You are on page 1of 32

Nguyễn Thúy Hiền KDO307.

He1 2223 2211510037

Câu 1.
Tái toàn cầu hóa là gì? Các biểu hiện của quá trình này là gì? Lấy ví dụ. Việt Nam chịu
tác động như thế nào trước quá trình tái toàn cầu hóa này? (Tích cực/Tiêu cực)

Tái toàn cầu hóa có nghĩa là thiết lập các chuỗi cung ứng toàn cầu sâu rộng hơn, phi tập trung
và đa dạng sau khi toàn cầu bị đứt gãy chuỗi cung ứng. Điều này sẽ tạo ra một lộ trình dẫn
đến sự phụ thuộc nhưng không bị lệ thuộc quá mức giữa các nước.
Biểu hiện của tái toàn cầu hóa:

 Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
 Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
 Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ
như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
 Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá phẩm như
phim ảnh hay sách báo.
 Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến những
vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma
tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo.
 Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng hướng
đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đồng
hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá của văn hoá.
 Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp ước quốc
tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC
 Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế
 Gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép
 Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu
 Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế
 Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia
 Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các giao
dịch quốc tế
 Gia tăng số lượng các tiêu chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. luật bản quyền
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Ví dụ: Vào năm 2022, Mỹ đã chứng kiến tình trạng trong nước không đảm bảo nguồn cung
khi nước này thiếu hụt sữa bột trẻ em, gần như sữa công thức được bán ở Mỹ đều được sản
xuất trong nước khi một trong bốn nhà sản xuất lớn phải tạm ngừng vì một nhà máy của họ
nhiễm vi khuẩn. Tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng đã diễn ran ngay sau đó. Phương án giải
nguy chính là Thương Mại. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDI) Hoa Kì đã cho
phép nhập khẩu sữa công thức. Từ đây cho thấy việc chuyển cơ sở sản xuất vào những quốc
gia thân thiện không hẳn là những phương án tốt nhất vì đôi khi căng thẳng thương mại có
thể nảy sinh ngay cở các đồng minh.
Thuận lợi: Tham gia toàn cầu hoá chúng ta sẽ tranh thủ: vốn, công nghệ, thị trường, kinh
nghiệm quản lý. Đồng thời phát huy lợi thế của ta, thế mạnh của ta.
- Khó khăn: Toàn cầu hoá hiện nay do các nước tư bản chi phối – đây là cuộc chơi không cân
sức giữa các nước giàu và các nước nghèo, các nước giàu tìm cách ép các nước nghèo.
Bên cạnh những xơ hội, toàn cầu hóa tạo ra cho Việt Nam những thách thức to lớn, như nguy
cơ tụt hậu về kinh tế, nạn thất nghiệp và thiếu việc làm, sự phân hóa giàu ngheo, tệ nạn xã
hội, sự lo ngại về mất bản sắc, sự đồng hóa văn hóa..Vì vậy, Việt Nam phải chủ động tích cực
hội nhập quốc tế
Ngoài những cơ hội, toàn cầu hoá tạo ra cho Việt Nam những thách thức to lớn về kinh tế,
văn hóa -xã hội:
          - Thách thức về thất nghiệp và việc làm : Trong những năm tới, quá trình hội nhập sẽ
đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam
không được đào tạo và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lí thì tình trạng thất nghiệp không
những không giảm mà còn có nguy cơ tăng cao. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm cũng
là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo
          - Thách thức về văn hóa.Thực ra, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay, sự lo ngại về
khả năng đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc là mối lo chung của các nước đang phát
triển.Cùng với toàn cầu hoá, nhiều học giả đã chỉ ra xu hướng đồng nhất tất cả các nền văn
hoá. Tất cả các nước phát triển đang muốn áp đặt các giá trị văn hoá của mình cho toàn thế
giới. Thông qua quá trình toàn cầu hoá, các nước phát triển phương Tây muốn bắt phần còn
lại của thế giới không chỉ khuất phục về kinh tế, chính trị và quân sự, mà còn muốn hạn chế
tối đa nét đặc thù của văn hoá phi phương Tây, bởi  theo họ, các nền văn hoá này không phù
hợp, thậm chí còn xung đột với văn hoá và văn minh phương TâY
         - Thách thức về xã hội : những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang mang lại
những thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con người ở tất cả các quốc
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

