0.069141*** 0.070440*** 0.066520***

-6.632423 -6.72201 -6.362316

β - Ảnh hưởng GARCH 0.803369*** 0.803204*** 0.804229***

-161.493 -160.5774 -161.2942

*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%


Nguồn: Nhóm tác giả
Các kết quả ước lượng cho mô hình TGARH cho thấy mức độ phù hợp cao, trong đó hệ số
ảnh hưởng TGARCH (l) đều lớn hơn 0 và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Do đó, tác động của tin
tức xấu (α1 + l) sẽ lớn hơn tác động của tin tức tốt (α1).
Khi nhìn vào hệ số ảnh hưởng đồng thời (β2) của biến REURUSD và RGBPUSD lên RBTC.
Cả 2 hệ số của 2 biến đều dương và không có ý nghĩa thống kê. Do vậy RBTC sẽ không tương quan
với 2 biến REURUSD và RGBPUSD tính về mặt trung bình. Do vậy Bitcoin có thể là tài sản phòng
ngừa rủi ro yếu với 2 tỷ giá hối đoái EUR/USD, GBP/USD. Tuy nhiên khi kết hợp với kết quả tương
quan chéo, có thể thấy rằng nếu khả năng phòng ngừa rủi ro này xảy ra sẽ diễn ra trong thời gian rất
ngắn. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Dyhrberg (2016) khi điều tra về khả năng phòng
ngừa rủi ro của Bitcoin với 2 tỷ giá hối đoái trên, tác giả đã kết luận rằng do khả năng phòng ngừa
rủi ro diễn ra rất ngắn. Tuy nhiên, do Bitcoin được giao dịch với tần suất rất cao nên khả năng phòng
ngừa rủi ro trong ngắn hạn là đủ. Do vậy, để đảm bảo tính phòng ngừa rủi ro cho 2 tỷ giá hối đoái,
EUR/USD và GBP/USD, Bitcoin cần được giao dịch với tần suất cao khi 2 tỷ hối đoái này giảm giá.
Đối với tỷ giá hối đoái VND/USD, hệ số β2 của biến RVNDUSD âm và có ý nghĩa thống kê
ở mức 10%. Như vậy RBTC có mối tương quan âm mạnh với RVNDUSD tính về mặt trung bình.
Khi RVNDUSD giảm 1%, RBTC có thể sẽ tăng 1.049582%. Bitcoin có thể trở thanh tài sản phòng
ngừa rủi ro tốt đối với tỷ giá hối đoái VND/USD trong dài hạn.
5. Kết luận
5.1. Kết luận về kết quả nghiên cứu
Dựa vào kết quả nghiên cứu, Bitcoin có thể là công cụ đa dạng hóa cho 3 chỉ số chứng khoán
là S&P500, FTSE và VN-INDEX tính về mặt trung bình trong giai đoạn từ 02/1/2013 đến ngày
22/6/2021.
Đối với tỷ giá hối đoái, Bitcoin là tài sản phòng ngừa rủi ro tốt với tỷ giá hối đoái VND/USD
tinh về mặt trung bình trong giai đoạn từ 02/1/2013 đến ngày 22/6/2021. Đối với 2 tỷ giá hối đoái
EUR/USD và GBP/USD, Bitcoin là tài sản phòng ngừa rủi ro yếu tính về mặt trung bình trong giai
đoạn 02/1/2013 đến ngày 22/6/2021. Tuy nhiên, để tối đa hóa tính phòng ngừa rủi ro với 2 tỷ giá hối
đoái này Bitcoin cần được giao dịch với tần suất cao. Điều này là hợp lý, vì trên thị trường tài chính
quốc tế tần suất giao dịch cũng như biến động của Bitcoin là rất lớn so với các loại tài sản khác.
5.2. Khuyến nghị của đề tài

44
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Từ mối quan hệ giữa Bitcoin với các thị trường chứng khoán và tỷ giá hối đoái, trong giai
đoạn 2/1/2013 đến 22/6/2021, tác giả có một số khuyến nghị sau đối với các nhà đầu tư:
- Các nhà đầu tư nên sử dụng Bitcoin làm công cụ đa dạng hóa với 3 chỉ số chứng khoán
S&P500, FTSE100, VN-INDEX. Khi 3 chỉ số chứng khoán này tăng điểm, các nhà đầu tư
nên thêm Bitcoin vào danh mục của mình để tối đa hóa lợi nhuận. Không những thế, các nhà
đầu tư chuyên giao dịch Bitcoin có thể nhìn vào 3 chỉ số chứng khoán này làm tham chiếu để
ra quyết định mua và bán Bitcoin.
- Các nhà đầu tư nên sử dụng Bitcoin làm công cụ phòng ngừa rủi ro đối với danh mục đầu tư
Forex gồm 3 tỷ giá hối đoái là EUR/USD, GBP/USD, VND/USD. Khi 3 tỷ giá hối đoái này
giảm, việc có Bitcoin trong danh mục đầu tư có thể giảm thiểu thua lỗ và tăng lợi nhuận cho
các nhà đầu tư. Có thể dùng Bitcoin làm tài sản phòng ngừa rủi ro với tỷ giá hối đoái tính về
mặt trung bình. Tuy nhiên với 2 tỷ giá là EUR/USD, GBP/USD, Bitcoin cần được giao dịch
với tần suất cao để đảm bảo tính phòng ngừa rủi ro. Không những thế các nhà đầu tư chuyên
giao dịch Bitcoin có thể nhìn vào 3 tỷ giá hối đoái này làm tham chiếu để ra quyết định mua
và bán Bitcoin.
5.3. Hướng mở rộng của đề tài
Đối với nghiên cứu trong tương lai, các bài nghiên cứu nên xem xét về khả năng trú ẩn an
toàn của Bitcoin trong thời kỳ thị trường cực kỳ xấu và biến động mạnh. Hơn thế nữa, nên nghiên
cứu về tỷ lệ phân bổ của Bitcoin với các danh mục đầu tư khác nhau. Thêm vào đó, các bài nghiên
cứu trong tương lai cũng nên nghiên cứu thêm về sự tương quan của Bitcoin với nhiều thị trường
chứng khoán, tỷ giá hối đoái cũng như các loại tài sản khác nhau để có được cái nhìn tổng quan hơn
về thị trường này. Đây sẽ là hướng nghiên cứu mở rộng tiếp theo của nhóm tác giả.

Danh mục tài liệu tham khảo


Baur, D. G., & Lucey, B. M. (2010). Is gold a hedge or a safe haven? An analysis of stocks, bonds
and gold. Financial Review, 45(2), 217-229.
Bouri, E., Shahzad, S. J. H., Roubaud, D., Kristoufek, L., & Lucey, B. (2020). Bitcoin, gold, and
commodities as safe havens for stocks: New insight through wavelet analysis. The Quarterly
Review of Economics and Finance, 77, 156- 164.
Capie, F., Mills, T.C., & Wood, G. (2005). Gold as a hedge against the dollar. 4 Journal of
International Financial Markets, Institution and Money, 15(5), 343- 352
Dyhrberg, A. H. (2016). Hedging capabilities of bitcoin. Is it the virtual gold? Finance Research
Letters, 16, 139-144.
Engle, R. F., & NG, V. K. (1993). Measuring and Testing the Impact of News on Volatility. The
Journal of Finance, 48(5), 1749–1778.
Glosten, L. R., Jagannathan, R., & Runkle, D. E. (1993). On the 8. Relation between the Expected
Value and the Volatility of the Nominal Excess Return on Stocks. The Journal of Finance, 48(5),
1779-1801.

45
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Monti, M., & Rasmussen, S. (2017). RAIN: A Bio-Inspired Communication and Data Storage
Infrastructure. Artificial Life, 23(4), 552–557.
Urquhart, A., & Zhang, H. (2019). Is Bitcoin a hedge or safe haven for currencies? An intraday
analysis. International Review of Financial Analysis, 63, 49-57.
Wang, K. M., & Lee, Y. M. (2011). The yen for gold. Resources Policy, 36(1), 39–48.
Wu, S., Tong, M., Yang, Z., & Derbali, A. (2019). Does gold or Bitcoin hedge economic policy
uncertainty? Finance Research Letters, 31, 171-1

46
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

DETERMINANTS OF BITCOIN BEHAVIORAL INTENTION


OF YOUNG CITIZENS IN HO CHI MINH CITY
Nguyễn Hoàng Long
Đỗ Hoài Phương
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: longnguyen.31201020360@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT
Received date: 12/12/2022 Bitcoin is by far the largest cryptocurrency by market cap. The
Revised date: 28/02/2023 rapid rise of this novel form of currency required profound
Accepted date: 01/03/2023 understanding of cognitive process of people regarding Bitcoin
adoption intention. This study examined the factors underpinning
Bitcoin usage intention using self-administered data collected from
452 respondents who are in the age between 18-29 years old in Ho
Chi Minh City 2021. A theoretical framework was developed
grounded on the Unified Theory of Acceptance and Use of
Technology (UTAUT) model with four factors: 1) Performance
Keywords:
behavioral intention, expectancy, 2) Effort expectancy, 3) Social influence, and 4)
bitcoin, Facilitating conditions. The quantitative results suggested that the
crypto-currency, intention to use Bitcoin of young people was significantly impacted
unified theory of acceptance by: 1) Performance expectancy, 2) Social influence, and 3) Effort
and use of technology expectancy, in their order of influence strength.

1. Introduction
1.1. Reason to choose the topic
Today’s Internet development has spawned a slew of new technologies, including electronic
money, or cryptocurrency, known as Bitcoin. Bitcoin is the most well-known, original, and
commonly utilized cryptocurrency. It is a decentralized financial protocol that is built on a
peer-to-peer network. It is capable of linking every computer on the planet to create an open
accounting book (Feld, Schnfeld, and Werner, 2014). In other words, Bitcoin is a new type of
payment system in which money is transferred digitally. Anyone can transmit money immediately to
anyone else using Bitcoin. Bitcoin was founded in November 2008 by an unknown individual went
under the name Satoshi Nakamoto. Recently, Statista’s Global Consumer Survey announced that
Vietnam ranked second worldwide in popularity of crypto-currency. This shows that Bitcoin is
becoming familiar, but the question arises, can it replace real money or not? 'Currency' is a word that
refers to an intermediary commodity utilized in the exchange of goods. And money's reasoning is
consensus-based. That is, the Central Bank is permitted to create money if a majority of voters agree
on the need of protecting value. Nobody, however, guarantees the Central Bank's pure safety and
assures that they do not inject money into the economy, causing inflation. This raises a need in a
system that allows both the government and the community to make better use of the money and

47
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

prevent possible economic damage. Bitcoin is the solution to this dilemma as it outperforms
traditional currencies due to its perks. With cryptocurrency's popularity ranking second worldwide, it
is one of the most significant aspects contributing to globalization in Vietnam; yet, there is no formal
study in this field to survey and analyze the requirements, attitudes, and acceptance of Bitcoin. As a
result, we choose the topic 'Factors influencing the behavioral intention of Bitcoin users in Vietnam.
The State Bank, relevant institutions, and organizations will have the appropriate strategies to
encourage the development of Bitcoin in Vietnam or to educate developers and end-users about the
currency.
1.2. Research objectives
This work adds to the body of knowledge in three ways: (i) Identify the variables that
influence behavioral intention to use Bitcoin in Vietnam; (ii) Quantify the factors and their impact on
behavioral intention to use Bitcoin in Vietnam, and (iii) Make recommendations on how to control
behavioral intention to use Bitcoin in Vietnam.
2. Literature review
2.1. Theoretical basis
2.1.1. The concept of Bitcoin
Bitcoin is a form of digital currency that is tied to a decentralized ledger (the blockchain). It
was first discussed on the Cryptography mailing list following the publication of a white paper by
author Satoshi Nakamoto (Karlstorm, 2014).
Bitcoin is built on two fundamental cryptographic technologies: public-key cryptography,
which is used to generate digital signatures (Schneier, 2007), and hash functions, which are used to
validate transactions (Böhme, 2015). A Bitcoin transaction is a digital signature that confirms the
sender's and recipient's addresses, as well as the amount (in Bitcoins), sent (Antonopoulos, 2014).
The transaction is then broadcast to the Bitcoin network, which consists of all nodes running the
Bitcoin core program, and is eventually joined with other transactions to make a block
(Antonopoulos, 2014). The new block is added to the blockchain using a process known as mining, in
which computer power is used to solve a mathematical puzzle, referred to as the proof of work (PoW)
component (Antonopoulos, 2014).
2.1.2. The legal status of Bitcoin in Vietnam
Bitcoin came to Vietnam for the first time in two major cities, Hanoi and Ho Chi Minh City,
between the end of 2013 and the beginning of 2014. Vietnam, like many other governments, is
currently humiliated by its behavior with cryptocurrency and associated activities (exchanging
transactions, importing and utilizing digital currency "digging" machines, etc.). Bitcoin has been
exchanged in Vietnam but has not been recognized as a currency or a form of payment by the
government, nor has it been monitored or controlled. Informal Bitcoin transfer operations have risen
rapidly, even reaching rural regions, but have been plagued with fraud and a lack of transparency. The
Vietnamese Prime Minister endorsed a plan to improve the legal framework controlling the
administration of virtual assets, electronic currencies, and digital currencies, including Bitcoin, on
August 21, 2017 (Vietnamese Government, 2017). The State Bank of Vietnam (SBV) previously

48
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

asked that the Government implement Decree 80/2016/ND-CP limiting legal methods of payment in
Vietnam (excluding Bitcoin and other cryptocurrencies) and other laws restricting cryptocurrency
creation, supply, and usage. Administrative fines were enforced under Decree 96/2014/ND-CP for the
unlawful issue, supply, and use of payment instruments. In essence, the SBV maintains that a
cryptocurrency is a type of digital asset (often called coins). However, neither the 2005 nor the 2015
Civil Codes contain definitions or specific regulations regarding virtual properties (including
cryptocurrency).
2.1.3. The overview of theories
This research paper aims to provide a comprehensive literature review of the theories used as
the basis for this study, including the Theory of Reasoned Action (TRA), Theory of Planned Behavior
(TPB), Technology Acceptance Model (TAM), and the Unified Theory of Acceptance and Use of
Technology (UTAUT). These theories are widely recognized and have been extensively applied in
various fields of research, including technology adoption and consumer behavior analysis.
TRA (Ajzen and Fishbein, 1975) posits that a person's attitude and subjective norms toward a
specific behavior are critical determinants of behavioral intention, which in turn influences their
actual behavior. TPB (Ajzen, 1991) extends the TRA by incorporating perceived behavioral control,
which represents the individual's perceived ability to perform the behavior. TAM (Davis, 1989)
focuses on the cognitive and social factors that shape individuals' acceptance and usage of
technology, while UTAUT (Venkatesh et al, 2003) incorporates four key constructs, namely
performance expectancy, effort expectancy, social influence, and facilitating conditions, to explain the
determinants of technology adoption and use.
By employing these theories as the theoretical framework, this research aims to identify the
factors that drive young people's intention to use Bitcoin, a relatively new and rapidly growing digital
currency. The utilization of these theories will enable a more comprehensive understanding of the
underlying factors that shape Bitcoin usage intention among young generations.
2.2. The conceptual model and research hypothesis development
The conceptual model depicted in Figure 1 provides a theoretical direction for cryptocurrency
adoption. The UTAUT conceptual model used in this study indicates four major influences on end
adoption that have been validated as trustworthy constructs in pastresearch: PE (Performance
expectancy), EE (Effort expectancy), SI (Social influence), andFC (Facilitating conditions) (Williams
et al., 2015).
Performance Expectancy (PE)
The determinant of PE is defined as an individual's belief that utilizing the system would
enable him or her to improve work performance (Venkatesh et al., 2003). PE is formed from the
combination of five constructs: perceived utility (TAM), intrinsic motivation (MM), job fit (MPCU),
relative advantage (IDT), and outcome expectancies (SCT). As such, PE continues to be the greatest
predictor of intention within this

49
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Figure 1. Conceptual Model

combination of five components and is significant across all assessment points in both
voluntary and forced scenarios (Venkatesh et al., 2003). Similarly, Zhou, Lu, and Wang (2010)
demonstrated that user adoption is significantly influenced by PE, SI, FC, and task technology fit.
Regarding the moderating impact, gender and age affect PE's effect on behavioral intention, with the
effect being greater for males, particularly younger men (Venkatesh et al., 2003). Therefore, the
hypothesis formed is:
Hypothesis H1: Performance expectancy has a positive effect on the Behavioral Intention of
using Bitcoin.
Hypothesis H2: Performance expectancy and Behavioral Intention of using Bitcoin relation
are moderated by Gender.
Hypothesis H3: Performance expectancy and Behavioral Intention of using Bitcoin relation
are moderated by Age.
Effort Expectancy (EE)
The determinant of EE is defined as the ease with which a system may be used. EE
incorporates three characteristics from prior models, namely perceived ease of use (TAM),
complexity (MPCU), and perceived ease of use (IDT). Additionally, Deng, Liu, and Qi (2011)
discovered that PE and EE are strong predictors of an individual's propensity to utilize web-based
questions and answers services (WBQAS). Concerning the moderating impact, gender, age, and
experience all affect the behavioral intention for EE, with the effect being greater for women,
particularly younger women and those in the early stages of experience (Venkatesh et al., 2003).
Therefore, the hypothesis formed is:
Hypothesis H4: Effort expectancy has a positive effect on the Behavioral Intention of using
Bitcoin.
Hypothesis H5: Effort expectancy and Behavioral Intention of using Bitcoin relation are
moderated by Gender.

50
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hypothesis H6: Effort expectancy and Behavioral Intention of using Bitcoin relation are
moderated by Age.
Social Influence (SI)
The determinant of SI is described as an individual's perception of how critical it is for others
to feel he or she should utilize the new system. This contains the subjective norm (TAM2), social
factors (MPCU), and image (IDT) variables from prior models (Venkatesh et al., 2003). Additionally,
SI appears to be relevant just during the early phases of an individual's technological exposure with
necessary settings and fades away with continued use. Concerning the moderating impact, behavioral
intention for SI is influenced by gender, age, experience, and voluntariness, with a greater effect for
women, particularly older women in obligatory contexts during the earliest phases of experience.
Therefore, the hypothesis formed is:
Hypothesis H7: Social influence has a positive effect on Behavioral Intention of using
Bitcoin.
Hypothesis H8: Social influence and Behavioral Intention of using Bitcoin relation are
moderated by Gender.
Hypothesis H9: Social influence and Behavioral Intention of using Bitcoin relation are
moderated by Age.
Facilitating conditions (FC)
This is defined as an individual's belief that the necessary organizational and technological
infrastructure exists to facilitate the system's use. FC is composed of the preceding models'
components for perceived behavioral control (TPB), Facilitating conditions (MPCU), and
compatibility (IDT). Additionally, FC is controlled by EE, and when both PE and EE are present, FC
ceases to be predictive of intention (Venkatesh et al., 2003). However, the suggested conceptual
model, in which the FC construct is directly related to BI, was developed in light of past research
indicating that FC is significantly associated with BI prediction (Foon and Fah, 2011; Venkatesh,
Sykes and Zhang, 2011). Regarding the moderating impact, Venkatesh et al. (2003) stated that
because FC usage behavior is influenced by age and experience, the effect would be greater for older
employees, particularly those with growing experience. Therefore, the hypothesis formed is:
Hypothesis H10: Facilitating Condition has a positive effect on Behavioral Intention of using
Bitcoin.
Hypothesis H11: Facilitating Condition and Behavioral Intention of using Bitcoin relation are
moderated by Age.
Behavioral Intention (BI)
A determinant of Behavioral Intention (BI) is described as a variable that may be used to
forecast the performance of any voluntary behavior (Sheppard, Hartwick, and Warshaw, 1988). The
dependent variable Usage is defined as the actual use behavior of a certain system that is dominated
by business intelligence (Venkatesh et al., 2003). In this case, the variable USE has been eliminated,
and the hypothesized direct link between FC and BI has been adjusted to meet the current study
situation in which real use of crypto-currency-based Vietnam finance does not yet exist.

51
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

3. Research methodology
3.1. Research sample
Research subjects include young citizens living in Ho Chi Minh City who recognize, are
aware, or use Bitcoin cryptocurrency. The target sample size is over 350, however, after conducting
the online survey with a 452 sample of the customer in HCMC, there are 452 answered
questionnaires suitable for use, response rate recovery reached 100%.
3.2. Research design
This study used a Google Form-based questionnaire interview approach. The survey is divided
into two distinct portions to provide the highest possible data quality. The first section contains two
generic questions (age, gender) designed to elicit information about the characteristics of each survey
subject. The second section of the questionnaire was aimed to elicit responses on participants'
perceptions of Bitcoin and their plan to utilize it. To do this, the study used a quantitative technique
using a five-point Likert scale to quantify characteristics.
3.3. Data analyzing
After collecting the survey results and filtering, verifying, entering, and cleaning the data, the
author will undertake statistical synthesis and analysis of the data. Data processing, descriptive
statistics, Cronbach's Alpha coefficient reliability testing, exploratory factor analysis (EFA), and
regression model hypothesis testing using SPSS and Amos 24.0 software were used to determine the
adequacy of the study model.
4. Result and discussion
4.1. Test reliability
4.1.1. Cronbach’s Alpha test
Table 1. Cronbach’s Alpha of Components
Variables Scale Scale Variance Corrected Cronbach’s
Mean if if Item Deleted Item-Total Alpha if Item
Item Correlation Deleted
Deleted
Performance expectancy Cronbach’s Alpha = 0.763
(PE)
PE1 12.60 4.124 0.578 0.706
PE2 12.87 3.323 0.536 0.737
PE3 12.79 3.655 0.601 0.686
PE4 12.56 3.933 0.573 0.703
Effort expectancy (EE) Cronbach’s Alpha = 0.768
EE1 8.58 1.556 0.601 0.687
EE2 8.75 1.436 0.590 0.708
EE3 8.52 1.714 0.626 0.671
Social influence (SI) Cronbach’s Alpha = 0.702
SI1 7.82 3.881 0.420 0.727
SI2 7.98 3.228 0.530 0.598

52
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

SI3 7.74 3.281 0.618 0.486


Facilitating Condition (FC) Cronbach’s Alpha = 0.672
FC1 8.21 2.132 0.642 0.366
FC2 8.42 2.417 0.393 0.703
FC3 8.32 2.523 0.438 0.634
Behavioral Intention (BI) Cronbach’s Alpha = 0.931
BI1 8.50 3.718 0.878 0.886
BI2 8.60 3.585 0.828 0.928
BI3 8.46 3.757 0.875 0.889
Source: Synthesis of the research team
The data analysis results indicate that all five scales have Cronbach's Alpha reliability values
greater than 0.6, the correlation coefficient between the observed variables' total variables is greater
than 0.3. All four independent variables are accepted, specifically: Performance expectancy with 4
observed variables, Effort Expectancy with 3 observed variables, Social Influence with 3 observed
variables, Facilitating Condition with 3 observable variables, and finally a Behavioral Intention
dependent variable with 3 observable variables.
4.1.2. Exploratory Factor Analysis (EFA)
Table 2. KMO and Bartlett’s Test
KMO and Bartlett's Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. 0.793
Bartlett's Test of Approx. Chi-Square 3032.057
Sphericity
df 120
Sig 0.000
.
Source: Synthesis of the research team
Table 3. Pattern Matrix
Pattern Matrix
Factor
1 2 3 4 5
BI3 0.946
BI1 0.936
BI2 0.864
PE2 0.734
PE3 0.727
PE4 0.608
PE1 0.549
EE2 0.734
EE1 0.731
EE3 0.708
FC1 1.026

53
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

FC3 0.518
FC2
SI3 0.795
SI2 0.677
SI1 0.523
Eigenvalue 1.062
Extraction Sums of Squared 56.564
Loadings
Extraction Method: Principal Axis Factoring.
Rotation Method: Promax with Kaiser Normalization. a

a. Rotation converged in 6 iterations.

Source: Synthesis of the research team


According to the results in Table 3, KMO = 0.793, indicating that factor analysis is
appropriate. The Barlett test has statistical significance at Sig = 0.000 (Sig 0.05), indicating
that observed variables in the population are correlated. Eigenvalue = 1,062 > 1 represents the
amount of variance explained by each component. Promax rotation identified five components with a
total variance of 56,564 percent > 50%.
In summary, 16 observable variables were merged into five factors based on the results of EFA
exploratory factor analysis.
4.1.3. Test the Model Fit by confirmatory factor analysis (CFA)

54
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Figure 2. The results of the analysis of the normalized model CFA

Table 4. Model fit indices

Model Fit Acceptable value Source Realistic


Chi-square/ ≤ 5, and preferably ≤ 3 Hu and Bentler (1999) 2.730
df
CFI ≥ 0.8, and preferably ≥ 0.9 Hu and Bentler (1999) 0.945
GFI 0.8 ≤ GFI ≤ 0.9, and preferably ≥ Baumgartner and 0.934
0.9 Homburg (1995)

TLI ≥ 0.9 Hu and Bentler (1999) 0.930


RMSEA ≤ 0.08, and preferably ≤ 0.03 Hair et al. (2010) 0.062

Source: Synthesis of the research team


Both Hu and Bentler (1999) and Hair et al. (2010) agree that the Model Fit index acceptance
levels in CFA will vary according to sample size, the number of factor groups, and the number of
variables. As observed in the preceding table, the model's fit indices are acceptable and conform to
the general statistical requirements for conducting the analysis of the linear structural model (SEM).

55
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

4.2. Model test and research hypothesis

4.2.1. Model test


The results indicate that the model's Model Fit index of conformance meets the stated
statistical standards. Thus, it may be argued that the theoretical model is suitable and can be utilized
to examine the hypothetical model's predicted and stated relationships.

Figure 3. SEM analysis results


4.2.2. Test hypothesis

The author conducts 4 research hypotheses between the independent variable and the
dependent variable proposed in chapter 2 after the model has met the requirements of the fit with
market data by the SEM linear structure model. The specific results are as follows:
Table 5. Standarized regression coefficient
Hypothesis Corellation Unstandarized Standardized S.E C.R. P
regression Regression
coefficient coefficient
H1 F_BI ← F_PE 0.581 0.335 0.132 4.403 ***
H4 F_BI ← F_EE 0.446 0.243 0.137 3.246 0.001
H7 F_BI ← F_SI 0.281 0.276 0.058 4.856 ***
H10 F_BI ← F_FC -0.128 -0.073 0.090 -1.425 0.154

Source: Synthesis of the research team


Using a 95% confidence interval, the sig of FC on BI is 0.154 > 0.05, indicating that the
variable FC has no effect on BI. Each of the remaining variables has a sig value smaller than 0.05,
indicating that these relationships are significant. Thus, there are three variables that affect BI: PE,
EE, and SI, each with a standardized Beta coefficient of 0.335, 0.243, and 0.276. H10 is denied in the
four hypotheses relating the independent and dependent variables, while the remaining hypotheses
are supported.

56
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Table 6. Squared Multiple Correlations

Estimate
FBI 0.344
BI3 0.859
BI2 0.738
BI1 0.873
FC1 0.836
FC2 0.252
FC3 0.348
SI1 0.243
SI2 0.454
SI3 0.727
EE1 0.515
EE2 0.464
EE3 0.617
PE1 0.526
PE2 0.335
PE3 0.471
PE4 0.501
Source: Synthesis of the research team
The R-squared value of BI is 0.344 = 34.4 %, so the independent variables affect 34.4% of the
variation of BI.
4.2.3. Multi-group structural analysis of demographic factors on behavioral intention to use Bitcoin
This study used a method of multiple group analysis with two distinct models: invariant and
variable. The distinction between the two models above is in the constraints imposed on the estimated
parameters in each group's model: invariant (constraints to have the same value) and variant
(unconstrained).
The impact of gender on the relationship between independent variables and
behavioral intention to use Bitcoin
The research sample is divided into male and female groups, thereby analyzing the impact of
gender factors on the relationship of independent variables to dependent variables.
Table 7. Results of the impact of gender on the relationship of the independent variable and the
dependent variable

Chi-square df

57
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Invariant 415.350 192

Variant 404.180 188

Difference 11.170 4

P-value 0.02471844

Source: Synthesis of the research team


The Chidist value was < 0.05, we concluded that there is a Chi-square difference between the
variable model and the invariant model. Therefore, we will choose the variable model because of its
higher compatibility. By choosing a variable model, we can conclude that there is a gender difference
in the relation between the independent variables and the dependent variable. Thus, the three
hypotheses H2, H5 and H8 are all accepted.
Table 8. Standardized regression weights of Male and Female

Male Female

Standardized P_value Standardized P_value


regression weights regression weights

BI <-- PE -0.432 0.419 0.367 ***

BI <-- EE 0.975 0.081 0.221 0.004

BI <-- SI 0.156 0.187 0.284 ***

BI <-- FC 0.271 0.102 -0.126 0.026

Squared 47.50% 33.70%


Multiple
Correlation

Source: Synthesis of the research team


As described in Table 8, gender has no moderating effect on an individual who is male as P-
value > 0.005 in all 4 independent variables. On the other hand, the influence of gender on the
relations between different independent variables and dependent variables were found to be
significant with P-value < 0.005 in the female group. Namely Performance Expectancy, Effort
Expectancy, Social Influence and Facilitating Conditions, in their descending order of gender’s
moderating effect.
Impact of age on the relationship between independent variables and behavioral
intention to use Bitcoin
The research sample was divided into four groups, group 18 to 20 years old, group 21 to 23

58
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

years old, group 24 to 26 years old, group 27 to 29 years old, thereby analyzing the impact of age
factors on the relationship. of the independent variables to the dependent variable.
Table 9. Results of the impact of age on the relationship of the independent variable and the
dependent variable

Chi-square df

Invariant 836.620 388

Variant 809.406 376

Difference 27.214 12

P-value 0.00719713

Source: Synthesis of the research team


The Chidist value was < 0.05, we concluded that there is a Chi-square difference between the
variable model and the invariant model. Therefore, we will choose the variable model because of its
higher compatibility. By choosing a variable model, we can conclude that there is an age difference
in the relation between the independent variables and the dependent variable. Thus, the four
hypotheses H3, H6, H9 and H11 are all accepted.
Table 10. Standardized regression weights of 4 age group

18-20 21-23 24-26 27-29

Standardized P_value Standardized P_value Standardized P_value Standardized P_value


regression weights regression regression regression
weights weights weights

BI <-- PE 0.236 0.77 0.278 0.059 0.802 *** 0.676 0.007

BI <-- EE 0.412 0.004 0.261 0.063 -0.12 0.515 0.068 0.652

BI <-- SI 0.472 *** 0.13 0.137 0.408 0.012 0.039 0.916

BI <-- FC 0.027 0.344 -0.132 0.128 -0.213 0.171 0.195 0.555

Squared 44.70% 28.40% 59.70% 62.70%


Multiple
Correlat
-ion

Source: Synthesis of the research team


Age has an inconsiderable moderating effect on the individual as most of the P-value is >
0.005. A noteworthy point is that age has a moderating effect on people who are between 18 and 20

59
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

years old in the relationship between Effort expectancy, Social influence and Bitcoin behavioral
intention.
5. Conclusion and implications
5.1. Discussion
The UTAUT theoretical model has been shown to be effective at explaining the desire to use
specific technologies, which in this case is Bitcoin.
The empirical findings indicated that Performance expectancy was a significant predictor of
people's propensity to adopt Bitcoin (β = 0.335). Social influence was discovered to have an effect on
the intention to use Bitcoin (β = 0.276) and Effort expectancy underpins the decision to actually use
Bitcoin (β = 0.243). It is crucial to emphasize that in this study, facilitative settings had no effect on
Bitcoin's behavioral intention.
The moderating effect of age did not connect with Bitcoin usage intention, gender however,
showed statistically significant in moderating the interaction of female individuals between four
dependents and independent variables in the regression.
5.2. Implications
5.2.1. Managerial implications
To begin, the majority of Vietnamese residents still see television and newspapers as reliable
sources of information and decision-making. On that basis, the authorities might leverage these
communication channels to promptly provide residents with accurate information about
cryptocurrency and Bitcoin in particular. Individuals thus are able to thoroughly comprehend the
benefits and risks of cryptocurrencies and develop a more realistic expectation of Bitcoin before
deciding to use this currency.
Second, due to the rapid development of social media and other forms of communication,
technology today enables an individual to easily express their thoughts or spread information to their
immediate surroundings. The issue of validating these sources of information has emerged in tandem
with the growth of communication channels. It is necessary to ensure the accuracy of Bitcoin-related
information in order to avoid erroneous action on the part of Bitcoin users (i.e speculation) or
crypto-cybercrime.
5.2.2. Business implication
Performance expectations are the most powerful factor influencing people's intention to adopt
Bitcoin. Thus, the first business implication for cryptocurrency firms is to raise and promote
awareness of the utility and value of Bitcoin, while the second business implication is to boost
consumer confidence in the security and protection of Bitcoin.
In terms of social impact, the third commercial implication is to leverage the power and
popularity of social media to promote mobile banking. It is advised that technology companies raise
their advertising on both rising social media platforms and conventional mass media platforms in
order to improve Bitcoin's penetration.
Additionally, the fourth business derived from the moderation analysis result is that enterprises

60
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

should tailored marketing strategies to customers regarding their age because the moderating effect
was proved to have influence on the interaction between Effort expectancy, social influence and
usage intention of the 18-20 age group. Marketing campaign might want to focus on the effort
demanded to adopt Bitcoin as well as peers’ opinions about Bitcoin to create higher engagement,
boost digital presence, and appeal more persuasively among youngsters.
5.3. Limitations and further research directions
To begin, the author analyzed age and gender as moderators in the hypothesized relationships
between variables and conducted a quantitative study to determine their effect. However, little
significant variations in gender or age groupings were among the individuals. While this study did not
fully discover a statistically significant effect, the difference in should be explored in future research.
Secondly, because this study used self- administered data that was obtained in the absence of the
researchers, it may result in low- quality responses and potentially skewed statistical conclusions,
which leads to poor- quality analysis and ineffective business decisions. To thoroughly understand the
dynamic and complicated psychology undergoing in Bitcoin market, an objective assessment
approach is required. Thirdly, using three independent variables, the current theoretical structure
described just 34.4 percent of the factors influencing Bitcoin behavioral intention. Thus, the
following research should shed light on additional elements that may underpin the purpose to use
Bitcoin by expanding the present UTAUT model to better understand and monitor people's behavior
in the cryptocurrency space.

References
Abramova, S., & Böhme, R. (2016). Perceived benefit and risk as multidimensional determinants of
Bitcoin use: A quantitative exploratory study. International Conference on Interaction Sciences.
Dublin.
Ajzen, I., 1991. The theory of planned behavior. Organizational Behaviour and Human Decision
Processes. 50 (2): 179-211.
Almarashdeh, I., Eldaw, K. E., Alsmadi, M., Alghamdi, F., Jaradat, G., Althunibat, A.,. Mohammad,
R. M. A. (2021). The adoption of Bitcoins technology: The difference between perceived future
expectation and intention to use Bitcoins: Does social influence matter? International Journal of
Electrical Computer Engineering, 11(6).
Antonopoulos, A. M. (2014). Mastering Bitcoin: unlocking digital cryptocurrencies. O'Reilly Media,
Inc.
Böhme, R., Christin, N., Edelman, B., and Moore, T. (2015). Bitcoin: Economics, technology, and
governance. Journal of Economic Perspectives, 29(2), 213-38.
Chaum, D. (1983). Blind signatures for untraceable payments. In Advances in Cryptology (pp.
199-203). Springer, Boston, MA.
Daniel Folkinshteyn and Mark Lennon (2016) Braving Bitcoin: A technology acceptance model
(TAM) analysis, Journal of Information Technology Case and Application Research, 18(4),
220-249.

61
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Davis, FD., Bagozzi, RP., and Warshaw, PR. (1989). User acceptance of computer technology: a
comparison of two theoretical models. Management Science, 35 (8), 982-1003.
Davis, F. Perceived usefulness, perceived ease of use, and user acceptance of information technology,
MIS Quarterly 13(3), 1989, pp. 318–340.
Deng, S., Liu, Y., and Qi, Y. (2011). An empirical study on determinants of web-based question‐answer
services adoption. Online Information Review 35 (5), 789-798.
Feld, S., Schönfeld, M., & Werner, M. (2014). Analyzing the deployment of Bitcoin’s P2P network under
an AS-level perspective. Procedia Computer Science, 32, 1121-1126.
https://doi.org/10.1016/j.procs.2014.05.542.
Fishbein, M., & Ajzen, I. (1975). Belief, Attitude, Intention, and Behavior: An Introduction to Theory and
Research. Reading, MA: Addison-Wesley.
Foon, Y. S., and Fah, B. C. Y. (2011). Internet banking adoption in Kuala Lumpur: an application of
UTAUT model. International Journal of Business and Management, 6(4), 161.
Gervais, A., Karame, G. O., Capkun, V., & Capkun, S. (2014). Is Bitcoin a decentralized currency?. IEEE
security and privacy, 12(3), 54-60.
Gupta, B., Dasgupta, S., and Gupta, A. (2008). Adoption of ICT in a government organization in a
developing country: An empirical study. The Journal of Strategic Information Systems, 17(2),
140-154.
Kim, M. (2021). A psychological approach to Bitcoin usage behavior in the era of COVID- 19:
Focusing on the role of attitudes toward money. Journal of Retailing Consumer Services, 62,
102606.
Lee, M. N. (2006). Monetary financial theory.
Money, R. B., Gilly, M. C., & Graham, J. L. (1998). Explorations of national culture and word-of-mouth
referral behavior in the purchase of industrial services in the United States and Japan. Journal of
Marketing, 62(4), 76-87.
Nadeem, M. A., Liu, Z., Pitafi, A. H., Younis, A., & Xu, Y. (2021). Investigating the adoption factors of
cryptocurrencies—a case of Bitcoin: empirical evidence from China. SAGE Open, 11(1),
2158244021998704.
Nakamoto, S. (2008). Bitcoin: A peer-to-peer electronic cash system. Bitcoin. org. URL: https://Bitcoin.
org/Bitcoin. pdf (accessed: 24.02. 2020).
Park, J., Yang, S., & Lehto, X. (2007). Adoption of mobile technologies for Chinese consumers. Journal
of electronic commerce research, 8(3), 196.
Pavlou, P. A. (2003). Consumer Acceptance of Electronic Commerce: Integrating Trust and Risk with the
Technology Acceptance Model. International Journal of Electronic Commerce, 7(3), 101–134.
Philipp Sandner, & Benedikt C. Eikmanns. (2015). Bitcoin: The Next Revolution in International
Payment Processing? An Empirical Analysis of Potential Use Cases. SSRN Electronic Journal.

62
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Schierz, P. G., Schilke, O., & Wirtz, B. W. (2010). Understanding consumer acceptance of mobile
payment services: An empirical analysis. Electronic Commerce Research and Applications, 9(3),
209–216. https://doi.org/10.1016/j.elerap.2009.07.005
Schneier, B. 1963-author. (2015). Applied cryptography: protocols, algorithms, and source code in C.
Sheppard, B. H., Hartwick, J., & Warshaw, P. R. (1988). The theory of reasoned action: A meta-analysis
of past research with recommendations for modifications and future research. Journal of consumer
research, 15(3), 325-343.
Shostak, R., Pease, M., and Lamport, L. (1982). The Byzantine general’s problem. ACM Transactions on
Programming Languages and Systems, 4(3), 382-401.
Saadé, R. G., Nebebe, F., & Tan, W. (2007). Viability of the “Technology Acceptance Model” in
Multimedia Learning Environments: A Comparative Study. Interdisciplinary Journal of Knowledge
& Learning Objects, 3, 175–184.
Venkatesh, V. (1999). Creation of Favorable User Perceptions: Exploring the Role of Intrinsic Motivation.
MIS Quarterly, 23(2), 239–260. https://doi.org/10.2307/249753
Venkatesh, V., Morris, M. G., Davis, G. B., & Davis, F. D. (2003). User Acceptance of Information
Technology: Toward a Unified View. MIS Quarterly, 27(3), 425–478.
https://doi.org/10.2307/30036540
Venkatesh, V., & Zhang, X. (2010). Unified theory of acceptance and use of technology: US vs. China.
Journal of global information technology management, 13(1), 5-27.
Venkatesh, V., Zhang, X., & Sykes, T. A. (2011). “Doctors Do Too Little Technology”: A Longitudinal
Field Study of an Electronic Healthcare System Implementation. Information Systems Research,
22(3), 523–546.
Vietnamese Government. (2017). Decision No. 1255/QD-TTg of the Prime Minister: Approving the
Project to complete the legal framework for management and handling of virtual assets,
cryptocurrency, and virtual currency.
Werner, P. (2004). Reasoned Action and Planned Behavior. S.J. Peterson and T.S. Bredow (eds), Middle
range Theories: Application to Nursing Research, Lippincott Williams and Wilkins, Philadelphia, pp.
125-147.
Williams, M. D., Rana, N. P., & Dwivedi, Y. K. (2015). The unified theory of acceptance and use of
technology (UTAUT): A literature review. https://doi.org/10.1108/JEIM-09-2014-0088
Zhou, T., Lu, Y., & Wang, B. (2010). Integrating TTF and UTAUT to explain mobile banking user
adoption. Computers in Human Behavior, 26(4), 760–767. https://doi.org/10.1016/j.chb.2010.01.013
Zhou, L., Liwei Dai, & Dongsong Zhang. (2007). Online Shopping Acceptance Model - a Critical Survey
of Consumer Factors in Online Shopping. Journal of Electronic Commerce Research, 8(1), 41–62.

63
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHỈ SỐ KINH TẾ XÃ HỘI ĐẾN PHÁT THẢI CO2
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 - 2018
Bùi Thị Huyền
Nhang Thị Mỹ Hậu
Trần Mỹ Huyền
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: huyenbui.31201020304@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT


Ngày nhận: 16/12/2022 Xu hướng phát triển kinh tế bền vững đang trở thành mục tiêu
Ngày gửi lại: 02/03/2023 quan trọng của thế giới, tuy nhiên tại Việt Nam các nghiên cứu tập
Ngày duyệt: 03/03/2023 trung vào các tác động đến chỉ số phát thải CO2 còn nhiều hạn chế.
Bài nghiên cứu này sử dụng bộ dữ liệu gồm các chỉ số về kinh tế và
xã hội từ năm 1990 đến năm 2018 để phân tích mối quan hệ của
chúng với chỉ số phát thải CO2. Phương pháp phân tích định lượng
dựa trên việc tiếp cận mô hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL) được
sử dụng để phân tích tác động các yếu tố kinh tế - xã hội lên phát thải
CO2 trong dài hạn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thu nhập bình
Từ khóa: quân đầu người và tích lũy vốn gộp có tác động tích cực lên chỉ số
chỉ số kinh tế xã hội, phát thải CO2 trong dài hạn. Ngược lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài
chỉ số phát thải CO2, và tỷ lệ thương mại có mối tương quan ngược chiều. Từ kết quả này,
mô hình ARDL, một vài giải pháp được đề xuất nhằm giảm lượng phát thải CO2,
phát triển bền vững hướng đến mục tiêu phát triển kinh tế bền vững tại Việt Nam.

1. Giới thiệu đề tài


Việt Nam có những khu công nghiệp đóng góp khoảng 30% tổng sản lượng công nghiệp, trên
70% kim ngạch xuất khẩu, và khoảng 25% tổng lượng phát thải khí CO2 hàng năm của đất nước
(World Bank, 2022). Trong những năm vừa qua Việt Nam đã tập trung làm khá tốt công tác nghiên
cứu đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, tuy nhiên đầu tư vào công nghệ không đủ để đạt được
SDGs (Rashed & Shah, 2021). Việc tập trung duy nhất vào phát triển công nghệ có thể dẫn đến tăng
trưởng công nghiệp, nhưng đồng thời, có thể làm tăng phát thải khí nhà kính và làm cạn kiệt các nguồn
tài nguyên thiên nhiên (Bashtannyk, Buryk, Kokhan, Vlasenko, & Skryl, 2020).
Đầu tiên, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là chỉ số kinh tế quan trọng trong các mô hình về phát
thải CO2 (Al-Mulali, Saboori, & Ozturk, 2015; Alam, Murad, Noman, & Ozturk, 2016; Apergis &
Ozturk, 2015; Saboori & Sulaiman, 2013; Shahbaz, Khraief, Uddin, & Ozturk, 2014; Tiwari, Shahbaz,
& Adnan Hye, 2013). Trong ngắn hạn và dài hạn, GDP và phát thải CO2 mối quan hệ với nhau
(Jaunky, 2011; Soytas, Sari, & Ewing, 2007).
Thứ hai, tỷ lệ thương mại (TR) cũng được cho là có mối quan hệ trực tiếp đến phát thải CO2.
Thương mại quốc tế là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của

64
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

lượng khí thải CO2 toàn cầu, với một lượng lớn khí thải trong xuất khẩu từ các nền kinh tế mới nổi
(Liu, Deng, Su, Liu, & Hu, 2015; Zhang et al., 2017).
Ngoài ra, hoạt động của con người vẫn luôn là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến
phát thải CO2. Vì vậy, mật độ dân số (PD) được lựa chọn làm chỉ số nghiên cứu. Theo báo cáo thứ
năm của IPCC chỉ ra rằng có 95% nguyên nhân gia tăng khí thải carbon dioxide từ các hoạt động của
con người (Pachauri et al., 2014).
Tiếp theo, để đạt mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, Việt Nam cũng cần quan tâm đến các
yếu tố vốn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được lựa chọn nhằm thể hiện cho nguồn vốn trong mô
hình nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã kết luận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển (De Gregorio & Yi, 1999; Khaliq & Noy, 2007;
Malikane & Chitambara, 2017; Sirag, SidAhmed, & Ali, 2018). Lĩnh vực sản xuất vẫn là lĩnh vực
nhận FDI lớn nhất tại Việt Nam, chiếm 47% tổng vốn FDI của cả nước (UNCTAD, 2022).
Ngoài ra, hầu hết các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trước đây đều tập trung vào giải
quyết vấn đề môi trường bằng cách xem xét tăng trưởng kinh tế bền vững (Mirza & Kanwal, 2017),
công nghiệp hóa được cải thiện và nâng cao (Yuan & Xie, 2016), tiêu thụ các nguồn năng lượng sạch
bền vững và sử dụng công nghệ xanh (Ezzi & Jarboui, 2016), liên kết các yếu tố này với môi trường
để tạo nên các nền kinh tế phát thải CO2 thấp.
Cuối cùng, tích lũy vốn gộp (K) được coi là một trong những yếu tố chính quyết định đến sự
tăng trưởng của một quốc gia nhưng tổng tỷ trọng của K trong tổng lượng khí thải CO2 có sự khác
nhau giữa các quốc gia so với tỷ trọng của K trong tổng GDP (Södersten, Wood, & Hertwich, 2018).
Khi sử dụng K trong mô hình cùng với FDI để kiểm tra hậu quả đối với phát thải CO2, kết quả từ
những nghiên cứu trước cho thấy việc hình thành vốn có tác động tiêu cực, do đó có thể cải thiện môi
trường ở nước nhà trong khi sử dụng cả FDI và K trong cùng một mô hình (Bukhari, Shahzadi, &
Ahmad, 2014).
Dữ liệu được thu thập từ năm 1990 đến năm 2008 gồm các chỉ số CO2, GDP, TR, PD, FDI và
K ở Việt Nam để đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế - xã hội đến hàm phát thải CO2. “Liệu các
yếu tố kinh tế - xã hội có tác động đến hàm phát thải khí CO2?” cũng là câu hỏi nghiên cứu và mục
tiêu nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, nhóm tác giả thực hiện từ việc
xây dựng mô hình nghiên cứu, kiểm định tương quan ảo, phân tích định lượng tiếp cận mô hình tự
phân phối độ trễ hồi quy. Sử dụng phần mềm R Studio và Eview 12 cho việc kiểm định và phân tích dữ
liệu định lượng trong nghiên cứu này.
Dữ liệu sử dụng trong đề tài nghiên cứu này là dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ Ngân hàng thế
giới – World Bank (Bảng 1). Sử dụng bảng dữ liệu này giúp hỗ trợ có được mẫu kích thước lớn với chi
phí gần như bằng không, đồng thời đảm bảo được yếu tố khách quan, chính xác.

65
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Bảng 1: Mô tả các biến quan sát

Biến quan sát Định nghĩa Đơn vị Nguồn thu thập dữ liệu
CO2 Phát thải CO2 Tấn/người World Bank (2018)
Bình quân trên đầu người
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
(giá trị US$ năm 2015) World Bank (2020b)
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài US$ World Bank (2020a)
K Tích lũy vốn gộp % GDP World Bank (2020c)
TR Thương mại % GDP World Bank (2020e)
Người trên mỗi km
PD Mật độ dân số
vuông diện tích đất World Bank (2020d)

2. Nội dung đề tài

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Phát triển kinh tế bền vững và phát thải CO2
Phát triển kinh tế theo nghĩa truyền thống là sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc gia (GNP) trên
đầu người hoặc là tổng tiêu dùng thực tế trên bình quân đầu người (Pearce, Atkinson, & Dubourg,
1994). Còn theo nghĩa rộng thì phát triển kinh tế bao gồm nhiều chỉ số phát triển khác như giáo dục, y
tế, tuổi thọ, tổng sản phẩm quốc nội (GDP), v.v (Pearce et al., 1994).
Vậy phát triển kinh tế không chỉ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc gia mà còn bao gồm nhiều
yếu tố khác trong nền kinh tế như y tế, chỉ số phát triển con người, đầu tư, v.v. Phát thải khí CO2 được
tạo ra từ việc đốt cháy nguồn nhiên liệu hóa thạch để tạo năng lượng (Davis, Peters, & Caldeira, 2011).
Phát thải khí CO2 quá mức là nguyên nhân gây biến đổi khí hậu toàn cầu, gây hiệu ứng nhà kính, và
nhiều tác hại khác. Do đó, nếu một quốc gia muốn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế bền vững thì
trước hết phải giảm mức độ phát thải khí CO2.
2.1.2. Các yếu tố kinh tế-xã hội tác động đến phát thải CO2
Các yếu tố về tích lũy vốn và thương mại bao gồm FDI, K và TR được sử dụng nhằm nghiên
cứu cơ chế tác động lên phát thải CO2. Theo Kuznets (1934), tích lũy vốn (capital formation) là một
thuật ngữ dùng để mô tả sự tích lũy vốn ròng trong một kỳ kế toán cho một quốc gia cụ thể. Tích lũy
vốn được đo lường bằng tổng giá trị hình thành tổng vốn cố định, những thay đổi trong hàng tồn kho
và mua lại trừ đi việc thanh lý các vật có giá trị cho một đơn vị hoặc lĩnh vực (UNSD, 2022). Do đó,
tích lũy vốn được xem là động lực thúc đẩy và nắm giữ vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình tăng
trưởng kinh tế. Thương mại là tổng xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ được tính bằng tỷ
trọng của tổng sản phẩm quốc nội (World Bank, 2020a). Theo luật thương mại Việt Nam được ban
hành năm 2005 (Quốc Hội, 2005): “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác”. Bài nghiên cứu này tập trung vào thương mại hàng hóa, được tính bởi tỷ trọng
tổng sản phẩm quốc nội (% GDP) để đánh giá tác động của hoạt động thương mại đến mức phát thải
khí CO2 tại Việt Nam.

66
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

2.2. Thực trạng ở Việt Nam


2.2.1. Lượng phát thải CO2 tại Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2018 có xu hướng gia tăng qua các
năm
Ở Việt Nam, từ năm 1990 đến năm 2018, lượng phát thải khí CO2 đã tăng gấp 10 lần từ 0,27
tấn/đầu người năm 1990 lên 2,7 tấn/đầu người năm 2018 (Biểu đồ 1). Điều đó dẫn đến phát thải CO2
đã tăng theo cấp số nhân trong vài thập kỷ qua (Van & Bao, 2018).