gia dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế, v.v. đang
là những vấn đề làm đau đầu các quốc gia dân tộc. Nói tóm lại, chính toàn cầu hoá đang làm
cho những vấn đề toàn cầu của thời đại tác động mạnh mẽ và nhanh chóng đến các quốc gia
dân tộc. Ngày nay, không một quốc gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền một
cách nhanh chóng và rộng rãi của các bệnh dịch, như SARS, cúm gà, v.v.; của các nạn khủng
bố, tội phạm quốc tế, v.v..

Câu 2.
Tìm hiểu và trình bày các khái niệm, đặc điểm Khu vực thương mại tự do, Liên minh
thuế quan, Thị trường chung và Liên minh kinh tế. Mô hình hóa thành sơ đồ thể hiện
tăng/giảm về mức độ gắn kết giữa các quốc gia của 4 loại hình nói trên. Liên hệ với Việt
Nam.

Khái niệm Đặc điểm

Khu vực Khu vực thương mại tự do - Mục tiêu chính của EETA là thương mại tự
Thương (free trade area) hay còn gọi do đối với các hàng hóa công nghiệp. Nông
mại tự do là khu vực mậu dịch tự do. nghiệp không được coi trọng trong hiệp định

Khu vực mậu dịch tự do là này và mỗi thành viên được phép xác định
một thể loại của khối thương mủc độ hỗ trợ riêng.
mại, một nhóm các quốc gia Hình thành một thị trường thống nhất về hàng
được thiết lập mà đã đồng ý hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, thành viên vẫn giữ
để loại trừ thuế quan, hạn được quyền độc lập tự chủ trong quan hệ
ngạch và ưu đãi trong phần buôn bán với các nước ngoài khu vực.
lớn trao đổi thương mại hàng - Buôn bán hàng hóa không có thuế (bao gồm
hóa và dịch vụ giữa các quốc thuế hải quan) hoặc các rào cản thương mại
khác (ví dụ: hạn ngạch nhập khẩu hoặc trợ
gia trong nhóm.
cấp cho nhà sản xuất)
- Kinh doanh dịch vụ không có thuế hoặc các
rào cản thương mại khác
- Sự vắng mặt của các chính sách "bóp méo
thương mại" (chẳng hạn như thuế, trợ cấp,
quy định hoặc luật) cung cấp cho một số
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

doanh nghiệp, hộ gia đình hoặc yếu tố sản


xuất một lợi thế so với các doanh nghiệp khác
- Khả năng gia nhập thị trường không bị kiểm
soát
- Khả năng truy cập thông tin thị trường một
cách tự do
- Không có các công ty có khả năng làm biến
dạng thị trường thông qua sức mạnh độc
quyền nhóm hoặc độc quyền do chính phủ áp
đặt
- Các hiệp định thương mại khuyến khích
giao dịch tự do.

Liên minh - Một liên minh thuế quan nói


thuế quan chung được định nghĩa là một - Đặc điểm chính của Liên minh thuế quan là
loại khối thương mại trong đó các nước thành viên không chỉ loại bỏ các rào
bao gồm một khu vực thương cản thương mại và thực hiện thương mại tự
mại tự do với một mức thuế do (chứa những đặc điểm của khu vực
quan chung . Thương mại) , mà còn thiết lập một biểu thuế
quan chung bên ngoài.

-> Liên minh thuế quan


( Custom Union- CU) là một - Sự thiết lập một chính sách thương mại
thỏa thuận giữa hai hoặc ngoài khối chung đòi hỏi phải có cơ chế hành
nhiều quốc gia nhằm xóa bỏ chính để giám sát mối quan hệ thương mại
các rào cản thương mại và hạ với các quốc gia ngoài khối. Phần lớn các
thấp hoặc xóa bỏ thuế quan. quốc gia tham gia vào một liên minh thuế
Các thành viên của một liên quan đểu mong muốn hội nhập kinh tế sâu
minh thuế quan thường áp hơn nữa trong tương lai.
dụng một mức thuế quan
chung từ bên ngoài đối với
hàng hóa nhập khẩu từ các
nước không phải là thành
viên.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Thị trường Thị trường chung (Common


chung Market) là một hình thức liên - Hoạt động dựa trên những biện pháp tương
kết kinh tế giữa các nước áp tự như liên minh thuế quan trong quan hệ
dụng nhiều biện pháp tương thương mại.
tự như liên minh thuế quan
trong quan hệ thương mại, - Một thị trường chung được xác nhận sẽ phải
đồng thời cho phép di chuyển thỏa mãn 3 điều kiện sau:
tự do tư bản, lao động giữa
● Các nước tham gia thị trường chung
các thành viên và tạo lập một
cần đảm bảo loại bỏ rào cản về thuế
thị trường thống nhất.
quan, hạn ngạch, xuất - nhập khẩu.
● Khi tham gia thị trường chung, các
hạn chế thương mại như thuế quan đối
với những nước khác sẽ được các
nước thành viên của thị trường cùng
nhau áp dụng.
● Các yếu tố sản xuất (đồng vốn, nguồn
lao động, nguồn nguyên liệu,...) sẽ
được phép di chuyển tự do mà không
gặp hạn chế giữa các quốc gia thành
viên.

Lưu ý: Chỉ cần có một trong ba điều kiện


không được thoả mãn thì thị trường đó không
phải thị trường chung.

- Đặc điểm:

+ Ưu điểm
● Được tự do di chuyển hàng hoá, dịch
vụ, con người, đồng vốn: Khi các yếu
tố sản xuất được dịch chuyển tự do
trong cùng thị trường mà không gặp
cản trở của biên giới quốc gia, sẽ tạo
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

điều kiện cho các hoạt động sản xuất


phát triển, gia tăng giá trị kinh tế,
đóng góp và sự phát triển chung của
thị trường.
● Đạt được hiệu quả trong sản xuất: Các
yếu tố sản xuất sẽ được phân bổ hiệu
quả đến những nơi có thế mạnh, tạo
sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Mở
ra cơ hội cho một thị trường kinh tế
hiệu quả, những công ty kém hiệu quả
sẽ bị đào thải trước những cuộc cạnh
tranh khốc liệt.
+ Nhược điểm:
● Giảm khả năng cạnh tranh: Trước
đây, khi các doanh nghiệp gặp khó
khăn có thể được Chính phủ bảo vệ và
trợ cấp để duy trì trong bối cảnh cạnh
tranh. Tuy nhiên, khi xuất hiện sự di
cư của yếu tố sản xuất trong thị
trường chung dễ dẫn đến cản trở kinh
tế của quốc gia đó, khiến cho tình
trạng thất nghiệp gia tăng.
● Chuyển hướng dòng chảy thương mại:
Chuyển hướng dòng chảy thương mại
xảy ra khi có nhiều thành viên trong
thị trường chung hoạt động hiệu quả,
nhưng họ lại phải chịu những quy
định chung của thị trường chung khi
giao dịch với các nước ngoài khối,
làm giảm khả năng cạnh tranh. Từ đó,
họ muốn ra khỏi thị trường chung.

Liên minh Liên minh kinh tế (economic


Một liên minh kinh tế bao gồm các quốc gia
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