Biểu đồ 1: Phát thải CO2 trong giai đoạn 1990 – 2018 (tấn/người)
Nguồn: World Bank (2018)
2.2.2. Tình hình kinh tế Việt Nam: Tổng sản phẩm quốc nội tăng đều qua các năm

Biểu đồ 2: Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2018 (USD)
Nguồn: World Bank (2020e)

67
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng cao trong các nền kinh tế của
khu vực ở thập niên 90 (GSO, 2002). Đến năm 2008, đại suy thoái toàn cầu đã ảnh hưởng nặng nề đến
nền kinh tế nước ta, dẫn đến tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm chỉ đạt 7,26% trong giai đoạn từ
năm 2001 đến 2010 (GSO, 2011). Từ năm 2011 đến năm 2015, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình
quân mỗi năm là 5,91%, đồng thời quy mô nền kinh tế năm 2015 cũng đã tăng gấp 1,33 lần năm 2010
và tiếp tục thuộc những quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng cao ở khu vực và thế giới (GSO, 2016).
Tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 2016 đến năm 2018 đạt 6.7% cho thấy sự ổn định của tốc độ
tăng trưởng bình quân tại Việt Nam qua các năm.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu này dùng phương pháp phân tích định lượng tiếp cận mô hình phân phối trễ tự hồi
quy (ARDL) để xác định tác động GDP, TR, FDI, K, PD lên lượng phát thải CO2 trên đầu người hàng
năm của Việt Nam.
Mô hình ARDL (p1, p2, p3…) có dạng:
𝑝0 𝑝1 𝑝2 𝑝3 𝑝4 𝑝5
𝐿𝑛𝐶𝑂2𝑡 = β1 + ∑ β𝑖𝐿𝑛𝐶𝑂2 + ∑ β𝑗𝐿𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡−𝑗 + ∑ β𝑘𝐿𝑛𝐹𝐷𝐼𝑡−𝑘 + ∑ β𝑙𝐿𝑛𝐾𝑡−𝑙 + ∑ β𝑚𝐿𝑛𝑇𝑅𝑡−𝑚 + ∑ β𝑛𝐿𝑛𝑃𝐷𝑡−𝑛 + ε𝑡
𝑖=1 𝑗=0 𝑘=0 𝑙=0 𝑚=0 𝑛=0

Hình 1: Cơ chế tác động của các chỉ số kinh tế-xã hội lên phát thải CO2
3.2. Phân tích kết quả nghiên cứu
Bảng 2: Kết quả kiểm định đường bao (Bound test)
Số bậc Giá trị thống kê F Giá trị giới hạn các đường bao
90% 95% 97.50% 99%
k F - Statistic
I(0) I(1) I(0) I(1) I(0) I(1) I(0) I(1)
4 4.430505 2.45 3.52 2.86 4.01 3.25 4.49 3.71 5.06

Các giả thuyết kiểm định:


Giả thuyết H0: không tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến

68
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Giả thuyết H1: tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến
Kết quả kiểm định đường bao (Bảng 2) cho thấy giá trị thống kê F lớn hơn giá trị giới hạn
đường bao trên ứng với mức ý nghĩa 5%. Như vậy có thể bác bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết
H1: tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến, hay nói cách khác là các biến quan sát CO2, GDP,
FDI, K, TR, PD có tồn tại mối quan hệ trong dài hạn.
Bảng 3: Ước lượng mô hình ARDL (Biến phụ thuộc: CO2)
Biến Hệ số Độ lệch chuẩn Thống kê t Xác suất
LnCO2(-1) -0.032322118 0.181321079 -0.17825902 0.860627
LnGDP 2.679209114*** 0.541514802 4.947619351 0.000122
LFDI 0.101307798** 0.035204126 -2.87772489 0.010444
LnK 0.305160892** 0.127221424 2.398659621 0.028203
LnK(-1) 0.550424909** 0.203822089 2.700516474 0.015159
LnK(-2) 0.358126085*** 0.114853362 -3.11811583 0.006257
LnTR -0.462224096** 0.159577919 -2.89654169 0.010036
LnPD -0.349442632 0.996365268 -0.3507174 0.730109
LnPD(-1) -1.68163175 1.136912439 -1.4791216 0.157399
C -5.044001176 4.110514683 -1.22709723 0.236509

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1% 5% và 10%


Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả trên Eview 12
Lựa chọn độ trễ của mô hình ARDL: dựa vào các tiêu chí AIC và SBC, Bảng 3 thể hiện độ trễ
tối ưu của mô hình ARDL là (1, 0, 0, 2, 1, 0)
Bảng 4: Ước lượng hệ số dài hạn của mô hình
Biến Hệ số Độ lệch chuẩn Thống kê t Xác suất
LnGDP 2.595322784*** 0.354266 7.325923 1.18E-06
LnFDI -0.098135832*** 0.030609 -3.206065 0.00518
LnK 0.481884198*** 0.085345 5.646297 2.90E-05
LnTR -0.447751809** 0.158451 -2.825804 0.011654
LnPD -1.967481221* 1.029144 -1.911765 0.072913

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả trên Eview 12
GDP có mối quan hệ cùng chiều với CO2 (Bảng 4). Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi,
khi GDP tăng 1% thì phát thải CO2 (tấn/đầu người) tăng 2.59% tại mức ý nghĩa 5%. Kết quả cho thấy
sự gia tăng của GDP đã tác động tích cực lên CO2, làm tăng phát thải CO2 trong dài hạn. Kết quả cho

69
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

thấy tính tương ứng với kết quả của các bài nghiên cứu trước (Ohlan, 2015; Shahbaz, Hye, Tiwari, &
Leitão, 2013; Van & Bao, 2018).
Các biến đại diện độ mở thương mại bao gồm FDI và TR có mối quan hệ ngược chiều với phát
thải. Khi FDI tăng 1% thì lượng phát thải CO2 trên đầu người sẽ giảm 0.09%. Kết quả này trái với
một số kết quả nghiên cứu trước đây, tuy nhiên FDI ngược chiều với CO2 cũng được giải thích do
dòng vốn FDI vào các lĩnh vực ô nhiễm nặng có thể liên quan đến việc tăng phát thải CO2 (Blanco,
Gonzalez, & Ruiz, 2013). Nếu thương mại (TR) tăng 1% thì lượng phát thải CO2 trên đầu người sẽ
giảm 0.447%, tại mức ý nghĩa 5%. Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn trùng khớp với dự đoán bao đầu
của nhóm, chỉ số thương mại làm giảm phát thải CO2 (Shahbaz et al., 2013). Biến quan sát K có mối
quan hệ chặt chẽ với GDP, nên không khó hiểu khi K cũng tác động tích cực lên phát thải CO2. Nếu K
tăng 1% thì lượng phát thải CO2 trên đầu người sẽ tăng 0.48%.
Giữa tỷ lệ phát thải CO2 trên đầu người với mật độ dân số không có tác động tại mức ý nghĩa
5%. Kết quả này trái ngược với nhiều nghiên cứu trước đó, tuy nhiên tác động của mật độ dân số PD
lên chỉ số phát thải CO2 còn rất phức tạp và dựa trên nhiều yếu tố khác cần phát triển nghiên cứu trong
tương lai.
4. Kết luận
Đề tài nghiên cứu về tác động của kinh tế xã hội đến phát thải CO2 tại Việt Nam. Bài nghiên
cứu sử dụng mô hình hồi quy độ trễ (ARDL) để phân tích mối quan hệ dài hạn giữa sáu biến quan sát ở
Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2018 bao gồm tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), tổng vốn tích lũy (K), thương mại (TR), mật độ dân số (PD) và phát thải carbon dioxide
(CO2).
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự tăng trưởng của GDP và FDI có tác động tiêu cực lên mức
phát thải CO2. Trái ngược với GDP và FDI, TR và K lại tác động tích cực tới phát thải CO2. Biến PD
không có ý nghĩa trong mô hình nghiên cứu. Trong dài hạn, GDP có tác động cùng chiều với tỷ lệ phát
thải CO2. Những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam có tăng trưởng theo hướng công nghệ hóa, hiện
đại hóa, việc gia tăng hoạt động sản xuất và hội nhập với thương mại toàn cầu mang lại tác động tích
cực lên GDP, bên cạnh đó cũng kèm theo tác động tiêu cực lên môi trường, cụ thể là gia tăng tỷ lệ
phát thải CO2 hàng năm.
Tương tự GDP, trong dài hạn khi FDI tăng lên thì tỷ lệ phát thải CO2 giảm xuống. Do FDI tác
động lên thể chế, chính sách và sự đổi mới công nghệ điều này dẫn tới dòng vốn FDI làm giảm đáng
kể mức phát thải CO2 (Bakhsh, Yin, & Shabir, 2021). K có mối quan hệ tích cực với CO2 là do việc
gia tăng K trong tình trạng hạn chế về các tiêu chuẩn về chất lượng môi trường (Satrovic, Muslija, &
Abul, 2020). Trong dài hạn, thương mại (TR) có tác động tiêu cực lên phát thải CO2. Nghiên cứu đi
trước cũng chứng minh tác động ngược chiều của TR và tỷ lệ phát thải CO2 (Shahbaz et al., 2013). Ở
đây giả thuyết chữ U của Grossman and Krueger có thể được dùng để giải thích cho kết quả nghiên
cứu tác động của FDI lên CO2 tại Việt Nam (1990-2018) (Hiễn, 2022). Trong những năm gần đây Việt
Nam nổi lên xu hướng tiêu dùng xanh và sản xuất xanh, những hàng hóa gây ô nhiễm đang dần bị thay
thế, điều này giải thích cho kết quả giữa TR và CO2 của bài nghiên cứu.

70
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

5. Kiến nghị
Dựa trên kết quả nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách cần ưu tiên các mục tiêu về môi
trường sạch và lành mạnh song song với sự tăng trưởng GDP. Chính phủ phải tạo ra một môi trường
sản xuất tiêu chuẩn và hướng dẫn các doanh nghiệp giảm phát thải CO2 tối đa khi sản xuất, từ đó giúp
duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế nói chung. Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc hoàn
thiện những thể chế, chính sách, sửa đổi và bổ sung những quy định để quản lý hiệu quả các doanh
nghiệp FDI. Ngoài ra, Việt Nam cần tham gia bảo vệ nền kinh tế thế giới bằng cách lồng ghép các điều
khoản về môi trường vào hiệp định thương mại và dỡ bỏ các rào cản đối với hàng hóa thân thiện môi
trường.
Bài nghiên cứu sử dụng các số liệu trong giai đoạn trước đại dịch COVID-19. Các diễn biến
phức tạp của dịch bệnh ở các giai đoạn khác nhau có thể ảnh hưởng đến các chỉ số kinh tế - xã hội
trong mô hình. Ngoài ra, bài nghiên cứu chưa tiếp cận đến các chỉ số về năng lượng – một yếu tố khá
cốt lõi tác động đến phát thải CO2.
Về hướng phát triển, sự gia tăng nhanh chóng của tổng sản phẩm quốc nội làm tăng mức phát
thải CO2 do các hoạt động sản xuất phải sử dụng nhiều năng lượng hơn. Vì vậy, hướng nghiên cứu
phát triển cho đề tài tiếp là đánh giá về sự chuyển hóa từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo
ở các doanh nghiệp Việt Nam.

Danh mục tài liệu tham khảo


Al-Mulali, U., Saboori, B., & Ozturk, I. (2015). Investigating the environmental Kuznets curve hypothesis
in Vietnam. Energy Policy, 76, 123-131. doi:https://doi.org/10.1016/j.enpol.2014.11.019
Alam, M. M., Murad, M. W., Noman, A. H. M., & Ozturk, I. (2016). Relationships among carbon
emissions, economic growth, energy consumption and population growth: Testing Environmental
Kuznets Curve hypothesis for Brazil, China, India and Indonesia. Ecological Indicators, 70, 466-479.
doi:https://doi.org/10.1016/j.ecolind.2016.06.043
Apergis, N., & Ozturk, I. (2015). Testing Environmental Kuznets Curve hypothesis in Asian countries.
Ecological Indicators, 52, 16-22. doi:https://doi.org/10.1016/j.ecolind.2014.11.026
Bakhsh, S., Yin, H., & Shabir, M. (2021). Foreign investment and CO2 emissions: do technological
innovation and institutional quality matter? Evidence from system GMM approach. Environmental
Science Pollution Research, 28(15), 19424-19438.
Bashtannyk, V., Buryk, Z., Kokhan, M., Vlasenko, T., & Skryl, V. (2020). Financial, economic and
sustainable development of states within the conditions of industry 4.0. International journal of
management, 11(4), 406-413.
Blanco, L., Gonzalez, F., & Ruiz, I. (2013). The Impact of FDI on CO2 Emissions in Latin America.
Oxford Development Studies, 41(1), 104-121. doi:10.1080/13600818.2012.732055
Bukhari, N., Shahzadi, K., & Ahmad, M. S. (2014). Consequence of FDI on CO2 emissions in case of
Pakistan. Middle-East Journal of Scientific Research, 20(9), 1183-1189.

71
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Climate Change 2014: Synthesis Report. Contribution of Working Groups I, II and III to the Fifth
Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change. (2014). EPIC3Geneva,
Switzerland, IPCC, 151 p., Pp. 151, ISBN: 978-92-9169-143-2.
Davis, S. J., Peters, G. P., & Caldeira, K. (2011). The supply chain of CO2 emissions. Proceedings of the
National Academy of Sciences, 108(45), 18554-18559.
doi:https://www.pnas.org/content/108/45/18554.short
De Gregorio, J., & Yi, C.-h. (1999). Education and income distribution: new evidence from cross-country
data: Centro de Economía Aplicada, Universidad de Chile.
Ezzi, F., & Jarboui, A. (2016). Does innovation strategy affect financial, social and environmental
performance? Journal of Economics, Finance and Administrative Science, 21(40), 14-24.
GSO. (2002). Tình hình kinh tế - xã hội 10 năm 1991-2000 ở Việt Nam.
GSO. (2011). Tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
GSO. (2016). Động thái và thực trạng Kinh tế - Xã hội Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2015.
Hiễn, N. Đ. (2022). Mối quan hệ giữa vốn con người, tiêu thụ năng lượng, phát thải khí CO2 và tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam. Paper presented at the PROCEEDINGS.
Jaunky, V. C. (2011). The CO2 emissions-income nexus: evidence from rich countries. Energy Policy,
39(3), 1228-1240.
Khaliq, A., & Noy, I. (2007). Foreign direct investment and economic growth: Empirical evidence from
sectoral data in Indonesia. Journal of Economic Literature, 45(1), 313-325.
Kuznets, S. (1934). Gross capital formation, 1919-1933. In Gross Capital Formation, 1919-1933 (pp.
1-20): NBER.
Liu, Z., Deng, H., Su, Q., Liu, J., & Hu, W. (2015). Stability and diffusion properties of Ti atom on
α-uranium surfaces: A first-principles study. Computational Materials Science, 97, 201-208.
doi:https://doi.org/10.1016/j.commatsci.2014.10.033
Malikane, C., & Chitambara, P. (2017). Foreign direct investment, democracy and economic growth in
southern Africa. African Development Review, 29(1), 92-102.
Mirza, F. M., & Kanwal, A. (2017). Energy consumption, carbon emissions and economic growth in
Pakistan: Dynamic causality analysis. Renewable and Sustainable Energy Reviews, 72, 1233-1240.
doi:https://doi.org/10.1016/j.rser.2016.10.081
Ohlan, R. (2015). The impact of population density, energy consumption, economic growth and trade
openness on CO2 emissions in India. Natural Hazards, 79(2), 1409-1428.
Pearce, D. W., Atkinson, G. D., & Dubourg, W. R. (1994). The economics of sustainable development.
Annual review of energy the environment, 19(1), 457-474.
Quốc Hội. (2005). Luật Thương Mại Việt Nam
Rashed, A. H., & Shah, A. (2021). The role of private sector in the implementation of sustainable
development goals. Environment, Development and Sustainability, 23(3), 2931-2948.
doi:10.1007/s10668-020-00718-w

72
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Saboori, B., & Sulaiman, J. (2013). Environmental degradation, economic growth and energy
consumption: Evidence of the environmental Kuznets curve in Malaysia. Energy Policy, 60, 892-905.
doi:https://doi.org/10.1016/j.enpol.2013.05.099
Satrovic, E., Muslija, A., & Abul, S. J. (2020). The relationship between CO2 emissions and gross capital
formation in Turkey and Kuwait. South East European Journal of Economics and Business, 15(2),
28-42.
Shahbaz, M., Hye, Q. M. A., Tiwari, A. K., & Leitão, N. C. (2013). Economic growth, energy
consumption, financial development, international trade and CO2 emissions in Indonesia. Renewable
Sustainable Energy Reviews, 25, 109-121.
Shahbaz, M., Khraief, N., Uddin, G. S., & Ozturk, I. (2014). Environmental Kuznets curve in an open
economy: A bounds testing and causality analysis for Tunisia. Renewable and Sustainable Energy
Reviews, 34, 325-336. doi:https://doi.org/10.1016/j.rser.2014.03.022
Sirag, A., SidAhmed, S., & Ali, H. S. (2018). Financial development, FDI and economic growth: evidence
from Sudan. International Journal of Social Economics, 45(8), 1236-1249.
doi:10.1108/IJSE-10-2017-0476
Södersten, C. J., Wood, R., & Hertwich, E. G. (2018). Environmental impacts of capital formation. Journal
of Industrial Ecology, 22(1), 55-67.
Soytas, U., Sari, R., & Ewing, B. T. (2007). Energy consumption, income, and carbon emissions in the
United States. Ecological Economics, 62(3-4), 482-489.
Tiwari, A. K., Shahbaz, M., & Adnan Hye, Q. M. (2013). The environmental Kuznets curve and the role of
coal consumption in India: Cointegration and causality analysis in an open economy. Renewable and
Sustainable Energy Reviews, 18, 519-527. doi:https://doi.org/10.1016/j.rser.2012.10.031
UNCTAD. (2022). Lao People's democratic republic. Vulnerability Profile.
UNSD. (2022). Gross capital formation.
doi:http://data.un.org/Glossary.aspx?q=Gross+capital+formation+(%25+of+GDP)
Van, D. T. B., & Bao, H. H. G. (2018). The role of globalization on carbon dioxide emission in Vietnam
incorporating industrialization, urbanization, gross domestic product per capita and energy use.
International Journal of Energy Economics Policy, 8(6), 275-283.
World Bank. (2018). CO2 emissions (metric tons per capita).
doi:https://data.worldbank.org/indicator/EN.ATM.CO2E.PC
World Bank. (2020a). Foreign direct investment, net inflows (% of GDP).
World Bank. (2020b). GDP (Current US$). doi:https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.MKTP.CD
World Bank. (2020c). Gross capital formation (% of GDP).
doi:https://data.worldbank.org/indicator/NE.GDI.TOTL.ZS
World Bank. (2020d). Population density (people per sq.km of land area).
World Bank. (2020e). Trade (% of GDP).
World Bank. (2022). Những thách thức và cơ hội đối với phát triển thương mại xanh tại Việt Nam. The
World Bank.

73
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Yuan, Y.-j., & Xie, R.-h. (2016). Environmental regulation and the “Green” productivity growth of China’s
industry. China Soft Sci, 7, 144-154.
Zhang, Q., Jiang, X., Tong, D., Davis, S. J., Zhao, H., Geng, G., . . . Guan, D. (2017). Transboundary
health impacts of transported global air pollution and international trade. Nature, 543(7647), 705-709.
doi:10.1038/nature21712

74
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC XANH
DÀNH CHO HÀNH VI CỦA CÔNG DÂN TỔ CHỨC ĐỐI VỚI
MÔI TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG VÌ MÔI TRƯỜNG
TRONG KHUÔN VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Nguyễn Thị Thúy Linh
Hồ Thị Tâm Diệu
Trần Thị Lê Na
Lê Hiếu Ngân
Thái Ngọc Bích Trâm
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: linhnguyen.31201022251@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Ngày nhận: 15/12/2022 Quản lý nguồn nhân lực xanh (GHRM) ngày được quan tâm
Ngày gửi lại: 11/02/2023 hơn vì tính hiệu quả bền vững vì môi trường. Đề tài phát triển nghiên
Ngày duyệt: 12/02/2023 cứu GHRM trong các cơ sở đại học thông qua nghiên cứu hành vi
của nhân viên và cán bộ giảng dạy. Dữ liệu được thu thập từ 277 đối
tượng là nhân viên cán bộ giảng dạy tại một số trường đại học tại
Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7/2022. Dữ liệu được xử lý bằng
các kiểm định Cronbach’s Alpha, Pearson; phân tích nhân tố EFA,
CFA và mô hình hồi quy tuyến tính SEM. Kết quả nghiên cứu cho
thấy các yếu tố thực hành GHRM có mối tương quan với hành vi
công dân tổ chức đối với môi trường (OCBE) và hiệu suất môi
trường. Cụ thể, Thực hành nâng cao động lực xanh (β = 0.797) và
Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh (β = 0.240) gián tiếp
tác động tích cực đến Hiệu suất môi trường thông qua biến trung gian
OCBE (β = 0.323). Mặt khác, Thực hành xây dựng năng lực xanh (β
Từ khoá: = 0.110) và Thực hành nâng cao động lực xanh (β = 0.467) trực tiếp
hành vi công dân tổ chức đối
với môi trường,
tác động tích cực đến Hiệu suất môi trường. Vì phạm vi nghiên cứu
hiệu suất môi trường, khảo sát còn tương đối nhỏ nên các nghiên cứu trong tương lai có thể
quản lý nguồn nhân lực xanh phát triển theo hướng mở rộng để khắc phục hạn chế của đề tài.

1. Giới thiệu
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quản lý nguồn nhân lực xanh (GHRM) hiện nay là một từ khóa quen thuộc đối với những
người làm nhân sự, tuy nhiên nó chỉ được chú trọng việc thực hành trong các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, du lịch, dịch vụ,... mà ít được đề cập trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là các cơ sở đại học.
GHRM ở bậc giáo dục đại học liên tưởng đến việc quản lý các hoạt động và hành vi của người học
một cách hiệu quả, nhưng hơn hết việc xem xét tầm ảnh hưởng của đối tượng trung gian - nhân viên

75
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

và cán bộ giảng dạy tại trường đại học đối với trách nhiệm truyền đạt nhận thức về các hoạt động vì
môi trường thực sự cần thiết như thế nào. Theo nghiên cứu của Anwar và cộng sự (2020) đối với
phân tích hòa giải, kết quả cho thấy hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường (OCBE) do các
nhân viên học thuật trưng bày hoạt động như một phương tiện mà thông qua đó các thực hành
GHRM của một trường đại học có thể ảnh hưởng tích cực đến hoạt động thân thiện vì môi trường
trong khuôn viên trường đại học.
1.2. Lý do lựa chọn đề tài
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chứng minh vai trò của GHRM đối với môi trường. Tuy
nhiên, ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, rất ít tài liệu cho ra các kết quả
về mối liên hệ của GHRM đối với OCBE trong các cơ sở đại học. Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu tác
động của quản lý nguồn nhân lực xanh dành cho hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường và
hoạt động vì môi trường trong khuôn viên trường đại học” được thực hiện để lấp đầy khoảng trống
trong nghiên cứu về lĩnh vực này, cung cấp cơ sở lý thuyết cho các chính sách phát triển để thích
nghi với mục tiêu phát triển bền vững của đất nước.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm tra tác động trung gian của OCBE giữa GHRM và hiệu suất môi trường trong khuôn
viên trường đại học.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Tác động của GHRM đối với OCBE và hiệu suất môi trường.
Đối tượng khảo sát:
Để đạt được các mục tiêu trên, một cuộc khảo sát đã được thực hiện vào tháng 7 năm 2022 tại
một số trường đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Trong tổng số 277 đối tượng tham gia
khảo sát bao gồm nhân viên làm việc trong các phòng ban và cán bộ giảng dạy tại các trường đại học
được khảo sát.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
1.6. Những đóng góp của đề tài
Với những kết quả nghiên cứu đạt được, đề tài cung cấp góc nhìn mới mẻ trong việc nhận
thức về tính bền vững của môi trường và hiệu suất môi trường từ việc thực hành GHRM.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Các khái niệm
Quản lý nguồn nhân lực (Human Resources Management) được định nghĩa là một cách tiếp
cận mang tính chiến lược, tích hợp và chặt chẽ đối với việc làm, sự phát triển và hạnh phúc của
những người làm việc trong các tổ chức (Armstrong, 2016). Quản lý nguồn nhân lực xanh (Green
Human Resources Management) được định nghĩa là sự kết hợp các yếu tố quản lý xanh vào các chức
năng thiết kế công việc, bố trí nhân sự, đào tạo và phát triển, động lực và duy trì của HRM để cải

76
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

thiện hành vi vì môi trường của nhân viên, đáp ứng kỳ vọng của nhân viên và đạt được các mục tiêu
của tổ chức (Shah, 2019).
Hành vi công dân tổ chức (Organizational Citizenship Behavior) được định nghĩa là việc
tham gia vào các hoạt động hoặc hành động không phải là một phần chính thức của mô tả công việc,
nhưng mang lại lợi ích cho tổ chức nói chung (Borman, 2004). Các hành vi vì môi trường của nhân
viên, được gọi là hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường (Organizational Citizenship
Behavior towards the Environment), là các hành động tự nguyện của cá nhân dẫn đến hoạt động môi
trường hiệu quả trong một tổ chức (Boiral & Paillé, 2012).
2.2. Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết Năng lực - Động lực - Cơ hội
Lý thuyết AMO cung cấp một giải thích toàn diện nhất quán về đóng góp của GHRM đối với
tính bền vững của môi trường (Renwick và cộng sự, 2016). Cụ thể, năng lực dựa trên một loạt các
thực hành bao gồm tuyển dụng và lựa chọn, các chương trình đào tạo và phát triển đảm bảo kiến
thức và kỹ năng cần thiết của nhân viên để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Tương tự, động lực dựa
trên các thực hành như đánh giá hiệu suất và các khuyến khích tài chính và phi tài chính nhằm thúc
đẩy nỗ lực của nhân viên để hoàn thành các mục tiêu hiệu suất. Cuối cùng, cơ hội là một nhóm các
thực hành bao gồm sự tham gia, chia sẻ bí quyết và thực hành nâng cao quyền tự chủ nhằm thúc đẩy
sự tham gia của nhân viên vào các hoạt động (Marin-Garcia và Tomas, 2016). Appelbaum và cộng
sự (2000) đề xuất giải thích rằng các thực hành HRM nâng cao khả năng của nhân viên, tạo động cơ
thúc đẩy họ làm việc và tham gia vào các cơ hội sẵn có dẫn đến OCBE của nhân viên, góp phần hơn
nữa vào hiệu quả hoạt động của tổ chức. Nghiên cứu này dựa trên lý thuyết AMO qua đó phân tích
tác động của việc thực hành GHRM đến hiệu suất môi trường. Đặc biệt áp dụng trong bối cảnh tại
các trường Đại học, từ đó kiểm tra vai trò trung gian của OCBE đối với môi trường giữa tập hợp các
thực hành GHRM và hoạt động vì môi trường của các trường đại học.
2.3. Phát triển giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu của Teixeira và cộng sự (2012) đã chỉ ra rằng thực hành xây dựng năng lực xanh
đề cập đến việc tuyển dụng và lựa chọn xanh, các chương trình đào tạo và phát triển xanh để nâng
cao nhận thức và kỹ năng về môi trường của nhân viên. Bên cạnh đó, các thực hành nâng cao động
lực xanh bao gồm đánh giá hiệu suất và khen thưởng, nhằm thúc đẩy một nhân viên điều chỉnh hành
vi của họ với các mục tiêu môi trường của tổ chức (Harvey và cộng sự, 2013). Trong khi đó, các
thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh đề cập đến việc cung cấp các cơ hội hợp tác để thúc
đẩy tiếng nói của nhân viên trong quản lý môi trường và đề xuất giải pháp cho các vấn đề môi
trường trong một tổ chức (DuBois & Dubois, 2012). Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đã thấy
được mối quan hệ đáng kể giữa sự tham gia của nhà quản lý vào Hành vi công dân tổ chức đối với
môi trường và hiệu suất môi trường trong tổ chức của họ (Boiral và cộng sự, 2015) và Hành vi công
dân tổ chức đối với môi trường có thể dẫn đến hiệu suất môi trường tốt hơn (Paillé và cộng sự, 2014;
Zientara & Zamojska, 2018). Các giả thuyết được kiểm chứng trong bài nghiên cứu bao gồm:
● Giả thuyết H1: Các hoạt động xây dựng năng lực xanh có liên quan tích cực đến Hành vi
công dân tổ chức đối với môi trường
● Giả thuyết H2: Các hoạt động nâng cao động lực xanh có liên quan tích cực đến Hành vi

77
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

công dân tổ chức đối với môi trường


● Giả thuyết H3: Các thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh có liên quan tích cực đến
Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường
● Giả thuyết H4: Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường có liên quan tích cực đến hiệu
suất môi trường
● Giả thuyết H5: Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường làm trung gian cho mối quan
hệ giữa thực tiễn xây dựng năng lực xanh và hiệu suất môi trường.
● Giả thuyết H6: Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường làm trung gian cho mối quan
hệ giữa các thực hành nâng cao động lực xanh và hiệu suất môi trường.
● Giả thuyết H7: Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường làm trung gian cho mối quan
hệ giữa các thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh và kết quả hiệu môi trường.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phân tích dữ liệu
Quy trình phân tích dữ liệu gồm các bước như sau:
- Lọc, kiểm tra làm sạch dữ liệu sau khi nhận được kết quả điều tra. - Kiểm định Cronbach’s
Alpha để để đánh giá độ tin cậy của thang đo. - Phân tích nhân tố khám phá EFA để xác định số
lượng các nhân tố ảnh hưởng đến một tập các biến đo lường và cường độ về mối quan hệ giữa mỗi
nhân tố với từng biến đo lường.
- Chạy ma trận tương quan để đo lường mức độ mạnh yếu giữa các biến độc lập, biến trung
gian và biến phụ thuộc.
- Phân tích nhân tố khẳng định CFA.
- Chạy mô hình SEM để mô hình hóa mối quan hệ đa chiều giữa các biến trong mô hình.
- Phân tích hồi quy tuyến tính để ước tính các mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến
độc lập trong mô hình.
3.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất

78
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hình 1. Mô hình nghiên cứu


3.3. Diễn giải các biến trong mô hình nghiên cứu
Bảng 1. Các biến quan trọng trong mô hình SEM

Ký hiệu Diễn giải Thang đo Nguồn

BIẾN ĐỘC LẬP

(1) Thực hành xây dựng năng lực xanh (NL)

NL1 Sáng kiến bền vững về môi trường Likert Kim và cộng sự (2017)

Tuyển dụng nhân viên có nhận thức về


NL2 Likert Rayner và Morgan (2018)
môi trường

NL3 Thích làm việc vì hiệu quả môi trường Likert Teixeira và cộng sự (2012)

NL4 Cung cấp các chương trình hoặc hội thảo Likert Tang và cộng sự (2018)

NL5 Đào tạo tích hợp Likert Tang và cộng sự (2018)

NL6 Chia sẻ kiến thức xanh Likert Marin-Garcia và Tomas (2016)

(2) Thực hành nâng cao động lực xanh (DL)

DL1 Chỉ số hiệu suất xanh Likert Harvey và cộng sự (2013)

DL2 Trách nhiệm về môi trường Likert Zhao và cộng sự (2021)

DL3 Mục tiêu quản lý môi trường Likert Tang và cộng sự (2018)

79
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

DL4 Cung cấp lợi ích về dịch vụ xanh Likert Jackson và cộng sự (2011)

Li và cộng sự (2020);
DL5 Khuyến khích tài chính Likert
Hameed và cộng sự (2021)

Deci và Ryan (2015);


DL6 Phần thưởng dựa trên sự công nhận Likert
Hameed và cộng sự (2021)

(3) Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh (TG)

TG1 Tầm nhìn phát triển rõ ràng Likert Anwar và cộng sự (2020)

Tham gia vào môi trường học hỏi lẫn


TG2 Likert Vilsmaier (2015)
nhau

Kênh truyền thông để truyền bá văn hóa


TG3 Likert Tang và cộng sự (2018)
xanh

Khuyến khích tham gia cải tiến chất


TG4 Likert Saeed và cộng sự (2019)
lượng và giải quyết các vấn đề xanh.

TG5 Tham gia vào quản lý môi trường Likert Hameed và cộng sự (2020)

BIẾN TRUNG GIAN

(4) Hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường (OCBE)

OCBE1 Cân nhắc hậu quả của hành động Likert Roy và cộng sự (2001)

Tự nguyện thực hiện các hành động và


OCBE2 Likert Ramus và Steger (2000)
sáng kiến về môi trường

Khuyến khích đồng nghiệp có ý thức bảo


OCBE3 Likert Anwar và cộng sự (2020)
vệ môi trường

Tích cực tham gia các sự kiện môi


OCBE4 Likert Paillé và cộng sự (2014)
trường

Đóng góp tích cực hình ảnh trường đại


OCBE5 Likert Anwar và cộng sự (2020)
học

Tình nguyện cho các dự án có liên quan


OCBE6 Likert Boiral và cộng sự (2015)
vấn đề môi trường

BIẾN PHỤ THUỘC

(5) Hiệu suất môi trường (HS)

HS1 Chính sách môi trường dài hạn Likert Kim và cộng sự (2017)

80
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

HS2 Thực hành tiết kiệm năng lượng Likert Jorge và cộng sự (2016)

Tiêu thụ các sản phẩm tái chế được


HS3 Likert Atlan và cộng sự (2010)
phân loại

HS4 Giảm sử dụng phương tiện cá nhân Likert Jackson và cộng sự (2011)

Đa dạng sinh học được bảo vệ khỏi sự


HS5 Likert Jorge và cộng sự (2016)
suy thoái

Tổ chức hoạt động nhằm thúc đẩy nhận


HS6 Likert Vidal-Salazar và cộng sự (2012)
thức môi trường

Nguồn: Tham khảo một số bài nghiên cứu trước đây


3.4. Chương trình máy tính
Các phân tích và kiểm định trên được hỗ trợ bởi phần mềm SPSS và công cụ Excel.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha
Bảng 2. Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha

Biến Số câu ban đầu Số câu cuối cùng Cronbach’s alpha

NL 6 3 0,793

DL 6 4 0,83

TG 5 2 0,816

OCBE 6 3 0,848

HS 6 4 0,824

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý


Tất cả các biến đều có giá trị lớn hơn 0.7, nghĩa là các nhân tố này đều có độ tin cậy cao. Như
cậy, thang đo lường này được đánh giá là rất tốt.
4.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA
Bảng 3. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA

Component

1 2 3 4 5
OCBE4 0,94 0,94
OCBE6 0,87 0,87

81
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

OCBE5 0,858 0,858


DL4 0,922
DL3 0,849
DL5 0,659
DL6 0,614
NL5 0,891
NL6 0,84
NL4 0,799
HS3 0,861
HS4 0,638
HS6 0,62
HS5 0,59

TG2 0,962

TG1 0,915

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý


Các biến quan sát được gộp thành 5 nhân tố:
● Nhân tố 1: “Thực hành xây dựng năng lực xanh” (NL) gồm 3 biến quan sát.
● Nhân tố 2: “Thực hành nâng cao động lực xanh” (DL) gồm 4 biến quan sát.
● Nhân tố 3: “Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh” (TG) gồm 2 biến quan sát.
● Nhân tố 4: “Hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường” (Hành vi công dân tổ chức đối
với môi trường) gồm 3 biến quan sát.
● Nhân tố 5: “Hiệu suất môi trường” (HS) gồm 4 biến quan sát.
4.3. Kiểm định tương quan Pearson
Bảng 4. Kết quả kiểm định tương quan Pearson

Correlations

HS OCBE DL NL TG
Pearson
HS 1 0.431** 0.464** 0.174** 0.054
Correlation
Pearson
OCBE 0.431** 1 0.528** 0,09 0.369**
Correlation

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý


Đối với biến trung gian (OCBE), có 2 biến tương quan mạnh với biến trung gian (OCBE):

82
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Thực hành nâng cao động lực xanh (DL) và Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh (TG) (|r| =
0,528 và |r| = 0,369). Trong khi biến Thực hành xây dựng năng lực xanh (NL) có sự tương quan yếu
hơn (|r| = 0,090).
Đối với biến phụ thuộc (HS), có 3 biến độc lập tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc
(HS): Thực hành nâng cao động lực xanh (DL) có sự tương quan mạnh (|r| = 0,464); Thực hành xây
dựng năng lực xanh (NL) và Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh (TG) có sự tương quan
yếu hơn (|r| = 0,174 và |r| = 0,054). Biến phụ thuộc (HS) có sự tương quan mạnh với biến trung gian
(OCBE) với |r| = 0,431 > 0,3.
4.4. Phân tích nhân tố khẳng định CFA

Hình 2. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý

83
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Bảng 5. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA

Estimate S.E. C.R. P

OCBE4 ← OCBE 1

OCBE6 ← OCBE 1,697 0,108 15,655 *** Chấp nhận

OCBE5 ← OCBE 1,14 0,092 12,38 *** Chấp nhận

DL4 ← DL 1

DL3 ← DL 0,706 0,087 8,14 *** Chấp nhận

DL5 ← DL 1,51 0,118 12,768 *** Chấp nhận

DL6 ← DL 1,671 0,132 12,634 *** Chấp nhận

NL5 ← NL 1

NL6 ← NL 0,899 0,088 10,181 *** Chấp nhận

NL4 ← NL 0,74 0,078 9,469 *** Chấp nhận

HS3 ← HS 1

HS4 ← HS 2,005 0,262 7,659 *** Chấp nhận

HS6 ← HS 0,712 0,154 4,627 *** Chấp nhận

HS5 ← HS 1,418 0,208 6,822 *** Chấp nhận

TG2 ← TG 1

TG1 ← TG 2,258 0,557 4,057 *** Chấp nhận

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý


Các chỉ số phù hợp của mô hình đều có thể chấp nhận được và đáp ứng được các quy định về
thống kê chung để tiến hành phân tích Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM).
4.5. Mô hình hồi quy tuyến tính SEM

84
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hình 3. Kết quả phân tích mô hình hồi quy tuyến tính SEM
Nguồn: Nhóm tác giả xử lý
Bảng 6. Kết quả phân tích mô hình tuyến tính SEM

Estimate S.E. C.R. P Label

OCBE ← NL -0,005 0,05 -0,094 0,926 Không chấp nhận

OCBE ← DL 0,797 0,088 9,013 *** Chấp nhận

OCBE ← TG 0,24 0,063 3,793 *** Chấp nhận

HS ← OCBE 0,323 0,053 6,113 *** Chấp nhận

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý

85
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Thực hành nâng cao động lực xanh (DL) và Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh
(TG) tác động tích cực đến nhân tố Hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường (Hành vi công
dân tổ chức đối với môi trường), trọng số β lần lượt là 0.797 và 0.240 với P-value đạt tiêu chuẩn
thống kê. Bên cạnh đó, nhân tố Hành vi của công dân tổ chức đối với môi trường (Hành vi công dân
tổ chức đối với môi trường) tác động tích cực tới Hiệu suất môi trường (HS), trọng số β = 0.323 với
P-value đạt tiêu chuẩn thống kê.
Kết luận: Các giả thuyết được chấp nhận: H2, H3, H4. Giả thuyết không được chấp nhận: H1.
4.6. Phân tích hồi quy tuyến tính
Bảng 7. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính

Coefficientsa

Model Unstandardized Standardized Coefficients


Coefficients
B Std. Error Beta t Sig.
(Constant) 2,43E-17 0,053 0 1
DL 0,467 0,056 0,467 8,363 0
1
NL 0,11 0,054 0,11 2,038 0,042
TG -0,06 0,056 -0,06 -1,077 0,282

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý


Thực hành xây dựng năng lực xanh (NL) và Thực hành nâng cao động lực xanh (DL) đều có
tác động đến nhân tố Hiệu suất môi trường (HS), trọng số β lần lượt là 0.110 và 0.467 với P-value
đạt tiêu chuẩn thống kê. Tuy nhiên, không đủ bằng chứng cho thấy mối quan hệ giữa Thực hành về
sự tham gia của nhân viên xanh (TG) với Hiệu suất môi trường (HS) do P-value > 0.05.
Kết luận: Các giả thuyết được chấp nhận: giả thuyết H5 và H6. Giả thuyết không được chấp
nhận: H7.
Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm đề xuất mô hình nghiên cứu mới sau khi hiệu chỉnh:

86
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Ghi chú: *** p < 0.001, * p < 0.05


Hình 4. Mô hình nghiên cứu mới sau khi hiệu chỉnh

Nguồn: Nhóm tác giả xử lý


Trường hợp tác động gián tiếp: Mô hình loại bỏ nhân tố: Mô hình giữ lại hai nhân tố: Thực
hành nâng cao động lực xanh (DL) và Thực hành về sự tham gia của nhân viên xanh (TG). Hai biến
độc lập này trực tiếp giải thích mối tương quan tích cực với biến trung gian Hành vi của công dân tổ
chức đối với môi trường (Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường) và gián tiếp giải thích tương
quan tích cực với biến Hiệu suất môi trường (HS).
Trường hợp tác động trực tiếp: Mô hình giữ lại hai nhân tố: Thực hành xây dựng năng lực
xanh (NL) và Thực hành nâng cao động lực xanh (DL). Hai biến độc lập này trực tiếp giải thích mối
tương quan tích cực với biến phụ thuộc Hiệu suất môi trường (HS).
5. Kết luận
5.1. Kết luận chung
Phát hiện của nghiên cứu cho thấy các yếu tố thực hành GHRM có mối tương quan với hiệu
suất môi trường và OCBE. Trong đó, hai nhân tố Thực hành nâng cao động lực xanh (DL) và Thực
hành về sự tham gia của nhân viên xanh (TG) tác động tích cực đến Hiệu suất môi trường (HS)
thông qua biến trung gian Hành vi công dân tổ chức đối với môi trường. Hai nhân tố Thực hành xây
dựng năng lực xanh (NL) và Thực hành nâng cao động lực xanh (DL) tác động trực tiếp đến Hiệu
suất môi trường (HS) một cách tích cực. Kết quả bài nghiên cứu này khá tương đồng với các nghiên
cứu trước đây, một lần nữa khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa Hành vi công dân tổ chức đối với
môi trường và hiệu suất môi trường (Alt và Spitzeck, 2016; Paillé và cộng sự, 2014; Pinzone và cộng
sự, 2016). Xét ở một khía cạnh khác, nghiên cứu góp phần vào mục tiêu xanh hóa khuôn viên trường

87
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

đại học, thông qua việc làm sáng tỏ vai trò của thực hành GHRM như một yếu tố thúc đẩy hành vi vì
môi trường của cán bộ giảng dạy trong trường đại học.
Bài nghiên cứu đề cập đến đối tượng các cán bộ giảng dạy - những người truyền tải trực tiếp
thông điệp về môi trường đến sinh viên thông qua các bài giảng, chính những sinh viên này có nhận
thức tốt về môi trường sẽ là những người hành động và chia sẻ nhận thức cho đồng nghiệp khi họ
làm việc tại các doanh nghiệp trong tương lai. GHRM cũng giúp nhân viên, giảng viên nhận thức
được việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và năng lượng tiết kiệm hơn, khuyến khích sử dụng các
sản phẩm thân thiện với môi trường… Bên cạnh đó, bộ phận quản lý nhận thức tốt về môi trường sẽ
biết cách phân công bố trí công việc một cách hợp lý, đào tạo thế hệ nhân viên làm việc tích cực với
môi trường, cuối cùng tạo thành mạng lưới trường đại học bền bền vững và phát triển.
Hiện nay, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh (UEH) đang tổ chức các chiến
dịch bảo vệ môi trường như dự án “UEH Zero Waste Campus - Đại học UEH không rác thải” với
những thông điệp vô cùng ý nghĩa. Bài nghiên cứu được hình thành trong khoảng thời gian này
nhằm đóng góp các giải pháp tích cực hướng đến xây dựng trường Đại học đa ngành và phát triển
bền vững theo định hướng phát triển của trường. Đồng thời, lan tỏa các giá trị tích cực từ UEH đến
các trường học khác tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
5.2. Đề xuất kiến nghị
Nhân viên và cán bộ giảng dạy trường đại học có thể liên hệ các vấn đề môi trường trong
chương trình giảng dạy để sinh viên được truyền tải các thông điệp và suy nghĩ về sáng kiến bảo vệ
môi trường. Các kỹ năng và chuyên môn của đội ngũ giảng viên nên được tận dụng tối đa trong việc
đưa ra các giải pháp cho các vấn đề về môi trường như nghiên cứu khoa học kỹ thuật, khảo sát phân
tích, chế tạo công cụ giảm thiểu ô nhiễm,...
Nhà trường nên thực hiện chính sách tuyển dụng và đào tạo hiệu quả. Chẳng hạn sử dụng
phương pháp phỏng vấn online nhằm hạn chế và giảm chi phí từ việc in ấn tài liệu, hồ sơ khi tuyển
chọn nhân viên, giảng viên. Đặc biệt, trong mô tả công việc cần có những yêu cầu liên quan đến bảo
vệ môi trường. Do đó, dành sự ưu tiên cho những ứng viên có ý thức bảo vệ môi trường, sử dụng tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên vì điều này không những bảo vệ môi trường mà giúp tiết kiệm các chi
phí (năng lượng điện, nước, giấy,... hoặc các chi phí vệ sinh, xử lý rác thải). Cần tổ chức các buổi
đào tạo hoặc hội thảo về chủ đề xanh hóa khuôn viên trường đại học, triển khai chỉ số đánh giá hiệu
suất xanh để khen thưởng đối với những giảng viên, nhân viên hoặc sinh viên thực hiện tốt các hoạt
động bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, lãnh đạo nhà trường có thể tham gia vào các hoạt động trao
đổi về định hướng phát triển bền vững tại các hội thảo, hội nghị quốc gia để trở thành cầu nối vững
chắc giữa cộng đồng người học và Chính phủ.
Chính phủ nên ủng hộ các trường đại học định hướng phát triển xanh và bền vững thông qua
mục tiêu xanh hoá khuôn viên và đào tạo nguồn nhân lực xanh. Bộ Giáo dục và Đào tạo nên khuyến
khích các chương trình đào tạo và các cuộc thi sáng tạo các sản phẩm bảo vệ môi trường. Nguồn
nhân lực có trình độ, kỹ năng và nhận thức tốt về môi trường tốt nghiệp từ các trường đại học xanh
sẽ đóng góp vào mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững của quốc gia, từ đó nâng cao chất lượng cuộc
sống cho mỗi người dân - hoàn thành vai trò cốt lõi của Chính phủ.
5.3. Hạn chế của đề tài nghiên cứu

88
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Trong quá trình thu thập số lượng quan sát, có thể đối tượng cung cấp thông tin chưa xác thực
dẫn đến sự sai lệch tương đối tính chính xác của dữ liệu. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn hạn chế bởi
phạm vi địa lý vì dữ liệu phân tích chỉ được khảo sát tại thành phố Hồ Chí Minh. Do đó việc phân
tích chưa được đánh giá tổng quan cụ thể và chưa mang lại kết quả đáng mong đợi vì số lượng mẫu
chưa đủ để kết luận ở một phạm vi lớn hơn.
5.4. Hướng nghiên cứu tiếp theo
Đề tài nên nghiên cứu các đối tượng đa dạng hơn ở các cấp giáo dục khác như: Tiểu học,
Trung học cơ sở, Trung học phổ thông,... hoặc từng doanh nghiệp cụ thể để đóng góp vào kho tàng
tài liệu nghiên cứu cũng như thúc đẩy các chính sách phát triển bền vững.

Danh mục tài liệu tham khảo


Altan, H. (2010). Energy efficiency interventions in UK higher education institutions. Energy Policy,
38(12), 7722-7731.
Alt, E., & Spitzeck, H. (2016). Improving environmental performance through unit level
organizational citizenship behaviors for the environment: A capability perspective. Journal of
environmental management, 182, 48-58.
Anwar, N., Mahmood, N. H. N., Yusliza, M. Y., Ramayah, T., Faezah, J. N., & Khalid, W. (2020).
Green Human Resource Management for organisational citizenship behaviour towards the
environment and environmental performance on a university campus. Journal of Cleaner
Production, 256, 120401.
Appelbaum, E., Bailey, T., Berg, P., Kalleberg, A. L., & Bailey, T. A. (2000). Manufacturing
advantage: Why high-performance work systems pay off. Cornell University Press.
Armstrong, M. (2016). Armstrong's handbook of management and leadership for HR: Developing
effective people skills for better leadership and management. Kogan Page Publishers.
Boiral, O., & Paillé, P. (2012). Organizational citizenship behaviour for the environment:
Measurement and validation. Journal of business ethics, 109(4), 431-445.
Boiral, O., Talbot, D., & Paillé, P. (2015). Leading by example: A model of organizational citizenship
behavior for the environment. Business Strategy and the Environment, 24(6), 532-550.
Borman, W. C. (2004). The concept of organizational citizenship. Current directions in psychological
science, 13(6), 238-241.
Deci, E. L., & Ryan, R. M. (2015). Self-determination theory. International Encyclopedia of the
Social & Behavioral Sciences, 2, 486-491.
DuBois, C. L., & Dubois, D. A. (2012). Strategic HRM as social design for environmental
sustainability in organization. Human resource management, 51(6), 799- 826.
Hameed, W. U., Nisar, Q. A., & Wu, H. C. (2021). Relationships between external knowledge,
internal innovation, firms’ open innovation performance, service innovation and business
performance in the Pakistani hotel industry. International Journal of Hospitality Management,

89
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

92, 102745.
Hameed, Z., Khan, I. U., Islam, T., Sheikh, Z., & Naeem, R. M. (2020). Do green HRM practices
influence employees' environmental performance?. International Journal of Manpower.
Harvey, G., Williams, K., & Probert, J. (2013). Greening the airline pilot: HRM and the green
performance of airlines in the UK. The International Journal of Human Resource Management,
24(1), 152-166.
Jackson, S. E., Renwick, D. W., Jabbour, C. J., & Muller-Camen, M. (2011). State of the-art and
future directions for green human resource management: Introduction to the special issue.
German Journal of Human Resource Management, 25(2), 99-116.
Jorge, M. L., Madueño, J. H., Calzado, Y., & Andrades, J. (2016). A proposal for measuring
sustainability in universities: a case study of Spain. International Journal of Sustainability in
Higher Education.
Kim, A., Kim, Y., Han, K., Jackson, S. E., & Ployhart, R. E. (2017). Multilevel influences on
voluntary workplace green behavior: Individual differences, leader behavior, and coworker
advocacy. Journal of management, 43(5), 1335-1358.
Li, W., Bhutto, T. A., Xuhui, W., Maitlo, Q., Zafar, A. U., & Bhutto, N. A. (2020). Unlocking
employees’ green creativity: The effects of green transformational leadership, green intrinsic, and
extrinsic motivation. Journal of Cleaner Production, 255, 120229.
Marin-Garcia, J. A., & Tomas, J. M. (2016). Deconstructing AMO framework: A systematic review.
Intangible Capital, 12(4), 1040-1087.
Paillé, P., Chen, Y., Boiral, O., & Jin, J. (2014). The impact of human resource management on
environmental performance: An employee-level study. Journal of Business ethics, 121(3),
451-466.
Pinzone, M., Guerci, M., Lettieri, E., & Redman, T. (2016). Progressing in the change journey
towards sustainability in healthcare: the role of ‘Green’ HRM. Journal of Cleaner Production,
122, 201-211
Ramus, C. A., & Steger, U. (2000). The roles of supervisory support behaviors and environmental
policy in employee “Ecoinitiatives” at leading-edge European companies. Academy of
Management journal, 43(4), 605-626.
Rayner, J., & Morgan, D. (2018). An empirical study of ‘green’ workplace behaviours: Ability,
motivation and opportunity. Asia Pacific Journal of Human Resources, 56(1), 56-78.
Renwick, D. W., Jabbour, C. J., Muller-Camen, M., Redman, T., & Wilkinson, A. (2016).
Contemporary developments in Green (environmental) HRM scholarship. The International
Journal of Human Resource Management, 27(2), 114-128.
Roy, M. J., Boiral, O., & Lagace, D. (2001). Environmental commitment and manufacturing
excellence: a comparative study within Canadian industry. Business Strategy and the
Environment, 10(5), 257-268.
Saeed, B. B., Afsar, B., Hafeez, S., Khan, I., Tahir, M., & Afridi, M. A. (2019). Promoting employee's

90
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

proenvironmental behavior through green human resource management practices. Corporate


Social Responsibility and Environmental Management, 26(2), 424-438.
Shah, M. (2019). Green human resource management: Development of a valid measurement scale.
Business Strategy and the Environment, 28(5), 771-785.
Tang, G., Chen, Y., Jiang, Y., Paillé, P., & Jia, J. (2018). Green human resource management
practices: scale development and validity. Asia Pacific Journal of Human Resources, 56(1),
31-55.
Teixeira, A. A., Jabbour, C. J. C., & de Sousa Jabbour, A. B. L. (2012). Relationship between green
management and environmental training in companies located in Brazil: A theoretical framework
and case studies. International Journal of Production Economics, 140(1), 318-329.
Vidal‐Salazar, M. D., Cordón‐Pozo, E., & Ferrón‐Vilchez, V. (2012). Human resource management
and developing proactive environmental strategies: The influence of environmental training and
organizational learning. Human Resource Management, 51(6), 905-934.
Vilsmaier, U., Engbers, M., Luthardt, P., Maas-Deipenbrock, R. M., Wunderlich, S., & Scholz, R. W.
(2015). Case-based mutual learning sessions: knowledge integration and transfer in
transdisciplinary processes. Sustainability science, 10(4), 563-580.
Zhao, H., Zhou, Q., He, P., & Jiang, C. (2021). How and when does socially responsible HRM affect
employees’ organizational citizenship behaviors toward the environment?. Journal of Business
Ethics, 169(2), 371-385.
Zientara, P., & Zamojska, A. (2018). Green organizational climates and employee proenvironmental
behaviour in the hotel industry. Journal of Sustainable Tourism, 26(7), 1142-115.

91
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

NGHIÊN CỨU VỀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HÀNH VI VÀ


NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VIỆT
VỀ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG TÚI VẢI THAY CHO TÚI NILON
Nguyễn Văn Hưng
Nguyễn Phương Uyên
Phạm Ngọc Khánh Ngân
Phan Thị Như Quỳnh
Huỳnh Ngọc Bích
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: hungnguyen.31201020310@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Ngày nhận: 16/12/2022 Ngày nay, túi vải được xem là người bạn đồng hành trong
Ngày gửi lại: 05/03/2023 hoạt động sinh hoạt của người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, hành
Ngày duyệt: 06/03/2023 vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon chưa được đông đảo người tiêu
dùng Việt Nam quan tâm và thực sự đủ sự kiên quyết từ bỏ một sản
phẩm phổ biến như túi nilon để tiêu thụ một sản phẩm thân thiện với
môi trường như túi vải. Thông qua việc sử dụng các cơ sở lý thuyết,
các kết quả nghiên cứu trước đây, phương pháp nghiên cứu định
lượng, mô hình hồi quy thứ bậc, xây dựng mô hình nghiên cứu đề
xuất kết hợp giữa hai mô hình TRA và TPB của Ajzen và Fishbein
(1975), công trình nghiên cứu này sẽ cung cấp cho người đọc một
Từ khoá: góc nhìn tổng thể về các hành vi, nhận thức liên quan đến lĩnh vực
mô hình TRA và TPB,
tiêu dùng xanh,
tiêu dùng xanh, trọng tâm là các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của
yếu tố tác động đến hành vi và người tiêu dùng Việt Nam cho vấn đề sử dụng túi vải thay cho túi
nhận thức người tiêu dùng nilon.

1. Giới thiệu
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Ngày nay, việc sử dụng túi nilon đang ngày càng trở nên phổ biến hơn bởi tính sẵn có, tính
tiện lợi và giá thành rất rẻ của nó. Sự phổ biến của túi nilon có thể dễ dàng được nhận thấy khi chúng
ta nhìn vào mức độ có mặt của những chiếc túi trong chính cuộc sống sinh hoạt của mình. Túi nilon
xuất hiện dày đặc trong đa số hoạt động tiêu dùng – sinh hoạt – sản xuất như dùng để thu gom rác,
đóng gói hàng hoá và thực phẩm. Tác hại nguy hiểm nhất của túi nilon tới môi trường chính là tính
chất khó phân huỷ trong điều kiện tự nhiên, do đó các nước trên thế giới tốn rất nhiều chi phí cho
việc xử lý chúng. Vì thế, việc sử dụng túi vải khi đi mua sắm thay cho túi nilon đang được tuyên
truyền và phát động hết sức mạnh mẽ nhằm góp phần bảo vệ môi trường và hướng đến xu hướng
“tiêu dùng xanh”.
1.2. Lý do nghiên cứu

92
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Đứng trước các nguy cơ về ô nhiễm môi trường, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đang
khuyến khích sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường nhằm hướng tới hành vi “tiêu dùng
xanh” bền vững. Mặc dù số lượng các bộ phận hướng tới mục tiêu này chưa chiếm đa số trong tổng
thể hành vi tiêu dùng và sinh hoạt nhưng “tiêu dùng xanh” đã và đang được đẩy mạnh công tác tuyên
truyền với mục đích nâng cao nhận thức của người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của nó đối với
môi trường sống và sức khỏe của con người, tiến tới thay đổi nhận thức và hành động của toàn xã
hội trong hoạt động bảo vệ môi trường. Trên cơ sở đó, công trình tập trung phân tích các yếu tố tác
động đến hành vi và nhận thức của người tiêu dùng Việt trong việc sử dụng túi vải, từ đó cung cấp
những góc nhìn tổng quan về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tiêu dùng xanh nhằm khuyến khích
người tiêu dùng sử dụng túi vải thay cho túi nilon.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu nêu lên vấn đề sử dụng túi vải thay cho túi nilon của người tiêu dùng Việt
Nam. Cụ thể đề tài trả lời cho các câu hỏi sau:
- Thói quen sử dụng túi nilon của người tiêu dùng được mô tả như thế nào?
- Yếu tố nào và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến hành vi và nhận thức sử dụng túi vải
thay cho túi nilon?
- Giải pháp thúc đẩy người tiêu dùng thay đổi thói quen sử dụng túi nilon, hướng đến mục
tiêu “tiêu dùng xanh” lâu dài trong hiện tại và tương lai?
1.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hành vi, nhận thức bảo vệ môi trường của người tiêu dùng nói chung
và hành vi tự mang túi vải mua sắm thay cho túi nilon nói riêng. Từ đó, đưa ra những dự đoán về
hành vi và nhận thức của người tiêu dùng Việt trong việc sử dụng túi vải trong tương lai.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Nhóm tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp của tác giả ThS. Nguyễn Thị Phương Linh. Kết quả thu
được tổng số 536 phiếu khảo sát hợp lệ ở cả hai hình thức. Thời gian thực hiện công trình nghiên
cứu từ 11/2021 đến 9/2022.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu được tiến hành chủ yếu bằng phương pháp nghiên cứu định lượng. Bao gồm
phân tích thống kê mô tả, độ tin cậy thang đo, kết hợp hai biến và biểu đồ, xây dựng mô hình hồi quy
thứ bậc. Thêm vào đó, lý thuyết về mô hình thuyết hành động hợp lý (TRA) và lý thuyết hành vi
hoạch định (TPB) cũng được tích hợp để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu được nêu trên.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Cơ sở lý thuyết
Trong phạm vi nghiên cứu của công trình, nhóm tác giả cung cấp một số khái niệm chủ chốt,
tiệm cận với mục tiêu nghiên cứu như định nghĩa về tiêu dùng xanh, cấu tạo vật lý của túi nilon, tác
hại của túi nilon đến môi trường và cung cấp những thông tin về ưu điểm của túi vải so với túi nilon.
Ngoài ra, công trình còn đề cập các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi chung của

93
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

người tiêu dùng thông qua các định nghĩa về nhận thức của người tiêu dùng, các ảnh hưởng khách
quan và chủ quan đến quyết định sử dụng túi vải khi mua sắm của người tiêu dùng.
2.2. Các nghiên cứu trước đây
Để có được một nền tảng cơ sở lý luận vững chắc, nhóm tác giả đã cung cấp một số những
nghiên cứu trước đây trong quá trình xây dựng và hoàn thiện công trình. Một số nghiên cứu tiêu biểu
như sau:
- Bài nghiên cứu “Thái độ của người tiêu dùng đối với việc sử dụng túi nilon và túi vải” của
tác giả Erkan Ari và Veysel Yilmaz đã đưa ra nhận định như sau: Hành vi sử dụng túi nilon sẽ được
giảm đáng kể nếu như người tiêu dùng có nhận thức về tác động tiêu cực của túi nilon đối với môi
trường và chịu nhiều ảnh hưởng bởi những áp lực từ xã hội.
- Một nghiên cứu tại Syunik, Armenia về thói quen sử dụng túi vải của người mua sắm “Sáng
kiến “Giảm thiểu, tái sử dụng! Trở thành Bạn của Thiên nhiên” cho rằng 93% khách hàng chỉ sử
dụng túi nilon nhẹ và chỉ 7% còn lại thường xuyên mang túi có thể tái sử dụng khi đi mua sắm. Lý
do chính cho tỷ lệ sử dụng túi tái sử dụng thấp là sự bất tiện.
2.3. Mô hình nghiên cứu liên quan
2.3.1. Mô hình thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action)
Mô hình thuyết hành động hợp lý (TRA) do Fishbein và Ajzen xây dựng năm 1975. Mô hình
cho rằng ý định hành vi dẫn đến hành vi và ý định được quyết định bởi thái độ cá nhân đối hành vi,
cùng sự ảnh hưởng của chuẩn chủ quan xung quanh việc thực hiện các hành vi đó (Fishbein và
Ajzen, 1975). Trong đó, Thái độ và Chuẩn chủ quan có tầm quan trọng trong ý định hành vi.

Hình 1. Mô hình thuyết hành động hợp lý TRA

94
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

2.3.2. Lý thuyết hành vi hoạch định TPB (Theory of Planned Behavior)


Thuyết hành vi dự định (TPB) được phát triển từ lý thuyết hành vi hợp lý (Ajzen và Fishbein,
1975), lý thuyết này được tạo ra do sự hạn chế của lý thuyết trước về việc cho rằng hành vi của con
người là hoàn toàn do kiểm soát lý trí. Theo lý thuyết này, các cá nhân có cơ sở và động lực trong
quá trình ra quyết định của họ và đưa ra một sự lựa chọn hợp lý giữa các giải pháp, công cụ tốt nhất
để phán đoán hành vi là ý định và hành vi được xác định bởi ý định thực hiện hành vi (BI) của một
người.

Hình 2. Mô hình lý thuyết hành vi hoạch định TPB


2.3.3. Mô hình nghiên cứu đề xuất trong công trình

Hình 3. Mô hình nghiên cứu đề xuất


2.4. Giả thuyết nghiên cứu
2.4.1. Các giả thuyết
H1: Nam giới có hành vi sử dụng túi vải thay túi nilon nhiều hơn nữ giới.

95
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

H2: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thực hiện nhiều hơn khi tuổi càng cao.
H3: Những người có trình độ học vấn từ Cao Đẳng/Đại học trở lên sẽ có xu hướng sử dụng
túi vải nhiều hơn.
H4: Những người nội trợ có hành vi sử dụng túi vải nhiều hơn học sinh, sinh viên, nhân viên
kinh doanh, công nhân viên chức và freelancer.
H5: Những người độc thân hoặc đã ly hôn có xu hướng sử dụng túi vải khi mua sắm nhiều
hơn những người đã kết hôn.
H6: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thực hiện nhiều hơn với mỗi số thành
viên trong gia đình tăng lên.
H7: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thực hiện nhiều hơn khi thu nhập càng
cao.
H8: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thể hiện nhiều hơn nếu người tiêu
dùng có dự định sử dụng chúng khi mua sắm.
H9: Người tiêu dùng sử dụng túi vải thay cho túi nilon nhiều hơn khi họ có thái độ tích cực
trong việc sử dụng túi vải khi đi mua sắm.
H10: Người tiêu dùng sử dụng túi vải thay cho túi nilon nhiều hơn khi họ có quan điểm tích
cực trong việc sử dụng túi vải khi đi mua sắm.
H11: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thể hiện nhiều hơn nếu người tiêu
dùng bị ảnh hưởng xã hội bởi những cá nhân khác.
H12: Người tiêu dùng sử dụng túi vải thay cho túi nilon nhiều hơn khi họ nhận thức được
hành vi kiểm soát sử dụng túi nilon.
H13:Người tiêu dùng sử dụng túi vải thay cho túi nilon nhiều hơn khi họ nhận thức được hậu
quả mà túi nilon gây ra cho sức khỏe và môi trường.
H14: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thực hiện ít hơn nếu như mọi người
có nhận thức về trách nhiệm xã hội.
H15: Hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon sẽ được thể hiện nhiều hơn nếu như mọi
người có nhận thức về trách nhiệm cá nhân
2.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng
Bảng 1. Đặc điểm nhân khẩu học
STT Tên biến Diễn giải
1 Gender Giới tính Nam
Nữ
2 Age Độ tuổi Dưới 20
Từ 20 - 29
Từ 30 - 39

96
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Từ 40 - 49
Từ 50 - 59
Trên 60
3 Edu Trình độ học vấn Trung học phổ thông
Cao đẳng/Đại học
Thạc sĩ/Tiến sĩ
Khác
4 Job Nghề nghiệp Học sinh/Sinh viên
Nhân viên kinh doanh
Công nhân viên chức
Nội trợ
Freelancer
5 Marital Tình trạng hôn nhân Độc thân
Kết hôn
Ly hôn
Khác
6 Family Số lượng thành viên 1
gia đình
Từ 2 - 4
Trên 4
7 Income Thu nhập Dưới 6 triệu VND
Từ 6 - 10 triệu VND
Từ 10 - 20 triệu VND
Từ 20 - 30 triệu VND
Từ 30 - 40 triệu VND
Trên 40 triệu VND

Bảng 2. Các nhân tố ảnh hưởng

STT Tên biến Diễn giải

behavior_cashregister Tôi sẽ dùng túi vải nhiều hơn khi túi nilon không miễn phí tại quầy thanh
1
toán

2 behavior_discount Tôi sẽ dùng túi vải nhiều hơn nếu nhận được ưu đãi khi mua sắm với túi vải

3 behavior_using Tôi luôn mang theo túi vải khi mua sắm

4 intention_buying Tôi dự định sẽ mua và dùng túi vải khi mua sắm

5 intention_continue Tôi dự định sẽ tiếp tục duy trì thói quen sử dụng túi vải trong tương lai

6 intention_recommend Tôi dự định sẽ giới thiệu cho mọi người về việc sử dụng túi vải

97
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

7 attitude_collect Tôi thích thu thập túi nilon miễn phí khi mua sắm

8 attitude_worthwhile Tôi thấy xứng đáng khi mang túi vải khi mua sắm

9 attitude_barehands Tôi cho rằng cầm những món đồ mua sắm bằng tay là không cần thiết

subjectnorm_influencer Những người ảnh hưởng đến hành vi của tôi nghĩ rằng tôi nên mang theo
10
túi vải khi mua sắm

subjectnorm_friend Những người bạn thân của tôi cho rằng tôi nên sử dụng túi vải khi đi mua
11
sắm

subjectnorm_important Hầu hết những người quan trọng đối với tôi đều nghĩ rằng tôi nên mang
12
theo túi vải khi đi mua sắm

pbc_advice Tôi sẽ sử dụng túi vải khi đi mua sắm mặc dù bạn bè khuyên tôi không nên
13
sử dụng vì nó bất tiện

14 pbc_dependent Tôi hoàn toàn kiểm soát việc sử dụng túi vải khi đi mua sắm

15 pbc_afford Tôi đủ khả năng chi trả các sản phẩm túi vải để sử dụng khi mua sắm

16 awareness_evironment Túi nilon gây hại đến môi trường

17 awareness_cancer Túi nilon làm tăng nguy cơ mắc ung thư

18 awareness_animals Túi nilon gây hại cho động vật trên cạn

19 awareness_air Chất thải túi nilon thải khí độc vào không khí

20 respon_obligation Tôi có trách nhiệm phải mang túi vải khi mua sắm

21 respon_shopping Mang túi vải khi mua sắm là hành vi đạo đức

22 personalnorm_obligation Mọi công dân có nghĩa vụ tránh sử dụng túi nilon

23 personalnorm_government Tôi cảm thấy có nghĩa vụ tuân thủ quy định hạn chế túi nilon của chính phủ

personalnorm_social Trừ khi nhiều người tuân thủ theo quy định hạn chế, tôi không có trách
24
nhiệm phải tuân thủ

3. Kết quả nghiên cứu


3.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa hành vi và nhận thức của người tiêu dùng về vấn đề sử dụng
túi vải thay cho túi nilon thông qua các bảng, biểu đồ
3.1.1. Giới tính và hành vi sử dụng túi vải

98
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 1. Giới tính và hành vi sử dụng túi vải khi mua sắm (%)
Kết quả:
- Mức “đồng ý” đều chiếm tỉ trọng cao nhất ở cả nam và nữ.
- Sự chênh lệch ở mức “trung lập” cho thấy rằng nam giới sẽ bàng quan với hành vi sử dụng
túi vải thay thế túi nilon khi mua sắm.
- Sự chênh lệch ở mức “hoàn toàn đồng ý”: Nữ giới sẽ sẵn lòng thay đổi hành vi của mình để
ủng hộ cho những trào lưu bảo vệ môi trường.
Bài nghiên cứu năm 2013 của tác giả Bridget Brennan: “The Real Reason Women Shop More
Than Men”. Sự bắt mắt, đa dạng trong kiểu dáng và tính chất tiện lợi khi có thể tái sử dụng nhiều lần
là một trong những ưu điểm khiến nữ giới có xu hướng xuất hiện ý định thay đổi hành vi tiêu dùng
truyền thống (sử dụng túi nilon). Chính những ưu điểm của túi vải và sở thích của nữ giới đã tạo nên
sự chênh lệch tỷ trọng “hoàn toàn đồng ý” giữa hai giới nam và nữ.
Kết luận: Người tiêu dùng ở cả hai giới đều ủng hộ cho hành vi mang theo túi vải khi mua
sắm. Tuy nhiên, nữ giới có xu hướng ủng hộ ở một thái độ quyết liệt hơn nam giới. So với một bộ
phận nam giới vẫn còn băn khoăn cho việc thay đổi hành vi thì nữ giới có có mức sẵn lòng cao hơn
hẳn trong việc tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường.
3.1.2. Giới tính và khả năng mua các sản phẩm túi vải

99
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 2. Giới tính và kiểm soát hành vi nhận thức: Tôi đủ khả năng chi trả các sản phẩm túi vải để
sử dụng khi đi mua sắm
Kết quả:
- Sự chênh lệch không đáng kể về tỉ lệ phần trăm của hai giới trong bảng thống kê ở dưới biểu
đồ.
- Cả hai giới đều có 1.3% cá nhân “hoàn toàn không đồng ý”, 4.6% nam và 6.5% nữ “không
đồng ý” với quan điểm trên.
- Những cá nhân chọn mức “trung lập” chiếm tỉ lệ đáng kể ở cả hai giới.
- Các mức “đồng ý” và “hoàn toàn đồng ý” chiếm đa số trong câu trả lời của mệnh đề này.
Tuy nhiên, phần trăm nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn nữ giới ở mức “hoàn toàn đồng ý”. Nghiên cứu
"Sự khác biệt về giới tính trong phong cách ra quyết định của người tiêu dùng Đức" (2004) của tác
giả Vincent-Wayne Mitchell và Gianfranco Walsh đã chỉ ra rằng nữ giới sẽ lựa chọn và cân nhắc kĩ
hơn nam giới khi ra quyết định mua hàng.
Kết luận: Mức ngân sách chi trả cho một sản phẩm túi vải không tạo nên sự khác biệt trong
hành vi sử dụng túi vải giữa hai giới nam nữ. Hầu hết, người tiêu dùng cho rằng giá bán của một
chiếc túi vải sẽ không ảnh hưởng đến hành vi sử dụng túi vải của họ, đặc biệt là đối với nam giới.
3.1.3. Thu nhập và thái độ thích thu thập túi nilon miễn phí

100
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 3. Thu nhập và thái độ thu thập túi nilon miễn phí khi đi mua sắm (%)
Kết quả:
- Mức đồng ý trở lên đều lớn hơn 65% ở cả sáu nhóm thu nhập khác nhau.
- Nhóm thu nhập từ dưới 6 triệu đến 20-30 triệu có phần nhỏ nhóm đối tượng được khảo sát
không đồng ý và trung lập với thái độ thu thập túi nilon miễn phí.
- Tỉ lệ tán thành ở nhóm thu nhập 30-40 triệu và trên 40 triệu khá cao chiếm trên 88%.
Kết luận: Sự phân hóa về thu nhập không ảnh hưởng quá lớn đến thái độ thu thập túi nilon.
3.1.4. Nhóm thu nhập và hành vi sử dụng túi vải

Biểu đồ 4. Nhóm thu nhập và hành vi sử dụng túi vải (%)


Kết quả:

101
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

- Mức “Đồng ý” và “Hoàn toàn đồng ý” với “hành vi sử dụng túi vải khi mua sắm” chiếm tỉ
trọng rất lớn ở cả ba nhóm thu nhập (đều hơn 70% câu trả lời), đồng nghĩa với việc hầu hết các
nhóm thu nhập khác nhau ủng hộ hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon.
- “Đồng ý” luôn ở tỷ trọng cao nhất, thấp nhất là “Không đồng ý” hoặc “Hoàn toàn không
đồng ý”.
- Tỷ trọng ở từng mức độ của ba nhóm cũng không chênh lệch đáng kể.
Kết luận: Sự khác biệt về thu nhập sẽ không tác động đáng kể đến hành vi sử dụng túi vải khi
mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam.

Biểu đồ 5. Bằng cấp và nhận thức cá nhân: phải tránh sử dụng túi nilon (%)
3.1.5. Bằng cấp và trách nhiệm xã hội
Kết quả:
- Tổng mức tỷ lệ “Đồng ý” và “Hoàn toàn đồng ý” đều lớn hơn 60%” ở các nhóm bằng cấp.
- Khác biệt so với nhóm “Trung học” và “Đại học/Cao đẳng”, nhóm bằng cấp thạc sĩ và khác
có tổng tỉ lệ “Đồng ý” và “Hoàn toàn đồng ý” tuyệt đối (100%), từ đó cho thấy bằng cấp và trách
nhiệm xã hội: “Phải tránh sử dụng túi nilon” có mối tương quan thuận chiều.
Kết luận: Trình độ học vấn có tác động thuận chiều đến nhận thức của người tiêu dùng Việt
về trách nhiệm xã hội cho vấn đề “Mọi người đều phải có trách nhiệm xã hội trong việc hạn chế sử
dụng túi nilon”.
3.1.6. Nghĩa vụ bảo vệ môi trường bằng cách sử dụng túi vải có liên quan đến nhận thức về
những hậu quả tiêu cực của nilon hay không?

102
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 6. Mối liên hệ giữa trách nhiệm cá nhân và nhận thức hậu quả
Kết quả:
- Người tiêu dùng Việt Nam có nhận thức cao về vấn đề bảo vệ môi trường và cho rằng họ có
trách nhiệm và nghĩ rằng “tiêu dùng xanh” là một hành vi bắt buộc.
- Tọa độ của các điểm “trung lập”, “đồng ý”, “hoàn toàn đồng ý” ở đường đỏ (138, 169, 134)
gấp xấp xỉ 9 lần so với tọa độ các điểm tương tự ở đường xanh (16, 19, 17), từ đó cho thấy nhận thức
hậu quả về tác động của túi nilon đến môi trường di chuyển song hành với nhận thức về trách nhiệm
của việc “tiêu dùng xanh” của người tiêu dùng Việt Nam.
Kết luận: Khi người tiêu dùng Việt Nam nhận thức rõ về những hậu quả mà túi nilon gây ra
cho môi trường, họ sẽ nâng cao nhận thức của bản thân liên quan đến trách nhiệm cá nhân đối với
hành vi “tiêu dùng xanh”.
3.2. Xây dựng mô hình hồi quy đo lường mức độ tương quan giữa hành vi và nhận thức của
người tiêu dùng Việt về vấn đề sử dụng túi vải thay cho túi nilon
3.2.1. Intention_recommend ~ age_1 + gender + attitude_worthwhile + personalnorm_obligation +
awareness_environment_air_1

Bảng 3. Bảng Parameter Estimates của mô hình hồi quy thứ nhất

Parameter Estimates

Estimate Sig

[intention_recommend = 1] -6.074 0.000

[intention_recommend = 2] -3.413 0.000


Threshold
[intention_recommend = 3] -0.363 0.251

[intention_recommend = 4] 2.363 0.000

103
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Location age 0.090 0.000

[gender = 1] -1.480 0.000

[gender = 2] 0.000 -

[attitude_worthwhile = 1] -2.704 0.062

[attitude_worthwhile = 2] -1.450 0.003

[attitude_worthwhile = 3] -1.623 0.000

[attitude_worthwhile = 4] -0.774 0.000

[attitude_worthwhile = 5] 0.000 -

[personalnorm_obligation = 1] -3.398 0.000

[personalnorm_obligation = 2] -1.459 0.042

[personalnorm_obligation = 3] -1.075 0.000

[personalnorm_obligation = 4] -0.469 0.013

[personalnorm_obligation = 5] 0.000 -

[awareness_environment = 0] 1.178 0.003

[awareness_environment = 1] 0.000 -

[awareness_air_1 = 0] -0.636 0.097

[awareness_air_1 = 1] 0.000 -

a. Kết quả hồi quy


- Khi tuổi càng cao, người tiêu dùng sẽ càng sẵn lòng để chia sẻ và khuyến khích mọi người
xung quanh ủng hộ việc sử dụng túi vải khi mua sắm. Tuy nhiên, có thể thấy log-odd cũng không
quá lớn. Điều này cho thấy phải có sự cách biệt về tuổi tác đủ lớn ta mới có thể nhận ra sự khác biệt
trong mức độ sẵn sàng chia sẻ trải nghiệm của người tiêu dùng.
- So với nam giới, nữ giới thoải mái hơn cho dự định sẽ đề xuất các hành vi “tiêu dùng xanh”
cho những người xung quanh.
- Khi người tiêu dùng cho rằng việc sử dụng túi vải là một trải nghiệm xứng đáng, họ có xu
hướng chia sẻ và mong muốn những người thân của mình sẽ có những trải nghiệm tích cực tương tự.
- Khi người tiêu dùng mong đợi xã hội phải hành động vì tiêu dùng xanh, họ sẽ nỗ lực hơn
trong việc đề xuất dự định cho những người xung quanh về việc sử dụng túi vải thay cho túi nilon.
- Nhận thức được hậu quả của túi nilon gây ra, người tiêu dùng sẽ có dự định sử dụng túi vải,
cũng như sẽ giới thiệu hành vi này đến những người thân xung quanh.
b. Mô hình hồi quy cuối cùng

104
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

3.2.2. Intention_continue ~ behavior_using + pbc_afford + personalnorm_social

Bảng 4. Bảng Parameter Estimates của mô hình hồi quy thứ hai

Parameter Estimates

Estimate Sig

[intention_continue = 1] -8.389 0.000

[intention_continue = 2] -5.706 0.000


Threshold
[intention_continue = 3] -2.832 0.000

[intention_continue = 4] -0.159 0.534

[behavior_using = 1] 0.000 0.007

[behavior_using = 2] -0.764 0.000

[behavior_using = 3] -0.269 0.000

[behavior_using = 4] 0.914 0.000

[behavior_using = 5] 2.021 -

[pbc_afford = 1] 0.000 0.006

[pbc_afford = 2] 1.146 0.011

Location [pbc_afford = 3] 1.479 0.004

[pbc_afford = 4] 1.580 0.010

[pbc_afford = 5] 2.126 -

[personalnorm_social = 1] 0.000 0.010

[personalnorm_social = 2] -0.655 0.000

[personalnorm_social = 3] 2.127 0.002

[personalnorm_social = 4] 2.800 0,399

[personalnorm_social = 5] 2.968 -

105
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

a. Kết quả
- Xét mức ý nghĩa: Mức ý nghĩa của mô hình này khá tốt (đa số giá trị sig. đều nhỏ hơn 0.1).
Ngoại trừ mức độ 4 của biến PN3 (0.399) nên nhóm nghiên cứu quyết định bỏ biến này ra khỏi mô
hình.
- Người tiêu dùng có hành vi sử dụng túi vải ở tần suất dày đặc có khả năng nhiều hơn trong
việc tiếp tục, duy trì việc sử dụng túi vải. Đối với người tiêu dùng không hoặc ít sử dụng túi vải, họ ít
tiếp tục ý định sử dụng túi vải trong tương lai.
- Khi con người cảm thấy vấn đề chi trả ngân sách cho việc trang bị sản phẩm thân thiện với
môi trường như túi vải là không đáng kể, họ sẽ tiếp tục và duy trì thói quen lành mạnh này trong
tương lai.
b. Mô hình hồi quy cuối cùng

4. Kết luận
4.1. Kết luận các nội dung nghiên cứu
Công trình đã sử dụng mô hình hồi quy thứ bậc và một số biểu đồ dựa trên nền tảng lý thuyết
của mô hình nghiên cứu đề xuất, kết hợp với một số công tác kiểm định quan trọng như đánh giá độ
tin cậy và độ giá trị của nguồn dữ liệu, kiểm định Cronbach's Alpha. Dưới đây là các kết luận được
đúc kết trong quá trình nghiên cứu của nhóm tác giả:
- Phần lớn tiêu dùng ở cả hai giới đều ủng hộ cho hành vi mang theo túi vải khi mua sắm (xu
hướng ủng hộ cao hơn ở nữ giới).
- Mức ngân sách chi trả cho một sản phẩm túi vải không tạo nên sự khác biệt trong hành vi sử
dụng túi vải giữa hai giới nam nữ, đặc biệt là đối với nam giới.
- Sự phân hóa về thu nhập không tác động quá nhiều đến thái độ thu thập túi nilon khi mua
sắm.
- Sự khác biệt về thu nhập không tác động đáng kể đến hành vi sử dụng túi vải khi mua sắm
của người tiêu dùng Việt Nam.
- Trình độ học vấn có tác động đến nhận thức của người tiêu dùng Việt về trách nhiệm xã hội
đối với “tiêu dùng xanh”
- Nhận thức về trách nhiệm cá nhân đối với hành vi “tiêu dùng xanh” và nhận thức hậu quả về
tác hại của túi nilon gây ra cho môi trường có mối quan hệ thuận chiều.
- Khi tuổi càng cao, người tiêu dùng càng sẵn lòng để chia sẻ và khuyến khích mọi người
xung quanh ủng hộ việc sử dụng túi vải khi mua sắm.
- Nữ giới thường có dự định sẽ đề xuất các hành vi “tiêu dùng xanh” cho những người xung
quanh nhiều hơn so với nam giới.

106
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

- Khi người tiêu dùng cho rằng việc sử dụng túi vải là một trải nghiệm xứng đáng, họ có xu
hướng chia sẻ cho những người thân của mình về hành vi sử dụng túi vải này.
- Khi người tiêu dùng mong đợi xã hội phải có trách nhiệm trong vấn đề sử dụng túi vải thay
cho túi nilon, họ sẽ cố gắng tạo động lực và khuyến khích xã hội thực hiện hành vi “tiêu dùng xanh”
đó.
- Người tiêu dùng sẽ có dự định sử dụng túi vải thay cho túi nilon nhiều hơn khi họ nhận thức
được hậu quả của túi nilon gây ra cho môi trường.
- Người tiêu dùng có hành vi sử dụng túi vải ở tần suất dày đặc sẽ có xu hướng tiếp tục sử
dụng túi vải. Đối với người tiêu dùng không hoặc ít sử dụng túi vải, họ ít tiếp tục sử dụng túi vải
trong tương lai.
- Khi người tiêu dùng không bị tác động bởi vấn đề chi trả cho việc mua túi vải, họ sẽ tiếp tục
và duy trì hành vi sử dụng túi vải trong tương lai.
4.2. Đóng góp của nghiên cứu
Thứ nhất, kết hợp biểu đồ minh họa và mô hình hồi quy để xác định mối quan hệ giữa hành vi
và nhận thức của người tiêu dùng về vấn đề sử dụng túi vải thay cho túi nilon. Từ đó cho thấy rằng
có sự chênh lệch rõ ràng giữa những người có giới tính, độ tuổi, thu nhập, bằng cấp, thói quen tiêu
dùng khác nhau thì hành vi, nhận thức cá nhân cũng sẽ khác nhau.
Thứ hai, bài nghiên cứu đưa ra cho người đọc góc nhìn tổng quan của người tiêu dùng Việt
Nam về tầm ảnh hưởng của sử dụng túi nilon gây ô nhiễm môi trường hiện nay. Bài viết thể hiện
được người dân Việt đều có nhận thức về sức ảnh hưởng của túi nilon gây ra những nguy hại cho đời
sống con người như thế nào.
Cuối cùng, đề xuất những giải pháp hạn chế việc sử dụng túi nilon trong đời sống thường
nhật. Không chỉ nâng cao nhận thức của mỗi người dân mà còn cần có sự nỗ lực từ phía các doanh
nghiệp, cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ để cải thiện thói quen tiêu dùng và đồng thời bảo vệ
môi trường sống của chúng ta.

5. Kiến nghị
5.1. Các hướng có thể tiếp tục nghiên cứu mở rộng
Nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng dữ liệu sơ cấp để đo đạc và cập nhật các số liệu liên quan. Từ
đó, so sánh với bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp để đối chiếu sự khác biệt về mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng túi vải thay cho túi nilon và mang lại những
giá trị học thuật tổng quát hơn về thực trạng “tiêu dùng xanh” tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, phạm vi các yếu tố tác động đến hành vi tiêu dùng cũng được mở rộng hơn. Cụ
thể, nhóm tác giả định hướng phân tính thêm một số yếu tố mới như: nhận thức về môi trường, đặc
tính sản phẩm xanh, giá sản phẩm xanh, tính sẵn có của sản phẩm, ảnh hưởng của xã hội... Thông
qua một số nội dung mở rộng như trên, công trình sẽ được phát triển theo hướng hoàn thiện hơn
nhằm cung cấp những giá trị khoa học khách quan, đa chiều và đáng tin cậy.
5.2. Kiến nghị

107
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Để “tiêu dùng bền vững” không chỉ dừng lại là một phong trào ngắn ngủi thì quan trọng hơn
hết cần có sự chung tay của toàn xã hội. Cụ thể dưới đây nhóm nghiên cứu sẽ đề xuất một số giải
pháp hạn chế sử dụng túi nilon như sau:
- Nâng cao nhận thức về tác hại của việc sử dụng túi nilon trong tiềm thức của mọi người dân
Việt.
- Xây dựng hệ thống thu gom và xử lý rác thải nhựa để giảm thiểu các tác động đến môi
trường sống.
- Khuyến khích các nhà phân phối, bán lẻ tham gia chương trình giảm phân phát túi nilon.
- Nghiên cứu các chính sách túi nilon hiện đang được sử dụng ở các quốc gia phát triển, từ đó
điều chỉnh sao phù hợp và tiến hành thực thi tại Việt Nam.

Danh mục tài liệu tham khảo


Tài liệu tiếng Việt
Giao, H. N. K., & Nhung, D. t. K. (2020, February 7). Một số yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng
xanh tại TPHCM. OSF Preprints. https://doi.org/10.31219/osf.io/sh7mf
Hoàng Trọng Hùng, Huỳnh Thị Thu Quyên, Huỳnh Thị Nhi (28/12/2018). Các yếu tố ảnh hưởng đến
tiêu dùng xanh của người tiêu dùng tại Thành phố Huế. Hue University Journal of Science:
Economics and Developments. https://doi.org/10.26459/hueuni-jed.v127i5A.5070
Nguyễn Thị Phương Linh. (2021). A dataset of factors influencing consumer behavior towards
bringing their own shopping bags instead of using plastic bags in Vietnam.
https://doi.org/10.1016/j.dib.2021.107226
Tài liệu tiếng Anh
Matthew Ballew, et al. (2018). Gender differences in public understanding of Climate Change.
Climate Change Communication https://doi.org/10.1007/s10163-011-0009-x
Nikita Makarchev, et al (2022). Plastic consumption in urban municipalities: Characteristics and
policy implications of Vietnamese consumer’s plastic bag use.
https://doi.org/10.1016/j.envsci.2022.07.015
Quanyin Tan, et al (2022). Is reusable packaging an environmentally friendly alternative to the
single-use plastic bag? A case study of express delivery packaging in China.
https://doi.org/10.1016/j.resconrec.2022.106863
Shahariah Asmuni, et al. (2015). Public participation and effectiveness of the no plastic bag day
program in Malaysia. https://doi.org/10.1016/j.sbspro.2014.10.238
Takanori Okada, et al. (2019). Effect of environmental awareness on purchase intention and
satisfaction pertaining to electric vehicles in Japan. https://doi.org/10.1016/j.trd.2019.01.012
Tobias Dan Nielsen, et al (2019). Need a bag? A review of public policies on plastic carrier bags –
Where, how and to what effect?. https://doi.org/10.1016/j.wasman.2019.02.025

108
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Xanthos, et al. (2017). International policies to reduce plastic marine pollution from single-use
plastics (plastic bags and microbeads): a review. Marine pollution bulletin, 118.1-2 17-26..
https://doi.org/10.1016/j.trd.2019.01.012
Zahra Batooli, et al. (2022). Using theory of planned behavior to determine consumer intention in
choosing cloth vs plastic bags. https://doi.org/10.35762/AER.2021.44.1.5

109
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

FACTORS AFFECTING ATTITUDE TO USE AND INTENTION TO


CONTINUE USING SUBSCRIPTION VIDEO ON DEMAND
(SVOD) SERVICE IN VIETNAM: A STUDY ON NETFLIX USERS
IN HO CHI MINH CITY
Nguyễn Thị Bảo Trang
Nguyễn Thị Thảo Trang
Đặng Đinh Gia Thảo
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: baotrang.nguyent1110@gmail.com

INFORMATION ABSTRACT
Received date: 16/12/2022 Along with the expansion of the Covid-19 pandemic, the
Revised date: 05/3/2023 SVoD industry showed a huge development in the last two years. The
Accepted date: 06/3/2023 demand of watching high-quality videos, films, and TV shows brings
many customers to this entertaining platform more than ever. With the
introductory advantages, the SVoD sector in Vietnam soon had the
participation of leading enterprises in the field, for example the
foreign platforms namely Netflix, iQIYI, Hulu,... along with the
domestic ones such as FPTPlay, MyTV, VieOn. Besides the act of
attracting new customers, these businesses should pay attention to
retaining familiar clients and not losing them into the rivals’ hands.
So, this study is conducted to examine the elements that influence the
intention to use and the continuance to use Netflix, a representative of
the SVoD market nowadays. Based on the TAM theory of Davis, we
have combined some factors from ECM, COG and TCT theories,
including 5 direct variables and 1 moderate variable to carry out this
paper. The final result shows that the Attitude to use variable is
affected by two components: Perceived Ease of Use and Price Value.
And the continuance intention to use is influenced directly by
Keywords:
Attitude to use and indirectly by Perceived Usefulness. However,
attitude to use,
continuance to use, Social Influence, a highly expected determinant at first, shows a
Netflix, non-interaction with our final two dependent variables. This paper
SVoD, opens a deeper insight into the using behavior of SVoD viewers so
TAM, that the companies can make their own decision to get a bigger
Vietnam market segment in Vietnam.

1. Introduction
The organization of this paper is as follows. The background of the study, which provides its
context and purpose, is given in this session. Section 2 identifies and summarizes all the relevant
research conducted, which is based on to develop hypotheses. In session 3, all the methodology

110
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

components are described in detail.


Further, session 4 includes details about data analysis and interpretation, as well as statistical
significance tests. Finally, the interpretations of the significance of the findings of the study for the
client's business, along with recommendations for action is presented in session 5.
A list of nomenclature used throughout this review paper is provided below.

Nomenclature

ATT Attitude to use

CFA Confirmatory Factor analysis

COG Cognitive Model

CON Continuance intention to use

EFA Exploratory Factor Analysis

IS Information system

OTT Over-the-top

PEOU Perceived Ease Of Use

PSQ Perceived System Quality

PU Perceived Usefulness

PV Price Value

SEM Structural Equation Modeling

SI Social Influence

SVoD Subscription video on demand

TAM Technology Acceptance Model

TCT Technology Continuance Theory

VoD Video-on-Demand

1.1. Research background


In recent years, the entertainment habits of people have changed a lot because of the
development of the internet (Ismail, 2017). Instead of watching traditional television, many people
are moving to OTT (over-the-top) television services. These new forms of entertainment give them
the opportunity to watch anything they want at any time and anywhere as long as they have an
internet-connection device. One of the typical representations of OTT television is the Subscription
Video on Demand (SVoD). With an acceptable fee, subscribers can reach a huge library of different

111
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

shows and films.


With the introductory advantages, the SVoD sector in Vietnam soon had the participation of
leading enterprises in the field, for example the foreign platforms namely Netflix, iQIYI, AppleTV,
Disney+, Hulu,... along with the domestic ones such as FPT Play, MyTV, VieOn, etc (Lê, 2020). In
tandem with the increasing number of corporations investing in Vietnam, the competition is harsher
day by day. Known as the most successful foreign provider in Vietnam, Netflix owned 23% of the
SVoD market segment, behind only FPT Play - a domestic company. And Netflix is also the only
external “big-cheese” in the top 5 biggest segments in Vietnam (VNETWORK Content Delivery
Network, 2020).
With a growing market as Vietnam, studies on the user’s behavior tendency and psychological
intention are indeed needed. There is much previous research focusing on the subscription intention
under different angles; however; it still lacks studies on the driving-force which makes users choose
between continuing using or giving up SVoD.
The scope of this study will focus on Netflix’s users in Ho Chi Minh City and it was
conducted from October 2021 to January 2022.
1.2. Research objectives
The specific objectives of this study can be summarized as follows: Examining the factors
affecting attitude to use and intention to continue using subscription video on demand (SVoD) service
on Netflix platform. Understanding the moderating role of social influence on the consumer’s attitude
to Netflix. Propose some recommendations to increase the continuance using Netflix of individual
customers in Ho Chi Minh City.
1.3. Research questions
Based on the above predetermination, this study is going to field these three following questions:
● What are the factors that significantly influence the viewers’ attitude and continuance of
Netflix in specific and SVoD in general in Vietnam? How many percentages of the hypothesis
research model can explain the continuance intention to use Netflix in Vietnam?
● Can Social Influence variable moderate the relationship between the independent variable and
using behavior of SVoD in Vietnam?
1.4. Research gap
In previous studies, some factors such as Perceived Ease of Use, Perceived Usefulness,
Perceived System Quality, Price Value have affected the attitude of Netflix users and their intention
to continue using SVoD. But there is a lack of study using factors in the aspect of social influence and
the factors related to consumer traits to the attitude to subscribe to Netflix. This study aims to close
such gaps and make the following contribution:
● A comprehensive model that combines the Technology Acceptance Model (TAM) and
Technology Continuance Theory (TCT) with important constructs such as Perceived Ease of
Use, Perceived Usefulness, Attitude and Continuance Intention.
● Instead of modeling social influence as having a direct impact on attitude to use, this study

112
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

proposes that social influence would have a moderating impact on the relationships between
attitude and intention to use Netflix.
● An empirical insight for SVoD companies about attitude to use and intention to continue using
Netflix.
2. Literature review and hypothesis development
2.1. Key Definition
Over-the-top Platform
According to the Ministry of Information and Communication of the Socialist Republic of
Vietnam, OTT platforms are used to refer to applications and content such as audio and video that are
provided on the internet (MIC, 2018). OTT platforms are divided into four types: OTT television
(OTT TV), OTT messaging, OTT voice calling services and OTT audio (Lê, 2020). However, in this
study, we only focus on being knowledgeable about the first one: OTT television.
Streaming
According to Cambridge Dictionary, streaming is defined as the activity of listening to or
watching sound or video directly from the internet. Streaming is real-time, and it's more efficient than
TV broadcasting in many aspects. Viewers do not need to follow a schedule and can pause at any
time if they want. Sometimes, viewers can interact directly with the playing content through other
digital platforms (Thinkuknow). Video on Demand
Video on demand (VoD) is a system that provides a variety of content that includes TV shows,
movie series, films, documentaries in the form of video and audio that can be accessed by an internet
connection (Macedonia & Brutzman, 1994). Through VoD users can gain control over their content
video favorites.
Subscription Video on Demand
Subscription Video on Demand is a form of Internet protocol television – IPTV (Pandey et al.,
2011). This refers to video streaming services that users must subscribe to access (Maz Systems,
2021). It’s a service where users are charged a subscription fee (generally per month or per year) to
be able to choose and enjoy the content at any time and anywhere as long as users are connected to
the internet (Magnusson et al., 2003). Until now, SVoD is a booming industry for many reasons. It
empowers consumers to pay for only the content that they want, a major reason why audiences are
turning away from cable and other traditional providers. Also, it provides businesses a direct line of
revenue from consumers without having to consult or sell to advertisers (FinancialNewsMedia,
2021).
In this study, Netflix – one of the typical examples of SVoD technology in the world and even
Vietnam – is focused on. According to TVTechnology.com, the number of SVoD users in the whole
world is going up rapidly, SVoD hit a global penetration rate of 12.9% in 2021, and that the number
of SVoD users increased by 20.4% in 2021 reaching an estimated 958.6 million. From 2021 to 2025,
it is expected to grow at a Compounded Annual Growth rate (CAGR) of 7.19% reaching 1.4 billion
users by the end of the forecast period (Winslow, 2021).

113
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

2.2. Review of the relevant theoretical model of technology adoption


Technology Acceptance Model Theory
Technology Acceptance Model (TAM) has been one of the most influential models of
technology acceptance, with two primary factors influencing an individual’s intention to use new
technology: perceived ease of use and perceived usefulness (Davis, 1989). TAM is adapted from the
Theory of Reasoned Action (TRA) by Davis in constructing relationships among factors to explain
human behaviors to accept and use an
Information System (Davis, 1989). In order to explain the technology acceptance of the users
in more detail, TAM can be expanded by adding external variables besides basic structures and this is
an extended TAM approach (Hong & Yu, 2018). Different from TRA, this theory emphasized the role
of the self-making decision of consumers during the time they consume a product (Atif et al., 2013).

Fig. 1. Technology Acceptance Model


The Expectation Confirmation Model and Cognitive Model
Instead of examining the initial acceptance of technology users of TAM, Bhattacherjee (2001)
proposed the ECM for information system (IS) continuance with the construct “perceived usefulness”
is borrowed from TAM. The ECM investigates user behavior in the post-technology adoption context
and examines factors influencing user loyalty and retention for long-term viability.
Before ECM was proposed, a simple cognitive model (COG) for satisfaction decisions was
suggested by Oliver (1980) who proposed both attitude and satisfaction as determinants of behavioral
intention.

Fig. 2. Expectation Confirmation Model

114
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Fig. 3. Cognitive Model


The Technology Continuance Theory (TCT) Theory
The Technology Continuance Theory (TCT) is conducted by Liao, Palvia, and Chen (2009) is
a new theory on predicting the users’ continuance intention towards a technology. The TCT
underpinned six constructs, including satisfaction, confirmation, perceived usefulness, attitude,
perceived ease of use, and user continuance intention.
The major contribution of TCT is that it combines attitude and satisfaction in one single
continuance model while keeping the well-determined variables of perceived ease of use and
perceived usefulness as the first level of the antecedent (Liao et al., 2009). According to Liao et al.
(2009), the TCT qualitatively and quantitatively provides a considerable improvement in order to
explain the consumers’ attitudes at different stages of confirmation. So, the TCT has been used to
describe the continuance intention to use Netflix amongst users in this study, and we use attitude as a
mediating variable to explain to continue using Netflix.

Fig 4. Technology Continuance Theory Model


2.3. Literature review and hypothesis development
The primary characteristics and technologies of internet protocol television (IPTV) in general
and subscription video on demand (SVoD) in particular have substantially developed in recent years.
Recently, there are a lot of studies that investigated determinants of consumers’ continuance intention
to use SVoD, contributing their research findings to SVoD industries (Liou et al., 2015; Lestari &
Soesanto, 2020; Lee et al., 2006). The study of Liou et al. (2015) aimed to understand and explore
customer’s decision-making behavior regarding the continued use of broadband television, which
uses a tricomponent attitude model (concluded personal cognition phase, affection phase, and
conation phase), and finally found that factors comprised perceived system quality, perceived content
quality, perceived ease of use, customization, perceived price level, perceived psychological risk
affected attitude and intention to continue to use. This is in line with the study of Lestari and
Soesanto (2020) which studied Netflix users in Indonesia and reported that perceived enjoyment is an

115
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

additional factor that influences attitude and intention to continue to use. Besides these direct effects,
the moderating roles attributed to these relationships has been also noticeable. Lee et al. (2006) found
social influence as a moderator on the relationship between perceived usefulness and attitude;
perceived ease of use and attitude; perceived enjoyment and attitude; attitude and behavior intention.
Based on understanding different approaches and models for investigating the determinants
affecting attitude to use and intention to continue using subscription video on demand (SVoD)
service, the hypotheses were developed as follows. Perceived Ease of Use
Perceived Ease of Use is defined as the level where the user feels that using the system does
not need more effort (Davis, 1989). According to Radner and Rothschild (1975), effort is a limited
asset that an individual may distribute to the various exercises for which the person in question is
dependable. The regression model used suggested that perceived ease of use may be a contributing
determinant of perceived usefulness (Denaputri & Usman, 2019). Any technology which is
troublesome to use is unpotential to think of as helpful, and it is seen as a waste of your time (Davis,
1989). Instead of the time-consuming technology, the equivalent of this technology that gives the
same output with less effort is preferred (Cebeci et al., 2019). In the past, perceived ease of use
affects consumers' attitudes to use was shown from research conducted by Cheong and Park (2005);
Ngai et al. (2007); Alsajjan and Dennis (2010). If the users perceive that Netflix can be used easily,
they will be able to perceive the benefits it will provide to them and develop a positive attitude
towards it (Finnigan, 1996). Therefore, the following research hypothesis is proposed:
H1: Perceived ease of use is positively related to Perceived usefulness.
H2: Perceived ease of use is positively related to attitude to use.
Perceived Usefulness
Based on the TAM, and according to Shin (2009), perceived usefulness was the degree to
which a person believed that a particular system would enhance his or her job performance.
Perceived usefulness of Netflix is also the extent to which a person perceives to get more benefits
(unlimited viewing, commercial-free, original content, low price) by using Netflix instead of utilizing
other technologies that provide similar services. If the user believes that one or more features and
services offered by Netflix are beneficial, the evaluations of the user about using Netflix will be
positive manner (Martins & Riyanto, 2020).
Perceived usefulness has been found to be a strong and direct determinant of continuance
usage intentions in previous studies (Zaki, 2017). This implies that if users believe that using Netflix
is very helpful to them, they will be more satisfied with it and might choose to continue using Netflix.
If consumers have a greater extent of being contented, the product purchased will have a higher
chance to repurchase the same product or service or other derivative products in the future (Shakeel,
2021). Hence, the following hypothesis is proposed:
H3: Perceived usefulness will positively affect attitude to use.
H4: Perceived usefulness will positively affect continuance intention to use.
Price Value
Price Value is defined as “the trade-off between the cost paid for using the technology and the

116
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

perceived benefits received” (Dodds et al., 1991), which is used by Venkatesh et al. (2012)to extend
the unified theory of acceptance and use of technology (UTAUT). In the development of behavioral
intention, customers compare the benefit from the service to the cost of it (Cheong & Park, 2005).
The study conducted by Lê (2020) finds price value has a positive impact on intention to SVoD in
Viet Nam. In the context of this study - in Viet Nam, there are still a lot of free options and illegal
options as an alternative for SVoD in general and especially on Netflix. If the users feel the price they
have to pay is higher than what they get from Netflix, it will create a huge barrier for a positive
attitude to use it. Therefore, the following hypothesis is proposed:
H5: Price value will have a positive effect on Attitude to use.
Perceived System Quality
Perceived system quality can be defined as the availability of bandwidth in a network and
reliable network qualities for transmitting video services (Liou et al., 2015). The quality system is
critical in an information system (IS) because it has a significant influence (DeLone & McLean,
1992; Lee, 1999; Lin & Hsipeng, 2000). Cheong and Park (2005) reported that the response time and
system accessibility and other factors such as system reliability and security can be understood as the
attributes that explain the system quality. Moreover, Shih (2004) and Shin (2007) have shown that
perceived system quality has a significant and positive effect on users’ attitudes. Based on the
description, the proposed research hypothesis is as follows:
H6: Perceived system quality will have a positive effect on Attitude to use.
Social Influences
Social influence is defined as “the extent to which consumers perceive that important others
(e.g., family and friends) believe they should use a particular technology” (Venkatesh et al., 2012). In
particular, the subjective norm is known as a person's perception that most people who are important
to him think he should or should not conduct a behavior (Martins, 2014). This factor is very
important in a market like Vietnam where people are in favor of sharing useful information with each
other.
Social influence usually appears in two forms: Subjective norms (also known as Normative
social influence) and informational social influence (Bearden, 1986). According to the article The
Theory of Planned Behavior, Ajzen (1991) defined “subjective norms” as “the perceived social
pressure on individuals to perform or not to perform a behavior, regardless of their individual beliefs
and attitudes toward the behavior”.In different circumstances, informational social influence refers to
the progress that people keep watching successful pioneers and then determining to adopt one new
experience. Building upon the foundation of the study by Lê (2020) and Lee et al. (2006), Social
Influence is believed to moderate the relationship between Perceived ease of use, Perceived
usefulness and Attitude to use.
H7: Social Influences moderate the relationship between Perceived ease of use and Attitude to
use of Netflix.
H8: Social Influences is positively related to the relationship between Perceived Usefulness and
Attitude to use.

117
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Attitude to continuance intention to use


According to Davis (1989), an attitude refers to “the degree of a person’s positive or negative
outlook as regards the performance of a target behavior”. Coming to Bhattacherjee (2001),
continuance intention is the user's decision when buying back service because of a decision-making
process. In addition, continuance to use in information systems is known as the adoption of the use of
a product or service continuously (Nabavi et al., 2016).
Both Robey (1979) and Swanson (1982) determined that attitude affects technology usage.
According to Liao et al. (2009), continued usage is then determined by inner psychological judgment,
such as attitude. In particular, Lestari and Soesanto (2020) studied on Netflix users in Indonesia
found the effect of attitude to use on continuance intention has a positive effect on continuance
intention to use. Therefore, the following hypothesis is proposed:
H9: Attitude to use has a positive effect on continuance intention to use.
The following model is the research model of the study proposed by the authors:

Fig 5. Proposed research model.


3. Research methodology
3.1. Sample and data collection
Sample method
The study was mainly carried out using a quantitative method. The research population is all
customers of ages, occupations as long as they have ever used Netflix. Research samples in this topic
were sampled by the convenient non-probability sampling method. Convenient sampling method
means sampling based on convenience or object accessibility, where the group is more likely to meet
the object. To make sure that requirement is met, a majority of the sample came from the author’s
network on Facebook as well as the questionnaire was delivered to some Movie/TV show/Live sport
Group to make sure it fitted with the potential users. From the application of this method, the group
can easily exploit information and obtain a suitable sample amount. Sample size
The minimum amount of sample required for research is equal to the number of observable
items in the questionnaire multiple by 5 (Hair et al., 2013).This study has 24 construct items, which

118
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

means the total sample size is 22 * 5 = 110.


Although determination of appropriate sample size is a crucial issue in SEM, unfortunately,
there is no consensus in the literature regarding what would be the appropriate sample size for SEM.
But usually, N = 100–150 is considered the minimum sample size for conducting SEM (Anderson &
Gerbing, 1988; Ding et al., 1995; Tinsley & Tinsley, 1987). Moreover, according to Boomsma and
Hoogland (2001); (Kline, 2005), N = 200. The total sample size of the study is 311 samples, which
meet the requirement of sample size conditions.
3.2. Variable and Measuring Instrument
The scale is built in the form of propositions; the respondents will score on the 5- level
Likert’s scale that best suits their thoughts with 5 levels (totally disagree, disagree, neutral, agree,
completely agree).
The pilot test will be conducted with 15 Netflix users to check whether observation variables
are confusing or not. After this process, some items will be removed due to the participant’s
feedback. The initial observation elements are presented as follows in Table 1.
Table 1. Questionnaire

Factor Variable Statement Variable Source(s)

I feel that Netflix’s platform very easy to use


PEOU1
even for new users
Radner and
Perceived Ease to I feel that it is easy to experience on Netflix Rothschild
PEOU2
Use when I am changing devices of using (1975)

I feel that Netflix is easy to use for all device


PEOU3
connected Internet

Using the Netflix service is very useful to


PU1
my life in general.

Using Netflix is helpful to improve my


PU2
Perceived performance in general.
Shin (2009)
Usefulness Using Netflix is helpful to enhance the
PU3
effectiveness of my life in general

Using Netflix provides very useful service


PU4
and information to me.

I think that Netflix provides a very reliable Cheong and


Perceived System service. PSQ1
Park (2005)
Quality
I think that the speed of Netflix is fast. PSQ2

119
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

I think that Netflix is secure to use. PSQ3

Netflix is reasonably priced. PV1

Netflix is a good value for money. PV2 Venkatesh et al.


Price Value
(2012)
At the current price, Netflix provides a good
PV3
value

Using Netflix is a good idea. ATU1

Attitude to use Using Netflix is beneficial to me. ATU2 Shin (2009)

Using Netflix is a positive idea. ATU3

I intend to continue using Netflix rather than


CON1
discontinue its use.

Continuance My intentions are to continue using Netflix Liao et al.


CON2
intention to use than use any alternative means. (2009)

If I could, I would like to continue using


CON3
Netflix as much as possible.

People who are important to me think that I


SI1
should use Netflix.

People who influence my behavior think that Venkatesh et al.


Social Influences SI2
I should use Netflix. (2012)

People whose opinions that I value prefer


SI3
that I use

3.3. Analysis method


Descriptive analysis
After receiving a total of 378 responses to the survey, the authors cleaned up the data set by
excluding cases with missing data and outliers, yielding a final sample of 311 valid responses, which
amounted to a usable response rate of 82.28%. The demographic data of the respondents will be
presented in Table 2. The classification criteria will be as follows: Gender, Age, Job, Salaries,
Sources of awareness.
Inferential analysis
The analysis consisted of: (i) Cronbach’s alpha test to reflect the degree of the close
correlation between observed variables in the same factor (Hoàng & Chu, 2008) (ii) Exploratory
factor analysis (EFA) used to uncover the underlying structure of a relatively large set of variables
and identify the underlying relationships between measured variables(Norris & Lecavalier, 2010) (iii)
Confirmatory factor analysis (CFA) to evaluate measures’ validity and reliability and to see how well

120
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

the proposed factor structure explains the correlations between the variables in the dataset (Hu &
Bentler, 1999) (iv) Structural equation model (SEM) to test confirms the relationships between
variables and relationships between observed (v) moderation analysis aims to “measure and test the
differential effect of the independent variable on the dependent variable as a function of the
moderator” (Baron & Kenny, 1986).
4. Analysis result
4.1. Data Description
Table 2. Sample profile

Characteristic n %

Gender

Male 199 64

Female 112 56

Age

14-17 19 6.1

18-34 292 93.9

34-55

55

Monthly Income

Under 5 million 243 78.1

From 5 to 10 million 43 13.8

From 10 to 15 million 12 3.9

Above 15 million 13 4.2

Occupation

Student 274 88.1

Office staffs 15 4.8

Other 22 7.1

Subscription period

1 - 3 months 139 44.7

121
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

4 - 6 months 56 18

7 – 9 months 22 7.1

10 – 12 months 22 7.1

> 1 year 72 23.2

Table 3. Result of Cronbach’s alpha for all variables

Variable Number of items Cronbach alpha’s value

Perceived Ease of Use (PEOU) 3 0.803

Perceived Usefulness (PU) 4 0.765

Perceived System Quality (SQ) 3 0.921

Price Value (PV) 3 0.806

Social Influences (SI) 3 0.861

Attitude to use (ATT) 3 0.794

Continuance intention to use (CON) 3 0.782

Variable Number of items Cronbach alpha’s value Perceived Ease of Use (PEOU) 3
0.803 Perceived Usefulness (PU) 4 0.765 Perceived System Quality (SQ) 3 0.921 Price Value (PV)
3 0.806 Social Influences (SI) 3 0.861 Attitude to use (ATT) 3 0.794 Continuance intention to use
(CON) 3 0.782
The statistics results of Table 3 showed that all Cronbach's Alpha coefficients are greater than
0.7 and the Corrected Item-Total correlation of all items is satisfied with the value > 0.3. So, after the
assessing process, none of the observed variables are eliminated. Thereby, it also shows the
correlation between the collected information of each factor as well as the link between these ones.
This scale is rated very well.
4.3. Exploratory factor analysis
With the KMO value = 0.863 and the statistical significance of Bartlett's Test of Sphericity <
0.05 presented in Table 4, the EFA factor analysis for the variables is acceptable.
Table 4. Result of KMO and Bartlett's Test of Sphericity

KMO Bartlett's Test of Sphericity (Sig.)

0.863 0.000

Table 5 shows that the Total Variance Explained with a value is 1.023, so it is best to stop at

122
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

extracting at least 7 factors. The value of Total Cumulative value is 73.596%, showing that the EFA
model is suitable. 7 variables extracted in the EFA model can explain 73.596% of data variation.
Loading Factor coefficients of all variables are qualified (greater than 0.5).
As illustrated in Table 6, the EFA resulted in 24 observed variables allocated to 7 factors:
● Factor 1: includes 3 observed variables SQ1-SQ3, named "Perceived System Quality"
● Factor 2: includes 3 observed variables SI1-SI3, named “Social influences”.
● Factor 3: includes 4 observed variables PU1-PU4, named “Perceived Usefulness”.
● Factor 4: includes 3 observed variables PEOU1-PEOU3, named "Perceived Ease of Use".
● Factor 5: includes 3 observed variables ATT1-ATT3, named “Attitude”.
● Factor 6: includes 3 observed variables PV1-PV3, named "Price Value".
● Factor 7: includes 3 observed variables CON1-CON3, named “Continuance intention to use”
Table 5. Total Variance Explained
Rotation
Sums of
Initial Eigenvalues Extraction Sums of Squared Loadings
Squared
Component
Loadingsa
% of % of
Total Cumulative % Total Cumulative % Total
Variance Variance
1 7.005 31.842 31.842 7.005 31.842 31.842 2.628
2 2.619 11.903 43.745 2.619 11.903 43.745 3.645
3 2.072 9.416 53.161 2.072 9.416 53.161 4.675
4 1.312 5.963 59.124 1.312 5.963 59.124 3.991
5 1.123 5.103 64.227 1.123 5.103 64.227 4.683
6 1.038 4.717 68.945 1.038 4.717 68.945 4.298
7 1.023 4.652 73.596 1.023 4.652 73.596 4.185
8 .673 3.060 76.656
9 .620 2.819 79.475
10 .553 2.513 81.988
11 .515 2.341 84.329
12 .488 2.217 86.546
13 .409 1.861 88.407
14 .399 1.812 90.219
15 .376 1.709 91.927
16 .331 1.504 93.432
17 .311 1.413 94.845
18 .287 1.304 96.150
19 .272 1.237 97.386
20 .244 1.111 98.497
21 .233 1.059 99.556
22 .098 .444 100.000

123
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Table 6. Pattern Matrix from analysis EFA

Component
1 2 3 4 5 6 7
SQ2 .958
SQ1 .945
SQ3 .888
SI3 .914
SI2 .849
SI1 .847
PU3 .928
PU2 .744
PU1 .741
PU4 .580
PEOU3 .859
PEOU2 .813
PEOU1 .722
ATT2 .936
ATT1 .806
ATT3 .728
PV1 .942
PV2 .818
PV3 .739
CON2 .932
CON3 .797
CON1 .699

4.4. Confirmation factor analysis and Structural equation model


Confirmation factor analysis
From the Table 7, we can see that the data stay at the appropriate value. All the data meet the
general statistical requirements to conduct a structural equation modeling (SEM).