kinh tế union) là một loại hình hợp


tác kinh tế giữa các quốc gia đã ký kết các thỏa thuận để tạo ra một thị
trong đó các thành viên đã ký trường chung, với mục tiêu tăng cường sự
kết thỏa thuận để tạo ra một hợp tác kinh tế và cải thiện mối quan hệ
thị trường chung với sự tự do thương mại giữa các thành viên. Các thành
về lưu thông hàng hóa, dịch viên của liên minh kinh tế thường thực hiện
vụ, vốn và lao động. Một liên các chính sách kinh tế chung, chẳng hạn như
minh kinh tế bao gồm các yếu chính sách tiền tệ và chính sách thuế quan, để
tố như cải cách thuế quan, tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi
chính sách tiền tệ chung, điều cho tất cả các quốc gia trong liên minh.
chỉnh chính sách kinh tế, và
đôi khi còn bao gồm cả việc Mục đích chính của một liên minh kinh tế là
tạo ra một đồng tiền chung. tăng cường sự hợp tác kinh tế giữa các thành
viên, nâng cao năng suất và hiệu quả sản
xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện thương mại và đầu tư, và tạo ra lợi ích
kinh tế cho các thành viên.

Một liên minh kinh tế thường bao gồm các


yếu tố như: Thị trường chung, cải cách thuế
quan, chính sách tiền tệ chung,...

- Thị trường chung: Liên minh kinh tế bao


gồm các quốc gia đã ký kết thỏa thuận để tạo
ra một thị trường chung, với sự tự do về lưu
thông hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động.
Điều này giúp tăng cường sự cạnh tranh và
hiệu quả sản xuất, và tạo ra lợi ích kinh tế cho
các thành viên.
- Cải cách thuế quan: Liên minh kinh tế có
thể loại bỏ các rào cản thương mại giữa các
thành viên, chẳng hạn như các thuế quan và
các hạn chế nhập khẩu. Điều này giúp giảm
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

chi phí và tăng cường sự cạnh tranh, và có thể


giúp tăng cường thương mại giữa các thành
viên.
- Chính sách tiền tệ chung: Liên minh kinh tế
có thể tạo ra một đồng tiền chung, hoặc có thể
có các chính sách tiền tệ chung như chính
sách lãi suất và chính sách hối đoái. Điều này
giúp giảm rủi ro và tạo ra một môi trường
kinh doanh ổn định hơn cho các doanh
nghiệp.
- Điều chỉnh chính sách kinh tế: Các thành
viên của liên minh kinh tế có thể thực hiện
các chính sách kinh tế chung để tăng cường
sự cạnh tranh và giảm rủi ro, chẳng hạn như
các chính sách về bảo vệ môi trường hoặc các
chính sách về đầu tư nước ngoài.
- Quản lý chung: Liên minh kinh tế có một cơ
chế quản lý chung để đảm bảo tuân thủ các
quy định và thỏa thuận. Các thành viên của
liên minh kinh tế cùng tham gia vào quá trình
ra quyết định, giúp tăng cường sự đồng thuận
và hiệu quả của các quyết định.
- Tăng cường sự hợp tác: Mục đích chính của
liên minh kinh tế là tăng cường sự hợp tác
kinh tế giữa các thành viên, nâng cao năng
suất và hiệu quả sản xuất, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện thương mại và đầu tư,
và tạo ra lợi ích kinh tế cho các thành viên.
- Tăng cường sự phát triển: Liên minh kinh tế
có thể giúp tăng cường sự phát triển kinh tế
cho các thành viên, đặc biệt là các quốc gia
nhỏ và đang phát triển. Các thành viên có thể
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

chia sẻ kinh nghiệm, tài nguyên và công nghệ


để cùng nhau phát triển kinh tế.
- Tăng cường sự ổn định chính trị: Liên minh
kinh tế có thể giúp tăng cường sự ổn định
chính trị cho các thành viên. Các quốc gia có
thể tạo ra các quy định và thỏa thuận chung
để giảm thiểu sự tranh chấp và xung đột giữa
các quốc gia. Điều này cũng giúp tạo ra một
môi trường kinh doanh ổn định và dự đoán
được cho các doanh nghiệp.
- Cải thiện chất lượng cuộc sống: Liên minh
kinh tế có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc
sống cho người dân của các thành viên. Nhờ
vào việc tăng cường sự cạnh tranh và phát
triển kinh tế, các thành viên có thể cải thiện
mức sống của người dân thông qua việc tạo ra
việc làm, tăng thu nhập và cải thiện chất
lượng dịch vụ.
- Tạo ra lợi ích kinh tế chung: Liên minh kinh
tế có thể tạo ra lợi ích kinh tế chung cho các
thành viên. Các quốc gia có thể tận dụng lợi
thế của các quốc gia khác để tăng cường sự
hợp tác và tạo ra các sản phẩm và dịch vụ tốt
hơn cho các thị trường toàn cầu.