124
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Table 7. Result of analysis CFA

Standard Value Real Value Result

Chi-square/df ≤ 3 is good, ≤ 5 is acceptable 1.771 Good

CFI ≥ 0.9 is good, ≥ 0.8 is acceptable 0.911 Good

GFI ≥ 0.9 is good, 0.8 ≤ GFI ≤ 0.9 is acceptable 0.957 Good

RMSEA ≤ 0.03 is very good, ≤ 0.08 is good 0.050 Good

TLI TLI ≥ 0.9 is good, ≥ 0.95 is very good 0.947 Good

PCLOSE PCLOSE ≥ 0.05 is good, ≥ 0.01 is acceptable 0.498 Good

As shown in Table 8, using the 95% confidence standard, the null hypotheses H2, H5 were
discarded.
● Sig of “Perceived Usefulness” (PU) affecting “Attitude to use” (ATT) is 0.063 > 0.05, it is
concluded that variable PU has no effect on ATT.
● Sig of “Perceived System Quality” (SQ) that affects “Attitude to use” (ATT) is 0.839 > 0.05,
concluding that the variable SQ has no effect on ATT. Also, the hypotheses H1, H3, H4, H6,
H7 are accepted, which can be summarized: ∙ The variable “Continuance intention to use” is
affected by the variables “Perceived Usefulness” and “Attitude to use”.
● The variable “Attitude to use” is affected by the variables “Perceived Ease of Use” and “Price
Value”.
● The variable “Perceived Usefulness” is affected by the variable “Perceived Ease of Use”.
Table 8. Results of hypothesis testing

Estimate S.E. C.R. P Conclusion

PU ← PEOU .624 .075 8.289 *** Supported

ATT ← PU .158 .125 1.267 .063 Not supported

ATT ← PEOU .305 .126 2.425 .039 Supported

ATT ← PV .386 .078 4.927 *** Supported

ATT ← SQ .006 .043 .131 .839 Not supported

CON ← ATT .504 .086 5.856 *** Supported

CON ← PU .401 .101 3.961 *** Supported

4.6. Moderation analysis

125
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Based on the outcome of the SEM, the author will test the relationship between PEOU and
ATT because the linking between PU and ATT does not have any significant independent variable so
there will be no need for moderation analysis (Hayes, 2018). Add-on PROCESS MACRO v3.4.1 in
SPSS proposed by Hayes is used to investigate the moderating effect. The results have been described
in Table 9.
Table 9. Result of moderation analysis
Model Standard
Coefficient t-value p-value Conclusion H7
Summary Error
Perceived Ease of Use
.6341 .2163 2.9312 .0036 Reject
(PEOU)
because
Social Influence (SI) 0.5702 .2869 1.9871 .0478
p-value
PEOU*SI -0.0624 0.0657 -0.9509 0.3424 = .3424 > .05

4.7. Hypothesis tested results


Hence, the research model after SEM analysis and Moderation analysis contains 2
independent variables: Perceived Ease of Use, Price Value and 3 dependent variables: Perceived
Usefulness, Attitude to use, Continuance intention to use.

*p <0.05; **p <0.01; ***p <0.001


Figure 6. Modified research model
4.8. Result discussion
This study contributes to the literature by presenting an empirically tested model that
demonstrates the determinants of attitude, as well as the continuance intention to use Netflix. In this
respect, Price Value and Perceived System Quality are incorporated into the TAM model. The results
show that the model was able to describe 50.1% and 49.9% of the differences in attitude and
continuance intention, respectively. This paper also finds not having the moderating role of social
influence as a moderator between Perceived Ease of Use and Attitude, Perceived Usefulness and
Attitude. Compared to two other factors, Perceived Ease of Use and Perceived System Quality, Price
Value was found to be the most influential factor on Attitude to Use Netflix. This implied that Netflix
users considered “price” as the most important factor to set their attitude and determine the intention

126
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

to continue to use in the future. So before buying any products or services, the buyers usually have a
thorough price comparison to consider if the price is right or not, too expensive or too cheap, and
how that impacts the quality, is it worth paying for?
The hypothesis between Perceived System Quality and Attitude to Use is not accepted. This
construct was also shown in another research that it did not have any impact on users’
attitudes(Al-Debei et al., 2015). Nevertheless, the perception of system quality has an unapparent
impact on Attitude to use through Perceived Ease of Use (Liou et al., 2015) or through Trust and
E-word (Al-Debei et al., 2015). This could be explained that in the context of the current study –
Vietnam, the system quality of SVoD platforms is well-evaluated and there is no discernible
difference between Netflix and other competitors, so the associated Perceived System Quality was
rendered insignificant.
Besides, Perceived Ease of Use also is an important factor affecting Attitude to Use. Nowadays,
with the support of entertainment platforms, it is not difficult at all for Gen Z to use a novel app.
However, Gen Y, adults and children will be confused about using an overly complicated platform.
So, providing easy-to-use features and operations is very essential to extend the user scope.
Following the survey result, users feel that Netflix has given them great satisfaction by providing an
easy experience even for new users. Just need a smart device with an internet connection, users can
easily control and use the platform anywhere, anytime.
Surprisingly, the result shows that Perceived Usefulness did not influence the Netflix users’
attitude. Although this result is inconsistent with the findings of previous studies based on the
original TAM but is consistent with another study (Rahmiati & Yuannita, 2019). Even though the
relationship between Perceived Usefulness and Attitude to Use has insignificant interaction,
Perceived Usefulness has a positive effect on Continuance Intention to Use. Good quality and useful
providing will make
customers choose their product or service for the next use. According to the survey results, users find
Netflix very helpful because it provides many services and information to help them improve and
enhance their life performance. Therefore, they feel satisfied and intend to continue using it rather
than stop using it or replacing it with other platforms.
The results of the study show that attitude is the strongest predictor of the users’ continuance
intention. When the user decides to use a system, it starts with the user's attitude towards the system
so that it will create a willingness to continue using it. And as the research model have shown, this
variable is affected by many other elements. The attitude was seen as the intervening variable
between the antecedents and the continuance intention, which means that all the antecedents (i.e.,
price value and perceived ease of use) result in a strong attitude, which leads to the continuance
intention to use Netflix. Different SVoD platforms compete with each other to retain the users by
offering reasonable prices and various features for user-friendly and usefulness.
5. Conclusion and recommendation
5.1. General Conclusion
The analytical result has pointed out the correlation between some variables with Attitude to
use and Continuance Intention to use. Besides, it also shows the disconnection of two variables

127
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

concluded Perceived Usefulness and System Quality with Attitude to use. Then, we have the
basement to answer three research questions in the beginning:
● The Vietnamese viewers’ attitudes to use are influenced by two variables: Perceived Ease of
Use, Price Value. Then, the continuance intention to use is affected by Perceived Usefulness
and Attitude to use in direct way and by Perceived Usefulness in indirect way.
● According to the testing result, if users have a positive attitude toward using Netflix, they will
have a higher tendency to extend their Netflix account subscription by about 50% compared to
those who do not. Another factor that has a significant impact on the continuance intention to
use is Perceived Usefulness. There are 40.1% of viewers’ engagement compromises which are
decided by this variable.
● In contrast to the earlier prediction, the Social Influence variable does not play a considerable
moderation role in the relationship between the designated independent variables and using
behavior of SVoD in the context of Vietnam.
5.2. Managerial Implication
Based on the results of research that has been obtained, there are several suggestions for
companies that can be used to increase continuance intention to use from Netflix users, namely:
First, the SVoD platform in general, especially Netflix should be easy to use and user-friendly.
Technology with too much functionality confuses users and is not always good. Rather, it might be
better to provide core and consistent functionality. The standard user interface of the application is
applied to global users; however, an interface of feature or content recommendations should be
localized or customized to meet the local or individual preferences.
Second, another factor that influences attitude to use is Price Value. So, the effort that needs to
be implemented by Netflix is to provide promos or discount codes on special occasions to attract
many more potential users. Moreover, in Viet Nam, Netflix is offering four streaming plans: Mobile,
Basic, Standard, and Premium. As Netflix let
users share their plan with five people (corresponding to 5 profiles), users regularly share an account
with anyone. But sometimes, they may feel uncomfortable splitting the bill with someone. So, Netflix
should launch a new offer called “Personal”, intended for one person instead of a group of friends or
family members. This kind of plan is recommended to allow watching two devices at the same time
with HD or Ultra HD quality.
Third, the company's licensed content has grown increasingly expensive in recent years, and it
continues to make up a large part of Netflix's expenses (Engle, 2020). So, Netflix has slowed its
spending growth on licensed content, new data from the streaming video company shows, as it
continues to focus instead on original film and television productions (Savitz, 2020). But Netflix is
still dependent on licensed content because its original content is rarely its most popular (Engle,
2020). So, to influence usage continuance intention, Netflix managers should consider the trade-offs
between maintaining licensed content and producing original programs to attract users, which can be
conducted by limiting the loss of licensing agreements and creating engaging content.
Finally, in the aspect of usefulness, Netflix should consider providing a two caption feature in

128
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

all of the devices. According to many previous scientific researches, studying new languages through
watching films is one of the most effective ways to build up listening and speaking skills. With this
change, viewers will be able to watch Netflix with two subtitles simultaneously. In this way, Netflix
will be not only an entertaining tool but also a language learning tool for everyone.
5.3. Limitation of the study
This study suffers from several limitations. First, the research investigates 311 samples, almost
all samples are young people in Ho Chi Minh City, which is not enough to generalize the current
situation in Vietnam fully. Second, because this is a cross sectional study, it might not accommodate
all of the intended behavior of Netflix, particularly any changes that might occur in the attitude and
continuance intention of users.
5.4. Recommendations for next research papers
The next research papers should be conducted with a more varied sample and a bigger sample
size so that we can decrease the error as well as evaluate more precisely and objectively the data.
Furthermore, this research title can be developed more and more if we input in the model some
different (indirect and direct) variables which possibly influence the attitude and continuance
intention to use of Vietnamese customers, such as: media exposure, perceived enjoyment, perceived
psychological risk, etc. Also, it is a good idea for the following researches in this topic to test the
direct relationship between Social Influence and Attitude to use.

References
Ajzen, I. (1991). The theory of planned behavior. Organizational behavior human decision processes
50(2), 179-211. https://doi.org/10.1016/0749-5978(91)90020-t
Al-Debei, M. M., Akroush, M. N., & Ashouri, M. I. (2015). Consumer attitudes towards online
shopping: The effects of trust, perceived benefits, and perceived web quality. Internet Research,
25(5). https://doi.org/10.1108/IntR-05-2014-0146
Alsajjan, B., & Dennis, C. J. J. o. b. r. (2010). Internet banking acceptance model: Cross-market
examination. Journal of business research, 63(9-10), 957-963.
https://doi.org/10.1016/j.jbusres.2008.12.014
Anderson, J. C., & Gerbing, D. W. (1988). Structural equation modeling in practice: A review and
recommended two-step approach. Psychological bulletin, 103(3), 411.
https://doi.org/10.1037/0033-2909.103.3.411
Atif, M., Charfi, A. A., Lombardot, E. J. J. o. M. R., & Studies, C. (2013). Why do some consumers
consume ethically? A contingency framework for understanding ethical decision making. Journal
Of Marketing Research And Case Studies, 2013, 1-22. https://doi.org/10.5171/2013.420183
Baron, R. M., & Kenny, D. A. (1986). The moderator–mediator variable distinction in social
psychological research: Conceptual, strategic, and statistical considerations. Journal of
personality social psychology, 51(6), 1173.
Bearden, W. O., Calcich, S.E., Netemeyer, R., and Teel, J.E. (1986). An exploratory investigation of

129
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

consumer innovativeness and interpersonal influences. ACR North American Advances.


Bhattacherjee, A. J. M. q. (2001). Understanding information systems continuance: An
expectation-confirmation model. MIS Quarterly, 25(3), 351-370.
https://doi.org/https://doi.org/10.2307/3250921
Boomsma, A., & Hoogland, J. J. (2001). The robustness of LISREL modeling revisited. Structural
equation models: Present future. A Festschrift in honor of Karl Jöreskog, 2(3), 139-168.
Cebeci, U., Ince, O., Turkcan, H. J. I. R. o. M., & Marketing. (2019). Understanding the intention to
use Netflix: An extended technology acceptance model approach. 9(6), 152.
Cheong, J. H., & Park, M. C. J. I. r. (2005). Mobile internet acceptance in Korea. Internet Research,
15(2), 125-140. https://doi.org/10.1108/10662240510590324
Davis, F. D. (1989). Perceived usefulness, perceived ease of use, and user acceptance of information
technology. MIS quarterly, 13, 319-340. https://doi.org/10.2307/249008.
DeLone, W. H., & McLean, E. R. (1992). Information systems success: The quest for the dependent
variable. Information systems research, 3(1), 60-95. https://doi.org/10.5267/j.uscm.2014.12.002
Denaputri, A., & Usman, O. (2019). Effect of perceived trust, perceived security, perceived
usefulness and perceived ease of use on customers’ intention to use mobile payment. SSRN
Electronic Journal. https://doi.org/10.2139/ssrn.3511632
Ding, L., Velicer, W. F., & Harlow, L. L. (1995). Effects of estimation methods, number of indicators
per factor, and improper solutions on structural equation modeling fit indices. Structural
Equation Modeling: A Multidisciplinary Journal, 2(2), 119-143.
https://doi.org/10.1080/10705519509540000
Dodds, W. B., Monroe, K. B., & Grewal, D. J. J. o. m. r. (1991). Effects of price, brand, and store
information on buyers’ product evaluations. Journal of marketing research, 28(3), 307-319.
https://doi.org/10.2307/3172866
Engle, J. (2020). Netflix Is Still Too Dependent on Licensed Content. Retrieved January 18, 2022
from https://finance.yahoo.com/news/netflix-still-too-dependent-licensed-192221534.html
Financial News Media. (2021). Subscription Video On Demand (SVOD) Industry Is Booming As
Consumers Turn Away From Cable. Retrieved October 21, 2021 from
https://www.prnewswire.com/news-releases/subscription-video-on-demand-svod-industry-is-boo
ming-as-consumers-turn-away-from-cable-301264163.html
Finnigan, F. J. A. R. (1996). How non-heroin users perceive heroin users and how heroin users
perceive themselves. Addiction Research, 4(1), 25-32.
https://doi.org/10.3109/16066359609005560
Hair, J. F., Ringle, C. M., & Sarstedt, M. (2013). Partial least squares structural equation modeling:
Rigorous applications, better results and higher acceptance. Long range planning, 46(1-2), 1-12.
Hayes, A. F. (2018). Partial, conditional, and moderated mediation: Quantification, inference, and
interpretation. Communication monographs, 85(1), 4-40.

130
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hoàng, T., & Chu, N. M. N. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS-tập 1. In: Hồng Đức.
Hong, S., & Yu, J. (2018). Identification of external variables for the Technology Acceptance Model
(TAM) in the assessment of BIM application for mobile devices. IOP Conference Series:
Materials Science And Engineering, 401(1), 012027.
https://doi.org/10.1088/1757-899x/401/1/012027
Hu, L. t., & Bentler, P. M. (1999). Cutoff criteria for fit indexes in covariance structure analysis:
Conventional criteria versus new alternatives. Structural equation modeling: a multidisciplinary
journal, 6(1), 1-55. https://doi.org/10.1080/10705519909540118
Ismail, N. (2017). How technology has changed the world of home entertainment. Information Age.
Retrieved from https://www.information-age.com/technology-changed-world-home
entertainment-123470132/
Kline, R. B. (2005). Principles and practice of structural equation modeling 2nd ed. New York:
Guilford, 3.
Lê, P. K. (2020). Factors affecting intention to subscribe SVOD in Vietnam.
Lee, M. (1999). A study on the determinants of service loyalty. Korean Marketing Research, 24(1),
21-45.
Lee, M. K., Cheung, C. M., Sia, C. L., & Lim, K. H. (2006). How positive informational social
influence affects consumers' decision of Internet shopping? Proceedings of the 39th Annual
Hawaii International Conference on System Sciences (HICSS'06),
Lestari, E., & Soesanto, O. R. C. J. D. J. M. (2020). Predicting Factors That Influence Attitude To
Use And Its Implications On Continuance Intention To Use Svod: Study On Netflix Users Of
Indonesia [Prediksi Faktor-Faktor Yang Mempengaruhi Sikap Penggunaan Dan Implikasinya
Terhadap Keberlanjutan Niat Penggunaan Svod: Studi Pada Pengguna Netflix Di Indonesia.
Derema (Development Research Of Management): Jurnal Manajemen, 15(2), 183-208.
https://doi.org/10.19166/derema.v15i2.2541
Liao, C., Palvia, P., & Chen, J.-L. (2009). Information technology adoption behavior life cycle:
Toward a Technology Continuance Theory (TCT). International Journal of Information
Management, 29(4), 309-320. https://doi.org/10.1016/j.ijinfomgt.2009.03.004
Lin, J. C.-C., & Hsipeng, L. (2000). Towards an understanding of the behavioral intention to use a
Web site. International Journal of Information Management, 20(3).
https://doi.org/10.1016/S0268-4012(00)00005-0
Liou, D.-K., Hsu, L.-C., Chih, W.-H. J. I. M., & Systems, D. (2015). Understanding broadband
television users’ continuance intention to use. Industrial Management and Data Systems, 115(2),
210-234. https://doi.org/10.1108/IMDS-07- 2014-0223
Macedonia, M. R., & Brutzman, D. P. (1994). MBone provides audio and video across the Internet.
Computer, 27(4), 30-36. https://doi.org/10.1109/2.274996
Magnusson, P. R., Matthing, J., & Kristensson, P. (2003). Managing user involvement in service
innovation: Experiments with innovating end users. Journal of Service Research, 6(2), 111-124.

131
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

https://doi.org/10.1177/1094670503257028
Martins, C., Oliveira, T., and Popovič, A. . (2014). Understanding the internet banking adoption: a
unified theory of acceptance and use of technology and perceived risk application. International
journal of information management, 34(1), 1-13. https://doi.org/10.1016/j.ijinfomgt.2013.06.002
Martins, M. A. J., & Riyanto, S. (2020). The Effect of User Experience on Customer Satisfaction on
Netflix Streaming Services in Indonesia. International Journal of Innovative Science Research
Technology, 5(7), 573-577. https://doi.org/10.38124/ijisrt20jul545
Mazsystems. (2021). What is SVOD? A Beginner’s Guide to Subscription Video on Demand [2021
Update]. Retrieved October 21, 2021 from https://www.mazsystems.com/en/blog/what-is-svod
MIC. (2018). Piracy is the biggest challenge for Vietnam’s OTT market. Retrieved October 6, 2021
from https://english.mic.gov.vn/Pages/TinTuc/137454/Piracy-is-the
biggest-challege-for-Vietnam-s-OTT-market.html
Nabavi, A., Taghavi-Fard, M. T., Hanafizadeh, P., & Taghva, M. R. (2016). Information technology
continuance intention: A systematic literature review. International Journal of E-Business
Research, 12(1), 58-95. https://doi.org/10.4018/IJEBR.2016010104
Ngai, E. W., Poon, J., Chan, Y. H. J. C., & education. (2007). Empirical examination of the adoption
of WebCT using TAM. Computers and Education, 48(2), 250-267.
https://doi.org/10.1016/j.compedu.2004.11.007
Norris, M., & Lecavalier, L. (2010). Evaluating the use of exploratory factor analysis in
developmental disability psychological research. Journal of autism developmental disorders,
40(1), 8-20. https://doi.org/10.1007/s10803-009-0816-2
Oliver, R. L. J. J. o. m. r. (1980). A cognitive model of the antecedents and consequences of
satisfaction decisions. Journal of Marketing Research, 17(4), 460-469.
https://doi.org/10.1177/002224378001700405
Pandey, S., Won, Y. J., Hong, J. W., & Strassner, J. (2011). Dimensioning internet protocol television
video on demand services. International Journal of Network Management, 21(6), 455-468.
https://doi.org/10.1002/nem.769
Radner, R., & Rothschild, M. J. J. o. E. T. (1975). On the allocation of effort. Journal Of Economic
Theory, 10(3), 358-376. https://doi.org/10.1016/0022- 0531(75)90006-x
Rahmiati, R., & Yuannita, I. I. J. J. K. M. B. (2019). The influence of trust, perceived usefulness,
perceived ease of use, and attitude on purchase intention. Jurnal Kajian Manajemen Bisnis, 8(1),
27-34. https://doi.org/10.24036/jkmb.10884800.
Robey, D. (1979). User attitudes and management information system use. Academy of management
Journal, 22(3), 527-538. https://doi.org/10.5465/255742
Savitz, E. J. (2020). Netflix Slows Spending on Licensed Content, Focuses on Original Programming.
Retrieved from
https://www.barrons.com/articles/netflix-slows-spending-on-licensed-content-focuses-on-original
-programming-51580504424

132
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Shakeel, H. (2021). Effects of Netflix Users on Physical Activity before and during Lockdown.
Available at SSRN 3917550.
Shih, H.-P. (2004). An empirical study on predicting user acceptance of e shopping on the Web.
Information and Management, 41(3), 351-368.
https://doi.org/10.1016/S0378-7206(03)00079-X
Shin, D. H. (2007). User acceptance of mobile Internet: Implication for convergence technologies.
Interacting with Computers, 19(4), 472-483. https://doi.org/10.1016/j.intcom.2007.04.001
Shin, D. H. (2009). Determinants of customer acceptance of multi-service networks: An implication
for IP-based technologies. Information and Management, 46(1), 16-22.
Swanson, E. B. (1982). Measuring user attitudes in MIS research: A review. Omega, 10(2), 157-165.
https://doi.org/10.1016/0305-0483(82)90050-0 Thinkuknow. A short guide to live streaming.
Retrieved October 6, 2021 from
https://www.thinkuknow.co.uk/parents/articles/what-is-live-streaming/
Tinsley, H. E., & Tinsley, D. J. (1987). Uses of factor analysis in counseling psychology research.
Journal of counseling psychology, 34(4), 414. https://doi.org/10.1037/0022-0167.34.4.414
Venkatesh, V., Thong, J. Y., & Xu, X. J. M. q. (2012). Consumer acceptance and use of information
technology: extending the unified theory of acceptance and use of technology. MIS quarterly,
36(1), 157-178. https://doi.org/10.2307/41410412
VNETWORK Content Delivery Network. (2020). Video Online Streaming Platform Việt Nam.
Retrieved October 7, 2021 from
https://vncdn.vn/tin-tuc/videoonline-streaming-platform-viet-nam
Winslow, G. (2021). New Streaming Projections: 1B Users Globally in 2021. Retrieved October 20,
2021 from
https://www.tvtechnology.com/news/new-streaming-projections-1b-users-globally-in-2021
Zaki, N. A. (2017). Examining Customers’ Continuance Intentions Towards Internet Banking Usage.
SSRN 3084435. https://doi.org/10.2139/ssrn.3084435

133
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

EFFECTS OF ELECTRONIC WORD OF MOUTH ON BRAND IMAGE


AND PURCHASE INTENTION
AN EMPIRICAL STUDY IN VIETNAM’S CINEMA INDUSTRY
Phạm Gia Huy
Lê Ngọc Ngân
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: huyphambtxcv@gmail.com

INFORMATION ABSTRACT
Received date: 16/12/2022 The way information is communicated has altered as a result
Revised date: 10/3/2023 of developments in information technology and the introduction of
Accepted date: 11/3/2023 online social networking sites, from word of mouth to electronic word
of mouth. Electronic word of mouth is one of the most universal ways
to spread reviews and recommendations in the Internet era.
Customers are affected by this problem since the decision to purchase
might be significantly influenced by the readily available information.
The research team’s goal in this study is to examine whether
electronic word of mouth impacts brand perception and purchase
intent in the Vietnamese film industry. This is also the first research
Keywords: done in this field in Vietnam. This study lays the groundwork for
brand image, future studies on product branding by offering insightful information
electronic word of mouth, about the assessment of e-WOM, brand image, and purchase intention
e-WOM, in the film industry. To find the final results for the topic, a Google
internet,
Form survey was established to survey 250 Vietnamese people
online word of mouth,
through 3 main variables of the research model (e-WOM, Brand
purchase intention,
traditional word of mouth, Image, and Purchase Intention). The survey data are all imported into
Vietnamese cinema industry, Smart PLS 3.0 software for processing and final results.
Vietnamese film industry, Findings: The study discovered that one of the most powerful
WOM, elements impacting brand image and purchase intention of brands in
word of mouth the Vietnamese film industry is electronic word of mouth.

1. Problem statement
The emergence of new media platforms over the past several years has created a plethora of
opportunities for e-WOM (electronic word-of-mouth) communication. Many customers share their
ideas and trade product information using Web 2.0 technologies (such as blogs, social networking
sites, online forums, and consumer review websites).
Internet users place greater faith in anonymous customer evaluations posted online than they
do in reputable media when making purchasing decisions. 46 percent of respondents reported that
they are affected by internet reviews, blogs, and other user-generated material while making a
purchase, with 91 percent of respondents saying that they do so.

134
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Traditional word-of-mouth (WOM) was originally defined as an oral form of interpersonal


non-commercial communication among acquaintances (Cheung et al, 2010). It focuses on
person-to-person contact, however, on the internet, it can become viral if its message is persuasive or
funny enough (Estrella-Ramón et al, 2017). This traditional WOM phenomenon has evolved into a
new form of communication, namely e-WOM communication.
1.1. Research objectives
● Find out the elements of e-WOM in the Vietnamese film industry.
● Find out the relationship between e-WOM and brand image in the Vietnamese film industry.
● Find out the relationship between brand image and purchase intention in the Vietnamese film
industry.
1.2. Research questions
● What are the elements of electronic word of mouth in the Vietnamese film industry?
● What are the effects of electronic word of mouth on brand image and purchase intention?
● How marketers in the VN film industry should use electronic word of mouth to boost
revenue?
1.3. Research subjects
● e-WOM in the Vietnamese film industry
● Audiences between the ages of 17 and 40 in Vietnam.
1.4. Research scopes
● Time: 01/5/2022 - 31/7/2022
● Space: Audiences in Ho Chi Minh City.
2. Literature review
2.1. Literature
Vietnamese cinema industry
The Vietnamese film industry is thriving. Vietnamese people are now prepared to spend more
for amusement activities that were earlier seen as luxuries since living circumstances have
significantly improved. Among these, going to the movies stands out as a highly popular activity to
do when you have some free time.
Because of the Covid-19 pandemic, there was a dramatic fall in the number of tickets sold at
movie theatres in Vietnam. This situation lasted until the year 2022 when the Vietnamese came back
to their new normal life. In the first months of 2022, cinema theatres reopened and showed a great
revival in the general cinema industry.
The Vietnamese government also manifests its influence and support as the film industry
advances quickly and significantly. Vietnamese films would make up at least 45 percent of all films
shown in theaters, according to Prime Minister's Decision 2156/QD-TTg, dated November 11, 2013,

135
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

on "Strategy to develop Vietnamese film industry to 2020, vision 2030."


Electronic word of mouth (e-WOM)
Customers get marketing information via word-of-mouth to the extent that it influences their
views and behavior toward a good or service (Huete-Alcocer, 2017).
Any comment made by potential, existing, or past consumers regarding a product or business
that is made available to a large number of individuals and institutions over the Internet is referred to
as a "e-WOM communication" (Hennig-Thurau et al., 2004). It may also be seen as the expansion of
conventional spoken communication into the current digital era. (see Table 2.1).
Table 1. Different types of e-WOM platforms (Cheung and Thadani, 2012)

Platforms Examples
Social media platforms Facebook.com, Twitter.com
Brand/shopping websites online Amazon.com, Ebay.com
Online review platforms for consumers Epinions.com, Shopping.com
Online message boards Ukbusinessforums.co.uk
Blogs Xanga.com, Blogger.com

Brand image
Peter & Olson (2000) defined brand image as the representation of users' awareness and
interest in that brand through a research of his writings. Additionally, brand image is a crucial
competitive advantage that supports the creation and maintenance of value through distinction of the
primary brand, according to Aaker (1996) and Keller (2009). It aids in building trust, fostering
confidence, and developing critical values for a company organization.
In general, using both of the aforementioned claims, brand image is created when customers
start to experience certain emotions and thoughts for the brands they learn about, and from there, that
brand eventually starts to become a habit when they choose consumer goods (Keller, 1993). Brand
image is a crucial competitive factor that contributes to value creation through brand distinctiveness
and shapes consumers' purchasing decisions (Aaker, 1996; Keller, 1996). Additionally, studies
demonstrate a strong link between brand perception and intention to buy (Shukla, 2010; Wu et al.,
2011; Lien et al;, 2015).
Jalivand and Samiei (2012) showed the favorable correlations between e-WOM, brand image,
and buy intention. They also demonstrated how e-WOM will increase consumer purchase
satisfaction, lower marketing expenses, and improve the organisation's reputation.
Purchase intention
According to Oosthuisen, Spowart, and Meyer O. Heydenrych (2015), purchase intention is
based on behavioral science and is determined by a mix of consumer preferences and willingness to
buy a certain product. This is a typical characteristic used to predict future contributions to the
purchase of goods from a specific brand. It has been demonstrated in numerous research papers that

136
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

consumers' general attitudes toward the product influence the development of their purchase
intentions (Cheruiyot & Maru, 2013); to further support this assertion, it can be said that the more
favourable these attitudes, the more likely consumers are to purchase the product (Manzoor, Baig,
Hashim and Sami, 2020).
A substantial correlation between the volume of online comments and consumers' favourable
purchase intentions for a given brand was discovered in a different study by Berger et al. (2010).
According to Lee et al. (2011), goods with more favourable ratings frequently fared better in sales.
On the other side, if there are more negative remarks, the client will notice a flaw and have a bad
intention to purchase the product (Park and Lee, 2008). Lee et al. (2011) underlined that as negative
evaluations are far more persuasive than good ones, they are a significant factor in influencing
consumer choice. As a result, e-WOM communication is particularly helpful for consumers as they
consider whether to buy a particular brand.
e-WOM and Purchase intention
e-WOM has grown in significance because of advancements in online buying options.
Customers might browse the websites that sell the items or services after receiving recommendations
from friends or acquaintances on social media. In other words, if customers heed suggestions, they
could immediately make a buy. This is a key characteristic that sets e-WOM apart from offline WOM
(Sanjeev Verma & Neha Yadav, 2022).
2.2. Research hypothesis
The internet has led to the emergence of a less personal but more pervasive form of
communication known as electronic word of mouth (Brown, Broderick, & Lee, 2007; Xia &
Bechwati, 2008). Studies have indicated that consumers are more inclined to believe online product
reviews that vary not only in quality but also in the polarity of positive to negative remarks when they
acquire pre-purchase information (Zhu & Zhang, 2010; Adjei, Noble, & Noble, 2009). (Sparks &
Browning, 2011). Positive internet reviews of a particular hotel were found to considerably increase
booking intentions, according to Ladhari & Michaud (2015). Additionally, e-WOM assessments may
influence consumer outlooks, attitudes, purchasing decisions, and post-use evaluations, according to
Al-Debei, Akroush, and Ashouri (2015). Furthermore, Elseidi & El-Baz (2016) found that
word-of-mouth strongly influences purchasing intention. Therefore, it is expected that in this study,
customer purchase intention is significantly influenced favourably by E word of mouth.
Our team suggests the following hypotheses:
H1: Electronic word of mouth will have a positive impact on brand image.
H2: Electronic word of mouth will positively impact purchase intention.
H3: Brand image will positively impact purchase intention.
2.3 Research model
This is the model that we recommend following the previous model (Mohammad Reza
Jalilvand, Neda Samiei, 2012):

137
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Figure 1. Research model


2.4. Operationalization of Variables
Table 2. Survey table

Variable Scale items Source

(e-WOM1) I often read other consumers’ online


product reviews to know what products/brands
make good impressions on others
(e-WOM2) To make sure I buy the right product/
brand, I often read other consumers’ online product
reviews
(e-WOM3) I often consult other consumers’ online
product reviews to help choose the right product/
(Bambauer-Sachse
brand
E- Word of Mouth and Mangold,
(e-WOM4) I frequently gather information from
2011)
online consumers’ product reviews before I buy a
certain product/brand
(e-WOM5) If I don’t read consumers’ online product
reviews when I buy a product/brand, I worry about
my decision
(e-WOM6) When I buy a product/brand, consumers’
online product reviews make me confident in
purchasing the product/brand

(BI1) In comparison to other products/brand, this


product/brand has high quality
Brand image (BI2) This product/brand has a rich history (Davis et al., 2009)
(BI3) Customers (we) can reliably predict how this
product/brand will perform

138
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

(PI1) I would buy this product/brand rather than any


other brands available
(PI2) I am willing to recommend others to buy this
Purchase intention (Shukla, 2010)
product/brand
(PI3) I intend to purchase this product/brand in the
future

3. Method
3.1. Research process

Figure 2. Research process


3.2. Method
Qualitative research
In order to uncover flaws, actual research difficulties, and efficiently reconstruct a
theoretical research model for themselves, qualitative researchers resort to research papers, journal
pages, earlier related research papers, etc. To be able to make adjustments and develop the final
model, the research team will carry out a test survey, consult the instructors, and group members.
Quantitative research
The scales will now be used in the survey to gather data after being modified. The study team
chose to use PLS 3.0 software along with a bootstrapping approach to examine the connection
between variables in the research model. The quantitative processing techniques are as follows:
1. Create a questionnaire.
2. Make a trial survey.
3. Analyzing survey results.
4. Protect variable data.

139
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

5. Fill out PLS 3.0 with data.


6. Run the data processing with PLS 3.0.
We choose the sample depending on the number of survey samples in the following manner.
The minimal number of samples will be 12x5, or 60 samples, because there are 12 observed
variables. However, we shall survey a sample of 250 surveyors to increase the reliability's certainty.
4. Research results
4.1. Data collection
Table 3. Statistical table describing survey sample data

Measure Item N Percent (%)


Male 128 51.2
Gender
Female 122 48.8
Under 20 67 26.8
Age 20 - 24 182 72.8
Above 24 1 0.4
High school 53 21.2
Education Graduate 195 78
Postgraduate 2 0.8

4.2. Result
To check the reliability of the research model as well as find out specific data to conclude the
study, the research team decided to choose SmartPLS 3.0 software as the software to run the main
metric of the article.
Measurement scale quality
Table 4. T-value and p-value
T Statistics (|O/STDEV|) P Values
BI → PI 6,273 0,000
e-WOM → BI 9,439 0,000
e-WOM → PI 6,923 0,000

Outer Loadings
Table 5. Outer Loadings
BI e-WOM PI
BI1 0,794
BI2 0,457
BI3 0,846

140
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

e-WOM1 0,609
e-WOM2 0,724
e-WOM3 0,580
e-WOM4 0,628
e-WOM5 0,602
e-WOM6 0,621
PI1 0,648
PI2 0,759
PI3 0,794

Construct Reliability
Table 6. Construct Reliability
Composite Table 4.4.
Construct Reliability and Average Variance Extracted
Cronbach's Alpha
Validity (AVE)
Reliability
BI 0,509 0,753 0,518
e-WOM 0,695 0,796 0,396
PI 0,583 0,779 0,541

Table 7. Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT)


BI e-WOM PI
BI
e-WOM 0,798
PI 0,972 0,893

Two methods are available in the SmartPLS 3.0 program for evaluating discriminant. The
research team chose to evaluate the discriminant using the HTMT index in order to improve the
shortcomings of the traditional method and obtain more objective data. Although in this study, 2
HTMT indexes are higher than normal when compared with other variables, 0.972 and 0.893;
however, it still meets the minimum condition of less than 1. Therefore, we still consider it a good
metric. Therefore, the research topic is still suitable for further data processing stages.
Hypothesis testing
Path Coefficient
Table 8. Path Coefficient
Original Sample (O) P Values
H1 BI → PI 0,362 0,000
H2 e-WOM → BI 0,490 0,000
H3 e-WOM → PI 0,403 0,000

141
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Table 9. R Square
R Square
BI 0,240
PI 0,437
Total Indirect Effect
Table 10. Total Indirect Effect
Standard
Original Sample Mean T Statistics
Deviation P Values
Sample (O) (M) (|O/STDEV|)
(STDEV)
BI → PI
e-WOM → BI
e-WOM → PI 0,178 0,181 0,032 5,493 0,000

Specific Indirect Effect


Table 11. Specific Indirect Effect

Original Sample (O) P Values


e-WOM → BI → PI 0,178 0,000

4.3. Summarize the hypothesis


Table 12. Summarize the hypothesis
Original Sample
Hypothesis P Values Survey findings
(O)
H1 e-WOM → BI 0,490 0,000 Supported
H2 e-WOM → PI 0,403 0,000 Supported
H3 BI → PI 0,362 0,000 Supported

The results from the study show that e-WOM has a significant positive impact on purchase
intention as well as brand image. Moreover, brand image mediates the relationship between e-WOM
and consumer purchase intention.
H1: Electronic word of mouth will have a positive impact on brand image (e-WOM → BI).
H2: Electronic word of mouth will positively impact purchase intention (e-WOM → PI).
H3: Brand image will positively impact purchase intention (BI → PI).
This is also demonstrated in the work of previous research papers such as Mohammad Reza
Jalilvand, Neda Samiei, (2012) as well as (Chevalier and Mayzlin, (2006)) in many other fields.
5. Conclusion

142
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

5.1. Theoretical contributions


The results of this study indicate that the research team's research model explains that e-WOM
and brand image impact purchase intention in the Vietnamese cinema industry. By analyzing the
effect of e-WOM on brand image and the online purchase intentions of audiences in the film industry,
this study aims to add to the body of knowledge about e-WOM in Vietnam. The outcomes supported
each of the three hypotheses. Thus, it can be said that brand image greatly affects consumer purchase
intentions and that e-WOM has a beneficial impact on both brand perception and those intentions.
These findings underline the significance of e-WOM and the numerous benefits that can be attained
by creating and putting into practice the best marketing plans.
The finding shows that e-WOM on the purchase intention is positive and significant. Thus, it
can be included that:
1. This outcome demonstrates the considerable potential influence that e-WOM may have on a
consumer's buying intention. The ways in which social media, message boards, and other
communication tools that allow e-WOM affect Vietnamese people's adoption and use are also
coming to light more frequently. The e-WOM message will now serve as a crucial resource for
customers looking to learn more about movies and decide whether or not to make a purchase.
2. In the movie business, the brand image has a favorable and considerable impact on
Vietnamese consumers' purchase intentions. In this instance, the brand image is successful in
invoking in buyers' minds sentiments of trust and confidence in three exceptional movie
brands. It occurs because the organization's and its service's main value propositions are
effectively communicated to clients through the powerful movie brand image. As a result, it
can support and enhance consumer intent to purchase in the Vietnamese film business.
Research team explores the unique contribution of interpersonal influences on brand image
and purchase intention in the Vietnamese cinema industry. Numerous research conducted before our
study, such as those by Mohammad Reza Jalilvand and Neda Samiei (2012) and Chevalier and
Mayzlin (2006), established this point, but not in the context of the film business. The results
demonstrate how crucial internet word-of-mouth is in the Vietnamese film industry's decision-making
process. In the rising internet era, consumers may read a lot of online reviews and suggestions for
new movies or films playing in theaters on social networking sites which can significantly influence
their decision to buy in this market. As a result, the research team decided to conduct this study with
the aim of encouraging online WOM communication for consumers in the Vietnamese film business.
5.2. Limitations and recommendations for future studies
First, a notable constraint of the study is the sample of 250 respondents who live in Ho Chi
Minh City. The research was also unable to examine some of the crucial insights from the
respondents because it is possible to use a quantitative technique. Therefore, as recommendations for
future study, we might propose using a qualitative technique, which will give the chance to examine
more useful replies from the sample.
Future research studies can include mediating factors like brand equity, brand loyalty, and so
on as dependent variables, together with variables like consumer online intention, repurchase
intention, and so forth as mediating variables.

143
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

To ensure that the sample is more representative of the entire population, sampling might be
expanded to include more regions of the selected nation. It would be beneficial to include more
international participants in the sampling in order to better understand cultural differences.
There hasn't been much previous research on how e-WOM influences consumers’ preferences
for purchasing movies related products, with brand image acting as a mediating factor. As a result,
this study offers important insights into how the theoretical and managerial components of this
industry's social media marketing sector have developed.
5.3. Managerial implication
Regarding the management ramifications, this study offers insightful information to marketers
that use social media as a channel for communication. Social media networks have had a significant
impact on company practices and marketing methods (Irfan, Rasli, Sulaiman, Sami & Qureshi, 2019).
When developing brands or online communities, companies should focus on elements that influence
consumer perceptions of brands, which in turn influence purchasing decisions. Organizations should
thus take the appropriate actions to control the spread of unfavorable word of mouth. The quality of
the goods and services that businesses deliver to consumers should be their top priority since, with
the growth of social media, even a minor error on the part of the business may become viral and
negatively impact consumer perception of the brand and intent to make a purchase.

References
Citra Savitri, R. H. (2021). The Effect of Electronic Word of Mouth on E-Purchase Decision at
Marketplace. Advances in Economics, Business and Management Research,.
Christy M.K. Cheung, D. R. (2012). The impact of electronic word-of-mouth communication: A
literature analysis and integrative model. Science Direct.
Christy M.K. Cheung, M. K. (2008). The impact of electronic word-of-mouth. The adoption of online
opinions in online customer communities. Emerald Insight.
Chevalier, J. A., & Mayzlin, D. (2006). The effect of word of mouth on sales: Online book reviews.
Journal of marketing research, 43(3), 345-354.
Dr. Vahidreza Mirabi, H. A. (2015). A Study of Factors Affecting on Customers Purchase Intention
Case Study: the Agencies of Bono Brand Tile in Tehran. Journal of Multidisciplinary
Engineering Science and Technology (JMEST).
Dijkstra, T. K., & Henseler, J. (2015). Consistent partial least squares path modeling. MIS quarterly,
39(2), 297-316.
Farzin, M. a. (2018). e-WOM through social networking sites and impact on purchase intention and
brand image in Iran. Journal of Advances in Management Research.
Garson, J. (2016). A critical overview of biological functions. Cham: Springer International
Publishing.

144
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hair Jr, J. F., Sarstedt, M., Hopkins, L., & Kuppelwieser, V. G. (2014). Partial least squares structural
equation modeling (PLS-SEM): An emerging tool in business research. European business
review.
Jalilvand, M. R., & Samiei, N. (2012). The impact of electronic word of mouth on a tourism
destination choice: Testing the theory of planned behavior (TPB). Internet research.
Jalilvand, M. R., & Samiei, N. (2012). The effect of electronic word of mouth on brand image and
purchase intention: An empirical study in the automobile industry in Iran. Marketing Intelligence
& Planning.
Lung-Yu Chang, e. (n.d.). The Influence of E-Word-Of-Mouth on the Consumer’s Purchase . The
Influence of E-Word-Of-Mouth on the Consumer’s Purchase Decision: a Case of Body Care
Products.
Mohammad Reza Jalilvand, N. S. (2012). The effect of electronic word of mouth on brand image and
purchase intention: An empirical study in the automobile industry in Iran. Marketing Intelligence
& Planning.
Mohammad Reza Jalilvanda, S. S. (2011). Electronic word-of-mouth: Challenges and opportunities.
Procedia Computer Science.
Siddiqui, M., Siddiqui, U., Khan, M., Alkandi, I., Saxena, A., & Siddiqui, J. (2021). Creating
Electronic Word of Mouth Credibility through Social Networking Sites and Determining Its
Impact on Brand Image and Online Purchase Intentions in India. India. J. Theor. Appl.
The international conference on digital marketing. (2014). Colombo, Sri Lanka: The International
Institute of Knowledge Management (TIIKM).
Thorsten Hennig-Thurau, K. P. (2004). Electronic Word-Of-Mouth Via Consumer-Opinion Platforms:
What Motivates Consumers To Articulate Themselves On The Internet? Journal Of Interactive
Marketing.

145
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

FACTORS IMPACTING ON THE INTENTION TO START


AN E-BUSINESS: A CASE STUDY OF UNIVERSITY STUDENTS
Lê Thị Thu Trang
Lê Thanh Hiền
Nguyễn Thị Yến Nhi
Nguyễn Thị Hồng Thắm
Vũ Thị Trang
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: trangle.31201023161@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Received date: 15/12/2022 Up to now, e-business is no stranger to many people as well as


Revised date: 19/02/2023 Vietnamese startups. According to experts, starting an e-business
Accepted date: 20/02/2023
really brings opportunities and success to passionate young people.
However, e-business easily brings success to some people and many
failures as well. The team carried out this study with the aim of
discovering and measuring the factors affecting the intention to start
an e-business as well as delving into the influence of those studies on
Keywords:
the intention of starting an e-business for young people, especially
influential factors,
intention to start an students based on background theories and synthesis of domestic and
e-business, international research. Based on the research results, a number of
start a business, implications are given to help young startups have the right business
start an e-business, strategies in the context of a rapidly developing new technological
students society.

1. Introduction
Entrepreneurship is a topic that has received much special attention in Vietnam in recent years,
especially in the context of the country's strong integration with the world economy. Starting a
business is expected to create economic growth, contribute positively and strongly to socio-economic
development and create many jobs for the community to meet the needs of a growing and diverse
society. In recent years, due to the explosion of the Internet and information technology, starting an
e-business is becoming more and more attractive and is the choice of many people who intend to start
a business. The percentage of people using the Internet is increasing day by day. The wave of digital
transformation and the emergence of the Covid pandemic have been taking place now that have
created conditions for business activities to buy and sell via the Internet to develop dramatically.
Thereby, the movement of starting an e-business is considered a trend of the new era. This has also
motivated the research team to choose the topic: “Factors impacting on the intention to start an
e-business: A case study of university students”.
This study conducted a survey of a group of students in Ho Chi Minh City. The process of

146
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

collecting, selecting filters and processing data has been conducted from December 2021 to the end
of January 2022. Research method is a combination of qualitative and quantitative methods.
Objective of this study is that it identifies the factors affecting the intention to start an e-business of
university students in Ho Chi Minh City and evaluates its impact on the intention of students. From
there, providing policy recommendations for universities and start-up social organizations.
2. Literature Review, Modal And Hypothesis
2.1. Literature review
2.1.1. Overview of e-entrepreneurship
As a tenet of entrepreneurship, e-entrepreneurship means creating new business activities
while using Internet-directed resources to sell or serve customers (Manuel, 2006). Jiwa, Lavelle and
Rose (2005) pointed out that e-entrepreneurship is mainly different from traditional business
activities related to communication and approaches used to operate and control the business
environment. E-business start-ups mainly rely on digital platforms, including email, social media
channels, e-forums, online business development, e-commerce from websites and business projects
based on information technology.
2.1.2. Theory of Planned Behavior (TPB)
Ajzen formulated the theory of planned behavior (TPB) in 1991. The underlying elements of
the intention expressed through the above theory include beliefs or attitudes, subjective norms and
perceived behavioral control. In general, TPB considers that the stronger the individual's intention to
act, the higher the likelihood of acting. Ajzen (1991) asserted that TPB's cognitive model emphasizes
three motivational factors related to business intention, considered the best predictors.
2.2. Hypotheses and research models
2.2.1. Intention to start an E-business
Intention to start an e-business is defined as the intention to start a new business through the
Internet, the intention to own an online business, or start a business (Zhao et al., 2010). The intention
to start an e-business is to create value using resources in innovative ways and with the determination
to achieve positive social transformation (Bosch-Badia et al., 2015; Shaw and Carter, 2007).
2.2.2. Hypothesis
According to research by Laura von Arnim & Matthias Mrozewski (2020), it is found that
digital competence has an impact on the intention to start an e-business. Therefore, Laura von Arnim
and Matthias Mrozewski (2020) have studied the basic factors of TPB for business intention, and the
results show the attitude towards entrepreneurial intention and PBC towards intention. However,
according to the study of N N Islami (2019), it is denied that digital ability or proficiency, when used
with computers, affects students' intention to start a business.
H1: Digital capability has a positive effect (+) on the intention to start an e-business of university
students in Ho Chi Minh City.
According to research from Farooq et al. (2018), the authors researched and discovered the
impact of social support factors on the entrepreneurial intentions of new graduates in business. The

147
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

results of this study have shown that social support is a factor that greatly influences all components
of TPB (attitude towards entrepreneurship, subjective norm, perceived behavioral control). However,
Molino et al. (2018) also emphasized that it is necessary to investigate the relationship between social
support and entrepreneurial intention.
H2: Social support has a positive effect (+) on the intention to start an e-business of university
students in Ho Chi Minh City.
Maribel Guerrero et al. (2014) evidenced that university environmental factors include formal
factors (support measures, education and training programs) and informal factors (attitudes towards
entrepreneurship, role models). According to Huang et al. (2019) as the economy continued to grow
and the emergence of the Internet opened up vast opportunities for small businesses and online
entrepreneurs, universities began to provide entrepreneurship education at the undergraduate level
and then the graduate level in the 2000s (Anderson and Zhang, 2015; Li et al., 2003).
H3: University environment has a positive effect (+) on the intention to start an e business of
university students in Ho Chi Minh City.
Neacșu et al. (2015) found that attitude towards behaviour has a direct and positive influence
on intention to start an e-business. Results from a study by Samar Alzamel et al. (2020) revealed
significant corrections between attitudes towards e entrepreneurship and intention to start e-business
and between self-efficient business and e-business. Moreover, many studies abroad have used a
model in which attitude is one of the factors affecting the intention to start a business (Nordin, 2012).
H4: Attitude towards e-entrepreneurship has a positive effect (+) on the intention to start an
e-business of university students in Ho Chi Minh City.
Ajzen (2006), subjective norms refer to an individual's social pressure or motivation to
perform a particular behavior and the individual's motivation to comply with those normative
guidelines. Ahmad et al. (2019); Heuer and Liñán (2013); Farooq et al.,(2018) said that important
people other than family members and factors aggregated around the individual are used to observe
the effects of subjective norms factors on intention to start a business.
H5: Subjective norms have a positive effect (+) on the intention to start an e-business of university
students in Ho Chi Minh City.
Ajzen (1991) stated that perceived behavioral control is an individual's perception of the ease
or difficulty of performing a particular behavior, which is dependent on opportunities to perform the
behavior and the availability of resources. In Laura von Arnim and Matthias Mrozewski (2020) study,
perceived behavioral control positively affects international entrepreneurial intention. Karimi et al.
(2015) conducted research in a developing country and found that perceived behavioral control has a
positive relationship with the intention to start a business.
H6: Perceived behavioral control has a positive effect (+) on the intention to start an e-business of
university students in Ho Chi Minh City.
In the acquired needs theory, McClelland (1961) describes individuals with a high need for
achievement as those who prefer to take personal responsibility for problem solving, goal setting, and
achieving these goals through their own efforts. Ismail et al. (2012) proposed and supported the

148
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

hypothesis that there is no significant impact of need for achievement on the intention to start a cyber
business based on the scope of university students in Malaysia. However, two studies by Karimi et al.
(2015) and Younis et al. (2020) are inconsistent with the above results.
H7: Need for achievements has a positive (+) effect on the intention to start an e business of
university students in Ho Chi Minh City.
Entrepreneurship is seen as a business path associated with risks and uncertainties. Chris et al.
(2008) and Karimi et al. (2015) found that risk significantly affects students' interest in their own
businesses. However, Ismail et al. (2012) support the hypothesis that risk-taking has no significant
effect on entrepreneurial intention. According to Clement and Poh (2004), personal characteristics
such as risk attitudes do not seem to have an independent influence on the interest in
entrepreneurship.
H8: Risk-taking has a positive (+) effect on the intention to start an e-business of university
students in Ho Chi Minh City.
2.2.3. Research model

Figure 1. Proposed research model


3. Research Methods
Preliminary research
At the beginning of January 2022, the team conducted preliminary quantitative research by
interviewing through a questionnaire with a sample of 50 students to evaluate the scale before
conducting formal research preliminarily. The scale is tested using construct reliability - Cronbach's

149
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Alpha. The main objective of preliminary research is to discover and adjust the observed variables in
the scale used to measure the research concept.
Formal quantitative research
Through data taken from the survey of undergraduate students of universities in Ho Chi Minh
City with 350 samples, the team filtered and collected 288 standard samples to run the data. After
collecting the official survey sample, the research team conducted data analysis through: The
descriptive statistics table describes the collected sample according to qualitative variables such as
gender, school, majors, educational background and income. Testing the scale by using reliability
coefficient - Cronbach's Alpha, applied PLS-SEM. For this study, the number of independent
2
variables of the model is eight, corresponding to a minimum sample size of 144 (with 𝑅 at least 0.10
and a significance level of 5%).
4. Findings And Discussion
4.1. Preliminary analysis
Next, the group performed descriptive statistics, the results are shown in the following
appendix.
4.2. Assessment of measurement model
4.2.1. Construct reliability
According to Cronbach's Alpha results as shown in the table below, the research team found
that the reliability values ranged from 0.702 to 0.933. This is considered a good measurement scale.
With the structural reliability rho_A, the value levels in Table 4 are all satisfactory (above 0.7).
Table 1. Construct reliability and validity

Cronbach's Alpha rho_A Composite Average Variance


Reliability Extracted (AVE)

AT 0.893 0.893 0.926 0.757

DC 0.905 0.920 0.922 0.567

INT 0.933 0.934 0.949 0.789

NA 0.702 0.724 0.834 0.626

PBC 0.897 0.912 0.924 0.708

RT 0.822 0.829 0.881 0.650

SN 0.830 0.837 0.898 0.746

SS 0.809 0.857 0.871 0.630

UE 0.901 0.930 0.919 0.586

150
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
4.2.2. Construct validity
As Table 4 shows, this index ranges from 0.567 to 0.798. The AVE value in the research
model shows that the digital capability and university environment are 56.7% and 58.6%. The AVE
values of need for achievement, social support, and risk-taking were 62.6%, 63%, and 65%. The
remaining values are above 0.7, such as perceived behavioral control (70.8%), subjective norms
(74.6%), attitude towards e-entrepreneurship (75.7%) with an intention to start an e-business
accounted for 78.9% of the variance compared to other variables.
4.2.3. Indicator outer loadings
The higher the indicator loadings, the better the outcome variable measures the concept.
Normally, the indicator loadings should be above 0.7 if the indicator loadings is found in the range of
0.4 to 0.7, the observed variable will be removed from the scale after considering the content value if
the removal of this variable will increase the value of the construct reliability or average variance
extracted is above the recommended value threshold. The first algorithm results show that the
observed variables are satisfactory, with indexes ranging from 0.701 on the DC1 scale to 0.899 on the
INT2 scale.
Table 2. Construct outer loadings

AT DC INT NA PBC RT SN SS UE

ATT1 0.853

ATT2 0.873

ATT3 0.866

ATT4 0.886

DC1 0.701

DC2 0.734

DC3 0.779

DC4 0.783

DC5 0.757

DC6 0.744

151
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

AT DC INT NA PBC RT SN SS UE

DC7 0.785

DC8 0.784

DC9 0.704

INT1 0.883

INT2 0.899

INT3 0.886

INT4 0.882

INT5 0.891

NA1 0.786

NA2 0.731

NA3 0.853

PBC1 0.882

PBC2 0.724

PBC3 0.841

PBC4 0.861

PBC5 0.889

RT1 0.819

RT2 0.813

RT3 0.802

RT4 0.791

152
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

AT DC INT NA PBC RT SN SS UE

SN1 0.866

SN2 0.890

SN3 0.835

SS1 0.829

SS2 0.724

SS3 0.871

SS4 0.740

UE1 0.733

UE2 0.776

UE3 0.779

UE4 0.724

UE5 0.767

UE6 0.819

UE7 0.739

UE8 0.783

Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
4.2.4. Discriminant validity
As a result, all Heterotrait-Monotrait ratios are below 0.90 and they are also significantly
different from 1.00. Therefore, the discriminant validity problem does not appear in the present study.
Table 3. Heterotrait-Monotrait (HTMT) ratio

AT DC INT NA PBC RT SN SS UE

AT

153
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

DC 0.669

INT 0.534 0.402

NA 0.315 0.170 0.401

PBC 0.518 0.299 0.696 0.464

RT 0.536 0.421 0.576 0.466 0.733

SN 0.746 0.559 0.527 0.408 0.674 0.630

SS 0.750 0.705 0.408 0.317 0.444 0.529 0.674

UE 0.771 0.674 0.416 0.271 0.445 0.517 0.732 0.858

Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
4.3. Assessment of structural model
4.3.1. Multicollinearity assessment
Hair et al. (2019) suggested that the ideal VIF value should be at a value of 3 or less. Table 7
presents the VIF values of the variables in the model. It can be seen that all VIF values are below the
ideal value 3, multicollinearity is very unlikely to occur.
Table 4. Inner VIF values

AT DC NA PBC RT SN SS UE

VIF 2.536 1,902 1.224 2.010 1.867 2,336 2.419 2.915

Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
4.3.2. Coefficient of determination and adjusted R2
R2 in the table shows that the independent variables explain 48.8% of the intention to start an
e-business with the 5% statistical significance level. This is the average and acceptable level, the
remaining 51.2% is from systematic error and from other factors outside the model.
Table 5. Coefficient of determination values

R2 R2 Adjusted

INxT 0.488 0.473


Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
4.4. Analysis of Effect size f2
The results show that PBC has a mean effect of f2 = 0.227; DC and ATT have small impact
with impact coefficients of 0.024 and 0.023. The remaining variables have extremely small effects

154
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

with f2 values all below 0.02, as shown in Table 9 below:


Table 6. Effect size f2 results

AT DC NA PBC RT SN SS UE

f2 0.023 0.024 0.010 0.227 0.010 0.001 0.001 0.000

Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
4.5. Results of testing the research model

Figure 2: Research model analysis result


Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7. software
Figure 2 shows the results of structural model testing after performing the analysis and testing
step. The reliability and validity of the model are both good, so no observed variables are excluded.
The path coefficients illustrated in the figure above will be explained in the next section of the
chapter.

155
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

4.6. Path coefficients and hypotheses testing


This study uses the same 5% significance level as previous studies for hypothesis testing
results.
Table 7. Hypothesis testing results

Hypothesis Relationship Path Coefficients (Beta) P values Result

H1 DC → INT 0.152 0.026 Supported

H2 SS → INT -0.040 0.568 Rejected

H3 UE → INT -0.024 0.782 Rejected

H4 ATT → INT 0.172 0.047 Supported

H5 SN → INT -0.041 0.608 Rejected

H6 PBC → INT 0.483 0.000 Supported

H7 NA → INT 0.080 0.143 Rejected

H8 RT → INT 0.097 0.179 Rejected

Source: Data processing results of the research team from SmartPLS 3.3.7 software
The results in the table above show that out of the 8 proposed hypotheses, only 3 are accepted
(H1, H4, H6). The impact of factors including social support, university environment and subjective
norms on the intention to start an e-business is nonsignificant and has a value higher than 0.05.
Similarly, the test results also show that individual personality factors, including need for
achievement and risk-taking have no positive relationship with the intention to start an e-business
(higher than significance level 0.05) in the study of university students in HCMC with p-values of
0.143 and 0.179. The remaining three hypotheses H1, H4 and H6 are accepted with p-value < 0.05.
Table 8. Comparison of research results

Previous results Research results

Relationship Beta p-value Beta p-value


Author
coefficient coefficient

DC → INT Laura von Arnim and 0.26 p<0.001 0.153 0.026


Matthias Mrozewski
(2020)

SS → INT Farooq et al. (2018) 0.088 rejected -0.040 0.568

156
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Previous results Research results

Relationship Beta p-value Beta p-value


Author
coefficient coefficient

UE → INT Maribel Guerrero et al. -1.314 p<0.001 -0.025 0.782


(2014)

ATT → INT Samar Alzamel et 0.468 p=0.000 0.048 0.047


al.(2020)

Younis et al. (2020) 0.37 p<0.01

Linda S.L. Lai & Wai - rejected


Ming To (2020)

Farani et al. (2017) 0.42 p<0.01

Laura von Arnim và 0.4 p<0.001


Matthias Mrozewski
(2020)

Farooq et al. (2018) 0.563 p< 0.01

SN → INT Laura von Arnim and 0.30 p<0.001 -0.040 0.608


Matthias Mrozewski
(2020)

Farooq et al. (2018) 0.102 p<0.05

Younis et al. (2020) -0.017 p<0.05

Samar Alzamel et al. -0.037 p=0.145


(2020)

Linda S.L. Lai & Wai 0.29 p<0.001


Ming To (2020)

PBC → INT Farani et al. (2017) 0.61 p<0.01 0.485 0.000

157
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Previous results Research results

Relationship Beta p-value Beta p-value


Author
coefficient coefficient

Laura von Arnim and 0.17 p<0.01


Matthias Mrozewski
(2020)

Younis et al. (2020) 0.194 p < 0.05

NA → INT Younis et al. (2020) 0.155 p < 0.05 0.080 0.143

Ismail et al. (2012) - p=0.165

RT → INT Ismail et al. (2012) - rejected 0.097 0.179

Younis et al. (2020) 0.109 p>0.05

Source: Compiled from the research team


The literature review has shown the inconsistency and consistency between previous studies
and our research results. Research results show that digital capability has an impact on the intention
to start an e-business (p=0.026; β=0.152). Consistent with the study Laura von Arnim and Matthias
Mrozewski (2020) also confirmed this effect. This research's results show that attitude towards
e-entrepreneurship has an impact on intention to start an e-business (p=0.047; β=0.172) with a lower
impact than previous studies. However, Linda S.L. Lai and Wai Ming To (2020) did not support this
hypothesis. Perceived behavioral control has been shown to have a positive effect on the intention to
start an e-business in most of the previous studies.
The results of the analysis indicate that the social support of the correlation with a very low
coefficient of the path with the value of β= -0.40; p> 0.568 compared with the findings of Farooq et
al. (2018) with β =0.088, p>0.05. The analysis results show that there is no correlation between
university environment factors for the student's intention to start an e-business with β= -0.24,
p-value= 0.782 (p<0.05). This contradicts the results of Maribel Guerrero et al. (2014). With the
coefficient β= -0.41 and p-value= 0.608, the research team determined that the subjective norms
factor was not statistically significant in this study. Inconsistent with other studies, such as the study
of Samar Alzamel et al. (2020) with β = -0.037, p-value = 0.145. NA and RT have not been shown to
have a significant and positive relationship with the entrepreneurial intention of university students in
Ho Chi Minh City towards starting an e-business. The above results are not consistent with the study
performed by Younis et al. (2020) (β = 0.155, p <0.05). However, in the above study, no positive
relationship of RT was found respectively (β = 0.109, p> 0.05) and consistent with the research
results.

158
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

5. Conclusions And Recommendations


5.1. Conclusion
The study has re-examined the results and the conclusions of previous studies on 8 factors
affecting students' intention to start an e-business. There are only 3 factors of Digital capability,
Attitude towards E-entrepreneurship and Perceived behavioral control. From there, we will be able to
see which factors are important and have a significant influence in choosing to propose appropriate
decisions to encourage students to access and realize their passion for starting a business easily at the
same time, helping to promote the country's economy to develop and compete with the world in the
current digital technology integration era. Besides, the study contributes to the theory of factors
affecting students' intention to start an e-business. In the future, academic and applied research can
refer to the scale of the study to conduct research with the intention to start an e-business.
5.2. Managerial implications
From a practical perspective, the study results show that a strategically important determinant
of business decision-making is digital capability. Students should know how to equip themselves with
knowledge about the Internet, start-up-related websites, learn more office informatics courses,
computer tools and software to help students prepare well for entrepreneurship while still in school.
The research team recommends that schools and policymakers organize more seminars and talk on
online business opportunities. Attention must be paid to the quality and exploitation of the seminar so
that the seminars are no longer a formality but an opportunity to give students a lot of knowledge and
a realistic view of what they are pursuing by starting an e-business. In addition, the school should
organize competitions on entrepreneurship in general and startups in the field of e-business in
particular with high scale and quality. Connecting entrepreneurs in the field who have experience and
are willing to share can support students in starting a business and help young people start a business
with a more realistic and objective perspective.
5.3. Limitations and directions for further research
Firstly, the scope of the study is only exploratory for the results obtained in the area of
intention to start e-business and because the research team uses a non-probability random sampling
method, limited resources. Further research may add other factors to the intention to start an
e-business more comprehensively. Secondly, the research team only researched university students in
the HCMC area. The research team needs to expand to different scales to increase the generality of
the research model. Finally, this study only studies the intention of students to start an e-business, but
has not mentioned the behavior of starting an e-business in the current specific situation. Future
studies may delve deeper into students' e-business start-up behaviors or can be compared with
students' e-business start-up intentions during an observational period.

References
Ahmad, I., & bin Ahmad, S. (2019). The Mediation Effect Of Strategic Planning On The Relationship
Between Business Skills And Firm’s Performance: Evidence From Medium Enterprises in
Punjab, Pakistan. Opción: Revista de Ciencias Humanas y Sociales, 24, 746–778.

159
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Ajzen, I. (1991). The Theory of Planned Behavior.


Ajzen, I. (2002). Perceived Behavioral Control, Self-Efficacy, Locus of Control, and the Theory of
Planned Behavior. Journal of Applied Social Psychology, 32(4), 665–683.
Ajzen, I. (2006). Constructing a theory of planned behavior questionnaire.
Alzamel, S., Nazri, M., & Omar, S. (2020). Factors influencing e-entrepreneurial intention among
female students in Saudi Arabia. International Journal of Criminology and Sociology, 9,
1996–2003. https://doi.org/10.6000/1929- 4409.2020.09.234
Bosch-Badia, M. T., Montllor-Serrats, J., & Tarrazon-Rodon, M. A. (2015). Corporate social
responsibility: A real options approach to the challenge of financial sustainability. PLOS ONE,
10(5). https://doi.org/10.1371/journal.pone.0125972
Chris, G., Carla, S.M. and Fernanda, N. (2008). Tracking student entrepreneurial potential: personal
attributes and the propensity for business start-ups after graduation in a Portuguese university.
Problems and Perspectives in Management, 6(4), 46–54.
Clement, W. K., & Poh-Kam , W. (2004). Entrepreneurial interest of university students in Singapore.
Technovation, 24(2), 163–172. https://doi.org/10.1016/s0166-4972(02)00016-0
Fang, R., Landis, B., Zhang, Z., Anderson, M. H., Shaw, J. D., & Kilduff, M. (2015). Integrating
personality and social networks: A meta-analysis of personality, network position, and work
outcomes in organisations. Organization Science, 26(4), 1243–1260.
https://doi.org/10.1287/orsc.2015.0972
Farooq, M. S., Salam, M., ur Rehman, S., Fayolle, A., Jaafar, N., & Ayupp, K. (2018). Impact of
support from social networks on entrepreneurial intention of fresh business graduates: A
structural equation modeling approach. Education and Training, 60(4), 335–353.
https://doi.org/10.1108/ET-06-2017-0092
Guerrero, M., Urbano, D., Cunningham, J., & Organ, D. (2014). Entrepreneurial universities in two
European regions: A case study comparison. The Journal of Technology Transfer, 39(3),
415–434. https://doi.org/10.1007/s10961-012- 92872
Heuer, A., & Linan F. (2013). Testing Alternative Measures of Subjective Norms in Entrepreneurial
Intention Models. International Journal of Entrepreneurship and Small Business, 35–50.
Huang, J., Qin, D., Jiang, T., Wang, Y., Feng, Z., Zhai, J., ... & Su, B. (2019). Effect of fertility policy
changes on the population structure and economy of China: from the perspective of the shared
socioeconomic pathways. Earth's Future, 7(3), 250-265.
Islami, N. N. (2019). The effect of digital literacy toward entrepreneurial behaviors through students’
intention entrepreneurship on Economics Education Study Program at Jember. IOP Conference
Series: Earth and Environmental Science, 243(1). https://doi.org/10.1088/1755-
1315/243/1/012084
Ismail, N., Jaffar, N., Khan, S., & Leng, T. S. (2012). Tracking the cyber entrepreneurial intentions of
private universities students in Malaysia. Int. J. Entrepreneurship and Small Business, 17(4).
Jiwa, S., Lavelle, D., & Rose, A. (2005). E-entrepreneurship. Journal of Electronic Commerce in

160
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Organizations, 3(3), 42–56. https://doi.org/10.4018/jeco.200507010


Karimi, J., & Walter, Z. (2015). The role of dynamic capabilities in responding to digital disruption:
A factor-based study of the newspaper industry. Journal of Management Information Systems,
32(1), 39–81. https://doi.org/10.1080/07421222.2015.1029380
Karimi, S., Biemans, H. J., Naderi Mahdei, K., Lans, T., Chizari, M., & Mulder, M. (2015). Testing
the relationship between personality characteristics, contextual factors and entrepreneurial
intentions in a developing country. International Journal of Psychology.
https://doi.org/10.1002/ijop
Li, J., Zhang, Y., & Matlay, H. (2003). Entrepreneurship education in China. Education + Training,
45(8/9), 495–505. https://doi.org/10.1108/00400910310508883
Manuel, E. G. (2006). Entrepreneurship and economics. SSRN Electronic Journal.
https://doi.org/10.2139/ssrn.912762
McClelland, D. C., & Mac Clelland, D. C. (1961). Achieving society (Vol. 92051). Simon and
Schuster.
Molino, M., Dolce, V., Cortese, C. G., & Ghislieri, C. (2018). Personality and social support as
determinants of entrepreneurial intention. Gender differences in Italy. PloS one, 13(6), e0199924.
Neacșu, M. N., Rădulescu, R., Dițoiu, M. C., Aluculesei, A. C., & Mahika, E. C. (2015). Study
Regarding the Entrepreneurial Intention Among Young People in The Context Of The Romanian
Business Environment. European Journal of Business and Social Sciences, 4(01), 121-135.
Shaw, E., & Carter, S. (2007). Social Entrepreneurship: Theoretical antecedents and empirical
analysis of entrepreneurial processes and outcomes. Journal of Small Business and Enterprise
Development, 14(3), 418–434. https://doi.org/10.1108/14626000710773529
von Arnim, L., & Mrozewski, M. (2020). Entrepreneurship in an increasingly digital and global
world. evaluating the role of digital capabilities on International Entrepreneurial Intention.
Sustainability, 12(19), 7984. https://doi.org/10.3390/su12197984
Yaghoubi Farani, A., Karimi, S., & Motaghed, M. (2017). The role of entrepreneurial knowledge as a
competence in shaping Iranian students’ career intentions to start a new digital business.
European Journal of Training and Development, 41(1), 83–100.
https://doi.org/10.1108/ejtd-07-2016-0054
Younis, H., Katsioloudes, M., & Bakri, A. al. (2020). Digital entrepreneurship intentions of Qatar
university students motivational factors identification: Digital entrepreneurship intentions.
International Journal of E-Entrepreneurship and Innovation, 10(1), 56–74.
https://doi.org/10.4018/IJEEI.2020010105
Zhao, H., Seibert, S. E., & Lumpkin, G. T. (2010). The relationship of personality to entrepreneurial
intentions and performance: A meta-analytic review. Journal of Management, 36(2), 381–404.
https://doi.org/10.1177/0149206309335187

161
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI CÓ SỨC ẢNH HƯỞNG ĐẾN


Ý ĐỊNH MUA HÀNG CỦA GIỚI TRẺ TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM
Phan Thị Vân Anh
La Nhật Minh
Nguyễn Thị Thanh Quyên
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: anhphan.31201020935@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Ngày nhận: 11/12/2022 Hiện nay tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn ra một cách phức
Ngày gửi lại: 19/02/2023 tạp, kèm với đó nhu cầu mua sắm online của mọi người tăng nhanh
Ngày duyệt: 20/02/2023 chóng hơn bao giờ hết. Đặc biệt là cùng với sự nổi lên của những
người có sức ảnh hưởng trong giới trẻ Việt Nam làm tiền đề cho sự
phát triển thói quen mua sắm trực tuyến mạnh mẽ đến vậy.
Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu các yếu tố tác động
đến ý định mua hàng của giới trẻ tại TP.HCM, xây dựng mô hình
nghiên cứu, xây dựng và kiểm định các thang đo cho yếu tố tác động
đến hành vi mua sắm trực tuyến. Trên nền tảng lý thuyết chấp nhận và
sử dụng công nghệ, nghiên cứu này khám phá một bức tranh toàn
diện về mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua hàng
của giới trẻ thông qua các tác động của người có sức ảnh hưởng trên
các trang mạng xã hội tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu này
được tiến hành qua hai giai đoạn định tính và định lượng. Kết quả
nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng đã điều chỉnh thang
đo 14 biến quan sát của 4 thành phần, các thang đo đều đạt được độ
tin cậy và giá trị cho phép. Thông qua phân tích mô hình cấu trúc
tuyến tính SEM, kết quả cho thấy mô hình nghiên cứu phù hợp với dữ
liệu. Tất cả các giả thuyết đều được chấp nhận. Các kết quả kiểm định
giả thuyết khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa các yếu tố tác
động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức tới quan niệm cá
Từ khóa:
giá trị kỳ vọng, nhân, giá trị kỳ vọng, ý định mua hàng, cũng như quan niệm cá nhân
quan niệm cá nhân, đến giá trị kỳ vọng, ý định mua hàng, và cuối cùng là tác động của giá
tác động của người có sức trị kỳ vọng đến ý định mua hàng. Từ kết quả kiểm định đáng tin cậy,
ảnh hưởng đến nhận thức, nhóm nghiên cứu đã đề xuất những kiến nghị và hàm ý quản trị giá trị
ý định mua hàng cho thực tiễn.

1. Giới thiệu
Ở phần này nghiên cứu sẽ sơ lược về lý do chọn đề tài, vấn đề, mục tiêu, đối tượng và phạm vi
và phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa thực tiễn và cấu trúc của bài nghiên cứu.

162
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Lý do chọn đề tài: 2019-2021, quãng thời gian mà đại dịch Covid bùng phát đến thời điểm hiện
tại, chưa bao giờ nhu cầu mua sắm online của mọi người tăng nhanh chóng hơn bao giờ hết. Đặc biệt
là cùng với sự nổi lên của những người có sức ảnh hưởng (Influencers) trong giới trẻ Việt Nam đã
làm tiền đề cho sự phát triển thói quen mua sắm trực tuyến mạnh mẽ đến vậy. Sự bùng lên của những
người mang tính “lãnh đạo” trong xu hướng mua sắm online của giới trẻ Việt là một hiện tượng cần
được nghiên cứu kỹ lưỡng. Có thể kể đến một số yếu tố chính thu hút người tiêu dùng trẻ như tác Tác
động của người có sức ảnh hưởng (Influencers) trong cộng đồng thanh thiếu niên trẻ độ tuổi từ 16-25.
Những cống hiến kiến thức bổ ích, bắt kịp xu hướng mới mẻ của thời đại và nắm bắt đúng nhu cầu
của giới trẻ. Khả năng chia sẻ và sự lan tỏa đầy nhiệt huyết cùng với kho tri thức phong phú, số lượng
lớn các trang blog, bài chia sẻ, videos, về các sản phẩm, thương hiệu đình đám. Đây là những minh
chứng cho những gì mà người có sức ảnh hưởng tác động đến người tiêu dùng trẻ tại Việt Nam.
Chính vì sự ảnh hưởng to lớn cần được xem xét nhiều mặt như độ tin tưởng của giới trẻ vào người có
sức ảnh hưởng, chất lượng sản phẩm mà họ quảng bá đến đại chúng, khả năng mua hàng hóa, để đo
lường được các yếu tố mấu chốt này, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Tác động của người có
sức ảnh hưởng đến ý định mua hàng của giới trẻ trên địa bàn TP.HCM”.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhằm nghiên cứu các yếu tố quyết định ý định mua sản phẩm được giới
thiệu, quảng bá, chỉ dẫn của các người có sức ảnh hưởng trong ngành thương mại điện tử của giới trẻ
tại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp marketing cho doanh nghiệp, chủ kinh doanh nhỏ lẻ cũng
như một số kiến nghị, lưu ý dành cho các bạn trẻ trong việc tiêu dùng thông minh trên nền tảng mạng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các yếu tố ảnh hưởng
đến hành vi mua sản phẩm được giới thiệu bởi người có sức ảnh hưởng của sinh viên, và học sinh
THPT và các biến trong mô hình nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Nhóm sử dụng phương pháp hỗn hợp tiến hành qua hai giai đoạn:
Nghiên cứu khám phá bằng phương pháp định tính và nghiên cứu chính thức bằng phương pháp định
lượng.
Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu: Bài nghiên cứu này có thể mang lại lợi ích cho các thương
hiệu khi giúp họ có cơ sở tìm kiếm và thiết lập mối quan hệ hợp tác với những người có sức ảnh
hưởng có khả năng thuyết phục tốt và có lượng tương tác đông đảo trên xã hội để quảng bá sản phẩm
của mình. Bên cạnh đó nghiên cứu nhằm mục đích giúp các công ty hiểu quá trình thay đổi nhận thức
và mô hình hành vi của người tiêu dùng khi những người có sức ảnh hưởng đóng vai trò là người môi
giới thông tin và giới thiệu thương hiệu.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
Theo một nghiên cứu mới nhất (12/2019) về giới trẻ tại Việt Nam do “Vero - Digital
Marketing & PR Agency Đông Nam Á” thực hiện đã cho thấy sự thay đổi về mặt niềm tin, mức độ
quan tâm của các thế hệ về người ảnh hưởng (Influencers) trên các kênh truyền thông. Nhằm chỉ ra
những tác động mà người ảnh hưởng đến giới trẻ về nhận thức, ý định mua hàng. Nghiên cứu đã cho
thấy rằng các phương tiện quảng cáo theo các truyền thống dần mất đi sự ảnh hưởng tại Việt Nam.
Trong khi đó những người có sức ảnh hưởng (Influencer) xuất thân từ các trang mạng (Internet) đang
ngày được yêu thích, quan tâm hơn, nói cách khác là sánh ngang với sức hút của những người nổi

163
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

tiếng (celebrities). Cũng chính lý do này, các thương hiệu, nhãn hàng mong muốn tiếp cận với người
tiêu dùng trẻ tại Việt Nam, sẽ đặc biệt hưởng được lợi nhuận rất cao nếu họ biết cách thích nghi với
nền tảng tiếp thị sử dụng những người gây ảnh hưởng trên các trang mạng xã hội.
Còn theo IVY Châu (Chuyên gia về Quan Hệ Truyền thông và Influencer của Vero tại Việt
Nam) đã chỉ ra rằng “Lợi thế lớn nhất của người ảnh hưởng (Influencers) đó là họ có sự tin tưởng từ
công chúng nhiều hơn bất cứ kênh quảng cáo nào khác. Nhưng để duy trì điều đó, influencer cần giữ
vững hình ảnh của họ. Để đổi lấy niềm tin, giới trẻ đặt một tiêu chuẩn cao hơn cho người ảnh hưởng
(Influencers) dựa theo độ đáng tin cậy trong lời quảng cáo cho thương hiệu.
2.2. Các lý thuyết nền tảng
Ở đây, nhóm tác giả đề cập đến các lý thuyết sau:
Lý thuyết hành động hợp lý: Mô hình thuyết hành động hợp lý cho rằng ý định hành vi dẫn
đến hành vi và ý định được quyết định bởi thái độ cá nhân đối hành vi, cùng sự ảnh hưởng của chuẩn
chủ quan xung quanh việc thực hiện các hành vi đó (Fishbein và Ajzen,1975). Trong đó, Thái độ và
Chuẩn chủ quan có tầm quan trọng trong ý định hành vi.
Lý thuyết mô hình chấp nhận công nghệ: Dựa trên lý thuyết hành động hợp lý (TRA), Davis
(1986) đã phát triển Mô hình chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model – Mô hình TAM)
liên quan cụ thể hơn đến dự đoán về khả năng chấp nhận của một hệ thống thông tin. Mục đích của
mô hình này là dự đoán khả năng chấp nhận (adoption) của một công cụ và xác định các sửa đổi phải
được đưa vào hệ thống để làm cho nó được người dùng chấp nhận.
Lý thuyết người tiêu dùng: Thuyết người tiêu dùng là một lý thuyết nghiên cứu về cách mà
mọi người đưa ra quyết định của mình dựa trên những yếu tố mà họ cân nhắc như chi tiêu, sở thích cá
nhân và sự ràng buộc về ngân sách của chính họ.
2.3. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình nghiên cứu gồm có 4 thành phần chính và chúng được đặt
trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau: Tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức, quan
niệm cá nhân về sự cam kết thương hiệu, giá trị kỳ vọng của thương hiệu, ý định mua hàng từ các
thương hiệu đề xuất. Tiếp đó, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành kiểm định xem liệu các mối quan hệ đã
đề xuất trên mô hình có phù hợp hay không.

164
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hình 1. Mô hình nghiên cứu


Giả thuyết nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở lý thuyết, các giả thuyết nghiên cứu sau đã được đặt ra như sau:
H1: Tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức người theo dõi sẽ có ảnh hưởng cao
đến quan niệm cá nhân về sự cam kết thương hiệu.
H2: Tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức người theo dõi sẽ có ảnh hưởng cao
đến giá trị kỳ vọng của thương hiệu.
H3: Tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức người theo dõi sẽ có ảnh hưởng cao
đến ý định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất.
H4: Quan niệm cá nhân về sự cam kết thương hiệu của người theo dõi sẽ có ảnh hưởng cao
đến giá trị kỳ vọng của thương hiệu.
H5: Quan niệm cá nhân về sự cam kết thương hiệu của người theo dõi sẽ có ảnh hưởng cao
đến ý định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất.
H6: Giá trị kỳ của thương hiệu được theo dõi sẽ có ảnh hưởng cao đến ý định mua hàng từ các
thương hiệu được đề xuất.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu thông qua hai giai
đoạn chính bao gồm: Nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức.
3.1. Quy trình nghiên cứu
Nghiên cứu sơ bộ: Dựa vào các nghiên cứu quá khứ, nhóm đã tổng hợp và điều chỉnh mô
hình, thang đo và bảng hỏi phù hợp với nghiên cứu thực tế tại TP.HCM Nghiên cứu chính thức: Sau
khi đã có thang đo, mô hình và bảng hỏi, nhóm thực hiện khảo sát online đồng thời phỏng vấn trực
tiếp nhằm phân tích những hành vi tiêu dùng của sinh viên. Đồng thời nhóm cũng ghi nhận những
đóng góp, ý kiến từ đối tượng khảo sát để hoàn thiện hơn bài nghiên cứu của mình.
3.2. Phương pháp nghiên cứu

165
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là “phương pháp hỗn hợp tiến hành qua hai giai đoạn:
nghiên cứu khám phá bằng phương pháp định tính và nghiên cứu chính thức bằng phương pháp định
lượng.”
Phương pháp chọn mẫu: Tác giả đã thực hiện chọn mẫu theo “phương pháp định mức” với
thuộc tính khảo sát là tiếp cận, và trải nghiệm về sự tác động của người có sức ảnh hưởng đến ý định
mua hàng của các đối tượng được khảo sát. Tác giả chọn được các phần tử cho mẫu từ các nhóm
trường đại học, cao đẳng, trường Trung học Phổ Thông trên địa bàn Thành phố.
Kích thước mẫu nghiên cứu:
Phương pháp phân tích dữ liệu được sử dụng trong bài nghiên cứu là phân tích các nhân tố tác
động và mô hình cấu trúc tuyến tính SEM cần có một cỡ mẫu đủ lớn để phân tích dữ liệu. Với mô
hình SEM, kích thước mẫu gấp 5 lần số biến hoặc tốt hơn là 10 lần số biến quan sát (Kline, 2011,
trang 11-12).

Theo kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu, Hair và cộng sự (1998) đã đưa ra rằng kích thước
mẫu tối thiểu phải từ 100 - 150. Bên cạnh đó, theo Bollen (1989), mẫu được chọn sẽ mang tính đại
diện nếu kích thước mẫu ít nhất là 5 mẫu cho một ước lượng. Dựa vào cách tính mẫu khảo sát nhóm
tác giả quyết định chọn cỡ mẫu là 200 mẫu để thỏa điều kiện trên.

Phương pháp định tính: Gồm 2 giai đoạn:


Thiết kế nghiên cứu định tính: Để tiến hành nghiên cứu khám phá, nhóm tác giả kết hợp
phương pháp quan sát tình hình và thảo luận tay đôi với 5 bạn sinh viên thuộc các khóa K44, K45,
K46 có trình độ và hiểu biết tốt về tác động của người có sức ảnh hưởng đến việc mua sắm hiện đang
học tập trực tiếp tại trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Kết quả định tính: Dựa trên kết quả khảo sát, trao đổi, thảo luận trực tiếp với sinh viên và các
biến quan sát được tổng hợp từ cơ sở lý thuyết, nhóm tác giả. chọn lọc và điều chỉnh được mô hình và
thang đo gồm 14 biến quan sát thích hợp. Các phát biểu được dịch sang tiếng Việt và điều chỉnh nội
dung, từ vựng, ngữ pháp sao cho chính xác, dễ hiểu, phù hợp với học sinh, sinh viên theo nhận thức
của một số bạn sinh viên đã được phỏng vấn trước đó.
Phương pháp định lượng: Chúng tôi đã sử dụng phần mềm IBM SPSS 22 và IBM AMOS 20
để hỗ trợ xử lý dữ liệu đã thu thập được từ những phản hồi của học sinh, sinh viên. Dữ liệu sau khi mã
hóa và làm sạch được phân tích theo các bước:
i. Đánh giá độ tin cậy thang đo;
ii. Phân tích nhân tố khám phá EFA;
iii. Phân tích nhân tố khẳng định CFA;
iv. Kiểm định sự phù hợp của các mô hình và giả thuyết bằng mô hình cấu trúc tuyến tính
SEM.
Thiết kế bản câu hỏi khảo sát: Bản câu hỏi khảo sát được nhóm thiết kế dựa trên thang đo gốc
của David Jiménez-Castillo, Raquel Sánchez-Fernández (2019) và được điều chỉnh nội dung thích
hợp để khảo sát học sinh, sinh viên. Nhóm đã sử dụng thang đo Likert 5 mức độ.

166
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Diễn đạt và mã hóa thang đo: Nghiên cứu “Tác động của người có sức ảnh hưởng đến ý định
mua hàng của giới trẻ” gồm 4 thành phần với 14 biến quan sát: Tác động của người có sức ảnh hưởng
đến nhận thức (3 quan sát), Quan niệm cá nhân về sự cam kết thương hiệu (4 quan sát), Giá trị kỳ
vọng của thương hiệu (4 quan sát), Ý định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất (3 quan sát).
4. Kết quả nghiên cứu
Chương này trình bày kết quả nghiên cứu gồm: (1) Mô tả mẫu nghiên cứu; (2) Kết quả kiểm
định độ tin cậy Cronbach’s Alpha; (3) Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA; (4) Kết quả phân tích
nhân tố khẳng định CFA; (5) Kết quả kiểm định sự phù hợp của mô hình và các giả thuyết nghiên cứu
bằng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM.
4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Số lượng Nam và Nữ được khảo sát khá đồng đều, với tỷ lệ số nữ chiếm 66.8% và tỷ lệ nam
chiếm 33.2%. Những người được khảo sát nằm trong độ tuổi từ 19 – 25 tuổi thì chiếm đa số. Ở độ
tuổi từ 19-25 chiếm 82.9%. Nhóm khảo sát chủ yếu là học sinh, sinh viên, chiếm 97.4%.
4.2. Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha
Điều kiện để thang đo đạt yêu cầu đó chính là có hệ số Cronbach's Alpha > 0.6 và hệ số tương
quan biến tổng hiệu chỉnh > 0.33. Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach's Alpha cho thấy 14 biến
quan sát đều thỏa mãn điều kiện này.
4.3. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA
Sau nhiều lần kiểm định đã cho ra được hệ số KMO = 0.792 thoả mãn > 0.5, giá trị Eigenvalue
> 1. Sau cùng thì 4 nhân tố được sử dụng phù hợp với mô hình ban đầu đề xuất.
4.4. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA
14 biến quan sát thuộc 4 nhân tố được tiếp tục tiến hành phân tích CFA. Các biến quan sát đều
đạt yêu cầu về trọng số chuẩn hóa với chỉ số > 0.5, mô hình tới hạn phù hợp với dữ liệu với các số
liệu đều đạt yêu cầu: hệ số CMIN/DF = 1.496 < 5; hệ số GFI = 0.933, hệ số CFI = 0.946, TLI = 0.931
đều > 0.9; hệ số AGFI = 0.901 > 0.8; 0.05 < hệ số RMSEA = 0.050 < 0.10 và hệ số PCLOSE = 0.000.
Khi xem xét yêu cầu về độ tin cậy tổng hợp, giá trị hội tụ và phân biệt thể hiện qua phương sai
trích EVA > 0.5, thang đo với 4 nhân tố và 14 biến quan sát đều đạt yêu cầu.
4.5. Kết quả kiểm định sự phù hợp của mô hình và các giả thuyết nghiên cứu bằng mô hình cấu
trúc tuyến tính SEM
Kết quả kiểm định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu
Kết quả phân tích mô hình SEM với phương pháp ước lượng hợp lý cực đại Maximum
Likelihood cho thấy mô hình có ý nghĩa thống kê.

167
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hình 2. Kết quả phân tích mô hình SEM


Tất cả các chỉ số tới hạn C.R đều đạt yêu cầu. Mô hình đảm bảo độ tin cậy. Như vậy, mô hình
nghiên cứu là phù hợp với dữ liệu.
Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu
Các giả thuyết nghiên cứu cũng được kiểm định và thể hiện trong kết quả phân tích SEM.
Trong 6 giả thuyết, tất cả 6 giả thuyết đều được chấp nhận và không có giả thuyết nào không được
chấp nhận.
Các kết quả kiểm định giả thuyết khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa các yếu tố giữa các
yếu tố tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức tới quan niệm cá nhân về sự cam kết
thương hiệu, giá trị kỳ vọng của thương hiệu, ý định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất, cũng
như giữa tính quan niệm cá nhân về cam kết thương hiệu đến giá trị kỳ vọng và ý định mua hàng,
cuối kỳ là tác động của giá trị kỳ vọng đến ý định mua hàng.
Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu
Các giả thuyết nghiên cứu cũng được kiểm định và thể hiện trong kết quả phân tích SEM.
Trong 6 giả thuyết, tất cả 6 giả thuyết đều được chấp nhận và không có giả thuyết nào không được
chấp nhận.
Các kết quả kiểm định giả thuyết khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa các yếu tố giữa các
yếu tố tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức tới quan niệm cá nhân về sự cam kết
thương hiệu, giá trị kỳ vọng của thương hiệu, ý định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất, cũng
như giữa tính quan niệm cá nhân về cam kết thương hiệu đến giá trị kỳ vọng và ý định mua hàng,
cuối kỳ là tác động của giá trị kỳ vọng đến ý định mua hàng.

168
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Bảng 1. Kết quả kiểm định giả thuyết nghiên cứu

Giả Mối quan hệ β β Chưa S.E C.R P Kết quả


thuyết chuẩn chuẩn kiểm định
hóa hóa giả thuyết

H1 Tác động 0,176 0,079 0,101 1,977 *** Chấp


người có nhận
sức ảnh
hưởng đến
nhận thức
→ Quan
niệm cá
nhân
H2 Tác động 0,154 0,037 0,069 4,888 *** Chấp
người có nhận
sức ảnh
hưởng đến
nhận thức
→ Giá trị
kỳ vọng
H3 Tác động 0,186 0,069 0,082 4,219 *** Chấp
người có nhận
sức ảnh
hưởng đến
nhận thức
→ Ý định
mua hàng
H4 Quan niệm cá 0,508 0,341 0,066 5,136 *** Chấp
nhân → Giá nhận
trị kỳ vọng
H5 Quan niệm cá 0,180 0,141 0,088 6,045 *** Chấp
nhân → Ý nhận
định mua
hàng

H6 Giá trị kỳ 0,628 0,731 0,173 10,404 *** Chấp


vọng → Ý nhận
định mua
hàng

Nguồn: Tổng hợp từ tác giả


Trong phạm vi thành phố Hồ Chí Minh, dữ liệu thu được qua quá trình khảo sát phù hợp với
mô hình nghiên cứu. Kết quả của các nghiên cứu trong thời gian gần đây đều được củng cố và bổ
sung bởi các giả thuyết được chấp nhận. Trong đó, H6 = Giá trị kỳ của thương hiệu được theo dõi sẽ

169
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

có ảnh hưởng cao đến ý định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất có tác động mạnh nhất với
chỉ số β = 0.628, qua đó chúng ta có thể thấy một thực tế rằng, giá trị kỳ vọng lên thương hiệu được
đề xuất bởi người có sức ảnh hưởng thật sự có tác động rất lớn lên ý định mua hàng của giới trẻ, và
giới trẻ đặt rất cao kỳ vọng về chất lượng của sản phẩm, thương hiệu được đề xuất.
5. Kết luận

Bằng cách nắm bắt một số yếu tố quan trọng trong mô hình nghiên cứu hiện nay, nghiên cứu
này đã có thể cung cấp một đóng góp lý thuyết đáng kể cho nhà nghiên cứu trong lĩnh vực liên quan.
Nghiên cứu được tiến hành qua hai giai đoạn: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.

Kết quả thống kê cung cấp bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ vai trò của cả mức độ tác động của
người có sức ảnh hưởng đến nhận thức, giá trị kỳ vọng, bên cạnh đó còn có còn có mối liên hệ mạnh
mẽ giữa quan niệm cá nhân tác động lên giá trị kỳ vọng, và ý định mua hàng, và cuối cùng tác động
mạnh mẽ nhất của giá trị kỳ vọng đến ý định mua hàng. Các kết quả thu được đã được thảo luận trên
cơ sở biện minh hợp lí cũng như những gì nghiên cứu trước đây đã tìm thấy và tranh luận về tác động
của người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội. Một số ý nghĩa thực tế và lý thuyết cũng đã được thảo
luận trong các phần trước. Phần phụ cuối cùng tập trung vào những hạn chế chính giới hạn nghiên
cứu này cùng với những hướng quan trọng cần được xem xét trong các nghiên cứu trong tương lai.

5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu


Cuộc khảo sát đã nhận được phản hồi từ tổng số 230 người dùng mạng xã hội, đều là sinh viên
tại các trường đại học ở TP.HCM. Sau khi chọn lọc câu trả lời, nhóm nghiên cứu đã loại bỏ những
phản hồi không chất lượng ra khỏi tập dữ liệu cuối cùng.
Kích thước mẫu cuối cùng bao gồm 200 quan sát, đáp ứng các yêu cầu về kích thước tối thiểu.
Kết quả khảo sát được xem xét và mã hóa trong tệp Excel trước khi nhập sang SPSS để phân tích
thống kê mô tả, sau đó nhập dữ liệu vào phần mềm AMOS để kiểm định các giả thuyết đã đưa ra
trong bài nghiên cứu.
Kết quả phân tích SEM cho thấy mô hình nghiên cứu phù hợp với dữ liệu. Tất cả các giả
thuyết đều được chấp nhận. Các kết quả kiểm định giả thuyết khẳng định mối quan hệ cùng chiều
giữa các yếu tố tác động của người có sức ảnh hưởng đến nhận thức tới quan niệm cá nhân, giá trị kỳ
vọng, ý định mua hàng, cũng như quan niệm cá nhân đến giá trị kỳ vọng, ý định mua hàng, và cuối
cùng là tác động của giá trị kỳ vọng đến ý định mua hàng.
5.2. Một số kiến nghị
Thông qua mô hình nghiên cứu được đề xuất ta nhận thấy rằng tác động của người có sức ảnh
hưởng đến nhận thức liên quan đến giá trị kỳ vọng, quan niệm cá nhân và lẫn cả ý định mua hàng.
Các đối tượng mà những người ảnh hưởng hướng tới nhiều nhất vẫn là giới trẻ, bởi lẽ một phần nhận
thức về giới trẻ hiện nay vẫn chưa trang bị cho mình đủ được các kiến thức về xã hội.
Thông qua đó chúng tôi cần đề cập đến hai khía cạnh đáng được quan tâm trong xã hội hiện
nay. Thứ nhất đó là: Nâng cao nhận thức, và thực hành xã hội cho giới trẻ, nhóm nghiên cứu nhận
thấy rằng chúng ta nên nâng cao nhận thức , và thực hành xã hội cho giới trẻ thông qua các khóa học

170
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

kỹ năng mềm. Thứ hai, những người gây ảnh hưởng nên tập trung nhiều hơn vào chất lượng và số
lượng thông tin được trình bày.
5.3. Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo
Mặc dù đã đạt được một số mục tiêu nghiên cứu, song nghiên cứu này còn chưa đầy đủ và
chắc chắn không thể tránh khỏi một số sai sót về phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu. Thứ
nhất, nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tác động của những người có ảnh hưởng tới ý
định mua hàng từ các thương hiệu được đề xuất. Thứ hai, cần kể đến đó là hạn chế về mặt thời gian,
nhân lực và kinh phí, tác giả đã chọn lọc và đưa ra những thông tin hữu ích để xây dựng đề tài, vì thế
đề tài vẫn còn nhiều khía cạnh chưa được mở rộng. Trong tương lai, nhóm tác giả sẽ tiếp tục kiểm
định kỹ càng và khai thác đề tài sâu sắc hơn.

Danh mục tài liệu tham khảo


Djafarova, E., & Rushworth, C. (2017). Exploring the credibility of online celebrities’ Instagram profiles
in influencing the purchase decisions of young female users. Computers in Human Behavior, 68, 1–7.
https://doi.org/10.1016/j.chb.2016.11.009
Jiménez-Castillo, D., & Sánchez-Fernández, R. (2019). The role of digital influencers in brand
recommendation: Examining their impact on engagement, expected value and purchase intention.
International Journal of Information Management, 49, 366–376.
https://doi.org/10.1016/j.ijinfomgt.2019.07.009
Ki, C.-W. (Chloe), Cuevas, L. M., Chong, S. M., & Lim, H. (2020). Influencer marketing: Social media
influencers as human brands attaching to followers and yielding positive marketing results by
fulfilling needs. Journal of Retailing and Consumer Services, 55.
https://doi.org/10.1016/j.jretconser.2020.102133
Khodabandeh, A., & Lindh, C. 1974. (2021). The importance of brands, commitment, and influencers on
purchase intent in the context of online relationships. Australasian Marketing Journal, 29(2),
177–186. https://doi.org/10.1016/j.ausmj.2020.03.003
Lissitsa, S., & Kol, O. (2016). Generation X vs. Generation Y – A decade of online shopping. Journal of
Retailing and Consumer Services, 31, 304–312. https://doi.org/10.1016/j.jretconser.2016.04.015

171
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH MUA SẮM QUẦN ÁO CŨ


CỦA NGƯỜI TRẺ Ở TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Nhạn
Trần Tiểu Thành
Lê Thị Cẩm Tiên
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: nhannguyen.31201022079@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT


Ngày nhận: 16/12/2022 Ngày nay ngành thời trang nhanh phát triển rất nhanh chóng,
Ngày gửi lại: 19/02/2023 gây rất nhiều ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe con người. Với
Ngày duyệt: 20/02/2023 mong muốn đóng góp cho sự phát triển ngành thời trang bền vững,
nghiên cứu này xác định những yếu tố tác động đến ý định mua sắm
quần áo cũ của người trẻ ở TP.HCM và đo lường mức độ tác động của
của các yếu tố đó đến ý định. Kết quả nghiên cứu này cho thấy nhận
thức rủi ro vệ sinh, nhận thức giá trị môi trường và nhận thức cảm xúc
khoái lạc có ảnh hưởng tích cực đến thái độ đối với mua sắm quần áo
cũ, bên cạnh đó nhân tố thái độ có ảnh hưởng cùng chiều mạnh mẽ
đến ý định mua sắm. Ngoài ra, điểm khác biệt lớn nhất của nghiên
cứu này là yếu tố nhận thức giá trị kinh tế được chứng minh là không
có ảnh hưởng đến thái độ mua sắm quần áo cũ. Từ kết quả nghiên cứu
nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm giúp các doanh nghiệp,
Từ khóa: các cửa hàng nhỏ lẻ đang kinh doanh quần áo cũ có thể nhận thức rõ
quần áo cũ, hơn thái độ tích cực và tiêu cực của khách hàng đối với quần áo cũ, từ
thái độ mua sắm, đó cải thiện để giúp khách hàng có một cái nhìn hoàn toàn tin tưởng
ý định mua sắm với xu hướng thời trang này.

1. Tổng quan về đề tài

1.1. Giới thiệu


Theo một nghiên cứu của Viracresearch về Thị trường Việt Nam và xu hướng thời trang 2021,
xu hướng mua sắm quần áo cũ hay thường được gọi là Secondhand đang dần phát triển ở Việt Nam.
Ngành kinh doanh quần áo cũ là một trong những phương pháp hiệu quả, vì nó có thể đáp ứng được
nhu cầu rời bỏ và nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng sau, hạn chế sự phát triển của ngành công
nghiệp thời trang nhanh và ô nhiễm môi trường đáng kể. Tuy nhiên cùng với những lợi ích mà việc
mua sắm quần áo cũ đem lại như rẻ, nhiều sự lựa chọn, độc nhất mẫu mã thì bên cạnh đó vẫn còn
tiềm tàng rất nhiều rủi ro. Để có những tác động tích cực hơn trong thái độ của người tiêu dùng với
việc mua sắm quần áo cũ thì bản thân người tiêu dùng phải dần thay đổi nhận thức về các giá trị mà
quần áo cũ đem lại như giá trị kinh tế, cảm xúc, những sự độc đáo về mẫu mã khi mua sắm hay thậm
chí là góp phần cải thiện môi trường bằng việc không lãng phí.

172
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Từ những thực tế như vậy, đề tài nghiên cứu sẽ phân tích những yếu tố có thể tác động đến ý
định mua sắm quần áo cũ để có thể đưa ra những tác động tích cực lẫn tiêu cực của vấn đề.
1.2. Tổng quan đề tài nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua quần áo cũ ở TP.HCM;
- Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố nhận thức giá trị kinh tế, môi trường, cảm xúc,
thời trang độc đáo, nhận thức rủi ro vệ sinh, thái độ đối với mua sắm quần áo cũ đến ý định
mua quần áo cũ;
- Dựa trên những kết quả nghiên cứu đã nêu trên, đề xuất hàm ý quản trị cho các doanh nghiệp,
cửa hàng thúc đẩy ý định mua sắm quần áo cũ ở TP.HCM.
Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức về giá trị kinh tế, môi trường, cảm xúc khoái lạc và sự độc
đáo (duy nhất); Nhận thức về sự rủi ro vệ sinh; thái độ và ý định thực hiện hành vi.
Đối tượng khảo sát: Nhóm người tiêu dùng trẻ ở TP.HCM ở độ tuổi từ 18 - 34 tuổi.
Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: TP. Hồ Chí Minh;
- Thời gian: 1/4/2022 - 7/8/2022.
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình đề xuất

2.1. Cơ sở lý thuyết
Ý định mua sắm
Theo Montano và cộng sự (2015), ý định được coi là chìa khóa dự đoán về hành vi thực tế. Vì
vậy, các nghiên cứu liên quan đến ý định mua sắm là tiền đề để dự đoán được hành vi của người tiêu
dùng. Ý định mua sắm là một chỉ số về mức độ mà con người sẵn sàng thực hiện một hành vi cụ thể
(Ajzen, 1991), khi chỉ số này càng cao thì khả năng chuyển từ ý định sang hành vi của người tiêu
dùng càng lớn. Con người sẽ sử dụng một cách có hệ thống tất cả các thông tin có sẵn để đưa ra quyết
định hợp lí (Xu và cộng sự, 2014), tức là con người sẽ tiến hành đánh giá các yếu tố mà họ quan tâm
đến sản phẩm trước khi đưa ra quyết định mua hàng. Theo EkStyven (2020) ý định chính là hệ quả
của một thái độ tích cực đối với mua sắm quần áo cũ. Ở nghiên cứu này, nhóm tập trung nghiên cứu
đến các yếu tố có thể tác động đến ý định mua sắm quần áo cũ, thông qua biến trung gian là thái độ.
Các mô hình lý thuyết liên quan
Lý thuyết hành động hợp lý (TRA - Theory of Reasoned Action): Theo Fishbein và Ajzen
(1975), ý định là yếu tố quan trọng dẫn đến hành vi. Ý định sẽ bị tác động bởi hai nhân tố: Thái độ và
chuẩn chủ quan. Theo đó, thái độ được đo lường bằng niềm tin đối với những thuộc tính sản phẩm;
chuẩn chủ quan có thể được đo lường thông qua những người có liên quan đến người tiêu dùng
(Thành, 2020).
Cách tiếp cận hành động hợp lý (RAA - The Reasoned Action Approach): Cách tiếp cận
hành động hợp lý là phiên bản mới nhất về lý thuyết hành vi con người. Khung lý thuyết giải thích về

173
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

hành vi con người của Martin được đánh giá là phiên bản hoàn thiện nhất để dự đoán, giải thích và
thay đổi hành vi xã hội của con người (Ajzen, 2012).
Lý thuyết nhận thức rủi ro (TPR - Theory of Perceived Risk): Khái niệm nhận thức rủi ro
trong hành vi của người tiêu dùng được Bauer công bố đầu tiên năm 1960. Dựa trên ý tưởng “bất kỳ
hành vi nào cũng có thể có rủi ro”, Bauer cho rằng bất kỳ hành vi mua sắm nào của người tiêu dùng
cũng có thể có rủi ro mà họ không thể lường trước được. Rủi ro được nhận thức không chỉ liên quan
đến hoạt động thu thập và xử lý thông tin trước khi quyết định của người tiêu dùng mà còn liên quan
đến quá trình sau quyết định (Ross, 1975).
2.2. Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu đề xuất
Giá trị kinh tế được đề cập đến bao gồm kỳ vọng sản phẩm có mức giá thấp và hợp lý hơn so
với mua mới (Guiot & Roux, 2008). Động cơ mong muốn mức giá hợp lý xuất phát từ cảm nhận của
người tiêu dùng về đồ mới và đồ cũ là không có sự khác biệt ngoài giá cả (Roux & Guiot, 2008;
Guiot & Roux, 2010), đôi khi họ cảm thấy mức chi tiêu mua mới đó là không hợp lý và sẵn sàng mua
đồ cũ có mức giá thấp hơn. Nhất là đối với người tiêu dùng tiết kiệm, hay học sinh sinh viên có mức
chi tiêu thấp, thường sẽ chi tiêu ít hơn cho một sản phẩm, điều đó sẽ thúc đẩy việc mua đồ cũ vì đây
là sự lựa chọn phù hợp (Machado và cộng sự, 2019; Medalla và cộng sự, 2020). Việc mua sắm quần
áo cũ cho người tiêu dùng cảm giác rằng đó là một loại trải nghiệm của “mua sắm thông minh”, làm
người tiêu dùng cảm thấy tiền của họ có giá trị hơn (Xu và cộng sự, 2014), một khi tâm lý người tiêu
dùng xuất hiện cảm giác này ngày càng nhiều, đồng nghĩa với việc thái độ của người tiêu dùng sẽ trở
nên tích cực hơn về mua sắm quần áo cũ. Xuất phát từ những động cơ đó, đề xuất giả thuyết:
H1: Giá trị kinh tế ảnh hưởng tích cực đến thái độ.
Giá trị cảm xúc được đề cập đến là sự yêu thích cảm giác “săn tìm kho báu” (treasure
hunting), là quá trình tìm kiếm có chọn lọc và yêu thích sưu tầm những món quần áo đã bị loại bỏ
khỏi mục đích sử dụng thông thường, nó gắn liền với sự hồi hộp khi tìm kiếm những món đồ bất ngờ
nhưng có ý nghĩa với người tiêu dùng (Medalla và cộng sự, 2020). Người tiêu dùng trẻ Việt Nam
nghĩ rằng họ sẽ “săn” được sản phẩm từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới, hoặc các món hàng
có xuất xứ từ nước ngoài như Nhật Bản, Châu Âu, Hàn Quốc thông qua mua sắm SCH (Hoa và cs,
2109), điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây như Belk và cs (1988), Guiot & Roux (2010).
Khi tìm thấy những món đồ cũ có chất lượng tốt hơn hay một món đồ đặc biệt sẽ làm họ cảm thấy hài
lòng và thỏa mãn, do đó việc người tiêu dùng thích tận hưởng cảm giác tích cực thông qua tìm mua
những mảnh ghép độc đáo cho trang phục sẽ có tác động tích cực đến thái độ mua sắm đồ cũ, giả
định này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu Edbring và cs (2016), Guiot&Roux (2010). Do đó, đề
xuất giả thuyết:
H2: Giá trị cảm xúc ảnh hưởng tích cực đến thái độ.
Động cơ mong muốn thời trang độc đáo là việc theo đuổi sự khác biệt so với những người
khác thông qua việc mua lại, sử dụng và định đoạt hàng hóa của người tiêu dùng nhằm mục đích phát
triển và nâng cao hình ảnh xã hội, hình ảnh cá nhân (Snyder, 1992; Cervellon và cộng sự, 2012). Tại
những kênh mua sắm thông thường sẽ bán những sản phẩm được sản xuất hàng loạt, song với những
cửa hàng quần áo cũ thường bán các sản phẩm “độc nhất vô nhị”, hay số lượng hạn chế, chính vì thế
những cá nhân có nhu cầu cao về sự độc đáo được cho là có nhiều khả năng đưa ra lựa chọn tại các