Câu 3.
3.1. Tìm hiểu và trình bày về lịch sử hình thành, ý nghĩa của "Con đường tơ lụa" bằng
một slide dài không quá 12 trang slide (pptx)
3.2. Bạn biết gì về sáng kiến "Một vành đai, một con đường". Việt Nam sẽ chịu ảnh
hưởng như thế nào của Sáng kiến này
Trình bày dưới dạng slide (pptx) không quá 15 slide
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

3.3. So sánh giữa "Một vành đai, một con đường" và "con đường tơ lụa"

Câu 4.
4.1. Trình bày Học thuyết kinh tế "Lợi thế tuyệt đối". Lấy ví dụ
4.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối ra đời từ giữa thế kỉ XVIII khi nền kinh tế các nước Tây Âu có
nhiều thay đổi đáng kể:
- Cuộc cách mạng công nghiệp tâm điểm từ Anh phát triển mạnh. Cuộc cách
mạng công nghiệp đã biến các nước này từ nền kinh tế sản xuất thủ công sang nền
kinh tế với công trường, xí nghiệp, nhà máy sử dụng máy móc.
- Từ một xã hội nông nghiệp đơn giản phát triển thành một xã hội kinh tế phức
tạp với nhiều ngành nghề khác nhau. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối được giới thiệu lần đầu
tiên trong tác phẩm “An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations” năm
1776 bởi nhà kinh tế học người Scotland, Adam Smith. Ông cho rằng, tất cả các quốc gia
không thể đồng thời trở nên giàu có theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương - tối đa hóa
xuất khẩu và giảm thiểu nhập khẩu bởi vì xuất khẩu của một quốc gia này là nhập khẩu của
quốc gia khác. Và để thay thế quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, Adam Smith đưa ra
tuyên bố rằng tất cả các quốc gia đều có lợi nếu tất cả các quốc gia thực hiện thương mại tự
do và chuyên môn hóa phù hợp với lợi thế tuyệt đối của họ. Ông cũng tuyên bố rằng để trở
nên giàu có, các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà họ có lợi thế
tuyệt đối và tham gia vào thương mại tự do với các quốc gia khác để bán hàng hóa của họ.
Điều này giúp cho các nguồn lực của một quốc gia sẽ được sử dụng theo cách tốt nhất có thể
cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà quốc gia đó có lợi thế về năng suất so với các quốc
gia khác. Và từ đó tối đa hóa của cải quốc gia.
4.1.2. Nội dung quy luật
Căn cứ vào thực tiễn phát triển kinh tế thời kì cách mạng công nghiệp bắt đầu bùng nổ và lan
rộng, Adam Smith đã phê phán tính phiến diện của học thuyết trọng thương, đồng thời đưa ra
những luận điểm mới của mình, ông cho rằng sự giàu có của mỗi quốc gia không chỉ được đo
bằng số lượng vàng, kim loại quý tích trữ được, mà chủ yếu là do số hàng hóa và dịch vụ
được sản xuất ra, mà giá trị của hàng hóa do lao động quyết định (lý thuyết giá trị - lao động).
Khi giải thích hiện tượng thưong mại quốc tế, Adam Smith cho rằng buôn bán ngoại thương
muốn bền vững phải mang tính chất bình đẳng (trao đổi ngang giá) và mang lại lợi ích cho cả
hai bên. Việc trao đổi hàng hóa căn cứ trên cơ sở chi phí sản xuất ra hàng hóa đó.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Adam Smith trên cơ sở ủng hộ tự do thương mại, tự do sản xuất kinh doanh cho rằng: mỗi
quốc gia nên chuyên môn hóa trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Một nước sẽ có lợi nếu tập
trung chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối (bao gồm cả lợi
thế tự nhiên và lợi thế do tay nghề), tức lầ sản phẩm có chi phí sản xuất tính theo giờ công
quy chuẩn thấp hơn, rồi bán ra nước ngoài, trao đổi lấy những sản phẩm khác mà các quốc
gia nước ngoài có lợi thế tuyệt đối. Sản xuất và trao đổi sản phẩm dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt
đối sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cho cả quốc gia xuất khẩu lẫn quốc gia nhập khẩu và nhờ vậy
có lợi cho cả thế giới nói chung.
Theo Adam Smith - người được coi là cha đẻ của kinh tế học hiện đại, các quốc gia chỉ nên
sản xuất những mặt hàng mà họ có lợi thế tuyệt đối. Một cá nhân, doanh nghiệp hoặc quốc
gia được cho là có lợi thế tuyệt đối nếu nó có thể sản xuất hàng hóa với chi phí thấp hơn so
với một cá nhân, doanh nghiệp hoặc quốc gia khác.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối được xây dựng với hai nội dung chính:
- Khẳng định vai trò của cá nhân và hệ thống kinh tế dân doanh. Nếu như các tác giả trọng
thương cho rằng buôn bán chỉ có lợi cho một bên tham gia và họ ủng hộ một chính sách bảo
hộ mậu dịch, thì Adam Smith lại khẳng định rằng thương mại tự do có lợi cho tất cả các quốc
gia, và Chính phủ nên thực hiện chính sách “không can thiệp” vào hoạt động thương mại
quốc tế nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung.
- Khẳng định nguyên tắc phân công lao động để tạo ra nhiều lợi nhuận làm cơ sở cho sự ra
đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối.