174
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

cửa hàng phi truyền thống như mua quần áo tại các cửa hàng đồ cũ hơn (Cervellon và cộng sự, 2012;
Medalla và cộng sự, 2020; Podkalicka, 2022).
H3: Độc đáo có ảnh hưởng tích cực đến thái độ.
Việc mua sắm quần áo cũ không chỉ giúp kéo dài vòng đời sản phẩm mà còn giúp bảo vệ môi
trường vì những mặt hàng quần áo này không bị đưa vào bãi chôn lấp (Sorensen và cộng sự, 2019).
Một khi người tiêu dùng nhận thức được các thảm kịch do suy thoái môi trường gây ra, sẽ xuất hiện
sự chuyển hướng tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường (Saut và cộng sự, 2021). Đối
tượng khảo sát nghiên cứu khách hàng trẻ từ 18-34 tuổi thuộc thế hệ Gen Z và Y, điều khác biệt của
thế hệ này so với thế hệ trước là mong muốn sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường cao
hơn và hành động vì môi trường(Chaturvedi và cộng sự, 2020; Lee và cộng sự, 2020).
H4: Nhận thức về giá trị môi trường có ảnh hưởng tích cực đến thái độ.
Nhận thức rủi ro đã được xem là yếu tố quan trọng đối với một cá nhân để đưa ra quyết định
và chúng tác động đáng kể đến hành vi mua hàng (Lang và cộng sự, 2019; Kim và cộng sự, 2021;
Hur, 2020). Trong thuyết nhận thức rủi ro (TPR) của Bauer (1960), cho rằng nhận thức rủi ro của
người tiêu dùng là có có liên quan đến sản phẩm dịch vụ, những rủi ro này đã được Bauer nhấn mạnh
là những rủi ro chủ quan chứ không phải rủi ro từ thế giới thực, tức là con người thường tự tưởng
tượng và lo lắng những gì sẽ xảy ra trong tương lai trước khi thực hiện hành vi, và điều đó có thể làm
người mua từ bỏ ý định mua hàng. Kế thừa từ nghiên cứu của Xu và và cộng cộng sự (2014), đã
chứng minh rằng nhận thức về rủi ro có ảnh hưởng đến ý định mua sắm quần áo cũ. Bên cạnh đó,
Kim và cộng sự (2021), đã chứng minh rằng chỉ có hai rủi ro thẩm mỹ và vệ sinh có ảnh hưởng
ngược chiều đối với thái độ mua sắm quần áo cũ. Qua hai kết nghiên cứu đã nêu trên, có thể nói nhận
thức rủi ro vệ sinh là lo sợ lây nhiễm bệnh của người tiêu dùng và đã được xác nhận là mối quan tâm
lớn nhất khi biết rằng món đồ họ sử dụng đã được qua tay (Lang và cộng sự, 2019). Từ đó, đề xuất
giả thuyết:
H5: Nhận thức rủi ro vệ sinh có ảnh hưởng tiêu cực đến thái độ.
Thái độ và ý định hành vi có mối quan hệ tương đối chặt chẽ, điều này đã được kiểm nghiệm
và công nhận rất nhiều trong giới khoa học trước đây. Khung lý thuyết hành động hợp lý của Ajzen
và Fishbein đưa ra vào năm 1975, cho rằng thái độ có ảnh hưởng tích cực đến ý định thực hiện hành
vi, điều này hoàn toàn phù hợp với rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm trước đó của Kim và cs
(2021); Jung và cs (2020), Stephen (1985). Thái độ được tác động bởi hai yếu tố là niềm tin về kết
quả hành vi sẽ thực hiện và đánh giá hành động đó có tích cực hay không (Ajzen, 1975). Trong
nghiên cứu này, các biến về nhận thức và động cơ được xác định trong các phần phụ (nhận thức rủi
ro, nhận thức về giá trị), từ đó hình thành thái độ tích cực, tiêu cực hoặc trung lập. Các nhân tố này có
ảnh hưởng đến ý định thực hiện hành vi thông qua thái độ. Do đó, đề xuất giả thuyết:
H6: Thái độ có ảnh hưởng tích cực đến ý định
2.3. Mô hình nghiên cứu

175
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hình 1: Mô hình nghiên cứu


3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định lượng sơ bộ được thực hiện bằng cách phát bảng câu hỏi đến các đối tượng
bằng phương pháp thuận tiện, thu được 116 mẫu khảo sát hợp lệ. Từ kết quả nhóm nghiên cứu thu
được sau khi chạy SPSS.22 và kết quả phỏng vấn tay đôi, còn 6 biến quan sát trong mô đạt yêu cầu
kiểm định, bao gồm Kinh tế (KT), Môi trường (MT), Cảm xúc (CX), Độc đáo (DD), Vệ sinh (VS),
Thái độ (TD), và Ý định (YD).
Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng. Bảng câu
hỏi chính thức được gửi đến những đối tượng khảo sát qua biểu mẫu Google Form. Đối tượng khảo
sát hướng đến là những người tiêu dùng trẻ có độ tuổi từ 18-34 tuổi.
Thang đo trong nghiên cứu này được xây dựng dựa trên thang đo nghiên cứu của Roux & Guiot
(2008), tham khảo và trích dẫn trong nghiên cứu một số các nghiên cứu khác của Kim và cộng sự
(2021), Guiot & Roux (2010), Ek Styven (2020).
Bảng 1. Thang đo chính thức

Mã hóa Phát biểu


Kinh tế
KT1 Giá thành quần áo cũ rẻ, vì vậy tôi mua được rất nhiều
KT2 Cùng với số tiền đó, tôi có thể mua nhiều quần áo cũ hơn quần áo mới
KT3 Cùng một mẫu mã, tôi sẽ cân nhắc lựa mua cũ hoặc mới.
Cảm xúc
CX1 Tôi thích đến những cửa hàng quần áo cũ với hy vọng sẽ tìm thấy cái tôi cần
CX2 Khi đến cửa hàng quần áo cũ, tôi như đắm chìm vì quá nhiều mẫu mã
CX3 Tôi mong muốn tìm thấy những món quần áo đặc biệt tại cửa hàng
CX4 Tôi thường tạo ra phong cách riêng nhờ những món quần áo cũ
CX5 Tôi thích tìm cách tận dụng quần áo cũ để khiến tôi trở nên khác biệt hơn

176
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Môi trường
MT1 Mua đồ cũ có tác động tích cực đến môi trường vì kéo dài tuổi thọ của quần áo
MT2 Mua quần áo cũ phần nào sẽ giúp tiết kiệm tài nguyên
MT3 Sử dụng quần áo cũ sẽ mang đến nhiều lợi ích cho môi trường
MT4 Sử dụng lại những thứ vẫn sử dụng được, đó là điều tôi mong muốn
Rủi ro vệ sinh
VS1 Tôi không chắc quần áo trong cửa hàng quần áo cũ được xử lý sạch sẽ
VS2 Quần áo cũ được bày bán trong cửa hàng tiềm tàng rất nhiều rủi ro
VS3 Tôi cảm thấy có các vệt bẩn hay mùi hôi của người khác khi sử dụng
Thái độ
TĐ1 Tôi thích ý tưởng mua sắm quần áo cũ
TĐ2 Tôi có thái độ tích cực về mua sắm quần áo cũ
TĐ3 Tối quan tâm đến việc mua sắm quần áo cũ
Ý định mua sắm quần áo cũ
YĐ1 Tôi sẵn sàng mua sắm quần áo cũ khi có ý định mua sắm
YĐ2 Trong tương lai, tôi sẽ mua sắm quần áo cũ
YĐ3 Trong tương lai, có thể tôi sẽ sử dụng quần áo cũ nhiều hơn

4. Kết quả nghiên cứu


4.1. Mô tả dữ liệu
Sau khi kiểm tra và lọc dữ liệu từ 350 bảng câu hỏi được thu thập, thu được 194 bảng câu trả
lời khảo sát hợp lệ.
Bảng 2. Mô tả mẫu

Đặc điểm Giá trị Số lượng Tỷ lệ


Dưới 18 tuổi 4 2.1%
18-24 tuổi 144 74.2%
Độ tuổi
25-34 tuổi 46 23.7%
Trên 34 tuổi 0 0%
Nữ 131 67.5%
Giới tính
Nam 63 32.5%

177
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Phổ thông (12/12) 15 7.7%

Trình độ học vấn Trung cấp, Cao đẳng 14 7.2%


Đại học 158 81.4%
Sau đại học 7 3.6%
Học sinh, sinh viên 133 68.6%
Công nhân 5 2.6%
Nghề nghiệp Nhân viên văn phòng 35 18%
Nội trợ 7 3.6%
Khác 14 7.2%
Dưới 5 triệu 97 50%
5-10 triệu 56 28.9%
Thu nhập
10-15 triệu 28 14.4%
Trên 15 triệu 13 6.7%
Độc thân 177 91.2%
Tình trạng hôn nhân
Đã kết hôn 17 8.8%
Tổng 194 100%

4.2. Kết quả nghiên cứu


Thang đo đề nghị ban đầu với 7 khái niệm nghiên cứu. Sau kết quả kiểm định sơ bộ và kiểm
định chính thức có 1 biến không đạt yêu cầu, như vậy 6 khái niệm trong thang đo bao gồm: Ý định
mua sắm quần áo cũ, thái độ, kinh tế, môi trường, cảm xúc, rủi ro vệ sinh.
Bảng 3. Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo

Hệ số tương quan
Thang đo Kí hiệu Số biến Cronbach’s Alpha Giá trị
biến - tổng nhỏ nhất

Ý định mua sắm YD 3 .873 .722 (YD2)


Thái độ TD 3 .892 .834 (TD1)
Giá trị kinh tế KT 3 .807 .596 (KT3) Chấp nhận
Giá trị môi trường MT 4 .795 .471 (MT4)
Giá trị cảm xúc CX 5 .872 .685 (CX5)
Rủi ro vệ sinh VS 3 .864 .778 (VS3)

178
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Hệ số KMO = 0.771 > 0.5, cho thấy kết quả phân tích là đảm bảo độ tin cậy
Kiểm định Bartlett Sig = 0.000 < 0.5, cho thấy kết quả đảm bảo mức ý nghĩa thống kê
Tổng phương sai trích: 70.633%, sự biến thiên của các yếu tố phân tích có thể giải thích được
70.633% sự biến thiên của dữ liệu khảo sát
Giá trị Eigenvalues của nhân tố thứ 4: 1.462 là đạt yêu cầu
Kết quả ma trận xoay cho thấy, 15 biến quan sát được phân thành 4 nhân tố, tất cả các biến
quan sát đều có hệ số tải nhân tố Factor Loading lớn hơn 0.5 và không còn các biến xấu. Có thể kết
luận rằng tất cả các biến quan sát đều có thể giải thích cho các nhân tố.
Kiểm định các thang đo của nhân tố thái độ và ý định, đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0.4.
Các giá trị như KMO, Sig, Eigenvalues, Phương sai trích đều đạt yêu cầu kiểm định mô hình.
Kết quả ma trận tương quan giữa các biến cho thấy các biến độc lập có tương quan với biến
phụ thuộc và giữa các biến độc lập không có tương quan hoàn toàn với nhau.
Kết quả hồi quy được thực hiện bằng phương pháp Enter
Kết quả phân tích phương sai ANOVA cho thấy giá trị Sig của kiểm định F = 0.000<0.05, do
đó mô hình hồi quy này là phù hợp
Bảng 4. Kết quả phân tích mô hình hồi quy tuyến tính

Model Summary (b)

Mô hình R R^2 R^2 hiệu chỉnh Sai số ước lượng

1 .670 (a) .437 .76779

Biến độc lập (a): KT, MT, CX, VS

Biến phụ thuộc (b): TD

Bảng tóm tắt mô hình hồi quy cho thấy, giá trị R Square hiệu chỉnh = 0.437, có nghĩa là mức
độ giải thích sự biến thiên nhân tố thái độ của mô hình là 43.7%, như vậy 56.3% là do các biến bên
ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên. Hệ số phóng đại phương sai VIF của các biến độc lập < 2 nên sẽ
không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 5. Bảng hệ số hồi quy Coefficients (a)
Hệ số chưa Hệ số đã Hệ số kiểm định
Mô hình
chuẩn hóa chuẩn hóa Thống kê Mức ý cộng tuyến
Sai số Student nghĩa
B Beta Tolerance VIF
chuẩn
Hằng số 1.763 0.499 3.533 0.01
1 KT 0.152 0.077 0.116 1.965 0.051 0.832 1.202
MT 0.229 0.064 0.214 3.564 0.000 0.811 1.233

179
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

CX 0.439 0.051 0.487 8.565 0.000 0.902 1.109


Biến phụ thuộc: Thái độ
Hằng số 0.768 0.237 3.240 0.001
2
TD 0.835 0.042 0.818 19.728 0.000 1.000 1.000
Biến phụ thuộc: Ý định

Từ kết quả hồi quy với độ độ tin cậy 95%, cho thấy 3 nhân tố: (1) MT (sig=0.000), (2) CX
(Sig=0.000), (3) VS (Sig=0.000) đều có ảnh hướng đến nhân tố thái độ mua sắm quần áo cũ. nhân tố
kinh tế có giá trị Sig = 0.051 > 0.05, nên nhóm nghiên cứu quyết định loại biến này ra khỏi mô hình
hồi quy. Như vậy, các giả thuyết H2, H3, H4 ở chương 3 đều được chấp nhận và bác bỏ giả thuyết
H1.
Bảng 6. Tóm tắt kết quả kiểm định giả thuyết

Giả thuyết Kết quả kiểm định


Nhận thức giá trị kinh tế có ảnh hưởng tích cực đến Beta = 0.116, Sig = 0.051 > 0.05
H1
thái độ mua sắm quần áo cũ Bác bỏ giả thuyết
Nhận thức giá trị môi trường có ảnh hưởng tích tích Beta = 0.214, Sig = 0.000
H2
cực đến thái thái độ mua sắm quần áo cũ Chấp nhận giả thuyết
Nhận thức giá trị cảm xúc có ảnh hưởng tích cực đến Beta = 0.487, Sig = 0.000
H3
thái độ mua sắm quần áo cũ Chấp nhận giả thuyết
Nhận thức rủi ro vệ sinh có tác động tiêu cực đến thái Beta = -0.246, Sig = 0.000
H4
độ mua sắm quần áo cũ Chấp nhận giả thuyết
Thái độ có ảnh hưởng tích cực đến ý định mua sắm Beta = 0.818, Sig = 0.000
H5
quần áo cũ Chấp nhận giả thuyết

Phương trình hồi quy tuyến tính chuẩn hóa được xây dựng cụ thể như sau:
TD = 0.214* Môi trường + 0.487*Cảm xúc- 0.162*Vệ sinh
Phương trình hồi quy cho thấy nhận thức giá trị cảm xúc có ảnh hưởng mạnh nhất đối với thái
độ mua sắm quần áo cũ, vì có hệ số Beta = 0.478, là hệ số lớn nhất trong các hệ số Beta. Tiếp đến là
nhận thức giá trị môi trường mà mua sắm quần áo cũ mang lại, hệ số beta = 0.214. Và cuối cùng là
nhân tố nhận thức rủi ro vệ sinh, ảnh hưởng tiêu cực, với hệ số Beta = -0.162.
5. Kết luận

5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu


Kết quả phân tích tương quan và phân tích hồi quy cho thấy nhân tố Kinh tế không còn phù
hợp với mô hình nghiên cứu. Điều này cho thấy, cho điều kiện kinh tế và giá cả của quần áo cũ không
phải là yếu tố có thể tác động đến thái độ đối với mua sắm quần áo cũ của khách hàng và từ đó dẫn
tới ý định mua chúng. Còn các nhân tố như môi trường, cảm xúc, rủi ro vệ sinh cho ra kết quả là có

180
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

thể ảnh hưởng đến thái độ của người tiêu dùng trẻ đối với quần áo cũ. Hồi quy bội MLR cho thấy, Hệ
số R2 hiệu chỉnh đạt 43.7, ta có thể thấy một điều rằng, 3 biến này chưa giải thích được hoàn toàn cho
sự thay đổi biến thiên của thái độ người tiêu dùng trẻ, mà còn có những biến khác mà mô hình nghiên
cứu của nhóm chưa đề cập tới. Nghiên cứu này góp phần giúp người đọc cũng như nhóm tác giả tìm
hiểu được nhân tố ảnh hưởng đến thái độ của người tiêu dùng trẻ đối với mua sắm quần áo cũ, từ đó
tác động đến ý định mua mua hàng của họ. Ngoài ra, từ những thiếu sót mà mô hình đã gặp phải, đã
gợi ý cho người đọc, cũng như các doanh nghiệp quan tâm đến loại hình này những hướng đi khác
với những nhân tố mới còn sót lại hoặc cải thiện những nhân tố cũ cho phù hợp với bản thân doanh
nghiệp hoặc với sự lựa chọn theo ưu thế.
5.2. Kiến nghị và đề xuất

Đầu tiên, đối với các doanh nghiệp, cùng với việc phát huy triệt để những ưu điểm của mua
sắm quần áo cũ, nên chú trọng vào trải nghiệm của khách hàng nhiều hơn. Không gian mua sắm rộng
rãi, chất lượng vệ sinh của quần áo luôn ở mức tốt nhất sẽ khiến khách hàng có thiện cảm và dễ chấp
nhận hơn. Không những thế, vấn đề liên tục truyền thông về lợi ích và tiện ích của quần áo cũ kết hợp
các chính sách tái chế giúp tạo một cái nhìn thân thiện và tốt đẹp hơn về quần áo cũ.
Thứ hai, nhà nước có thể cung cấp các ưu đãi như giảm thuế cho các thương hiệu có chương
trình thu gom, bán hàng đã qua sử dụng hoặc miễn thuế cho những người có chương trình bán lại để
khuyến khích mọi người tham gia vào thị trường.
5.3. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý thuyết, nghiên cứu này góp phần giúp người đọc cũng như nhóm tác giả tìm hiểu
được nhân tố ảnh hưởng đến thái độ của người tiêu dùng trẻ đối với mua sắm quần áo cũ, từ đó tác
động đến ý định mua mua hàng của họ.
Về mặt thực tiễn, nhóm tác giả mong muốn trong tương lai sẽ có nhiều người biết đến lợi ích
của việc sử dụng quần áo cũ nhiều hơn và thay đổi thói quen sử dụng cũng như thói quen mua sắm
trong cuộc sống hằng ngày.

Danh mục tài liệu tham khảo

Ajzen, I. (2012). Martin Fishbein’s Legacy: The reasoned action approach: Corrigendum, Annals of the
American Academy of Political and Social Science, 643(1), 267.
https://doi.org/10.1177/0002716212449619.
Bauer, R.A. (1960). Consumer Behavior as Risk Taking. In: Hancock, R.S., Ed., Dynamic Marketing for
a Changing World, Proceedings of the 43rd. Conference of the American Marketing Association,
389-398.
BECK, L., & AJZEN, I. (1991). Predicting dishonest actions using the theory of planned behavior.
Journal of Research in Personality (Print), 25(3), 285–301.
Chaturvedi, P., Kulshreshtha, K., & Tripathi, V. (2020). Investigating the determinants of behavioral
intentions of Generation Z for Recycled Clothing: An evidence from a developing economy, Young
Consumers, 21(4), 403–417. https://doi.org/10.1108/yc-03-2020-1110.

181
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Collinearity: A review of methods to deal with it and a simulation study evaluating their performance.
(2013). Ecography, 36(1), 27–46.
Edbring, E. G., Lehner, M., & Mont, O. (2016). Exploring consumer attitudes to alternative models of
consumption: motivations and barriers. Journal of Cleaner Production, 123, 5-15.
https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2015.10.107.
Ek Styvén, M., & Mariani, M. M. (2020). Understanding the intention to buy secondhand clothing on
sharing economy platforms: The influence of sustainability, distance from the consumption system,
and economic motivations. Psychology & Marketing, 37(5), 724–739.
https://doi.org/10.1002/mar.21334.
Fishbein, M. (2008), “Reasoned action, theory of”,The International Encyclopedia of Communication.
Fishbein, M., & Ajzen, I. (2011). Predicting and changing behavior: The reasoned action approach.
Psychology Press. https://doi.org/10.4324/9780203838020
Guercini, S., Bernal, P. M., & Prentice, C. (2018). New marketing in fashion e-commerce. Journal of
Global Fashion Marketing, 9(1), 1–8. https://doi.org/10.1080/20932685.2018.1407018.
Guiot, D., & Roux, D. (2010). A second-hand shoppers’ motivation scale: Antecedents, consequences,
and implications for retailers, Journal of Retailing, 86(4), 355–371.
https://doi.org/10.1016/j.jretai.2010.08.002.
Hur, E. (2020). Rebirth fashion: Secondhand clothing consumption values and perceived risks. Journal of
Cleaner Production, 273, 122951. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2020.122951.
Hoa, B. T. P., & Duc, V. M. (2019). The motivation to buy Second hand clothes for young Vietnamese
consumers. ECONOMICS, MANAGEMENT AND BUSINESS, 1189
Jung, H. J., Choi, Y. J., & Oh, K. W. (2020). Influencing factors of Chinese consumers’ purchase
intention to sustainable apparel products: Exploring consumer “attitude–behavioral intention” gap.
Sustainability, 12(5), 1770. https://doi.org/10.3390/su12051770.
Ivan Ross (1975). Perceived Risk and Consumer Behavior: a Critical Review. NA - Advances in
Consumer Research, Volume 02, eds. Mary Jane Schlinger, Ann Arbor, MI : Association for
Consumer Research, Pages: 1-20.
Kamalul Ariffin, S., Mohan, T., & Goh, Y.-N. (2018). Influence of consumers’ perceived risk on
consumers’ online purchase intention. Journal of Research in Interactive Marketing, 12(3), 309–327.
https://doi.org/10.1108/jrim-11-2017-0100.
Katelyn Sorensen, & Jennifer Johnson Jorgensen. (2019). Millennial Perceptions of Fast Fashion and
Second-Hand Clothing: An Exploration of Clothing Preferences Using Q Methodology. Social
Sciences, 8(9), 244. https://doi.org/10.3390/socsci8090244
Lang, C., & Zhang, R. (2019). Second-hand clothing acquisition: The motivations and barriers to clothing
swaps for Chinese consumers. Sustainable Production and Consumption, 18, 156–164.
https://doi.org/10.1016/j.spc.2019.02.002.
Laura Farrant, Arne Wangel, & Stig Irving Olsen. (2010). Environmental benefits from reusing clothes.
The International Journal of Life Cycle Assessment, 15, 726–736.
Lee, E.-J., & Shin, S. Y. (2014). When do consumers buy online product reviews? effects of review

182
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

quality, product type, and reviewer’s photo. Computers in Human Behavior, 31, 356–366.
https://doi.org/10.1016/j.chb.2013.10.050.
Lo, C. J., Tsarenko, Y., & Tojib, D. (2019). To tell or not to tell? The roles of perceived norms and
self‐consciousness in understanding consumers’ willingness to recommend online secondhand
apparel shopping. Psychology & Marketing, 36(4), 287–304. https://doi.org/10.1002/mar.21179
Machado, M. A., Almeida, S. O., Bollick, L. C., & Bragagnolo, G. (2019). Second-hand fashion market:
Consumer role in Circular Economy. Journal of Fashion Marketing and Management: An
International Journal, 23(3), 382–395. https://doi.org/10.1108/jfmm-07-2018-0099.
Medalla, M. E., Yamagishi, K., Tiu, A. M., Tanaid, R. A., Abellana, D. P. M., Caballes, S. A., Jabilles, E.
M., Himang, C., Bongo, M., & Ocampo, L. (2020). Modeling the hierarchical structure of
secondhand clothing buying behavior antecedents of millennials. Journal of Modelling in
Management, 15(4), 1679–1708. https://doi.org/10.1108/JM2-08-2019-0207
Montano, D. E., & Kasprzyk, D. (2015). Theory of reasoned action, theory of planned behavior, and the
integrated behavioral model. Health behavior: Theory, research and practice, 70(4), 23.
Moeun Saut, & Tithdane Saing. (2021). Factors affecting consumer purchase intention towards
environmentally friendly products: a case of generation Z studying at universities in Phnom Penh. SN
Business & Economics, 1.
Nathalie Peña-García, Irene Gil-Saura, Augusto Rodríguez-Orejuela, & José Ribamar Siqueira-Junior.
(2020). Purchase intention and purchase behavior online: A cross-cultural approach. Heliyon, 6(6).
https://doi.org/10.1016/j.heliyon.2020.e04284
Podkalicka A. At home with Gumtree: A cultural analysis of Australia’s popular secondhand online
marketplace. European Journal of Cultural Studies. 2022;25(5):1410-1432.
doi:10.1177/13675494221079856
Snyder, C. R. (1992). Product Scarcity by Need for Uniqueness Interaction: A Consumer Catch022
Carousel? Basic & Applied Social Psychology, 13(1), 9–24.
https://doi.org/10.1207/s15324834basp1301_3
Tian, K. T., Bearden, W. O., & Hunter, G. L. (2001). Consumers’ Need for Uniqueness: Scale
Development and Validation. Journal of Consumer Research, 28(1), 50–66.
https://doi.org/10.1086/321947
Tse, D. K., Wong, J. K., & Chin Tiong Tan. (1988). Towards Some Standardized Cross-Cultural
Consumption Values. Advances in Consumer Research, 15(1), 387–395.
Xu, Y., Chen, Y., Burman, R., & Zhao, H. (2014). Second-hand clothing consumption: a cross-cultural
comparison between American and Chinese young consumers. International Journal of Consumer
Studies, 38(6), 670–677. https://doi.org/10.1111/ijcs.12139
You-Kyung Lee. (2020). The Relationship between Green Country Image, Green Trust, and Purchase
Intention of Korean Products: Focusing on Vietnamese Gen Z Consumers. Sustainability, 12(5098),
5098. https://doi.org/10.3390/su12125098

183
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

BẢO VỆ DỮ LIỆU CÁ NHÂN XUYÊN BIÊN GIỚI


KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Bùi Hoàng Lộc Anh
Trần Tú Uyên
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: anhbui.31201024095@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT


Ngày nhận: 14/12/2022 Trong xu thế toàn cầu hoá và trào lưu chuyển đổi số, việc
Ngày gửi lại: 02/02/2023 chuyển giao dữ liệu cá nhân xuyên biên giới thông qua nền tảng công
Ngày duyệt: 03/02/2023 nghệ số mang lại rất nhiều lợi ích về mặt kinh tế và xã hội. Song ở
hiện tại, vẫn còn nhiều nút thắt chưa được tháo gỡ về mặt pháp lý đối
với quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong quan hệ trao đổi dữ
liệu xuyên biên giới. Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận văn
bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ chuyển dữ liệu cá
nhân ra khỏi biên giới quốc gia, cũng chưa có các thể chế quản trị rủi
ro trong quan hệ chuyển giao dữ liệu đến các quốc gia khác. Áp dụng
khung lý thuyết cải cách pháp luật, nghiên cứu này liệt kê và phân
tích những nút thắt đang tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam
đối với công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quan hệ chuyển giao
xuyên biên giới. Khung phân tích được xây dựng xoay quanh ba khái
niệm chính là quyền của người dùng, vấn đề xung đột pháp luật và
Từ khóa: khung luật thương mại quốc tế. Bài viết triển khai đối sánh với quy
bảo vệ dữ liệu cá nhân, định của một số quốc gia trên thế giới với hệ quy chiếu là các hiệp
dữ liệu cá nhân, định thương mại thế hệ mới, từ đó nêu ra một số hàm ý chính sách
dữ liệu xuyên biên giới, nhằm bảo vệ người tiêu dùng trước những nút thắt pháp lý trong quá
quyền bảo mật trình chuyển giao dữ liệu cá nhân xuyên biên giới.

1. Yêu cầu bản địa hóa dữ liệu ở Việt Nam


Sự bùng nổ của Internet đã giúp nền tảng kinh tế số trên các quốc gia phát triển không ngừng.
Không phải ngẫu nhiên internet được gọi là “xứ sở không biên giới” (Goldsmith, J. (2007). Who
controls the Internet? Illusions of a borderless world.). Tuy nhiên, tự do không biên giới trên không
gian mạng tạo ra không ít lo lắng về vấn đề bảo mật dữ liệu trong hoạt động chuyển giao dữ liệu cá
nhân qua biên giới khi không có hàng lưới bảo vệ chặt chẽ.
Trước hết, dữ liệu cá nhân được hiểu là những thông tin liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
một cá nhân được chỉ đích danh (Schwartz, 2004). dữ liệu cá nhân phản ánh trực tiếp những thông tin
riêng tư liên quan đến danh tính của một con người như tên; tuổi; nghề nghiệp;… Ngoài ra, dữ liệu cá
nhân chứa đựng cả những thông tin được xem là quyền riêng tư của mỗi người (Schwartz, 2004).
Trước những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát có thể xảy ra của dòng dữ liệu xuyên biên giới,
Việt Nam cũng như một số quốc gia trên thế giới đã có những biện pháp khác nhau nhằm hạn chế

184
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

người dùng chuyển dữ liệu ra ngoài lãnh thổ quốc gia. Một trong số đó là biện pháp ‘bản địa hoá dữ
liệu’ (data localization) mà hiện tại Việt Nam đang áp dụng thông qua hình mẫu của một số quốc gia
Đông Nam Á. (Xuân, 2021)
Hiểu đơn thuần, “data localization” giống như một hàng rào bảo vệ làm giảm tỉ lệ dữ liệu
được trao đổi qua biên giới của một quốc gia. Các thông tin dữ liệu của người dùng chỉ được lưu trữ,
xử lý và kiểm soát tại quốc gia đó và không được chuyển qua các quốc gia khác nhằm bảo vệ quyền
riêng tư của công dân tại quốc gia. Ở Việt Nam, yêu cầu “bản địa hóa” dữ liệu đã được đề cập khi dự
thảo Luật An ninh mạng được thông qua vào năm 2018. Theo đó, quá trình lưu trữ và xử lý dữ liệu
của người dùng đều phải thực hiện tại Việt Nam trong khuôn khổ thời gian được quy định. Ngoài
những lợi ích mang lại về bảo mật dữ liệu cá nhân của người dùng, "bản địa hóa" dữ liệu cũng tạo ra
sự gò bó trao đổi dữ liệu ra khỏi biên giới làm ảnh hưởng tiêu cực lớn đối với năng suất và nền kinh
tế của quốc gia. Theo một thống kê vào năm 2019, việc “bản địa hóa” dữ liệu đã tác động khiến GDP
của Việt Nam giảm 1,7% và làm sụt giảm 3,1% tỉ lệ đầu tư nước ngoài khi các doanh nghiệp e ngại
vấn đề phải lưu trữ và xử lý dữ liệu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam (The ASEAN Post Team,
2019).
Về cơ bản, “bản địa hóa” dữ liệu có khả năng đáp ứng những lo ngại đối với bài toán bảo mật
dữ liệu cá nhân. Xét về dài hạn, “bản địa hóa” dữ liệu cá nhân lại khó có thể kiểm soát được vấn đề
còn tồn đọng trong chuyển giao dữ liệu xuyên biên giới. Nhu cầu chuyển đổi dữ liệu của con người
luôn tăng cao thì phương án “bản địa hóa” dữ liệu cá nhân chưa thật sự là cách tối ưu để đảm bảo
quyền riêng tư của người dùng.
2. Hiểu về dữ liệu cá nhân xuyên biên giới
Hiện nay việc chuyển giao dữ liệu cá nhân xuyên biên giới trở nên rất phổ biến trên toàn thế
giới. Tuy nhiên, sự không tương thích về khu vực tài phán đối với quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân
của các quốc gia nhận và chuyển dữ liệu cá nhân cũng hình thành sự lo lắng đối với chủ thể dữ liệu,
chẳng hạn người dùng tại lãnh thổ Việt Nam sử dụng một phần mềm của công ty tại Trung Quốc.
Trong trường hợp dữ liệu cá nhân của người dùng tại Việt Nam là quốc gia “gốc” của dữ liệu xảy ra
vấn đề liên quan đến bảo mật thông tin thì Việt Nam sẽ rất khó có thể bảo vệ dữ liệu cá nhân của
người dùng tại quốc gia mình. Bởi dữ liệu đã được chuyển đến Trung Quốc và được xử lý tại lãnh thổ
của nước nhận dữ liệu. Ngoài ra, Việt Nam chưa có Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân chính thức để đảm
bảo được quyền lợi của người dùng khi mà Trung Quốc là quốc gia đã có Luật bảo vệ thông tin cá
nhân.
Trong một số trường hợp chuyển giao dữ liệu cá nhân xuyên biên giới, quyền của chủ thể dữ
liệu chưa hẳn đã được phát huy tối đa theo như EU quy định trong GDPR. Dữ liệu được chuyển giao
khỏi phạm vi lãnh thổ của quốc gia “gốc” thì chủ thể dữ liệu rất khó khăn trong việc lấy bản sao hay
hạn chế xử lý dữ liệu. Vì dữ liệu cá nhân đã được chuyển sang một quốc gia khác và pháp luật của
mỗi quốc gia khác nhau trong vấn đề xử lý và lưu trữ dữ liệu cá nhân. Thậm chí, một số quốc gia
“gốc” dữ liệu chưa có hành lang pháp lý cụ thể đối với bảo vệ dữ liệu cá nhân thì việc đảm bảo quyền
của chủ thể dữ liệu được thực hiện là điều không mấy khả thi. Pháp luật về Bảo vệ dữ liệu cá nhân ở
các quốc gia trên thế giới chưa tỉ lệ thuận với tốc độ phát triển của nền tảng công nghệ số thì rất khó
đảm bảo được quyền của chủ thể dữ liệu chuyển giao khỏi biên giới..

185
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

3. Xu hướng tiếp cận trong xây dựng quy định pháp luật về chuyển dữ liệu cá nhân qua biên
giới.
3.1. Đối với Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là 1 trong 10 nước có lượng dữ liệu luân chuyển xuyên biên giới lớn
nhất thế giới nhưng hiện nay pháp luật Việt Nam lại chưa có văn bản quy phạm pháp luật về việc
chuyển dữ liệu cá nhân ra khỏi biên giới quốc gia (Nguyễn Lan Phương, 2021).
Nghiên cứu Dự thảo Nghị định quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2021 (Dự thảo Nghị
định quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, 2021), chúng tôi thấy rằng quy định về điều kiện chuyển dữ
liệu cá nhân qua biên giới được xây dựng nhưng chưa rõ ràng, có sự trùng lặp giữa điều kiện chuyển
với ngoại lệ chuyển, giữa ngoại lệ chuyển với điều kiện Ủy ban bảo vệ dữ liệu cá nhân ra văn bản
đồng ý chuyển. Tại điều 21 của dự thảo quy định về điều kiện chuyển, ngoại lệ chuyển và điều kiện
ủy ban bảo vệ dữ liệu ra văn bản đồng ý chuyển, ba khoản thuộc ba mục đích khác nhau nhưng nội
dung thì lại trùng lặp.
“Điều 21. Chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới
1. Dữ liệu cá nhân của công dân Việt Nam có thể chuyển ra khỏi biên giới lãnh thổ Việt Nam khi
đáp ứng đầy đủ 04 điều kiện sau:
a) Khi có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu về việc chuyển giao;
b) Dữ liệu gốc được lưu trữ tại Việt Nam;
c) Có văn bản chứng minh quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc một khu vực cụ thể trong quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ chuyển đến đã ban hành quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân ở mức độ bằng hoặc
cao hơn với quy định tại Nghị định này;
d) Có văn bản đồng ý bằng văn bản của Ủy ban bảo vệ dữ liệu cá nhân.
2. Cơ sở để Cơ quan bảo vệ dữ liệu ra văn bản về việc chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới:
a) Bảo vệ hiệu quả các quyền của chủ thể dữ liệu theo Nghị định này;
b) Cam kết của Bên xử lý dữ liệu cá nhân khi đăng ký chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới;
c) Biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân được Bên xử lý dữ liệu cá nhân thể hiện trong hồ sơ.
3. Dữ liệu cá nhân có thể được chuyển ra khỏi biên giới lãnh thổ Việt Nam không đáp ứng các
điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này trong trường hợp:
a) Có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu;
b) Có văn bản đồng ý của Ủy ban bảo vệ dữ liệu cá nhân;
c) Cam kết bảo vệ dữ liệu cá nhân của Bên xử lý dữ liệu;
d) Cam kết áp dụng các biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân của Bên xử lý dữ liệu cá nhân.”
Cũng trong dự thảo này, chế tài xử lý vi phạm quy định chuyển giao dữ liệu cá nhân xuyên
biên giới được đề cập ở Điều 22, hành vi vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng. Nếu vi phạm lần 2 sẽ bị phạt 5% tổng doanh thu. Chế tài này có phần khắt khe hơn, nhưng
chưa quy định rõ thời gian để xác định số lần vi phạm và mức phạt lớn không phù hợp với mức phạt

186
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

tối đa trong xử phạt vi phạm hành chính.


3.2. Đối với Trung Quốc và các tổ chức quốc tế
Vào ngày 20 tháng 8 năm 2021, Đại hội Đại biểu Nhân dân Trung Quốc đã ban hành Luật bảo
vệ thông tin cá nhân. Nhìn chung, Trung Quốc đã thắt chặt tính bảo mật được thể hiện ngay trong các
quy định về bảo mật thông tin. Tuy nhiên các điều khoản trong luật này lại rất khó để tuân thủ và
chương III của luật này cũng đề cập đến những điều khoản về chuyển dữ liệu qua biên giới. Điều
đang chú ý là luật của Trung Quốc đã hình thành một hệ thống input - output để quản trị những dữ
liệu cá nhân được chuyển qua các nước khác trên thế giới.
Quy định về chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới quy định tại Điều 38
Luật Bảo vệ thông tin cá nhân 2021 của Trung Quốc

Nguồn: tác giả soạn theo nội dung của Luật Bảo vệ thông tin cá nhân 2021
Theo như mô hình trên thì một cá nhân muốn chuyển giao dữ liệu ra khỏi Trung Quốc buộc
phải thỏa mãn 4 điều kiện.

187
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Đầu tiên, phải có sự đánh giá an ninh của cục an ninh mạng và thông tin hóa Nhà nước Trung
Quốc. Mục đích của việc này là để cục an ninh kiểm tra xem các điểm chuyển giao có đảm bảo thực
sự an toàn.
Thứ hai là giấy chứng nhận bảo vệ thông tin của cục an ninh mạng và thông tin hóa Nhà nước
Trung Quốc. Sau khi nộp hồ sơ lên thì cục an ninh sẽ đưa ra giấy chứng nhận cho phép dữ liệu này có
thể chuyển giao được.
Thứ ba, phải có một hợp đồng mẫu về chuyển giao dữ liệu hoặc một thỏa thuận văn bản về
bảo mật thông tin, tuy nhiên luật của Trung Quốc lại không có điều khoản quy định rõ ràng về hợp
đồng mẫu trong quản lý dữ liệu. Đồng thời, không có căn cứ nào để đảm bảo hợp đồng mẫu sẽ đáp
ứng được tối đa hiệu quả trong việc bảo mật thông tin của cá nhân khi mỗi loại dữ liệu cũng có
những tính chất khác nhau. Thứ tư là điều kiện khác. Đây là một trạng thái mở mà pháp luật Trung
Quốc đưa ra nhưng lại không quy định chi tiết điều kiện khác bao gồm những gì.
Mô hình của Trung Quốc mang tính mới, mang tính chặt hơn trong khâu kiểm duyệt nhưng
chưa cụ thể hóa được từng quy định để làm rõ việc bảo vệ dữ liệu cho cá nhân khi chuyển dữ liệu ra
khỏi lãnh thổ Trung Quốc. Đến nay cũng chưa có bất kỳ nhận định nào cho rằng mô hình này là phù
hợp hay không để các quốc gia khác học hỏi hay tạo dựng một mô hình tương tự.
Khi chuyển giao dữ liệu trong phạm vi của EU không phải chịu bất kỳ sự ràng buộc đặc biệt
nào, mọi tiêu chuẩn về giai đoạn xử lý dữ liệu trong EU đều chịu sự điều chỉnh của GDPR. Và không
phải mọi trường hợp dữ liệu đều sẽ được chuyển giao ra khỏi EU.

Trường hợp đầu tiên là dựa trên quyết định của Ủy ban về tính đầy đủ. Ủy ban Châu Âu (EC)
sẽ đưa ra quyết định nơi mà dữ liệu được chuyển đến có quy định đầy đủ hay không. Ủy ban Châu
Âu cũng có quyền đưa ra quyết định xác định một quốc gia hoặc tổ chức quốc tế thứ ba liệu có đáp
ứng đủ các yêu cầu về bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Một trong những nguyên tắc mấu chốt trong GDPR chính là chuyển giao dữ liệu dựa trên cơ
sở quyết định về tính đầy đủ. Nếu một quốc gia đã có sẵn quyết định này của EU thì việc chuyển giao
dữ liệu đến quốc gia đó không cần phải xin phép.

188
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Quyết định của EC sẽ được dựa trên ba tiêu chí. Một, dựa trên quy định của pháp luật, cái
quan trọng nhất cần xét đến đó là quyền con người, ngoài ra EC còn xem xét pháp luật về an ninh
quốc gia và pháp luật hình sự, cũng như những quy định khác có liên quan. Hai, có sự tồn tại; tính
hiệu quả của một cơ quan độc lập tại quốc gia nhận dữ liệu giám sát việc tuân thủ quy định về bảo vệ
dữ liệu. Cuối cùng là xem xét cam kết quốc tế của quốc gia hoặc tổ chức quốc tế đó.
Trường hợp thứ hai là dựa trên các biện pháp bảo vệ phù hợp cũng hướng đến việc đảm bảo
tính bảo mật của dữ liệu được chuyển qua biên giới.

189
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Một nguyên tắc nữa trong GDPR đó là chuyển giao dữ liệu trên cơ sở có biện pháp bảo vệ phù
hợp. Điều kiện tiên quyết của nguyên tắc này là phải xuất phát từ quyền có thể thực thi của chủ thể và
chế tài pháp lý hiệu quả. Quyền này đảm bảo rằng người sở hữu dữ liệu có thể yêu cầu tòa án hoặc cơ
quan có chức năng tương đương bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, song song với đó chế tài sẽ
đảm bảo mọi quyết định của cơ quan này đều có thể thi hành được.
Đáng kể đến là GDPR đã quy định rất rõ các trường hợp ngoại lệ, có tất cả 7 trường hợp ngoại
lệ cụ thể được phép thực hiện chuyển giao dữ liệu xuyên biên giới

190
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Một điểm đặc biệt là các bản án hay quyết định của một quốc gia ngoài EU bắt buộc chuyển
dữ liệu từ EU đến quốc gia đó sẽ không tự động được công nhận và thi hành, trừ trường hợp EU hoặc
một quốc gia thành viên của EU và quốc gia đó đã ký hiệp định tương trợ.
4. Một số phương pháp tiếp cận đối với quy định chuyển dữ liệu qua biên giới.
Cách tiếp cận quy định chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới thể hiện mức độ quan tâm của
từng quốc gia đối với các vấn đề chính sách - pháp lý liên quan đến dòng chảy dữ liệu xuyên biên
giới, đồng thời phụ thuộc vào bản chất của dữ liệu cũng như sự ảnh hưởng một phần về phong tục tập
quán dẫn đến những mô hình quản trị dữ liệu khác nhau. Xu hướng tiếp cận của chúng ta đi từ chưa
có quy định về chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới đến thắt chặt một cách không lưu thông là cấm
chuyển giao dữ liệu này ra khỏi biên giới quốc gia.

Phương pháp tiếp cận đầu tiên là hạn chế những quy định về chuyển dữ liệu cá nhân xuyên

191
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

biên giới, có thể nguyên do bắt nguồn từ việc ít hoặc không có văn bản pháp lý nào quy định về việc
về bảo vệ dữ liệu cá nhân hoặc các văn bản pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân nhưng phạm vi áp dụng
vẫn chưa thể vượt ra khỏi lãnh thổ pháp lý (Casalini, F. and J. López González, 2019). Việc không có
quy định nào như một sự xác nhận đối với việc vô hạn hành vi chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới,
nhưng có thể hạn chế khả năng sẵn sàng xử lý của quốc gia khi phải đối mặt với trường hợp dữ liệu
cá nhân bị xâm phạm, sẽ gây khó khăn khi hội nhập quốc tế với những đất nước nghiêm khắc đối với
vấn đề này.
Phương pháp tiếp cận thứ hai là quy định liên quan đến vấn đề giải trình cho chủ thể khi xuất
hiện hành vi chuyển dữ liệu cá nhân xuyên biên giới (Casalini, F. and J. López González, 2019).
Phương pháp này cho phép các chủ thể khi thực hiện chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới nhưng
đồng thời, họ vẫn phải đảm bảo an toàn cho các dữ liệu được chuyển đi và sẽ phải chịu trách nhiệm
nếu dữ liệu này bị xâm phạm. Không yêu cầu bất kỳ điều kiện kiểm soát nào trước khi chuyển dữ
liệu.
Cách tiếp cận thứ ba là quy định điều kiện an toàn trước khi chuyển dữ liệu cá nhân qua biên
giới. Phương pháp này đòi hỏi chủ thể chuyển dữ liệu cá nhân qua biên giới phải đáp ứng các điều
kiện từ cơ quan có thẩm quyền, như: quyết định về mức độ bảo vệ dữ liệu tương thích giữa các quốc
gia với quốc gia gốc của dữ liệu, chính sách bảo vệ dữ liệu tương thích với luật, ... (Casalini, F. and J.
López González, 2019) Cách tiếp cận thứ tư có phần chặt hơn là cấp phép từng trường hợp cụ thể
chuyển dữ liệu qua biên giới. Phương pháp yêu cầu chủ thể dữ liệu cá nhân phải nhận được sự chấp
thuận từ cơ quan có thẩm quyền trước khi chuyển dữ liệu qua biên giới trong từng trường hợp cụ thể
(Casalini, F. and J. López González, 2019).
Cách tiếp cận thứ năm là cấm chuyển dữ liệu cá nhân ra khỏi biên giới. Phương pháp này đòi
hỏi chủ thể nắm giữ dữ liệu phải lưu trữ, xử lý dữ liệu cá nhân tại quốc gia thu thập dữ liệu mà không
được chuyển dữ liệu này tới bất kì quốc gia, vùng lãnh thổ khác (Casalini, F. and J. López González,
2019).
5. Hàm ý chính sách
Từ những xu hướng phát triển và vận dụng từ các mô hình quản trị dữ liệu cá nhân xuyên biên
giới của một số quốc gia; các tổ chức quốc tế khác trên thế giới, nhóm tác giả mạnh dạn đưa ra một
số đề xuất nhằm hướng đến giải quyết những vấn đề vướng mắc trên phương diện bảo vệ người tiêu
dùng trước quá trình chuyển giao dữ liệu xuyên biên giới.
Thứ nhất, nên ban hành những quy định riêng cho việc quản lý dữ liệu cá nhân xuyên biên
giới. Có thể ban hành một luật riêng hoặc bổ sung sửa đổi thêm điều khoản vào văn bản luật đã có
sẵn để làm rõ hơn về cách quản lý đối với những dữ liệu xuyên biên giới. Đồng thời, kết hợp chỉnh
sửa những chế tài đối với chuyển dữ liệu qua biên giới theo hướng kết hợp giữa hành chính và dân
sự.
Thứ hai, ngoài việc ban hành quy định còn nên nghiên cứu xem xét áp dụng những quy định
của GDPR về điều khoản mẫu (SCCs) như một hình thức thay thế một phần hay toàn bộ cho quyết
định về các quốc gia thứ ba an toàn của Ủy ban châu Âu (Adequacy Decision). Nếu có quy định đăng
ký chuyển dữ liệu qua biên giới, bên chuyển dữ liệu cần được yêu cầu đánh giá rõ các tiêu chí tương
tự như các quy tắc ràng buộc (BCRs) của GDPR để cơ quan có thẩm quyền có cơ sở nhằm đánh giá

192
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

mức độ an toàn của dữ liệu cá nhân được đưa ra khỏi biên giới quốc gia thay vì quy định chung
chung như dự thảo Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân (PDPD).
Thứ ba, có thể tham khảo cơ chế của Privacy Shield:

Điểm hay của mô hình này là cơ quan giám sát độc lập đóng vai trò thanh tra, giám sát việc
tuân thủ và tiếp nhận khiếu nại về vi phạm quy định bảo vệ dữ liệu. Trong trường hợp đã sử dụng hết
các chế tái có sẵn chủ thể dữ liệu có quyền khởi kiện tại hội đồng trọng tài theo cơ chế của mô hình
này.
6. Kết luận
Bảo vệ dữ liệu cá nhân xuyên quốc gia là vấn đề đã và đang được các chuyên gia quan tâm.
Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, chưa một quốc gia nào có thể khẳng định rằng mô hình quản lý dữ
liệu của họ là phù hợp với tình hình dòng chảy dữ liệu cá nhân xuyên biên giới cũng như tương thích
với hành lang pháp lý về quản lý dữ liệu cá nhân xuyên biên giới của Việt Nam. Vì vậy, đề tài nghiên
cứu của nhóm tác giả mang hướng đóng góp góc nhìn đối với những nút thắt còn tồn tại trong vấn đề
bảo vệ dữ liệu cá nhân xuyên biên giới của Việt Nam. Đồng thời, mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị
cho những bài toán lớn gây ra sự khó khăn nhất định trong công cuộc bảo vệ dữ liệu cá nhân xuyên
biên giới của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Mặc dù ở thời điểm hiện tại chưa có một
quốc gia nào cho thấy sự hoàn thiện đến tuyệt đối về cách thức quản lý dữ liệu cá nhân xuyên quốc
gia nhưng các giải pháp ở mặt quy định pháp luật cũng là sự tiến bộ đáng để Việt Nam xem xét và
học hỏi.

Danh mục tài liệu tham khảo


A. Văn bản pháp luật
1. Dự thảo Luật An ninh mạng năm 2018 của Việt Nam
2. Theo Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của EU (GDPR)
3. Chỉ thị số 95/46/EC về việc bảo vệ dữ liệu cá nhân liên quan đến việc xử lý dữ liệu cá nhân và cách
thức lưu chuyển dữ liệu tự do trong khối Liên minh Châu Âu (EU)
4. Quyết định năm 2016 của Ủy ban quốc gia về thông tin và quyền tự do Pháp (CNIL)
5. Dự thảo Nghị định quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2021 của Việt Nam 6. Luật Bảo vệ thông
tin cá nhân 2021 của Trung Quốc.

193
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

B. Các tài liệu tham khảo khác


Casalini, F. and J. López González (2019), “Trade and Cross- Border Data Flows”, OECD Trade Policy
Papers, No. 220, OECD Publishing, Paris. http://dx.doi.org/10.1787/b2023a47-en
Dự thảo Nghị định quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, (2021) (Testimony of Chính phủ).
https://www.dataguidance.com/sites/default/files/vietnam_dpl.docx.pdf
Koops, B.-J. (2014). The trouble with European data protection law. International Data Privacy Law,
4(4), 250–261. https://doi.org/10.1093/idpl/ipu023
Nguyễn Lan Phương. (2021, Tháng Sáu 9). Quản trị dòng dữ liệu cá nhân xuyên biên giới: Thúc đẩy
trách nhiệm giải trình và hướng tới hợp tác đa phương.
https://thesaigontimes.vn/quan-tri-dong-du-lieu-ca-nhan-xuyen-bien-gioi-thuc-day-trach-nhiem-giai-t
rinh-va-huong-toi-hop-tac-da-phuong/
Schwartz, P. M. (2004). Property, Privacy, and Personal Data. Harvard Law Review, 117(7), 2056.
https://doi.org/10.2307/4093335
Viện nghiên cứu và phát triển truyền thông IPS, P. Q. Đ. (2021). Đảm bảo dòng chảy dữ liệu an toàn và
tự do cho phát triển kinh tế số.

194
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

SỰ ƯNG THUẬN TRONG


HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ THEO MẪU
Nguyễn Hoàng Ngọc Trâm
Bùi Hoàng Lộc Anh
Nguyễn Thị Phương Linh
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: tramnguyen.31201023150@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT


Ngày nhận: 15/12/2022 Một trong những tiện ích hàng đầu mà công nghệ đem lại đó
Ngày gửi lại: 10/02/2023 chính là việc chúng ta có thể thanh toán mà không dùng tiền mặt
Ngày duyệt: 11/02/2023 thông qua những phương thức như chuyển khoản, bằng thẻ hay bằng
ví điện tử. Việc thanh toán bằng ví điện tử giúp tiết kiệm thời gian và
thanh toán ở bất cứ đâu chỉ bằng một chiếc điện thoại thông minh.
Tiện lợi là thế nhưng, khách hàng cũng có thể có nguy cơ gặp phải
những rủi ro tiềm ẩn như mất tiền, bị trộm tài khoản, dịch vụ không
tốt,... Khách hàng phải ký với nhà cung cấp dịch vụ một bản hợp
đồng do nhà cung cấp đưa ra, hay còn có tên khác là "hợp đồng mẫu".
Đặc biệt là khi ký loại hợp đồng này khách hàng không có quyền
chỉnh sửa hay thương lượng về điều khoản trong đó. Vấn đề này
chính là một bất cập khi khách hàng không thể đưa ra được lựa chọn
nào khác ngoài việc đồng ý. Những vấn đề trong đề tài được giải
Từ khóa:
hợp đồng điện tử theo mẫu, quyết trên cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu cùng với những phân tích từ
hợp đồng mẫu, số liệu thu thập, hướng đến bảo vệ người tiêu dùng. Đồng thời, đề tài
sự ưng thuận; thực hiện xem xét hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở trong nước
thương mại điện tử, để đưa ra những nút thắt cần tháo gỡ và thực hiện liên hệ với hệ thống
ví điện tử pháp luật của các nước khác trên thế giới.

1. Lý thuyết về sự ưng thuận khi thành lập hợp đồng


Sự ưng thuận là đồng ý với những thỏa thuận được đưa ra trong lúc giao kết hợp đồng. Và sự
ưng thuận thường được đưa ra sau khi ý chí được tự do thể hiện (tuy nhiên phải trong một giới hạn).
Như vậy, ý chí chính là nguyên liệu, còn sự ưng thuận là cả một quá trình để “chế biến” nguyên liệu
đó nhằm tạo ra một thỏa thuận, một hợp đồng. Khi các bên có sự bình đẳng trong giao dịch, càng hiểu
rõ nhau về sản phẩm và dịch vụ của nhau thì hợp đồng sẽ càng hoàn thiện hơn và giảm thiểu được tối
đa những rủi ro hay tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai.
Xét về kiến thức và sự mong đợi của người tiêu dùng, các điều khoản biểu mẫu không thể
thực thi nếu người soạn thảo đưa vào hợp đồng mẫu các điều khoản mà người tiêu dùng không có
mong đợi. Người tiêu dùng phải biết và đồng ý với điều khoản bất thường hoặc mới lạ được đưa vào
hợp đồng mẫu, đồng nghĩa với sự ưng thuận phải là tự nguyện từ phía người tiêu dùng. Do đó, việc
đưa ra hợp đồng mẫu chung cho tất cả mọi người sử dụng ví điện tử cần giải thích rõ ràng các điều

195
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

khoản sẽ có hiệu lực được ghi trong hợp đồng mẫu ở thanh cuộn. Tương tự, người soạn thảo cũng
nên biết rằng nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mẫu tương đương với việc có điều khoản che giấu
mục đích trọng tâm của hợp đồng, mâu thuẫn với đại diện của nhà cung cấp, lúc này vai trò của một
cơ quan có thẩm quyền là hết sức quan trọng trong việc xem xét nội dung của hợp đồng mẫu ví điện
tử.
2. Khảo sát thực trạng đọc hợp đồng mẫu và những vấn đề về tính ưng thuận trong hợp đồng
thương mại ví điện tử theo mẫu.
Nhóm tác giả đã thực hiện một cuộc khảo sát với quy mô 221 người tại Việt Nam vào thời
gian từ tháng 10/2021 đến tháng 12/2021 về tình trạng đọc hợp đồng mẫu của người dùng ví điện tử.
Hiện nay, ví điện tử được nhiều sinh viên, nhân viên, người đi làm sử dụng như một phương thức để
chuyển khoản, thanh toán tiện dụng. Vì thế, nhóm tác giả quyết định lựa chọn đối tượng cho cuộc
khảo sát này chủ yếu là sinh viên, nhân viên, người đi làm,… Mặc dù, nhóm tác giả không thể khẳng
định rằng bảng khảo sát phản ánh lên được toàn bộ người dùng ví điện tử. Tuy nhiên, các đối tượng
mà nhóm nghiên cứu hướng đến như đã đề cập ở trên là những người có sử dụng ví điện tử do yêu
cầu công việc, hoặc xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Khi khảo sát về việc đọc hợp đồng mẫu của ví điện tử, kết quả (được thể hiện dưới biểu đồ 1)
cho thấy với câu hỏi đặt ra “Các bạn có đọc điều khoản thỏa thuận trước khi nhấn nút đồng ý sử dụng
ví điện tử hay không” thu được 138/221 người hoàn toàn đồng ý (chiếm 62,4%); 83/221 người trả lời
không (chiếm 37,6%). qua câu hỏi này, nhóm khảo sát nhận thấy có hơn ⅓ số lượng người dùng
không đọc điều khoản thỏa thuận trước khi chấp nhận giao kết hợp đồng với nhà cung cấp dịch vụ ví
điện tử.
Các Anh/Chị có đọc điều khoản thỏa thuận
trước khi nhấn nút đồng ý sử dụng ví điện tử hay không?

Biểu đồ 1. Tỷ lệ đọc hợp đồng mẫu trước khi nhấn nút đồng ý
Tiếp theo câu hỏi trên, cuộc khảo sát của nhóm nghiên cứu còn đưa ra câu hỏi về lý do người
dùng không đọc hợp đồng, cụ thể tại bảng 1. Trong đó, nguyên nhân nhiều nhất đó là “điều khoản
quá dài” (có 69 lượt). Kế đến là “mất thời gian” có 54 lượt, hơn nữa 26 người nhận thấy “không cần
thiết” để đọc các điều khoản trước khi chấp nhận, 25 lượt phản hồi vì nguyên nhân “cần sử dụng nên

196
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

đồng ý bất chấp”, 20 lượt bình chọn “suy nghĩ nếu có đọc cũng không hiểu”.
Bảng 2. Nguyên nhân người dùng ví điện tử không đọc điều khoản thỏa thuận trước khi nhấn nút
đồng ý sử dụng ví điện tử

Nguyên nhân không đọc hợp đồng Số lượt phản hồi Tỷ lệ phần trăm
Điều khoản quá dài 69 35,6%
Mất thời gian 54 27,8%
Không cần thiết 26 13,4%
Cần sử dụng nên đồng ý bất chấp 25 12,9%
Suy nghĩ nếu có đọc cũng không hiểu 20 10,3%

Từ khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy vấn đề không đọc hợp đồng của người sử dụng ví
điện tử đang tồn tại khi giao kết hợp đồng với nhà cung cấp dịch vụ. Qua nhiều ứng dụng ví điện tử
được nhóm nghiên cứu đề cập trong bảng khảo sát như MoMo, ZaloPay, ShopeePay (Air Pay),
ViettelPay, VNPay,.. thì đến hơn ⅓ người dùng được khảo sát không đọc hợp đồng mẫu trước khi
nhấn nút “chấp nhận” điều khoản mà những ví điện tử này đưa ra. Họ lý giải cho hành động này vì
người dùng nhận thấy các điều khoản trong hợp đồng mà bên phía nhà cung cấp dịch vụ soạn thảo
quá dài dòng. Điều này gây mất thời gian cho người dùng, họ không sẵn lòng dành quá nhiều thời
gian để đọc những điều khoản mà họ cho rằng nó không cần thiết. Bên cạnh đó, người sử dụng ví
điện tử còn xuất hiện suy nghĩ cho dù họ có đọc hết tất cả những điều khoản hay không thì do yêu cầu
công việc, hoặc xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng cá nhân họ cần sử dụng ứng dụng ví điện tử để thanh
toán, thực hiện các giao dịch chuyển khoản. Hơn nữa, họ cho rằng họ có đọc hết toàn bộ các điều
khoản này thì họ cũng không thể hiểu được do hợp đồng sử dụng những thuật ngữ chuyên ngành. Thế
nên, trong trường hợp này họ luôn 9 phải đồng ý bất chấp với các điều khoản mà nhà cung cấp dịch
vụ đưa ra. Những nguyên nhân trên đã gây ra sự thiếu kiên nhẫn, chủ quan trong việc bỏ qua bước
đọc hợp đồng tiến đến nhấn nút “chấp nhận”. Chính việc bỏ qua bước đọc hợp đồng của người dùng
đã làm phát sinh một số vấn đề không như mong muốn trong quá trình sử dụng ví điện tử, điển hình
như mất tiền, lỗi ứng dụng, yêu cầu người dùng cung cấp quá nhiều thông tin cá nhân,...
Cuộc khảo sát được thực hiện với 221 người và tất cả những câu trả lời ghi lại đều hợp lệ cho
ra tỷ lệ như sau:
Bảng 3. Tỷ lệ người dùng sử dụng ví điện tử chiếm phần lớn trong khảo sát

Ví điện tử Tỉ lệ người dùng


Ví Momo 83,8% (185/221)
Zalo Pay 47,9% (106/221)
Shopee Pay 44,8% (99/221)

Có thể thấy được rằng tỉ lệ sử dụng của 3 loại ví Momo Zalo pay và Shopee Pay là cao nhất.

197
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Đánh giá của người dùng khi được hỏi khi vấn đề nào đó xảy ra và liệu có được giải quyết vấn đề khi
liên hệ với nhà cung cấp không thì câu trả lời “không” chiếm 13,7%. Mặc dù đây không phải là phần
trăm lớn nhưng rõ ràng đã có lỗ hổng trong việc này khiến khách hàng phải hứng chịu những rủi ro.
Trong đó câu trả lời tiêu biểu cho vấn đề tại sao không là “đọc feedback nhiều nhưng nhà cung cấp
dịch vụ kéo dài thời gian rồi im lặng luôn”, “tùy vào số tiền mới được xem xét giải quyết” hoặc “nếu
liên lạc để lấy lại tiền hoặc giải quyết vấn đề thì phải trải qua nhiều bước rườm rà” hay là “khó giải
quyết và có khi nhà dịch vụ không quan tâm”. Vậy trong những trường hợp kể trên, liệu hợp đồng
mẫu có giá trị pháp lý gì với họ không hay chỉ là những bản hợp đồng cho “có”.
Người tiêu dùng ít khi đọc các mẫu hợp đồng mà các nhà cung cấp đưa ra. Sự thất bại này
thường gây ra hai vấn đề.
Thứ nhất, người tiêu dùng không thể thực sự đồng ý với mối quan hệ pháp lý mà hợp đồng
mẫu tạo ra nếu người tiêu dùng không biết về mối quan hệ đó. Lúc này, phát sinh những vấn đề pháp
lý liên quan đến trách nhiệm của người tiêu dùng và hiệu lực của hợp đồng khi có rủi ro xảy ra.
Người tiêu dùng khi đối mặt với rủi ro dù lớn hay nhỏ trong quá trình sử dụng thì đều phải chấp nhận
với quy định trong hợp đồng vì họ đã “đồng ý” với toàn bộ điều khoản. Lúc này hiệu lực của hợp
đồng tất nhiên là còn hiệu lực bởi lẽ không thể vì một vài điều khoản có vấn đề mà kết luận toàn bộ
hợp đồng vô hiệu. Có thể là một vài điều khoản sẽ bị vô hiệu hoặc được thay thế bằng một thỏa thuận
khác giữa nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại của rủi ro gây ra.
Thứ hai, cạnh tranh không thể khiến các nhà cung cấp cải thiện chất lượng hợp đồng vì người
dùng không thể sử dụng ứng dụng ví điện tử một cách tương đối cho những điều khoản mà họ không
biết. Việc đa số người tiêu dùng không đọc hợp đồng mẫu trước khi nhấn nút đồng ý là thực trạng xảy
ra gần như ở tất cả các ứng dụng ví điện tử dẫn đến một hệ quả rằng nếu 12 các nhà cung cấp dịch vụ
của mỗi loại ví điện tử thay đổi điều khoản cho phù hợp nhằm cạnh tranh với các nhà cung cấp khác
thì người tiêu dùng cũng không quan tâm đến sự khác biệt giữa các hợp đồng mẫu, họ có xu hướng
chấp nhận với hợp đồng ví điện tử mà họ thích. Theo nguyên tắc các bên phải đọc và hiểu về các điều
khoản của hợp đồng, vậy người tiêu dùng không đọc nhưng chấp nhận như một lẽ thường đã đọc thì
hợp đồng có đúng tính hợp pháp. Một cách mơ hồ đa số mọi người sẽ cảm thấy sự bất hợp lý trong
dạng hợp đồng ví điện tử này vì người tiêu dùng rõ ràng không biết, không hiểu thì tính hợp pháp
không thể được thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế điều này vẫn hợp pháp, đã đi vào hoạt động trong
các loại ví điện tử. Để có cơ sở kết luận một người không đọc trước khi nhấn nút “đồng ý” là điều rất
khó. nhà cung cấp dịch vụ thì bảo rằng đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dùng,
còn người dùng thì cứ mặc nhiên nhấn nút đồng ý vì cũng nghĩ rằng đưa vào sử dụng cho tất cả
những người có nhu cầu sử dụng ví điện tử thì đã là mặc nhiên hợp pháp.
3. Lý thuyết về điều chỉnh tính hạn chế của sự ưng thuận đối với bên gia nhập khi thành lập
hợp đồng thương mại ví điện tử theo mẫu
Đây là một lý thuyết được đưa vào để giải thích cho rất nhiều trường hợp liên quan đến hợp
đồng mẫu. Nếu người tiêu dùng chấp nhận thì đôi bên cùng có lợi và mọi thứ sẽ được vận hành theo
đề xuất. Còn nếu người tiêu dùng không chấp nhận thì cả hai bên đều sẽ không nhận được lợi ích như
mong đợi. Lý thuyết này dựa trên hai sự lựa chọn, một là đồng ý, hai là từ chối. Thông thường, người
tiêu dùng có rất ít hoặc không có cơ hội để thương lượng các điều khoản của thỏa thuận, đó là bản
chất của lý thuyết "take it or leave it”.

198
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Đối với vấn đề hợp đồng mẫu nói chung thì “Take it or leave it” vẫn có sự trao đổi, chấp nhận
hay từ chối nhưng quyết định hành động còn phụ thuộc vào giá trị của lời đề nghị1. hợp đồng mẫu thể
hiện ý chí của một bên và bên còn lại có quyền đưa ra đề nghị để thay đổi một hoặc một vài điều
khoản mà họ cho là chưa phù hợp. Và chỉ khi lời đề nghị là một sự gợi ý cho sự chấp nhận các điều
khoản công bằng thì hợp đồng được thông qua.
Riêng đối với hợp đồng mẫu trong ví điện tử, “Take it or leave it” lại vô hình trở thành một
rào cản khi không có bất kỳ sự trao đổi về các điều khoản, người mong muốn sử dụng chỉ có quyền
lựa chọn nhấn nút đồng ý hoặc không nhấn nút. Nếu nhấn nút đồng ý thì họ được cung cấp và sử
dụng dịch vụ ví điện tử. Nếu không nhấn nút thì họ sẽ không được sử dụng. Như vậy, người mong
muốn sử dụng dịch vụ điện tử họ buộc nhấn nút đồng ý với toàn bộ điều khoản của hợp đồng mẫu khi
họ biết chắc chắn rằng họ không thể mong đợi một lời đề nghị hay một cách thức trao đổi nào khác.
Ở trường hợp này, người tiêu dùng chỉ được lựa chọn sử dụng hoặc không, mà không có sự đàm phán
hay chia sẻ giá trị của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Thực chất những nhà cung cấp khi thực
hiện soạn hợp đồng mẫu họ cũng đã nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của người dùng để đánh vào
tâm lý muốn sử dụng dịch vụ, từ đó, những điều khoản do một bên soạn ra phần nhiều quan tâm đến
lợi ích của nhà cung cấp dịch vụ.
4. Bằng chứng từ kinh nghiệm điều chỉnh trong pháp luật nước ngoài
Khi nói đến hợp đồng mẫu trong ví điện tử thì hành lang pháp lý của mỗi quốc gia có những
điểm khác biệt nổi bật riêng. Tòa án Mexico đã quy định rõ ràng một người phải đọc và hiểu những
điều khoản trong hợp đồng mẫu trước khi họ giao kết hợp đồng. Con người không thể lấy sự lười
biếng và sự thiếu hiểu biết để biện minh cho việc trốn tránh nghĩa vụ đọc hợp đồng của mình.
Pháp luật Hoa Kỳ nêu cao tính tích cực của hợp đồng mẫu, tuy nhiên họ lại đưa thêm các tội
phạm phụ để giải quyết các vấn đề về lạm dụng quyền hạn từ một phía trong lúc soạn hợp đồng mẫu.
Và đã có nhiều nhà phê bình lên tiếng cách tiếp cận này về tính thiếu hiệu quả của chúng, Bolton và
Ockenfels (2000; xem thêm, Bolton, 1991; Fehr & Schmidt, 1999) lập luận rằng nếu người trả lời
nhận được ít hơn một nửa chiếc bánh, xu hướng từ chối sẽ tăng lên khi tỷ trọng phần của người đó so
với phần của người còn lại bị giảm đi. Vẫn có những cách thức “lách” được “tội danh” trong lúc áp
dụng quy định này vào thực tế.
Đã có những giải pháp cho vấn đề người tiêu dùng không đọc hợp đồng mẫu ở một số nước
như Chicago, Israeli. Không phải là thông báo mang tính chất cá nhân mà thay vào đó là loại bỏ các
điều khoản thực sự không tốt mà đôi khi đến từ sự thiếu hiểu biết của người tiêu dùng. Các giải pháp
này bao gồm việc giám sát trước của cơ quan có thẩm quyền thông qua các học thuyết như bất hợp lý
và kỳ vọng hợp lý. Việc phê duyệt trước khi các điều khoản mẫu đi vào vận hành bởi các cơ quan có
thẩm quyền lại gặp phải cản trở về tác 13 nhân đọc, người tiêu dùng không đọc điều khoản, thì việc
phê duyệt cũng chỉ là giảm thiểu tối đa những rủi ro về mặt pháp lý cho bên yếu thế.
5. Bằng chứng từ quy định trong pháp luật Việt Nam
Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015: “hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý
chí của các bên bằng việc thỏa thuận, thương lượng với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác
định khi nào và trong điều kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và

199
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

chấm dứt. Các chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại chủ thể
khác. Khách thể của hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng, có thể là tài sản, hàng hóa hoặc dịch
vụ. Nguyên tắc rất quan trọng và được pháp luật bảo vệ là nguyên tắc tự do thỏa thuận, bình đẳng và
thiện chí trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng.
Đối với hành lang pháp lý ở Việt Nam, có những quy định rõ về hợp đồng mẫu nhưng lại chưa
có những quy định cụ thể nào về hợp đồng mẫu khi sử dụng ứng dụng ví điện tử. Cũng chưa có giải
pháp cụ thể nào để giải quyết sự đối nghịch có vẻ như là mâu thuẫn giữa lý thuyết “tự do giao kết hợp
đồng” và lý thuyết “Take it or leave it” đối với vấn đề hợp đồng mẫu trong ứng dụng ví điện tử.
6. Thảo luận và kiến nghị
Nguyên tắc thỏa thuận giữa các bên là nguyên tắc tự do thỏa thuận và giao kết hợp đồng. hợp
đồng mẫu là một dạng của hợp đồng nhưng nó lại mang tính chất thể hiện ý chí của một bên. hợp
đồng mẫu đã mang lại lợi ích về mặt thời gian và chi phí, nhưng cũng đã có những mâu thuẫn trong
chính nguyên tắc thỏa thuận của hợp đồng cơ bản. pháp luật vẫn công nhận tính hợp pháp của hợp
đồng mẫu ví điện tử. Vì hợp đồng mẫu là một dạng hợp đồng đặc biệt được pháp luật thừa nhận, khi
đưa hợp đồng mẫu vào thanh cuộn trong ví điện tử lại là một trường hợp đặc biệt hơn cả.
Nếu hợp đồng mẫu trong ví điện tử có sự can thiệp của pháp luật trong việc soạn hợp đồng
mẫu thì vô hình chung đã tuân thủ nguyên tắc tự do thỏa thuận, mặc dù hợp đồng mẫu trong ví điện
tử là ý chí của một bên nhưng đó cũng thể hiện mong muốn của nhà cung cấp với dịch vụ của họ,
những điều khoản là những mong muốn của họ đối với người dùng về những vấn đề trong quá trình
sử dụng dịch vụ của họ để vừa đảm bảo quyền lợi của họ cũng như yêu cầu nghĩa vụ chấp hành của
người sử dụng. pháp luật can dự vào việc soạn ra các điều khoản sẽ làm mất đi tính tự chủ trong hợp
đồng, nội dung không được tự do đưa ra, làm hạn chế khả năng của các bên tham gia dịch vụ.
Nếu hợp đồng mẫu trong ví điện tử không có sự can thiệp của pháp luật trong tất cả quá trình
soạn cũng như áp dụng hợp đồng mẫu, thì lại tạo điều kiện cho bên soạn hợp đồng mẫu bỗng trở
thành người có ưu thế, nhà cung cấp dịch vụ sẽ có thể dựa vào đây để đưa ra những điều khoản có lợi
hơn cho bên cung cấp dịch vụ. Khi đó, những người tiêu dùng sẽ là bên yếu thế hơn, nếu không được
bảo vệ thì bên yếu thế chính là bên tự chịu hậu quả cho sự “đồng ý” của mình khi nhấn nút để sử
dụng dịch vụ ví điện tử.
Như vậy, pháp luật không nên thiệp vào quá trình soạn thảo hợp đồng mẫu của bên cung cấp
dịch vụ ví điện tử nhưng pháp luật nên can thiệp vào tính hợp lý của từng điều khoản trong hợp đồng
mẫu sau khi được soạn thảo xong để cố gắng bảo vệ tối ưu lợi ích của người tiêu dùng, không để
người tiêu dùng bị thiệt thòi vì họ không phải là người chủ động tạo ra các điều khoản mà họ chỉ
được phép lựa chọn chấp nhận hay không mà thôi.
7. Kết luận
Mặc dù hiện nay ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, các nhà lập pháp đã xây dựng
những quy định về hợp đồng mẫu. Tuy nhiên, điều này cũng không cải thiện tình trạng người sử dụng
ví điện tử bị tổn hại từ các hợp đồng mẫu điện tử của nhà cung cấp dịch vụ. Qua những phân tích
trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, mặc dù pháp luật đã thừa nhận các quyền tự do giao kết hợp
đồng, nhưng hợp đồng mẫu là một dạng đặc biệt của hợp đồng. Chính vì thế, hợp đồng mẫu vừa
mang bản chất chung của hợp đồng, vừa mang nét đặc trưng riêng. Thế nên, việc can thiệp, điều tiết

200
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

của Nhà nước trước tình trạng người tiêu dùng không đọc hợp đồng mẫu là điều cần thiết nhưng cần
ở một mức độ hợp lý, không làm mất đi bản chất vốn có của hợp đồng. Trên thực tế, việc điều tiết
đến đâu cũng là một vấn đề đang gây tranh cãi. Điều cốt yếu và quan trọng nhất khi bảo vệ quyền lợi
người dùng không phải là buộc họ phải đọc hợp đồng, vì đây là một thói quen của con người, muốn
thay đổi rất khó; mà phương thức hiệu quả nhất là cách Nhà nước trao cho người dùng cơ hội tối đa
để họ nhận thức được bản thân đang ràng buộc bởi những điều khoản như thế nào, họ có chấp nhận
những bất lợi quy định trong hợp đồng hay không.

Danh mục tài liệu tham khảo


A. Các văn bản pháp luật
1. Các văn bản pháp luật ở trong nước
Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010
Luật giao dịch điện tử năm 2005
Hiến pháp năm 1992
Bộ luật Dân sự các năm 1995, 2005 và 2015
Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005 và 2014
Luật Thương mại các năm 1997 và 2005
Luật Đầu tư năm 2000, 2005 và 2020
2. Các văn bản pháp quy khác ở trong nước
Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh Nghị định số
43/2010 ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Đầu tư
Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Đầu tư năm 2014
Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Doanh nghiệp
Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp
Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp.
3. Văn bản pháp luật thế giới
Bộ luật Dân sự Quebec năm 1991
Bộ Luật Dân sự Hàn Quốc năm 1958
Bộ Luật Dân sự Pháp năm 1804

201
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

B. Các tài liệu tham khảo khác


Akerlof, G. A. (1970). The Market for “Lemons”: Quality Uncertainty and the Market Mechanism. The
Quarterly Journal of Economics, 84(3), 488–500.
Ayres, I., & Schwartz, A. (2014). The No-Reading Problem in Consumer Contract Law. Stanford Law
Review, 66(3), 545–609.
Bakos, Y., Marotta-Wurgler, F., & Trossen, D. R. (2014). Does Anyone Read the Fine Print? Consumer
Attention to Standard-Form Contracts. The Journal of Legal Studies, 43(1), 1–35.
https://doi.org/10.1086/674424
Covid-19 thúc đẩy thị trường ví điện tử. Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới. Retrieved July, 2021,
from https://vneconomy.vn/covid-19-thuc-day-thi-truong-vi-dien-tu.htm
Coase, R. (1960). The Problem of Social Cost (Vol 3). Journal of Law and Economics.
Dennis W. K. K. (2004). The Clicking without Reading Problem. Retrieved from
https://extranet.sioe.org/uploads/isnie2010/khong.pdf
Đỗ Văn Đại. (2015). Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ebay’s “Your User Agreement”. Retrieved October 8, 2021, from
https://www.ebay.com/help/policies/member-behaviour-policies/user agreement?id=4259
Guthrie, J. T., Schafer, W. D., & Huang, C.-W. (2001). Benefits of Opportunity to Read and Balanced
Instruction on the NAEP. The Journal of Educational Research, 94(3), 145–162.
Johnston, J. S. (2006). The Return of Bargain: An Economic Theory of How Standard-Form Contracts
Enable Cooperative Negotiation between Businesses and Consumers. Michigan Law Review, 104(5),
857–898.
Hillman, R. A., & Rachlinski, J. J. (2002). Standard-Form Contracting in the Electronic Age. New York
University Law Review, 77(2), 429.
Katz, A. (1990). Your Terms or Mine? The Duty to Read the Fine Print in Contracts. The RAND Journal
of Economics, 21(4), 518–537.
Katz, A. W. (2002). Standard Form Contracts. Palgrave Macmillan UK.
https://doi.org/10.1007/978-1-349-74173-1_359
Kessler, F. (1943). Contracts of Adhesion--Some Thoughts about Freedom of Contract. Columbia Law
Review, 43(5), 629–642. https://doi.org/10.2307/1117230
Kőszegi, B. (2014). Behavioral Contract Theory†. Journal of Economic Literature, 52(4), 1075–1118.
https://doi.org/10.1257/jel.52.4.1075
Korobkin, R. (2003). Bounded Rationality, Standard Form Contracts, and Unconscionability. The
University of Chicago Law Review, 70(4), 1203–1295. https://doi.org/10.2307/1600574
Lewis D. Eigen. (2009). A Solution to the Problem of Consumer Contracts That Cannot be Understood by
Consumers Who Sign Them. Retrieved from
https://scriptamus.wordpress.com/2009/11/12/a-solution-to-the-problem-of-consumer-contracts-that-c
annot-be-understood-by-consumers/
Llewellyn. (1937). CTro Prausnitz, The Standardization Of Commercial Contracts In English And

202
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Continental Law. 700.


Luật bảo vệ người tiêu dùng, số p.h 59/2010/QH12 (2010).
Michael I. Meyerson. (583). The Efficient Consumer Form Contract: Law and Economics Meet the Real
World. University of Baltimore School of Law, 595.
Michael I. Meyerson. (1993). The Reunification of Contract Law: The Objective Theory of Consumer
Form Contracts. 47, 1270.
Ngô Huy Chương. (2010). “Về yếu tố ưng thuận của hợp đồng”. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.
Nguyễn Anh Thư. (2014). “Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến nguyên tắc thiện chí trong
Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005”. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học 30, số p.h 3 (2014),
61–72.
Omri Ben-Shahar. (2007). Boilerplate : The Foundation of Market Contracts. Cambridge University
Press.
Omri Ben-Shahar. (2009). The Myth of the ‘Opportunity to Read’ in Contract Law. European Review of
Contract Law, 5, 1–28.
O. .. Ben-Shahar, & C. E. Schneider. (2017). The Failure of Mandated Disclosure. Russian Journal of
Economics and Law, 11(4), 146–169. https://doi.org/10.21202/1993-047X.11.2017.4.146-169
Siegelman, P. (2004). Adverse Selection in Insurance Markets: An Exaggerated Threat. The Yale Law
Journal, 113(6), 1223–1281. https://doi.org/10.2307/4135724
Williston, S. (1937). A Treatise On The Law Of Contracts.
Barnett, R. E. A. (2002). Consenting to Form Contracts. Georgetown University Law Center. Retrieved
from https://scholarship.law.georgetown.edu/cgi/viewcontent.cgi?referer=https://scholar.google.com/
&http sredir=1&article=1037&context=facpub
Richard. H. T., & Cass R. Sunstein. (2017). Cú hích Nudge.
Trần, K. (2019). Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt
Nam. Retrieved from http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210246/Khai-niem-hop-dong-va-nhung
-nguyen-tac-co-bancua-he-thong-phap-luat-hop-dong-Viet-Nam.html#_ftnref15
Vũ. V. M. (1963). Việt Nam Dân Luật lược Khảo—Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước.
Prosser, W. L. (1943). The Implied Warranty of Merchantable Quality.

203
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

QUẤY RỐI TÌNH DỤC TẠI NƠI LÀM VIỆC:


MỘT TIẾP CẬN ĐỊNH TÍNH TỪ VIỆC SỬ DỤNG DỮ LIỆU
CỦA CÁC NHÓM FACEBOOK BÍ MẬT
Nguyễn Phạm Thu Thúy
Bùi Hoàng Lộc Anh
Nguyễn Hoàng Ngọc Trâm
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: thuynguyen.31201024359@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT


Ngày nhận: 15/12/2022 Lao động được xem là một trong những quyền cơ bản của con
Ngày gửi lại: 04/03/2023 người nên làm việc trong môi trường lành mạnh cũng là quyền lợi
Ngày duyệt: 05/03/2023 chính đáng của người lao động. Nhưng hiện nay, vấn đề quấy rối tình
dục tại nơi làm việc đã và đang trở thành vấn nạn chung của mỗi quốc
gia, mỗi doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến môi trường làm việc của
người lao động. Mặc dù Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ
thống pháp luật; có những nỗ lực tiệm cận với pháp luật quốc tế trong
việc phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc, song thực tiễn
cho thấy, quấy rối tình dục tại nơi làm việc không có dấu hiệu giảm,
ngược lại, pháp luật ở vấn đề này vẫn còn những điểm bất cập. Bài
Từ khóa:
định tính, nghiên cứu tập trung làm rõ những hạn chế trong hệ thống pháp luật
người lao động, Việt Nam, so sánh với pháp luật các nước điển hình như Thụy Điển
người sử dụng lao động, và Singapore. Từ đó, kiến nghị nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhóm facebook bí mật, người lao động trong môi trường làm việc, tạo được môi trường làm
quấy rối tình dục việc an toàn, lành mạnh, hạnh phúc.

1. Luật thành văn về vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc
1.1. Định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc
Định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc đã được quy định tại khoản 9 điều 3
BLLĐ 20191, phù hợp với cách giải thích của quốc tế đã được quy định tại Công ước số 190 về
Chấm dứt Bạo lực và Quấy rối2. Quy định này đã bao hàm toàn bộ các hành vi liên quan đến quấy rối
tình dục và địa điểm, thái độ của người lao động trước hành vi đó. Hiểu một cách đơn giản, bất kỳ
hành vi có tính chất tình dục nào khiến một người cảm thấy bị xúc phạm, làm nhục, thao túng hoặc bị
ảnh hưởng tiêu cực có thể được xem là hành vi quấy rối tình dục.
Điều kiện lao động và quan hệ lao động đã cho biết quấy rối tình dục có thể xảy ra dưới dạng

1
“Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc
mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người lao động thực tế làm việc theo
thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động.”
2
Thông qua vào tháng 6 năm 2019 bởi ILO mà Việt Nam là thành viên.

204
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

trao đổi hoặc những hành vi có tính chất tình dục không nhằm mục đích trao đổi công việc. Quấy rối
tình dục dưới dạng trao đổi có thể là đề nghị hay yêu cầu, gợi ý hoặc đe dọa, ép buộc quan hệ tình
dục để đổi lấy bất kỳ lợi ích liên quan, trong nhiều trường hợp thì nạn nhân của quấy rối tình dục
không có lợi ích nào liên quan. Nhưng dù xuất phát từ mục đích nào đi nữa, những hành vi này cũng
gây tổn hại về thể chất, tinh thần, hiệu quả công việc và cuộc sống của người bị quấy rối.
Pháp luật Thụy Điển cũng có định nghĩa khá rõ ràng về quấy rối tình dục cũng như chủ thể
của vấn đề này trong môi trường lao động. Định nghĩa về quấy rối tình dục được quy định tại Điều
63. Qua định nghĩa chúng ta có thể thấy được hành vi là “trái ý muốn” và “có tính chất tình dục”.
Ngoài ra, định nghĩa còn khái quát được hậu quả mà hành vi đem lại là “xâm phạm nhân phẩm của
người lao động”; và địa điểm cụ thể của hành vi này là “tại nơi làm việc”. Định nghĩa này khá ngắn
gọn, nhưng đã khái quát được những tiêu chí hành vi như thế nào là quấy rối tình dục. Mặc dù mang
tính khái quát cao, nhưng nó cũng chưa rõ ràng, chưa chỉ ra được cụ thể những dạng hành vi nào
là hành vi quấy rối vì quấy rối tình dục có những dạng hành vi rất đa dạng, phức tạp và khó để
chứng minh.
Kẻ quấy rối tình dục trong hệ thống pháp luật Thụy Điển được xác định là người sử dụng lao
động và cả người lao động cùng làm việc trong cùng một môi trường lao động với nạn nhân. Ngoài
ra, luật pháp Thụy Điển không xác định giới tính của thủ phạm hoặc nạn nhân của hành vi quấy rối
tình dục.
1.2. Những hành vi được xác định là quấy rối tình dục tại nơi làm việc
Tại Việt Nam, những hành vi được xem là quấy rối tình dục tại nơi làm việc bao gồm: hành vi
mang tính thể chất (hành động, cử chỉ, tiếp xúc, tác động vào cơ thể mang tính tình dục hoặc gợi ý
tình dục); hành vi bằng lời nói (lời nói trực tiếp, qua điện thoại hoặc qua phương tiện điện tử có nội
dung tình dục và có ngụ ý tình dục) và hành vi phi lời nói (ngôn ngữ cơ thể; trưng bày tài liệu trực
quan về tình dục,..). Những hành vi này được quy định tại khoản 2 điều 84 Nghị định
145/2020/NĐ-CP và rõ hơn tại Bộ Quy tắc ứng xử phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc
đang được đưa ra lấy ý kiến. Điều này có nghĩa là bất kỳ hành vi nào mang tính chất quấy rối tình
dục, dù là hành động, lời nói hay cả việc nhắn tin trực tiếp với nội dung quấy rối tình dục đều sẽ
được xem như hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
Thực tế sẽ có những hành vi ban đầu không đáng lưu tâm, nhưng lại tiềm ẩn những hành vi
quấy rối tình dục sau này. Do đó, hành vi ở đây không chỉ là những động chạm đến những vị trí nhạy
cảm mà nạn nhân không mong muốn mà còn là những lời nói mang tính chất “gợi tình” hoặc ép buộc
quan hệ tình dục để trao đổi lợi ích.
1.3. Trách nhiệm, nghĩa vụ trong phòng, chống quấy rối tình dục
Theo các quy định và điều kiện môi trường làm việc hiện tại, cả người sử dụng lao động và
người lao động đều phải có trách nhiệm trong việc phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc
của mình. người sử dụng lao động có trách nhiệm phải xây dựng, thực hiện các giải pháp phòng,
chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 6 BLLĐ 2019 và phải

3
“Người sử dụng lao động áp dụng các biện pháp phòng ngừa và loại bỏ việc người lao động bị quấy rối tình dục hoặc bị
quấy rối do đã phản ứng về việc bị phân biệt đối xử về giới. QRTD là hành vi ngoài ý muốn về tình dục hoặc hành vi ngoài ý
muốn có tính chất tình dục, xâm phạm đến nhân phẩm của NLĐ TNLV”

205
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

đưa nội dung về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc cũng như trình tự, thủ tục xử lý hành
vi này vào nội quy lao động theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 118 BLLĐ 2019, chi tiết hơn tại
điều 86 Nghị định 145/2020/NĐ-CP. Tuy nhiên, với khái niệm mang tính khái quát và nhiều bất cập
như trên, hành vi quấy rối tình dục rất khó để đưa ra xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự.
Bên cạnh đó, tại Phần 34 trong Đạo luật Bảo vệ chống Quấy rối năm 2014 của Singapore và
Phần 45 của Đạo luật Bảo vệ chống Quấy rối năm 2014, có thể thấy các quy định này chỉ dừng lại ở
mức đưa ra chính sách chống quấy rối tình dục. Theo đó, luật pháp Singapore nghiêm cấm mọi hình
thức quấy rối bằng lời nói hoặc không bằng lời nói hoặc gây ra nỗi sợ hãi hoặc đau khổ cho người
khác. Singapore còn ban hành những chế tài nặng hơn về một tội phạm riêng biệt là quấy rối tình
dục. Thế nhưng, pháp luật Singapore vẫn còn tồn tại hạn chế khi quy định nạn nhân trong tội danh
này chỉ là phụ nữ.
2. Luật bất thành văn về vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc
Mọi người tại nơi làm việc đã phải tuân theo các quy tắc pháp luật, và các nội quy của nơi làm
việc - luật thành văn. Luật bất thành văn cùng tồn tại song song đó. Có những quy tắc ngầm của các
mối quan hệ phổ biến cho hầu hết các mối quan hệ giữa các cá nhân, bao gồm cả công việc. Theo
quy tắc thường có nghĩa là hành vi mà các thành viên của một nhóm tin rằng nên hoặc không nên
thực hiện, trong một số tình huống nhất định hoặc trong một loạt các tình huống. Argyle, Henderson
và Furnham (1985) cũng đã kiểm tra các quy tắc của 22 mối quan hệ khác nhau bao gồm hôn nhân,
gia đình, tình bạn, tình dục khác giới, bác sĩ - bệnh nhân, giáo viên - học sinh, v.v. và nhận thấy rằng
một số quy tắc áp dụng cho hầu hết chúng, những quy tắc khác chỉ áp dụng cho các mối quan hệ rất
thân mật hoặc ít thân mật hơn, và một số là mối quan hệ rất cụ thể. (Argyle và c.s., 1985).
Khi ai đó xem xét định nghĩa của quấy rối tình dục, vấn đề tình cảm hiếm khi được chú ý đến.
Quấy rối tình dục và tình cảm có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chuyện tình cảm tại nơi công sở đã xuất hiện kể từ ngày phụ nữ bước vào công sở (Solie,
2001). Khi mọi người làm việc nhiều giờ hơn, mọi người có khả năng gặp gỡ những người bạn hẹn
hò tại nơi làm việc (Winning & Associates, 2005). (Poe, 2002) đã lưu ý ba vấn đề có thể phát sinh từ
các mối tình nơi công sở: ngoại tình, đồng nghiệp làm phiền và mối quan hệ giữa người giám sát/cấp
dưới. Những tiêu cực có thể xảy ra khác bao gồm thiên vị, xung đột lợi ích tiềm ẩn, các vấn đề bảo
mật và cuối cùng là môi trường làm việc thù địch có thể dẫn đến quấy rối tình dục (Overman, 1998)
(Winning & Associates, 2005)

4
“(1) Không ai được phép, với mục đích gây quấy rối, sợ hãi hoặc phiền muộn cho người khác, bởi bất kỳ phương tiện nào
dưới đây:
(A) Sử dụng bất kỳ từ ngữ hoặc cử chỉ đe dọa, lăng mạ hoặc xúc phạm; hoặc
(B) Thực hiện bất kỳ hành vi đe dọa, sỉ nhục hoặc xúc phạm;
Do đó gây ra cho người khác hoặc cho những người khác (mỗi người bị hướng tới như mục đích của những hành vi này được
coi là nạn nhân) sự quấy rối, sợ hãi hoặc phiền muộn”.
5
“Không người nào được phép, bằng bất kỳ phương tiện nào:
(A) Sử dụng bất kì hành vi đe dọa nào, sỉ nhục hoặc xúc phạm;
(B) Thực hiện bất kỳ lời nói đe dọa, sỉ nhục hoặc xúc phạm;
Mà được nghe thấy, nhìn thấy hoặc cảm nhận thấy bởi bất kỳ người nào (người bị hướng tới bởi mục đích của hành vi được
coi là nạn nhân) có thể gây ra quấy rối, sợ hãi hoặc phiền muộn.”

206
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Có hai hình thức quấy rối cơ bản là quid pro quo và môi trường thù địch. Quid pro quo đề cập
đến những hành động hữu hình mà người sử dụng lao động có thể sử dụng để đổi lấy tình dục. Thông
qua những đề nghị này, người sử dụng lao động hoặc người giám sát có thể từ chối thăng chức hoặc
chấm dứt công việc nếu họ không tuân theo. Các trường hợp khác không chức các hành vi hữu hình
được coi là hành vi quấy rối tình dục môi trường làm việc thù địch (Canoni, 1999) (Meckler và c.s.,
2001). Một môi trường làm việc thù địch cũng là một ‘môi trường không thoải mái’ và việc khởi kiện
hành vi vi phạm của nhân viên phải hợp lý (Greenberg, 2005).
3. Những vụ việc tiêu biểu liên quan đến quấy rối tình dục
Trên mạng xã hội hiện nay có rất nhiều nguồn tin khác nhau. Tuy nhiên, cũng có những bài
viết được đăng tải hoặc những bình luận kể về vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc của bản thân
họ hoặc của người xung quanh. Những lời lẽ có thể không hay nhưng đó là câu chuyện họ từng gặp
phải, khi đưa lên mạng xã hội không phải để khoe cũng chẳng phải để được giúp đỡ mà họ chỉ cần sự
đồng cảm từ cộng đồng và là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người khi đi làm việc cũng nên biết tự bảo
vệ bản thân.
Trên một group công khai trên facebook chỉ với một câu tựa đề topic là bị dụ dỗ khi đi làm thì
phía dưới bình luận có rất nhiều câu chuyện về việc quấy rối tình dục tại nơi làm việc:

Hình ảnh 1. Nhóm tác giả lấy bài đăng từ nhóm Facebook thực tế
Bài viết được đăng tải vào ngày 09 tháng 01 năm 2022 đã nhận được những con số biết nói,
cụ thể có đến 5.324 lượt tương tác, 1.464 lượt bình luận cùng với 175 lượt chia sẻ. Trong đó cứ 10
bình luận sẽ có 6 bình luận kể về câu chuyện quấy rối tình dục xung quanh họ, chiếm tỷ lệ 50%, đây
là một con số không nhỏ khi đề cập đến những câu chuyện thực tế. Không chỉ dừng lại ở những con
số trên, mà mỗi câu chuyện được kể ra đều có những đặc điểm, tính chất riêng của từng mối quan hệ
giữa người lao động và các chủ thể khác.

207
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Biểu đồ 1. Tỉ lệ bình luận phía dưới bài post về chủ đề “Quấy rối tình dục tại nơi làm việc”
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp dựa trên số liệu thu thập từ nhóm Facebook bí mật
3.1. Câu chuyện giữa người lao động và người lao động
Câu chuyện quấy rối tình dục tại nơi làm việc của người lao động với người lao động là sự
việc xảy ra giữa đồng nghiệp với nhau hoặc giữa cấp trên liền kề với người lao động.
Chẳng hạn như một vài bình luận sau, một bạn T đi làm văn phòng, đối tác của bạn đã gửi tin
nhắn với những lời lẽ dụ dỗ, bạn chặn tin nhắn thì đối tác chuyển sang gửi mail, thậm chí gửi cả
video có nội dung không chuẩn mực. Một bạn khác tên N bạn bảo bạn không bị gã gẫm bằng lời nói
tuy nhiên mỗi lần vào thang máy chung với trưởng phòng, bạn thường bị chạm vào vòng ba nhưng
quay lại thì người đó bình thản như không có chuyện gì xảy ra, dần bạn vẫn sợ nhưng cũng quen.
Như vậy có thể thấy, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, thường xảy
ra các tình trạng đụng chạm các bộ phận trên cơ thể hoặc có những lời nói quấy rối được lặp đi lặp lại
nhiều lần. Mục đích của mối quan hệ này thường sẽ liên quan đến những vấn đề như thăng chức hoặc
để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Nhưng dù với bất cứ lý do nào thì cũng đều gây ra sự khó chịu về mặt
tâm lý cho người lao động, vì họ phải gặp những lời nói hoặc hành động quấy rối lặp đi lặp lại trong
nhiều ngày liên tiếp.
3.2. Mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động
Câu chuyện quấy rối tình dục giữa người sử dụng lao động và người lao động luôn là vấn đề
xôn xao của dư luận bàn tán. Mối quan hệ này có mức độ tăng lên hơn so với mối quan hệ giữa
người lao động với nhau.
Bạn H trong nhóm kín trên facebook kể rằng, bạn ấy bị sếp cũ gạ rất nhiều lần nhưng bạn ấy
không đồng ý, nên sếp của bạn đã bêu xấu bạn trước tập thể, khiến bạn cũng bị mọi người xa lánh.
Nhưng bạn cũng cho qua và chuyển nơi làm việc. Một bạn khác tên S thì bị sếp dụ dỗ, chỉ cần ở bên
anh ta thì muốn gì anh ta cũng cho bạn, kể cả lên lương hay thăng chức, nhưng bạn ấy không đồng ý
và sếp đòi kéo đến nhà dùng bạo lực với bạn.
Vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc giữa người sử dụng lao động và người lao động thực

208
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

chất liên quan trực tiếp đến lợi ích của người lao động, họ có thể bị đe dọa, ép buộc, nếu không đáp
ứng yêu cầu của người sử dụng lao động thì họ có thể bị đuổi việc hoặc thậm chí là sử dụng đến bạo
lực. Còn chấp thuận với mối quan hệ này thì thường với mục đích thăng tiến lên vị trí cao hơn hoặc
cần một khoản tài chính lớn. Tóm lại, dù người lao động đồng ý hay không thì đều sẽ có những ảnh
hưởng làm thay đổi lợi ích hiện tại của họ.
3.3. Mối quan hệ giữa tổ chức công đoàn và người lao động
Tổ chức công đoàn ở các nơi làm việc hiện nay còn đang thờ ơ trước vấn nạn quấy rối tình
dục tại môi trường làm việc của mình. Đã có rất nhiều trường hợp được cho là “nhỏ” và bị bỏ mặc
làm ngơ. Đây thể hiện cho việc thờ ở của đơn vị công tác trong vấn đề quản lý cũng như xử lý đối
với vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Hơn hết, tổ chức công đoàn chưa có tính chủ động, thực
hiện lên kế hoạch đưa thông tin về phòng, chống quấy rối tình dục vào các chương trình định hướng,
giáo dục và đào tạo nhân sự. Và chưa đề ra những biện pháp cụ thể cho những trường hợp quấy rối
tình dục tại cơ sở mình.
4. Hành lang pháp lý ở Việt Nam
Hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc sẽ mang đến hậu quả vô cùng to lớn về mặt tinh
thần cũng như thể xác người lao động, và nghiêm trọng hơn là mang đến nỗi ám ảnh kéo dài, nhiều
cuộc đời, sự nghiệp đã bị hủy hoại vì những hành vi này. Điều đáng nói là các yếu tố văn hóa, không
hiểu rõ về quấy rối tình dục cũng như nỗi sợ hãi dư luận làm các nạn nhân không dám đứng ra tố cáo
đối tượng có hành vi vi phạm. Nhiều người cho rằng chỉ khi phát sinh quan hệ tình dục, hoặc sờ
soạng, đụng chạm cơ thể khi không có sự cho phép thì mới gọi là quấy rối tình dục; còn những hành
vi như gọi điện, dùng lời lẽ dung tục, khó nghe,… thì không được xem là quấy rối tình dục. Điển
hình như vụ việc của nữ ca sĩ Thái Trinh, nhiều người cho rằng cô làm lố, việc người khác “sàm sỡ
bằng lời nói”. Thậm chí có người bình luận Thái Trinh đang cố gắng để “nổi” hơn trong showbiz.
Đây là biểu hiện của việc không hiểu rõ hành vi quấy rối tình dục. Bà Phạm Thị Minh Hằng thuộc
CGFED cho rằng: “Bất cứ hành động nào khiến cho người khác không thoải mái đều được xem là
hành vi quấy rối. Ngay cả một ánh nhìn, một lời nói khiến cho người khác cảm thấy không thoải mái
cũng được xem quấy rối tình dục.” Và tại khoản 2 điều 84 Nghị định 145/2020/NĐ-CP cũng đã quy
định rõ: “Quấy rối tình dục bằng lời nói gồm lời nói trực tiếp, qua điện thoại hoặc qua phương tiện
điện tử có nội dung tình dục hoặc có ngụ ý tình dục”. Vì vậy, rõ ràng ca sĩ Thái Trinh đã bị quấy rối
tình dục tại nơi làm việc. Có thể thấy được kể từ khi BLLĐ 2019 và Nghị định 145/2020/NĐ-CP
chính thức có hiệu lực thì đã giải quyết được một phần bất cập do định nghĩa quấy rối tình dục tại nơi
làm việc không được rõ ràng, chi tiết gây nên. Tuy nhiên, các vụ việc quấy rối tình dục tại nơi làm
việc vẫn gây ra những khó khăn, bất cập không nhỏ đối với các bên trong QHLĐ cũng như đối với cơ
quan điều tra.
5. Hàm ý chính sách
5.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quấy rối tình dục tại nơi làm việc
Không giống như Singapore, pháp luật Việt Nam mới chỉ quy định hình thức xử lý cao nhất
đối với người có hành vi quấy rối là sa thải, mà không có những hình phạt bổ sung là phạt tiền. Bên
cạnh đó, việc không hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc trong BLHS có thể làm
giảm đi tính răn đe đối với người thực hiện hành vi quấy rối. Việt Nam lại giống như Singapore, hiện

209
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

nay chưa có các quy trình pháp lý về khiếu nại, tố cáo, giải quyết vụ việc quấy rối tình dục trong
phạm vi doanh nghiệp hay cơ sở làm việc vừa và nhỏ. Dựa trên góc nhìn từ pháp luật nước bạn,
nhóm tác giả mạnh dạn đưa ra đề xuất cho hành lang pháp lý nước nhà như sau:
Thứ nhất, trong khái niệm tại được quy định tại khoản 9 điều 36 BLLĐ 2019, chốn công sở có
rất nhiều góc khuất mà pháp luật chưa thể nhìn thấu, rất nhiều các hành vi quấy rối tình dục thoạt
nhìn thì thấy người ta chấp nhận nhưng thực ra người ta không hề mong muốn. Cụm từ “hoặc chấp
nhận” rất nhạy cảm. Để người đọc luật có cách hiểu thống nhất cần có văn bản hướng dẫn, giải thích
rõ ràng ý nghĩa từ “chấp nhận” và yếu tố “chấp nhận” sẽ được áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể.
Thứ hai, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn chỉ rõ những dấu hiệu cấu thành hành vi quấy
rối tình dục tại nơi làm việc, định nghĩa rõ về hành vi có tính chất tình dục.
Thứ ba, cần hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc trong một số trường hợp
nhất định, đưa hành vi này vào nhóm tội phạm xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm trong bộ luật hình sự.
Thứ tư, cần xây dựng cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi doanh nghiệp và cơ sở
làm việc khác.
5.2. Hoàn thiện bộ quy tắc chống quấy rối tình dục tại các cơ sở làm việc
Thứ nhất là xác định được hành vi nào là hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Các cơ sở
làm việc ở Việt Nam cần quan tâm đến đặc điểm của người lao động trong đơn vị mình để liệt kê các
hành vi bị coi là quấy rối tình dục. Bởi lẽ, đặc điểm tâm lý của người Á Đông có nhiều nét khác biệt
so với các nước phương Tây về vấn đề tình dục, vì vậy, trước khi quy định các hành vi quấy rối tình
dục tại nơi làm việc, cần phải lấy ý kiến của người lao động trong cơ sở làm việc.
Thứ hai, nên mạnh dạn quy định cấm hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Khi những
chủ thể trong môi trường lao động đã chấp nhận với bộ quy tắc này đồng nghĩa với việc họ đã cam
kết với điều khoản cấm trong nội quy của nơi làm việc. Nếu vi phạm họ buộc phải chấp nhận chế tài.
Thứ ba, quy định rõ về trình tự khiếu nại và giải quyết khiếu nại về quấy rối tình dục tại nơi
làm việc. Nên tạo thành một hệ thống input - output để quy trình xử lý được chặt chẽ đồng thời đảm
bảo quyền và lợi ích của người lao động
5.3. Đẩy mạnh vai trò của tổ chức đại diện người lao động tại nơi làm việc
Tổ chức đại diện người lao động cần được nâng cao vai trò trong việc tham gia xây dựng và
thi hành pháp luật, đồng thời phối hợp với ban lãnh đạo tại nơi làm việc đưa ra các quy định cụ thể về
quấy rối tình dục tại nơi làm việc, đảm bảo tất cả các vấn đề liên quan đến quấy rối tình dục phải
được thương lượng công bằng và minh bạch. Phối hợp cùng công đoàn, tổ chức của người sử dụng
lao động cần đưa thông tin về phòng, chống quấy rối tình dục vào các chương trình định hướng, giáo
dục và đào tạo nhân sự.
6. Kết luận
Quá trình hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện phát triển lớn cho nền kinh tế Việt Nam cũng như

6
“Quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc
mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận”

210
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

tạo nên một thị trường lao động tiềm năng. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những tệ nạn đang xảy ra
hàng ngày, tội phạm đang dần trẻ hóa, và trong những tệ nạn chúng ta thường thấy là xâm hại tình
dục. Một vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống lao động của người lao động, thậm chí, có thể
ảnh hưởng đến chính sự phát triển đời sống - xã hội của nước nhà, đó là vấn đề về quấy rối tình dục
tại nơi làm việc.
Xác định được tính nghiêm trọng và thực tế của vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc khi
đứng trước nguồn nhân lực trẻ gia nhập vào thị trường lao động ngày càng lớn, đề tài đã lựa chọn nêu
ra thực trạng của vấn đề đang diễn ra trong đời sống của người lao động thông qua phương pháp định
tính từ những tư liệu của các nhóm facebook bí mật, để nhìn nhận rõ hơn những lỗ hổng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam về vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Hơn hết, một yêu cầu thực
tiễn được đặt ra là phải hoàn thiện pháp luật lao động để tạo ra một môi trường lao động lý tưởng và
nơi làm việc văn mình, hiệu quả cho người lao động, người sử dụng lao động.
Suy cho cùng, muốn có một nền kinh tế xã hội vững mạnh thì thị trường lao động phải văn
minh và hiệu quả. Quá trình hòa nhập với thị trường quốc tế sẽ rất khó khăn nếu như không có một
môi trường làm việc chuyên nghiệp và tiến bộ. Do đó, nhóm tác giả hy vọng răng đề tài về “Quấy rối
tình dục tại nơi làm việc: một tiếp cận định tính từ việc sử dụng dữ liệu của các nhóm Facebook bí
mật” sẽ góp phần vào việc hoàn thiện các quy định pháp luật một cách đầy đủ về hành vi quấy rối
tình dục tại nơi làm việc; từ đó, hiệu quả lao động được nâng cao, giúp ổn định về nhân sự và bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong QHLĐ ở Việt Nam. Đồng thời, đề tài có thể trở
thành một trong những nguồn tham khảo để phát triển những nghiên cứu trong tương lai về vấn đề
quấy rối tình dục tại nơi làm việc.

Danh mục tài liệu tham khảo


A. Văn bản pháp luật
Báo cáo nghiên cứu quấy rối tình dục tại nơi làm việc ở Việt Nam: Bức tranh khái quát và khung
pháp lý để giải quyết, năm 2012 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Tổ chức
lao động quốc tế (ILO)
Luật lao động 2019 của Việt Nam
Luật bình đẳng nam nữ - Luật về các cơ hội bình đẳng năm 1991 của Thụy Điển 4. Bộ luật
hình sự Singapore
Bộ luật tố tụng hình sự Singapore
Bộ quy tắc ứng xử về quấy rối tình dục tại nơi làm việc, 2015
Luật bảo vệ chống quấy rối năm 2014 của Singapore
Luật về môi trường lao động của Thụy Điển.
Nghị định 145/2020 NĐ-CP, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao
động về điều kiện lao động và quan hệ lao động của Việt Nam

211
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

B. Các tài liệu tham khảo khác


Abrams. (1997). New Jurisprudence of Sexual Harassment. Retrieved from
https://scholarship.law.berkeley.educgi/viewcontent
Argyle, Campbell, & Graham. (1979). The rules of different situations. 8, 13–22.
Argyle, Henderson, & Furnham. (1985). The rules of social relationships. British Journal of Social
Psychology, 24, 125–139.
Bộ LĐTB&XH. (2012). Báo cáo nghiên cứu Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ở Việt Nam: Bức
tranh khái quát và Khung pháp lý để giải quyết.
Canoni. (1999). Sexual Harassment: The new liability, Risk Management. the Business and Company
Resource Center Database.
Dilshani Samaraweera. (2007, Tháng Chạp 16). Companies say ‘No’ to sexual harassment. 42.
Retrieved from https://www.sundaytimes.lk/071216/FinancialTimes/ft316.html
Equal Employment Opportunity Commission. (2005). Sexual Harassment. Retrieved from
www.eeoc.gov.
Fremling, & Posner. (1999a). Attorneys for Amicus Curiae National Partnership for Women and
Families. Retrieved from
https://www.nationalpartnership.org/our-work/resources/judges-supreme-court/supreme-court-ca
ses/ingrid-reeves-v-c-h-robinson-worldwide.pdf
Fremling, & Posner. (1999b). Status Signaling and Law, with Particular Application to Sexaul
Harassment. Attorneys for Amicus Curiae National Partnership for Women and Families.
Retrieved from http://papers.ussr.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=165177
Government sues Wal-Mart in Bradenton: Sexual harassment case. (2005). The Florida Times Union.
Retrieved from www. jacksonville.com
Greenberg. (2005). The Hostile work environment.
Janice. (1996, Tháng Hai). I’m not going to fight it anymore: Fighting sexual harassment in the
workplace—The Equal Employment Opportunity Commission Reports an increase in claims,
includes típ on how to recognize sexual harassment and hostile work environments. Black
Enterprise. Retrieved from www.Findarticles.com
Marsh, Rosser, & Harre. (1978). The Rules of Disorder, Routledge and Kegan Paul, London.
Meckler, Bulger, & Tilson. (2001). Workplace Harassment. www.mbtlaw.com
One in four private companies sued by employees, Chubb survey finds. (2004). Business Wire.
Overman. (1998). When labor leads to love. HR Focus, from Business and Côpany Resource Center,
75, 1–3.
Poe. (2002, Tháng Tám). Office romance: HR’s role. www.shrm.org
Price, & Bouffard. (1974). Behavioral appropriateness and situational constraint as dimensions of
social behavior. Journal of Personality and Social Psychology, 30.

212
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

“Quấy rối tình dục”. (2019). Retrieved from


https://www.actnowsrilanka.org/en/sexual-harassment/
“Quấy rối tình dục trên toàn thế giới. (2000). http://www.salary.lk/home/labour
law/fairtreatment/ualityharassment/uality-harassment-worldwide
Roberts. (2006). Sexual Harassment in the workplace: A primer.
Solie. (2001, Tháng Hai). Sexual harassment fact, fiction and prevention. www.pei911.com
Tình trạng quấy rối tình dục đối với lao động nữ tại nơi làm việc. (2018). Retrieved from
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/tinh-trang-quay-roi-tinh-duc-doi-voi-lao-dong-nu-tai-noi lam-viec/
Wickramasinghe, & Jayatillake. (2006). Beyond Glass Ceilings and Brick Walls—Gender at the
Workplace, International Labour Organisation. https://www.ilo.org/global/lang- -en/index.htm
Winning, & Associates. (2005). Romance in the workplace. www.ewin.com
Wyatt. (2000). Information on sexual harassment: Backgroud on sexual harassment. Retrieved from
www.de.psu.edu/harassment.