4.1.3.  Đánh giá học thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith

- Ưu điểm học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith

Học thuyết về lợi thế tuyệt đối là bước tiến bộ vượt bậc so với thuyết trọng thưong, giải thích
bản chất kinh tế và ích lợi trong thưong mại quốc tế, giải thích được sự phát triển của thưong
mại quốc tế hai chiều giữa các quốc gia thời kì đầu công nghiệp hóa ở châu Âu.
Học thuyết đã được các quốc gia sử dụng trong một số trường hợp, lợi thế tuyệt đối là cơ sở
để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hóa và trao đổi các mặt hàng trong thương mại
quốc tế.
Học thuyết khuyến khích tự do thương mại, tự do định giá ữao đổi, có tác dụng lành mạnh
hóa và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
- Nhược điểm học thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith
Chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế giữa các nước đều phải có lợi thế tuyệt đối
nhưng khác nhau về mặt hàng có lợi thế (chủ yếu là các nước công nghiệp thời kì đầu của
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

cuộc cách mạng công nghiệp) mà không giải thích được quan hệ thương mại giữa các nước
công nghiệp (có lợi thế tuyệt đối ở hầu hết các mặt hàng) với các nước đang phát triển (hầu
như không có lọi thế tuyệt đối ở mặt hàng nào hoặc có rất ít lợi thế tuyệt đối).
Học thuyết được xây dựng dựa trên cơ sở thương mại hàng hóa: hàng đổi hàng giản đơn,
trong khi thương mại quốc tế ngày nay còn gồm cả thương mại dịch vụ.
Học thuyết chưa tính toán hết được các yếu tố trong thương mại quốc tế như vận tải, văn hóa,
sở thích...

4.1.4. Ví dụ về lợi thế tuyệt đối theo học thuyết của Adam Smith

Adam Smith đã sử dụng mô hình thương mại giản đơn để giải thích thương mại quốc tế có lợi
như thế nào với mỗi quốc gia tham gia.
Trong mô hình của mình, ông giả thiết: Thế giới bao gồm 2 quốc gia (ở đây chúng ta ví dụ là
A và B), mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng giống nhau (ở đây chúng ta ví dụ là Lúa mì và
vải); chi phí vận chuyển bằng 0; lao động là yếu tố sản xuất duy nhất, dịch chuyển tự do giữa
các ngành trong cùng một nước, không dịch chuyển giữa các quốc gia; cạnh hanh hoàn hảo
tồn tại trên tất cả các thị trường.1
Bảng về Năng suất lao động của hai quốc gia A, B
  Nước A Nước B