213
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

ỨNG DỤNG CỦA XÁC SUẤT TRONG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Hà Thị Ngọc Anh
Nguyễn Thị Duyên
Hoàng Nhật
Đặng Trần Minh Phương
Huỳnh Phương Thảo
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: anhha.31211020335@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Ngày nhận: 15/12/2022 Trong phần nghiên cứu này, chúng tôi quan tâm đến biến ngẫu
Ngày gửi lại: 28/02/2023 nhiên thời gian sống trong tương lai và trình bày cách tính hàm mật
Ngày duyệt: 01/03/2023 độ, hàm sống để suy ra xác suất tử vong hoặc sống sót của một cá
nhân ở độ tuổi x. Tiếp theo, chúng tôi phân tích một đại lượng quan
trọng được gọi là lực tử vong và thảo luận một số thuộc tính về sự
phân bố của thời gian sống trong tương lai. Lực tử vong dùng để xác
định cường độ tử vong đối với một cá nhân ở thời điểm cụ thể. Vì thế
chúng tôi đưa ra một mô hình tính lực tử vong thường gặp, đó là mô
hình Gompertz. Thời gian sống kỳ vọng trong tương lai được đưa ra
dựa trên hàm phân phối và nó dùng để đo sự kỳ vọng về một cuộc
sống trọn vẹn. Phát triển từ công thức trên, chúng tôi còn suy ra được
cách tính phương sai của toàn bộ thời gian sống nhằm đo lường được
Từ khóa: mức độ phân tán rủi ro của bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, chúng tôi
bảo hiểm nhân thọ, cũng đề xuất những ví dụ thực tế, dễ bắt gặp ở cuộc sống để mọi
mô hình Gompertz, người có một cái nhìn khách quan nhất về đề tài có tính triển vọng
ứng dụng xác suất này.

1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Trải qua 3 đợt dịch Covid 2019 vừa rồi cùng với các thiên tai, bão lũ diễn ra liên miên, nền
kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã bị có nhiều biến động người dân có ý thức
hơn trong việc bảo vệ tài chính trước những rủi ro về sức khỏe. Chính vì vậy mà bảo hiểm nhân thọ
trở thành một giải pháp tối ưu để giữ cho nguồn tài chính ở mức ổn định trước những rủi ro bất ngờ.
Thứ nhất, hậu quả tổn thất nguồn thu nhập của hộ gia đình do sự cố bất ngờ liên quan đến thân
thể hay tính mạng sẽ được bù đắp bởi số tiền do bảo hiểm chi trả.
Thứ hai, đây còn là một hình thức tiết kiệm, đầu tư sinh lợi rất hiệu quả.
Sau một khoảng thời gian nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng các kiến thức của môn lý
thuyết xác suất có thể làm tốt nhiệm vụ này. Chính vì vậy, “Ứng dụng của xác suất trong bảo hiểm
nhân thọ” trở thành đề tài chính thức được chúng tôi nghiên cứu.

214
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

1.2 Mục tiêu của bài nghiên cứu


Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu các ứng dụng của lý thuyết xác suất trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ. Cụ thể là vận dụng khái niệm biến ngẫu nhiên thời gian sống Tx để mô tả thời gian
còn sống của một người đang ở độ tuổi x và hàm phân phối, hàm mật độ, hàm sống, lực tử vong để
biểu diễn xác suất sống sót hoặc tử vong của một người.
Hơn thế nữa, chúng tôi muốn dựa vào những kiến thức này để áp dụng vào một số tình huống
cụ thể, những vấn đề mà một công ty bảo hiểm thường phải đối mặt.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi dựa trên những nghiên cứu của David C. M. Dickson, Mary R. Hard và Howard R.
Water (2009) về hàm sống, đề tài này đi từ cơ sở lý thuyết của biến ngẫu nhiên Tx để mô tả hàm xác
suất, mô hình lực tử vong, phương sai và kỳ vọng sống trong tương lai. Từ đó thiết lập mối liên kết
giữa chúng và làm rõ được ứng dụng của từng kiến thức.
1.4 Hướng phát triển của đề tài
Trong tương lai, chúng tôi muốn phát triển đề tài này để mô phỏng thời gian còn sống của
người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng tôi hy vọng với sự hỗ trợ của các khái niệm lý thuyết xác
suất này, quy mô bảo hiểm nhân thọ của Việt Nam có thể phát triển hơn nữa trên thị trường thế giới.
2. Nội dung
2.1 Biến ngẫu nhiên liên tục Tx
Trong thời đại công nghệ, khi nhu cầu mua bảo hiểm của con người ngày càng cao, các công
ty bảo hiểm có xu hướng cung cấp nhiều hơn về các chính sách đảm bảo về quyền lợi của người mua
sau khi họ qua đời. Đối với chính sách này, quyền lợi khi chủ hợp đồng tử vong sẽ không được ước
tính chính xác vì ngày chết của họ là không xác định. Vì vậy, để ước tính được khoản trợ cấp tử vong
phải trả, các công ty bảo hiểm cần có một mô hình để nghiên cứu tỷ lệ tử vong của con người.
Đầu tiên, chúng ta quan tâm đến việc phân tích và mô tả thời gian còn sống của một cá nhân.
Gọi (x) biểu thị cho một cá nhân ở độ tuổi x, trong đó x . Ta có, cái chết của (x) có thể xảy ra ở bất kỳ
độ tuổi nào lớn hơn x, và chúng tôi sử dụng một biến ngẫu nhiên liên tục Tx để biểu thị thời gian còn
sống của (x). Đây có nghĩa là x + Tx đại diện cho biến ngẫu nhiên theo độ tuổi chết của (x).
Sơ đồ minh họa
Tuổi
0 x x + Tx

Hiện tại Thời điểm cái chết xảy ra


Thời gian từ bây giờ
0 Tx
2.2 Mô tả phân phối xác suất

215
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

2.2.1 Hàm phân phối Fx(t)


Fx(t) là hàm phân phối tích lũy của Tx, biểu thị xác suất (x) không sống quá tuổi x+t theo công
thức: Fx(t) = Pr [Tx t]
2.2.2 Hàm sống Sx(t)
Đặt Sx(t) là hàm sống của biến ngẫu nhiên thời gian sống trong tương lai. Chỉ số phụ “x” ở đây
có nghĩa là hàm sống lấy độ tuổi x làm mốc để tính, Sx(t) đại diện cho xác suất mà (x) tồn tại trong ít
nhất t năm.
Ta có định nghĩa về hàm sống như sau:
Sx(t) = 1 – Fx(t) = Pr [Tx > t]
Điều kiện cần và đủ để hàm sống Sx(t) có hiệu lực
Điều kiện 1: Sx (0) =1 nghĩa là, mỗi cá nhân đều có thể sống ít nhất là 0 năm.
Điều kiện 2: nghĩa là, tất cả mọi sinh mệnh cuối cùng đều chết.
Điều kiện 3: Hàm sống luôn là một hàm không tăng, nghĩa là với t1 < t2 thì Sx(t1) > Sx(t).
2.2.3 Hàm mật độ fx(t)
Hàm mật độ xác suất của biến ngẫu nhiên Tx được kí hiệu là fx(t) là đạo hàm của hàm phân
phối xác suất Fx(t)
fx(t) = = =
2.2.4 Mối quan hệ giữa Fx(t), fx(t) và Sx(t)
Với x ≥ 0; t > 0, ta có: Fx(t) =

Sx(t) = 1 – Fx(t) =
=> S0(x+t) = S0(x). Sx(t)
Từ đó, chúng ta thấy rằng xác suất sống sót tới tuổi x+t bằng xác suất sống sót tới tuổi x nhân
xác suất sống sót được thêm t tuổi tại x tuổi.
Tương tự, bất kỳ xác suất sống sót nào đối với (x), ví dụ, t+u năm có thể được chia nhỏ vào
xác suất sống sót trong t năm đầu tiên, và sau đó, cho khả năng sống sót đến tuổi x+t, sau đó tồn tại
thêm u năm. Đó là:

Sx (t + u) = = =

Vậy với một độ tuổi x cho trước ta luôn tính được xác suất tại tuổi x+t
2.3 Lực tử vong
2.3.1 Khái niệm
Lực tử vong là cường độ tử vong tức thời của một người ở độ tuổi x. Nó giúp chúng ta xác
định được mức độ tử vong của một người ở một thời điểm cụ thể nhất định. Vì thế, nó đóng vai trò

216
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm nhân thọ.
Kí hiệu:µ x và nó được biểu diễn dưới dạng:
µx = Pr [T0 ≤ x + dx | T0 > x] = Pr [Tx ≤ dx]
2.3.2 Mối liên hệ giữa 𝜇x với Sx, fx, Fx
Mối liên hệ giữa lực tử vong và hàm sống Sx:

µx = Pr [T0 ≤ x + dx | T0 > x] = =

Lưu ý: Lực lượng tử vong phụ thuộc vào đơn vị thời gian. Ví dụ, nếu chúng ta đo thời gian
theo năm, thì x được đo mỗi năm.
Lực tử vong được biểu hiện rõ nhất khi dx rất nhỏ, ta có thể xấp xỉ:
µxdx ≈ Pr [T0 ≤ x + dx | T0 > x]
Lưu ý: Đối với dx rất nhỏ, chúng ta có thể giải thích xdx là xác suất mà một sinh mạng đạt độ
tuổi x chết trước khi đạt độ tuổi x + dx.
Ví dụ: Giả sử chúng ta có tuổi thọ chính xác là 55 và lực tử vong ở tuổi 55 là 0,0048 mỗi năm.
Một giá trị nhỏ của dx có thể là một ngày hoặc 0,00272 năm. Sau đó, xác suất gần đúng để anh ta chết
vào sinh nhật lần thứ 55 là:
0,0048. 0,00272 = 1,3. 10-5
Liên hệ giữa lực tử vong với hàm sống từ khi sinh ra S0(x):
µx = (*)
Từ kết quả tiêu chuẩn trong lý thuyết xác suất, chúng ta biết rằng hàm mật độ xác suất cho
biến ngẫu nhiên Tx mà chúng ta ký hiệu là fx có liên quan đến hàm phân phối Fx và hàm sống Sx:

fx(t) = =

Do đó: µx =

Giả sử x là cố định và t là biến. Khi đó d(x + t) = dt, ta có: μx+t =

Từ phương trình (*) suy ra: μx =

Do đó: =

=>

Từ đó suy ra:

217
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Điều này có nghĩa là nếu chúng ta biết μx với mọi x ≥ 0, thì chúng ta có thể tính tất cả các xác
suất sống sót Sx(t), với bất kỳ x và t nào. Nói cách khác, hàm lực tử vong mô tả đầy đủ phân bố thời
gian sống, giống như hàm S0. Trên thực tế, việc mô tả phân bố thời gian sử dụng hàm lực lượng tử
vong thường thuận tiện hơn so với hàm sống.
2.3.3 Mô hình Gompertz
Mô hình Gompertz là một mô hình được sử dụng phổ biến trong việc tính toán lực tử vong µx.

(trong đó B và c là các hằng số sao cho 0 < B <1 và c > 1)


Ví dụ: Tính hàm sống và hàm mật độ xác suất cho bằng cách sử dụng định luật tử vong của
Gompertz, với B = 0,0003 và c = 1,07; cho x = 20

Ta có: = = = =

Với x = 20, lực tử vong là  

Hàm sống là

Lại có:

Suy ra, hàm mật độ xác suất là:

2.4 Giá trị kỳ vọng và phương sai của Tx


2.4.1 Giá trị kỳ vọng
Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết xác suất là giá trị kỳ vọng. Đặc
biệt ở đề tài này, chúng tôi sẽ quan tâm đến thời gian sống kỳ vọng trong tương lai của cá nhân ở độ
tuổi x, tức là đang nói đến giá trị kỳ vọng của Tx.

Trong phần nghiên cứu này, giá trị kỳ vọng của Tx được biểu thị bằng kí hiệu toán học

218
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Giá trị kỳ vọng có ý nghĩa rất lớn trong thực tế, đặc biệt ở lĩnh vực bảo hiểm thì các công ty rất
quan tâm đến thời gian sống kỳ vọng trong tương lai của khách hàng.
Ví dụ: Một tình huống mà ta dễ bắt gặp ở đời sống là khi một công ty bảo hiểm phát hàng một
gói bảo hiểm nhân thọ có giá trị trong vòng 10 năm kể từ thời điểm nó được bán.
Để không phải chi bất cứ tiền trợ cấp nào cho khách hàng thì công ty đó rất quan tâm đến thời
gian sống kỳ vọng trong tương lai của từng đối tượng:

- Với nhóm khách hàng có thì công ty sẽ quyết định mức giá cao cùng với chính sách
bồi thường hạn chế. Để nếu khách hàng này có mua gói bảo hiểm thì số tiền mà công ty phải chi trả là
không quá nhiều.

- Còn với nhóm khách hàng có thì gói bảo hiểm sẽ có mức giá thấp và các chính sách
ưu đãi hết sức hấp dẫn, nhằm thu hút khách hàng và gia tăng thu nhập cho công ty.
2.4.2 Phương sai thời gian sống trong tương lai của Tx
Trong lý thuyết xác suất và thống kê, phương sai của một biến ngẫu nhiên là một độ đo sự

phân tán thống kê của biến đó so với .

Phương sai là một phương pháp tham số được đánh giá là quan trọng trong lĩnh vực đầu tư. Nó
xác định hiệu suất riêng lẻ của tất cả các phần trong danh mục đầu tư nhằm phân bổ lại tài sản hợp lý.
Chính vì lợi ích đó của phương sai mà được các công ty bảo hiểm rất quan tâm. Khi đã có tập
hợp các giá trị mà Tx có thể nhận được cũng như là giá trị kỳ vọng của Tx thì với phương sai của Tx,
công ty bảo hiểm có thể hiểu thêm về các số liệu cũng như mức độ phân tán của các giá trị, nhờ đó
mà bộ phận phân tích rủi ro và định phí bảo hiểm có thể tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
2.5 Ví dụ tổng kết
Công ty bảo hiểm X có mong muốn sẽ phát hành một gói bảo hiểm tử kỳ cố định mới nhằm
bán cho nhóm khách hàng ở độ tuổi 30. Giả sử gói bảo hiểm này dành cho 400 khách hàng và có kỳ
hạn 30 năm kể từ ngày mua, bảo hiểm sẽ trả 100 triệu nếu cái chết xảy ra trong độ tuổi 30-40, trả 200
triệu nếu cái chết xảy ra trong độ tuổi 40-50, và trả 300 triệu nếu cái chết xảy ra trong độ tuổi 50-60.
Để phục vụ cho quá trình đánh giá rủi ro của khách hàng, công ty X tiến hành nghiên cứu thị trường

và thu về được một hàm lực tử vong: với . Đóng vai một chuyên viên phân
tích rủi ro, bạn hãy tính chi phí mà mỗi khách hàng phải trả hàng năm để công ty X có lợi nhuận mục
tiêu là 10 tỷ đồng từ dự án này. (Biết rằng những cá nhân mà vẫn còn sống sau khi bảo hiểm hết hạn
thì không được hoàn trả bất cứ số tiền nào)
Bài làm
Đối với dự án này, doanh thu của công ty sẽ đến từ các khoản đóng bảo hiểm của các cá nhân

219
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

còn sống trong từng năm. Còn chi phí là các khoản thanh toán mà công ty phải chi trả cho các cá
nhân đã chết trong mỗi giai đoạn 10 năm. Vậy để tính được hai đại lượng này, chúng ta sẽ quan tâm
đến số cá nhân còn sống/đã chết trong 1 năm.
Ta có hàm sống Sx(t) đại diện cho xác suất mà một cá nhân tồn tại trong ít nhất t năm:

Xác suất để một khách hàng 30 tuổi chết trước 31 tuổi:

Xác suất để một khách hàng 30 tuổi sống đến 31 tuổi nhưng chết trước 32 tuổi:

Một cách tương tự ta có thể tính được:

Xác suất khách hàng 30 tuổi sống đến 32 tuổi nhưng chết trước 33 tuổi là .

Xác suất khách hàng 30 tuổi sống đến 59 tuổi nhưng chết trước 60 tuổi là .

Vậy qua mỗi năm sẽ có 400 x ≈ 6 người chết, 10 năm sẽ có xấp xỉ 60 người chết.

Ta có thể tính lợi nhuận của công ty từ dự án như sau:


Gọi x là chi phí mà mỗi khách hàng phải trả hàng năm cho công ty.
Doanh thu của công ty X từ dự án này là:

Chi phí của công ty X phải trả do dự án này là: (tỷ)

Lợi nhuận của công ty X từ dự án này là:

Theo yêu cầu bài toán, ta có lợi nhuận mục tiêu là 10 tỷ.

220
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Suy ra:   (triệu).

Vậy mỗi năm, khách hàng phải trả cho công ty 4 triệu 880 ngàn đồng thì công ty mới có thể có
khả năng kiếm được lợi nhuận là 10 tỷ từ dự án bảo hiểm này.
3. Kết luận
3.1. Kết luận
Bài nghiên cứu này của chúng tôi đã hướng đến ứng dụng của lý thuyết xác suất trong việc
định phí của bảo hiểm. Cụ thể là các khái niệm về hàm phân phối, hàm mật độ, hàm sống, lực tử
vong… và mối quan hệ giữa chúng.
Từ những lý thuyết đó, bài nghiên cứu này gần như đã đáp ứng được những mục tiêu mà
chúng tôi đã đề ra trước đó:
- Công ty bảo hiểm sẽ dựa vào giá trị kỳ vọng và phương sai của thời gian sống trong tương
lai để phân loại khách hàng. Các hàm phân phối sẽ tính toán được xác suất tử vong của một khách
hàng cụ thể.
- Ngày chết của một cá nhân có thể tính được nếu có thêm dữ liệu về lực tử vong.
Với điều kiện đưa ra là mỗi cá nhân sống không quá 100 tuổi. Điều kiện này là hoàn toàn phù
hợp trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ dựa trên số liệu thống kê về độ tuổi trung bình của người Việt
Nam hiện nay.
3.2. Hạn chế của đề tài
Mặc dù chúng tôi đã trình bày đầy đủ các công thức liên quan đến xác suất được ứng dụng
trong bảo hiểm nhân thọ. Nhưng do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên chúng tôi chưa khai thác
hết được các ứng dụng khác của xác suất trong bảo hiểm, chưa đưa ra được nhiều ví dụ mang tính
ứng dụng thực tế vào lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam để mang lại giá trị thực tiễn cao hơn cho đề tài.
4. Kiến nghị
4.1. Hướng phát triển mở rộng của đề tài
Trong tương lai, chúng tôi muốn dựa vào những kết quả của đề tài này để phân tích chuyên
sâu nhằm tạo ra một mô hình mô phỏng xác suất tử vong của người dân Việt Nam trên từng độ tuổi.
Mô hình dự định này có thể tính được số người tử vong ở những độ tuổi cụ thể và thống kê thành
những bảng số liệu, những đồ thị nhằm giúp cho công ty có một cái nhìn tổng quát về tình hình dân
số Việt Nam (cụ thể là số người tử vong theo độ tuổi). Từ đó, giúp công ty bảo hiểm có thể điều chỉnh
chính sách hợp lý đối với bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh đó nó giúp cho công ty ước tính được số tiền
phải chi trả trong tương lai nếu chủ hợp đồng tử vong.
Chúng tôi mong muốn sẽ kết hợp thêm các kiến thức của lĩnh vực định phí bảo hiểm để mang
lại tính thực tế cao hơn cho đề tài cũng như là giảm thiểu được những sai số không đáng có trong quá
trình tính xác suất.
4.2. Đóng góp của đề tài

221
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries of Development, 1(1) 3/2023

Bài nghiên cứu này là sự kết hợp giữa cơ sở lý thuyết được đúc kết trong quá trình học và kiến
thức thực tế được phát triển trong quá trình tìm kiếm tổng hợp, chúng tôi rất mong đề tài này sẽ là
một tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn sinh viên khi muốn tìm hiểu về các ứng dụng của môn
học Lý thuyết xác suất, cụ thể trong đề tài này thì các khái niệm thời gian sống, hàm phân phối, lực tử
vong, giá trị kỳ vọng rất có ích trong lĩnh vực định phí bảo hiểm.
Bên cạnh đó, chúng tôi mong muốn rằng các công ty bảo hiểm có thể xem đề tài này như là
một phương pháp tham khảo định phí bảo hiểm nhằm hoàn thiện tốt hơn các sản phẩm của họ.

Danh mục tài liệu tham khảo


Browne, M. J., & Kim, K. (1993). An international analysis of life insurance demand. Journal of Risk
and Insurance, 616-634.
David C.M. Dickson, Mary R. Hard and Howard R. Water (2009), Chapter 2: Survival models,
Christopher Daykin & Angus Macdonald, ACTUARIAL MATHEMATICS FOR LIFE
CONTINGENT RISKS, United Kingdom, University Printing House, Cambridge CB2 8BS.
Gerber, H. U. (2013). Life insurance mathematics. Springer Science & Business Media.
Foresters Financial increases face amount limits for non-medical term life insurance.
Yahoo!Finance. Retrieved July 25, 2022, from
https://finance.yahoo.com/news/foresters-financial-increases-face-amount-131000098.html
Life Insurance Tech Company partners with a platform to provide support in time of loss.
InsuranceNewsNet. Retrieved July 19, 2022, from
https://insurancenewsnet.com/innarticle/life-insurance-tech-company-partners-with-platform-to-p
rovide-support-in-time-of-loss
Tổng doanh thu phí bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2022 tăng 14,23% so với cùng kỳ. Tạp chí tài chính
Online. Retrieved April 12, 2022, from
https://tapchitaichinh.vn/tong-doanh-thu-phi-bao-hiem-6-thang-dau-nam-2022-tang-14-23-so-voi
-cung-ky.html
Teacher, Law. (November 2013). The Six Principles in Insurance.

222
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Nhất Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

EMOTIONS AND VIRAL VIDEO SHARING BEHAVIOR IN FACEBOOK


OF YOUNG GENERATION
Nguyễn Ngọc Lan Hương
Phạm Thị Thúy Kiều
Hoàng Thúy Oanh
Nguyễn Lê Anh Duy
Trương Nguyễn Hoàng Long
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: huongnguyen.31191026219@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: With the topic “Emotions and viral video sharing behavior on
arousal, Facebook of young generation”, the main purpose of this research is to
negative emotion, analyze, demonstrate and clarify the relationship between emotions and
positive emotion, viral video sharing behavior through mediating role of attitudes towards
viral video–sharing
sharing behavior and behavioral intention, testing the level of the impact
behavior
is strong or weak. Despite the fact that many studies have been conducted
on the impact of emotions on desired action or attitude, as well as video
sharing behavior, none have yet to include all four variables into a single
model. In Vietnam, there are currently few studies on the implementation
of research with viral videos and the Facebook platform.
A research model has been proposed from the theoretical basis, the
Theory of Rational Action - TRA, the Technology Acceptance Model -
TAM along with secondary data sources as well as qualitative research
results. The research examines the impact of independent variables
including low arousal negative emotions (sadness), high arousal negative
emotions (anger, fear, disgust) and high arousal positive emotions (joy,
surprise) on the behavior of sharing viral videos on Facebook.
The research scope will be young people aged 15-24 from big cities
in Vietnam. Model testing is carried out using a combination of two
methods: qualitative research with an expert and a focus group of seven
people, and quantitative research with an online survey containing
questions about the research model’s variables with 528 respondents in
five major Vietnamese cities: Ho Chi Minh City, Hanoi, Danang, Hai
Phong, and Can Tho.

223
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

INFORMATION ABSTRACT

The results show that the variables included in the research model
are mostly proven to interact with each other and to different degrees.
High arousal positive emotions will have a stronger impact on this
behavior than the other two groups. In addition, the results have also
shown other direct or indirect relationships of the variables. As a result, it
can be concluded that sharing viral video on social networks Facebook is
personal, derived by customer’s emotions when watching the video, and
then considering whether to share this viral video or not.
This article is intended to find out what influences user sharing
behavior so that they can increase the number of viral video shares and
contribute to the successful implementation of company plans. This
research also gave suggestions for enterprises and companies working in
the fields of media, viral marketing, and social media to boost viral
effectiveness.

224
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Nhì Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

HÀNH VI MUA HÀNG HOẢNG LOẠN TRONG


THỜI GIAN ĐẦU CỦA DỊCH BỆNH COVID-19
Trương Thị Loan
Nguyễn Ngọc Quỳnh
Nguyễn Uyên Thy
Nguyễn Thị Huyền Trang
Nguyễn Thị Hải Yến
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: trangnguyen.31191021478@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khoá: Trong thời gian đầu đại dịch COVID-19, xuất hiện hành vi tiêu
COVID-19, dùng bất thường (chẳng hạn như tích trữ giấy vệ sinh, lương thực
cyberchondria, phẩm,...) đã được báo cáo trên toàn cầu. Chúng tôi đã điều tra hành vi
mua hàng hoảng loạn, này vì lo ngại về sự gián đoạn thị trường. Nghiên cứu này nhằm mục đích
quá tải thông tin
tìm hiểu tâm lý và hành vi mua hàng hoảng loạn của người tiêu dùng tại
19 tỉnh thành phía Nam Việt Nam trong thời gian diễn ra đại dịch. Dựa
trên khung phản ứng kích thích môi trường (SOR), chúng tôi đề xuất một
mô hình cấu trúc kết nối việc tiếp xúc với các nguồn thông tin trực tuyến
(kích thích từ môi trường) với hai phản ứng hành vi: mua hàng bất
thường và tự cô lập bản thân. Bài nghiên cứu đã xây dựng một mô hình
lý thuyết liên kết các yếu tố quyết định hành vi mua hàng hoảng loạn. Từ
đó phân tích mối quan hệ tác động qua lại của chúng. Trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng là
chủ yếu. Dữ liệu được thu thập từ 287 người tiêu dùng tại khu vực 19
tỉnh thành khu vực phía Nam Việt Nam, thông qua cuộc khảo sát trực
tuyến được tiến hành trong đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ 4 vào tháng 8
năm 2021. Từ dữ liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành phân tích dữ
liệu và kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính SEM với AMOS 20 và
phần mềm SPSS 20 với các kỹ thuật phân tích dữ liệu được sử dụng chủ
yếu: phân tích độ tin cậy, phân tích nhân tố và phân tích hồi quy đa biến.
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa ý
định tự cô lập bản thân và ý định mua hàng bất thường, cung cấp bằng
chứng thực nghiệm rằng hành vi người tiêu dùng được báo cáo có liên
quan trực tiếp đến thời gian dự kiến dành cho việc tự cô lập. Kết quả cho
thấy việc tiếp xúc với các nguồn thông tin trực tuyến đã dẫn đến sự gia

225
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

THÔNG TIN TÓM TẮT

tăng tình trạng quá tải thông tin và sự nhận thức về mức độ nghiêm trọng.
Quá tải thông tin cũng là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về cyberchondria
và yếu tố nhận thức mức độ nghiêm trọng. Nhận thức được mức độ
nghiêm trọng của một tình huống đã tác động mạnh mẽ đến ý định tự cô
lập, còn cyberchondria thì tác động đáng kể lên ý định mua hàng bất
thường. Nghiên cứu này trong tương lai là cần thiết để xác định những
ảnh hưởng lâu dài của đại dịch đối với các dịch vụ tiêu dùng và bán lẻ.
Bài nghiên cứu mở rộng lý thuyết hiện tại về hành vi mua hàng hoảng
loạn, đưa ra những giải pháp ngắn hạn và dài hạn để hạn chế tình trạng
mua hàng hoảng loạn trong tương lai, có thể phản ứng tốt hơn với các
tình huống tương tự, giúp các dịch vụ bán lẻ và tiêu dùng đang gặp khó
khăn đối phó với đại dịch COVID-19, cung cấp kiến ​thức để chuyển đổi
tối ưu sang hiện trạng mới của các dịch vụ tiêu dùng và bán lẻ. úcasniff

226
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Ba Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

ANALYSIS OF FACTORS AFFECTING CUSTOMER SATISFACTION


WITH RETURN POLICY IN REVERSE LOGISTICS SERVICES ON
E-COMMERCE PLATFORMS
Võ Minh Sơn
Nguyễn Thị Thanh Hằng
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: vominhson0903@gmail.com

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: Vietnam has seen a rise in the popularity of the e-commerce sector
customer satisfaction, in recent years. In the reverse logistics process, consumer satisfaction
e-commerce, with the return policy is essential for increasing customers’ trust in their
reverse logistics, C-commerce platform purchases. Because of this, managers are
return and exchange
constantly seeking for ways to enhance their online retail firm. Nghiên
policy,
cứu được thực hiện với 195 mẫu hợp lệ dựa trên nghiên cứu định tính và
perceived justice
nghiên cứu định lượng. Quantitative research was carried out with a
sample of 195 customers through surveying to evaluate the scale and
assess the relevance of the research model. Based on the theory of
consumer behavior combined with the theory of perceived fairness, the
authors have identified 6 independent variables: “Procedural Justice”
with 4 observed variables, “Interactive Justice” with 3 observed
variables, “Distributive Justice” with 3 observed variables, “Trust" with 4
observed variables, “Empathy” with 4 observed variables, “Assurance”
with 4 important variables, and the dependent variable “Satisfaction”.
The final result is that the study accepts 3 independent variables, of
which: “Procedural justice” has the strongest impact, followed by the
variable “Assurance” and finally the variable “Interactive Justice”. This
study offers some recommendations and fixes for online merchants and
decision-makers to create plans and enhance E-commerce services in
Vietnam. The authors also provide some topical limits and recommend
possible future research trajectories.

227
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Ba Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

OMNICHANNEL CUSTOMER EXPERIENCE AND ITS IMPACT ON THE


SHOPPING BEHAVIOR OF GEN Z: EVIDENCE FROM VIETNAM
Nguyễn Thu Trang
Đào Anh Duy
Lương Tuấn Kiện
Nguyễn Thị Uyển Nhi
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: trangnguyen.31191024499@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: In recent years, the omnichannel model has gradually become


customer experience, familiar to the business activities of many businesses around the world.
omnichannel, However, it is still relatively new in Vietnam. Many businesses still do
shopping behavior not fully grasp the knowledge of omnichannel, do not understand all its
benefits and how to operate this model to optimize business operations.
Therefore, this research was conducted to understand the factors of the
omnichannel shopping experience and its impact on the omnichannel
shopping behavior of customers. Compared with previous studies, the
research model has inherited and added a new variable called “perceived
fluency”. The research method used to examine the model was
mixed-method, including qualitative and quantitative research. This study
collected data using an online survey of 417 omnichannel users of Gen Z
in Vietnam. The data analysis process used descriptive statistics, scale
evaluation using Cronbach’s Alpha reliability coefficient, exploratory
factor analysis (EFA), confirmatory factor analysis (CFA), and finally,
analysis of the structural equation modeling (SEM) to evaluate the
relationships between the factors proposed in the research model. The
results showed that the factors in the omnichannel shopping experience
have an impact on customers’ perception of three innovation
characteristics, respectively, compatibility, fluency, and risk in the
omnichannel shopping process. Specifically, connectivity and consistency
positively impact perceived compatibility. The results reflected that
consistency had a positive effect on perceived risk. Meanwhile, flexibility
and consistency negatively impact perceived risk. The two perceived
factors of compatibility and fluency have a positive effect on
omnichannel shopping intention. Finally, the results confirmed the

228
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

INFORMATION ABSTRACT

positive impact of intention on the omnichannel shopping behavior of


customers. This study contributes to the generalization of the theory
related to the omnichannel shopping experience. At the same time, the
results also help make recommendations to support businesses in
increasing omnichannel use effectiveness in Vietnam. abc

229
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Ba Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

TÁC ĐỘNG CỦA TÍNH LINH HOẠT TÀI CHÍNH LÊN HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NGÀNH SẢN XUẤT
TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19
Lại Phan Quỳnh Như
Trần Thị Mai Dung
Phạm Nguyễn Minh Anh
Trần Minh Thư
Lê Thị Huyền Trâm
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: nhulai.31191025438@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khóa: Sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thuộc
covid-19, ngành sản xuất được niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố
financial flexibility, Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), giai
hiệu quả hoạt động, đoạn từ quý 4 năm 2018 đến quý 3 năm 2021, nghiên cứu này phân tích
operational efficiency,
tác động của tính linh hoạt tài chính đối với hoạt động của các doanh
tính linh hoạt tài chính,
nghiệp ngành sản xuất trong cuộc khủng hoảng COVID-19, từ đó đưa ra
Việt Nam
những đề xuất hiệu quả nhằm duy trì tính linh hoạt tài chính của doanh
nghiệp. Kết quả phân tích cho thấy sự linh hoạt tài chính có tác động tích
cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong cả hai giai
đoạn trước và trong khi xảy ra dịch bệnh. Với các doanh nghiệp có tính
linh hoạt tài chính cao, kết quả về tình hình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ số tài chính khá tốt, cho thấy khả năng
sinh lời bền vững, ngay cả trong giai đoạn xảy ra dịch COVID-19. Kiểm
định tính vững cũng cho thấy dù phương pháp đo lường hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp có thay đổi thì kết quả vẫn phù hợp với các phát
hiện ban đầu.

230
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

TÁC ĐỘNG ĐIỀU TIẾT CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐẾN
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA HOẠCH ĐỊNH THUẾ VÀ
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Phan Thị Hồng Nhung
Nguyễn Thị Phương Anh
Lê Vy Đầm
Võ Khánh Huyền
Nguyễn Khánh Xuân
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: hongnhung220201@gmail.com

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khóa: Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã kiểm định mối quan hệ ràng buộc
hành vi hoạch định thuế, giữa cơ chế quản trị doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp hay mối tương
hiệu quả hoạt động, quan giữa hành vi tránh thuế và giá trị doanh nghiệp, tuy nhiên chưa có
hội đồng quản trị bài nghiên cứu ở Việt Nam đề cập đến sự tương tác của Hội đồng quản trị
(HĐQT) đến mối quan hệ giữa hoạch định thuế và giá trị của doanh
nghiệp. Do đó, nhóm tác giả đặt câu hỏi liệu tác động điều tiết của HĐQT
có thực sự ảnh hưởng đến mối quan hệ trên hay không? Dựa trên bộ dữ
liệu với 4747 quan sát của 619 công ty phi tài chính được niêm yết trên
Sở Giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch
chứng khoán Hà Nội (HNX), nhóm tác giả sử dụng phương pháp ước
lượng bình phương tối thiểu tổng quát (GLS) để kiểm chứng tác động
điều tiết của Hội đồng quản trị đến sự ảnh hưởng của hành vi lập kế
hoạch thuế đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả cho thấy
mối tương quan ngược chiều giữa hành vi lập kế hoạch thuế và hiệu quả
hoạt động. Bên cạnh đó, ủy viên nước ngoài và thành viên nữ trong
HĐQT có ảnh hưởng đáng kể đến quyết định lựa chọn chính sách hoạch
định thuế của công ty và do đó làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Bài nghiên cứu có hai đóng góp chính. Thứ nhất, cung cấp bằng
chứng cho thấy cổ đông bị ảnh hưởng bởi cơ chế hoạch định thuế của
công ty và cung cấp những hiểu biết về hành vi của doanh nghiệp. Thứ
hai, cơ cấu HĐQT tác động đáng kể đến quyết định của cổ đông và ban
quản trị trong việc lập kế hoạch thuế. Mặc dù có những hạn chế nhất định
về mẫu quan sát, cách thu thập dữ liệu và các biến được đề cập nhưng
qua kết quả thực nghiệm, nhóm tác giả kỳ vọng bài nghiên cứu sẽ hỗ trợ

231
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

THÔNG TIN TÓM TẮT

doanh nghiệp đưa ra quyết định lập ngân sách cho công tác hoạch định
thuế với bộ máy HĐQT phù hợp, cải thiện hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. quaaaaaaaaaaaaaaaa

232
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Giải thưởng Khoa học và Công nghệ dành cho sinh viên
trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo

ỨNG DỤNG CÔNG CỤ THỐNG KÊ PHẢN CHIẾU TRONG


PHÂN TÍCH RỦI RO VÀ QUẢN LÝ GIAN LẬN
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM
Nguyễn Trương Uyển Nhi
Nguyễn Phan Thùy Duyên
Huỳnh Đức Duy
Nguyễn Vương Gia Phú
Võ Minh Sơn
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: ntuyennhi0801@gmail.com

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khóa: Thực tế cho thấy, các quốc gia càng phát triển mạnh thương mại
gian lận, quốc tế thì càng phải đối diện với nhiều rủi ro gian lận trong hải quan.
hải quan, Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi ngày cảng mở rộng hợp tác
thống kê phản chiếu, phát triển và ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại tự do với nhiều
thương mại quốc tế,
nước trên thế giới. Do đó, nước ta không thể tránh khỏi nguy cơ rủi ro
xuất nhập khẩu
gian lận trong hoạt động XNK ngày càng tăng. Vì thế, công cụ thống kê
phản chiếu là một phương pháp phân tích dữ liệu quan trọng mà Việt
Nam cần phải áp dụng để quản lý gian lận trong hoạt động xuất nhập
khẩu trong tình hình này.
Bài viết sử dụng phương pháp định tính và kỹ thuật tỷ lệ CIF/FOB
nhằm đối chiếu, so sánh giá trị hàng hoá ghi nhận tại nước xuất và nhập
khẩu. Dựa trên dữ liệu thu thập được từ UN Comtrade, nghiên cứu đã
phân tích những sự chênh lệch về số liệu thống kê thương mại xuyên biên
giới trong giai đoạn 2018 – 2020 giữa Việt Nam với các quốc gia đối tác
thương mại, đặc biệt là Hàn Quốc, từ đó tạo cơ sở để nghi ngờ những
gian lận trong hoạt động xuất nhập khẩu có thể xảy ra và thu hẹp phạm vi
kiểm tra sau thông quan bất kỳ như hiện nay thành một dòng hàng hoá
giữa quốc gia đối tác cụ thể đến một mặt hàng (mã HS) cụ thể của đối tác
đó. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp để có thể ứng
dụng công cụ này vào công tác quản lý rủi ro hoạt động xuất nhập khẩu
cho Hải quan Việt Nam trong tương lai. 

233
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Nhì Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

R&D INNOVATION AND SME PERFORMANCE


IN THE AGE OF FINTECH
Trần Quế San
Trần Đình Việt An
Trịnh Yến Linh
Nguyễn Thành Đạt
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: santran.31191020779@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: This paper examines the effect of research and development (R&D)
developing countries, innovation on the performance of small and medium enterprises (SMEs)
fintech, in 33 developing countries over the period 2012-2020. The study also
R&D innovation, investigates the impacts of ownership structure on the relation between
SME performance,
R&D and firm performance. Using a Generalized Method of Moments
(GMM) approach to estimate the performance of 9,060 SMEs, we find
that R&D innovation is positively associated with SME performance.
With respect to the impact of ownership structure on ROA, we find that
increased R&D is associated with a lower performance level for
state-owned SMEs, whereas foreign-owned SMEs can better utilize R&D
investment to maximize their profit. By contrast, our results reveal that
foreign ownership SMEs can be susceptible to the firm financial fragility
when increasing R&D investment while increased R&D appears to
improve the degree of financial stability for state-owned SMEs. 

234
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Nhì Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

MỨC ĐỘ BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRƯỚC NHỮNG BẤT ỔN
CHÍNH SÁCH KINH TẾ: MỘT BẰNG CHỨNG QUỐC TẾ TỪ
MÔ HÌNH GJR-GARCH VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU BẢNG
Nguyễn Văn Đức
Phùng Ngân Huy
Nguyễn Lê Na
Lê Thanh Phương
Nguyễn Công Vĩnh
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: ducnguyen.31191027200@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khoá: Nghiên cứu này kiểm định mối quan hệ giữa bất ổn chính sách kinh
bất ổn chính sách, tế và mức độ biến động của tỷ giá hối đoái. Nhóm tác giả sử dụng dữ liệu
biến động tỷ giá hối đoái, bảng không cân bằng từ 9 thị trường mới nổi và 12 thị trường phát triển
dữ liệu bảng, trong giai đoạn 2003-2020, với tần suất theo tháng. Bằng chứng thống kê
GJR-GARCH,
cho thấy mức độ biến động của tỷ giá hối đoái càng cao khi bất ổn chính
kinh tế
sách kinh tế xảy ra càng lớn. Kết quả tiếp tục được củng cố khi sử dụng
các biến độc lập thay thế khác nhau cho tính bất ổn trong chính sách kinh
tế. Bằng chứng thực nghiệm này kỳ vọng là nguồn tham khảo có giá trị
cho nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư, các doanh nghiệp đa quốc gia
khi mà việc đưa ra quyết định và hành động đúng đắn trong giai đoạn bất
ổn mang tính sống còn.

235
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Ba Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

CORPORATE CASH HOLDINGS AND


ECONOMIC POLICY UNCERTAINTY:
EVIDENCE FROM VIETNAM FINTECH
Bùi Thị Minh Hạnh
Trần Ngọc Minh
Nguyễn Thảo Nguyên
Phan Nguyễn Diệu Phước
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: hanhbui.31191021504@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: We report a positive relationship between economic policy


corporate cash uncertainty and corporate cash holdings in Vietnam, which follows the
holdings, precautionary motive hypothesis. The results receiving are significant
policy uncertainty, after replacing cleaner measures of EPU in the model and passed the
Vietnam
instrumental variable endogeneity addressing. Consistent with the
precautionary motives, we indicate from the different models that in the
case of policy uncertainty, Vietnamese firms increase their cash holdings
by cutting back on corporate investment. Overall, results show that in
order to mitigate the unpredictable impact of policy uncertainty, corporate
money possessions should be increased, although it might increase the
agency problem, and emphasize the importance of country policies in
corporate finance in Vietnam. 

236
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Ba Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

THE INFLUENCE OF THE MAIN BANK'S SELECTION OF


AN AUDIT FIRM ON THE COST OF DEBT OF THE FIRM
Đinh Toàn Mạnh
Hồ Võ Quỳnh Như
Lưu Nhật Thanh
Nguyễn Khánh Thư
Đặng Huyền Trang
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: thunguyen.31191024032@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Key words: Nowadays, Vietnam's economy is on a remarkable development


auditor choice, track, at the time of global economic integration. Foreign investors
cost of debt, continuously invest into Vietnam. In fact, investors’ action for the benefit
listed companies, is a common behavior of entrepreneurs in the world, whether businesses
main bank auditor
do want it or not. One of the benefits of this behavior is to create an
invisible effort for the businesses to take their responsibilities seriously
and consciously to emphasize their performance ability by disclosing the
financial information honestly and reasonably. To achieve this, businesses
need supervision as well as information approval from independent
auditors. Enterprises are responsible not only for honest disclosure to
investors but also to creditors such as commercial banks. The financial
statements of a business have an impact on borrowing activities,
specifically borrowing costs.
This paper examines the influence of the audit selection of the listed
company on Ho Chi Minh Stock Exchange (HOSE) and Ha Noi Stock
Exchange (HNX) according to the main bank on the cost of debt, with a
sample of 336 companies listed on the Vietnamese stock market observed
in the period 2017 - 2020. We look into their financial statements for data
gathering. Our research model is based on panel data and regressed using
three different methods: pooled OLS least squares, FEM fixed effects
model, and REM random effects model.
The results of the research are to prove the theory that the selection
of audits by main banks would benefit their borrowers by lowering the
cost of debt of listed companies in Vietnam. The research is trying to
investigate the relationship between Auditor choice based on the main

237
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

INFORMATION ABSTRACT

bank and the cost of debt of the companies by testing the hypothesis. As a
result, there’s a true existence of the affection to the cost of debt
whenever the company chooses the same auditor as their main bank.
These results are hoped to provide useful information to the borrower
company, the banks and other users, any of which can consider choosing
the same auditor as the main bank’s; this may be one of the ways to
optimize the cost of debt. Consequently, the companies can have a larger
bank loan which means that the company gets flexible capital for the
company’s operation but with a lower cost. Finally, the study has given
some proposals helping enterprises to disclose information honestly and
reasonably. Our team suggests some ideas for stakeholders:
accounting-audit students, schools as well as the government.
Furthermore, this piece of study may update a new perception to the
companies which encourages social exchanges such as information
exchange to achieve inter-organizational goals. abcccccccccccccccccccccc

238
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Ba Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ, RỦI RO VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG:
BẰNG CHỨNG TỪ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
Phùng Ngân Huy
Lê Nguyễn Anh Duy
Nguyễn Gia Khiêm
Cái Phúc Quang
Nguyễn Thị Bạch Tuyết
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: n.phunghuy@gmail.com

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khóa: Cho đến thời điểm hiện tại, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện
DCC GARCH, nhằm kiểm định vai trò của chuyển đổi số trong việc tạo ra giá trị cho các
dịch vụ ngân hàng ngân hàng. Bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá sự phát
điện tử, triển của dịch vụ ngân hàng điện tử đối với hiệu quả hoạt động của các
GMM,
ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Mẫu dữ liệu được sử dụng trong
quasi-maximum
nghiên cứu được thu thập từ 26 ngân hàng thương mại trong khoảng thời
likelihood
gian quý I/2011 – quý III/2021. Kết quả cho thấy rằng dịch vụ ngân hàng
điện tử có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
thương mại tại thị trường Việt Nam (được đo lường bằng ROA, ROE và
NIM). Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ ra rằng, nhìn chung dịch vụ ngân
hàng điện tử giúp làm giảm bớt rủi ro của các ngân hàng trong hệ thống
và tăng cường hiệu quả hoạt động. Đồng thời trong bối cảnh đại dịch
Covid-19, việc triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử tăng cường tính bền
vững hiệu quả hoạt động của các ngân hàng.

239
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

ENERGY POVERTY AND HOUSEHOLD WELLBEING IN VIETNAM:


OBJECTIVE AND SUBJECTIVE ASPECTS
Trương Võ Diễm Loan
Nguyễn Thuận Yên Phương
Nguyễn Hoàng Yến Linh
Lương Thị Ngọc Hà
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: loantruong.31201020359@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: This is one of the few research on energy poverty in Vietnam that
energy, investigate the influence of energy poverty on household wellbeing. The
household wellbeing, findings, after treatment of endogeneity, demonstrate that energy poverty
Vietnam is truly a determinant of households’ wellbeing both in objective and
subjective aspects. In particular, energy-poor households have higher
probability of suffering health problems compared with those of
non-energy-poor group. The results also show that children living in
energy-poor households tend to have a higher probability of school
dropout. In relation to the subjective aspect, energy-poor households have
lower life satisfaction when they make a comparison with their status
over five years ago.

240
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở MỘT
SỐ QUỐC GIA CHÂU Á VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Võ Lê Thiên Hương
Lê Thị Thanh Hiền
Nguyễn Thị Bích Nhi
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: huongvo.31191025156@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khóa: Do ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, từ lâu tham nhũng đã trở thành
corruption chủ đề trọng tâm trong các lĩnh vực khoa học, chính trị và kinh tế học
perceptions, (Dribi, 2013). Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu tác động
economic growth, tiêu cực của vấn đề tham nhũng đến tăng trưởng kinh tế ở hai mươi quốc
human capital,
gia châu Á đang phát triển giai đoạn 2005-2019. Tham nhũng được đo
openness to trade,
lường thông qua chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perception
physical capital
Index - CPI) do Tổ chức Minh Bạch Quốc tế (IMF) công bố hàng năm.
Tăng trưởng kinh tế được đo lường thông qua tổng sản phẩm quốc nội
(Gross Domestic Product - GDP). Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi
quy GMM để giải quyết vấn đề nội sinh của biến. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, tham nhũng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở hai
mươi quốc gia châu Á đang phát triển, cùng với sự kiểm soát của các
biến đầu tư, vốn con người, sự ổn định chính trị, chi tiêu của chính phủ
và độ mở cửa thương mại. Trên cơ sở này, chúng tôi rút ra kết luận và đề
xuất những sáng kiến để giải quyết nguyên nhân gây ra tham nhũng.

241
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

TÁC ĐỘNG CỦA VỐN TRÍ TUỆ ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH CỦA CÁC
CÔNG TY LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thị Phương Linh
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: linhnguyen.31191026465@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khoá: Nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu nhằm kiểm định tác động của
hiệu quả tài chính, vốn trí tuệ đến hiệu quả tài chính của các công ty hoạt động trong lĩnh
logistics, vực logistics trong giai đoạn từ 2016 – 2020. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu
VAIC, bảng không cân đối từ 46 công ty logistics niêm yết trên Sở giao dịch
vốn trí tuệ
chứng khoán TP. HCM (HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
(HNX). Mô hình GMM hệ thống được sử dụng để ước lượng mô hình
nghiên cứu. Qua kết quả từ các mô hình nghiên cứu, có thể thấy vốn trí
tuệ được đo bằng hệ số giá trị trí tuệ gia tăng (VAIC) không có tác động
đến hiệu quả tài chính của các công ty logistics tại Việt Nam. Tuy nhiên,
các thành phần của vốn trí tuệ lại có tác động đến hiệu quả tài chính của
các công ty. Kết quả hồi quy cho thấy hiệu quả sử dụng vốn nhân lực tác
động cùng chiều với ROA. Như vậy, nếu các công ty logistics đầu tư vào
vốn nhân lực và gia tăng hệ số VAIC thì hiệu quả tài chính sẽ được cải
thiện.

242
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

KOLS VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHONG CÁCH SỐNG CỦA SINH VIÊN


Bùi Hà Linh
Lê Thị Phương Thảo
Trần Phạm Mỹ Hân
Nguyễn Thị Kim Chi
Phan Thị Trà Giang
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: linhbui.31201022032@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khóa: Giới trẻ hiện nay có xu hướng sử dụng mạng truyền thông xã hội
định hướng phong cách ngày một nhiều. Và sự xuất hiện của KOLs - những người được xem như
sống, là “át chủ bài” trong lĩnh vực Marketing cùng với tầm ảnh hưởng trên nền
KOLs,
tảng mạng xã hội của họ là không hề nhỏ, đặc biệt là ảnh hướng rất nhiều
KOLs marketing,
đối với giới trẻ là các bạn sinh viên. Từ thực trạng đó, đề tài nghiên cứu
phong cách sống
sinh viên chủ yếu phân tích ảnh hưởng của KOLs đến phong cách sống sinh viên
mà điển hình là mua sắm, thời trang, giải trí, ẩm thực, học tập và thể thao.
Việc nghiên cứu sẽ thông qua phân tích mẫu khảo sát bằng công cụ thống
kê nhằm xác định các thực trạng ảnh hưởng của KOLs đến phong cách
sống sinh viên. Đưa ra kết luận và đề xuất phù hợp với thực trạng định
hướng phong cách sống của sinh viên theo KOLs

243
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN
TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT THUỘC
NGÀNH Y TẾ TẠI VIỆT NAM
Lý Quốc Huy
Đinh Thị Minh Thư
Nguyễn Thị Quế Trân
Trương Thanh Uyên
Trần Thị Kim Uyên
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: thudinh.31191025313@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khoá: Đại dịch Covid bùng phát đã làm cho nền kinh tế bị tác động trong
báo cáo tài chính, mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong lĩnh vực y tế lại ghi
công ty niêm yết, nhận những kết quả kinh doanh vượt bậc trong giai đoạn này. Kết quả
điều chỉnh lợi nhuận, kinh doanh tăng mạnh tạo điều kiện cho việc thực hiện hành vi điều chỉnh
ngành y tế
lợi nhuận của các doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả tìm
hiểu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty hoạt động trong lĩnh
vực y tế trong giai đoạn trước và sau đại dịch, cũng như nghiên cứu
những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi này. Bài nghiên cứu được thực hiện
với 280 mẫu quan sát cho tổng cộng 40 công ty niêm yết thuộc ngành Y
tế trong thời gian 7 năm, chia ra làm 2 giai đoạn: giai đoạn trước đại dịch
từ năm 2014-2018 và đại dịch bùng phát năm 2019-2020. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các doanh nghiệp Y tế có xu hướng điều chỉnh giảm lợi
nhuận trong giai đoạn đại dịch. Bên cạnh đó, các yếu tố như quy mô
doanh nghiệp, tỷ số dòng tiền, kiểm toán độc lập và hiệu quả tài chính có
tác động trọng yếu đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh
nghiệp Y tế niêm yết tại Việt Nam.

244
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Hội thi khoa học sinh viên toàn quốc
“Olympic Kinh tế lượng và Ứng dụng”

ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA SINH
VIÊN VỀ VIỆC HỌC TRỰC TUYẾN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH LONG
Lê Thị Quỳnh Như
Phan Quang Nhật
Nguyễn Mai Ngân
Nguyễn Khánh Ly
Nguyễn Quốc Khương
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Email: nhule.31201029655@st.ueh.edu.vn

THÔNG TIN TÓM TẮT

Từ khoá: Nghiên cứu này chủ yếu đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài
đồng bằng sông Cửu lòng của sinh viên về việc học trực tuyến các trường cao đẳng, đại học
Long, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Dữ liệu được thu thập bởi 100 mẫu từ các
học trực tuyến, sinh viên tại các trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
sinh viên
Nghiên cứu đã dùng phương pháp phân tích hồi quy đa biến cùng với
phần mềm SPSS để chạy mô hình với 5 yếu tố độc lập: (1) Tiện ích và dễ
sử dụng của E-learning, (2) Sự tương tác giữa giảng viên với sinh viên,
(3) Tốc độ của Internet, (4) Thời gian linh động, (5) Thái độ của sinh
viên cùng 20 biến quan sát. Kết quả là có 3 yếu tố tác động đến sự hài
lòng của sinh viên về việc học trực tuyến đó là tiện ích và dễ sử dụng của
E-learning, sự tương tác giữa giảng viên với sinh viên và tốc độ của
Internet. Từ kết quả đó, nghiên cứu đã đề ra các giải pháp nhằm nâng cao
sự hài lòng của sinh viên về việc học trực tuyến.

245
JSSID - Journal of Students’ Scientific Inquiries for Development, 1(1) 3/2023

Đề tài đạt giải Khuyến khích Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu khoa học – Euréka

INSTITUTIONAL QUALITY AND ECONOMIC GROWTH: VIETNAM


PROVINCIAL LEVEL: A SPATIAL REGRESSION APPROACH
Lương Bảo Thanh Khoa
Hoàng Hải Đan
Nguyễn Nhật Vy
Vũ Xuân Lộc
University of Economics Ho Chi Minh City
Email: khoaluong.31201020408@st.ueh.edu.vn

INFORMATION ABSTRACT

Keywords: This study explores the local governance mechanism at the


local governance, provincial level of Vietnam through the construction of the PGI index and
public policy, places this index in relation to local economic development policies.
spatial regression Through the combination of statistical and regression methods, the author
has discovered the following relationships: Firstly, it is possible to
establish a causal relationship between the quality of governance
institutions and effective income per worker. Secondly, using Arellano
and Bond’s (1991) GMM estimation method for dynamic data with
endogenous variables, this study demonstrates that the quality of
governance institutions contributes positively to the economic growth of
companies, provinces, and cities over time, while also helping to partially
explain the income disparity between localities. Thirdly, the influence of
governance institutions’ quality on effective per capita income differs
according to institutional features; for example, corruption control and
policy quality have a positive linear relationship. While democracy and
public policy have a U-shaped association with income level, the bottom
point of the U is much lower than the average local score. Fourthly, the
test results indicate that the growth effect of institutional quality differs
by economic location.

246
JOURNAL OF STUDENTS’ SCIENTIFIC INQUIRIES
FOR DEVELOPMENT - JSSID
1(1), 3/2023

COMPREHENSIVE AND SUSTAINABLE DEVELOPMENT IN THE


CONTEXT OF GLOBALIZATION

Editor:
Chau Hoang Chi Ton
Present:
Nguyen Ngoc Xuan Mai
Design:
Le Phuong Duyen
E-publishing:
Hoang Khanh Nhi

247
TẬP SAN
PHÁT TRIỂN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
SỐ 1 (THÁNG 3/2023)

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TOÀN DIỆN VÀ BỀN VỮNG


TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

Biên tập:
Châu Hoàng Chí Tôn
Trình bày:
Nguyễn Ngọc Xuân Mai
Thiết kế bìa:
Lê Phương Duyên
Sửa bản điện tử:
Hoàng Khánh Nhi

248

You might also like