Lúa mì (kg/lđvlđ) 12 6

Vải (m/lđvlđ) 5 10
Theo bảng trên, nước A có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất Lúa mì, vì với cùng 1 đơn vị lao
động (đvlđ), nước A sản xuất ra nhiều lúa mì (12kg) hơn so với nước B (6kg). Tương tự,
nước B có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất vải, vì với cùng 1 đơn vị lao động, nước B sẫn xuất
ra nhiều vải (10m) hơn so với nước A (5m).
Hai quốc gia tiến hành trao đổi các mặt hàng mình có lợi thế tuyệt đối lấy mặt hàng không có
lợi thế tuyệt đối. Giả thiết tỉ lệ trao đổi quốc tế là 1:1. Nếu nước A lấy 12kg lúa mi đổi lấy
12m vải của nước B, thì nước A sẽ có lợi 7m vải, vì trong nội địa nước A chỉ có thể đổi 12kg
lúa mì lấy 5m vải mà thôi. Tưong tự như vậy, nếu nước B nhận từ nước A 12kg lúa mì, thì
nước B đã không phải mất 2đvlđ để sản xuất lúa mì trong nước (do mỗi đvlđ nước B chỉ sản
xuất được 6kg lúa mì), với thời gian đó, nước B chỉ tập trung cho sản xuất vải thì sẽ được
20m (2đvlđ X 10m). Trong đó, 12m dùng để trao đổi với nước A, còn 8m là lợi ích thuộc về
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

nước B. Lúc này, cả thế giới sẽ lợi thêm 7m + 8m = 15m vải so với không có trao đổi thưong
mại.
Vậy, cả hai quốc gia đều có lợi hon so với khi không có trao đổi thưong mại quốc tế, nhờ vào
việc chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mình có lợi thế tuyệt đối. Và nhờ đó
mang lại lợi ích chung cho thế giới.

4.2. Trình bày Học thuyết kinh tế "Lợi thế tương đối". Lấy ví dụ

4.2.1. Bối cảnh ra đời của học thuyết của David Ricardo

Học thuyết của David Ricardo ra đời trong thời kì cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xác lập địa vị thống trị hoàn toàn với hai giai cấp
tư sản và vô sản đối lập nhau; phân công lao động xã hội phát triển, mâu thuẫn giai cấp bộc lộ
rõ ràng hơn. sống trong thời kì này, David Ricardo có thể nhìn nhận và phân tích các quy luật
vận động của chủ nghĩa tư bản và nhìn rõ hơn mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ
nghĩa cũng như vạch ra cơ sở kinh tế của những mâu thuẫn đó. Ông đã nhận thấy những hạn
chế trong học thuyết của Adam Smith và phát triển nó thành học thuyết lợi thế so sánh/lợi thế
tương đối (comparative advantage).
Ý tưởng về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) được đề cập đến lần đầu tiên bởi Robert
Torrens (1780 - 1864, người Anh) vào năm 1815 trong bài viết về thương mại mặt hàng ngô
(An essay on the external com trade). Robert kết luận rằng, nước Anh có lợi khi sản xuất các
mặt hàng khác để đổi lấy ngô từ Ba Lan cho dù Anh có thể sản xuất ngô rẻ hơn Ba Lan. Tuy
nhiên, lý thuyết lợi thế so sánh chỉ thật sự gắn liền với tên tuổi của David Ricardo khi ông
phát triển nó trong tác phẩm nổi tiếng năm 1817 “Những nguyên lý của kinh tế chính trị và
thuế khóa”.

4.2.2. Quan điểm chỉnh của học thuyết của David Ricardo

Neu thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith không giải thích được quan hệ thương mại diễn
ra giữa hai nước mà lợi thế tuyệt đối dồn hết về một bên, thì theo David Ricardo:
- Thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra giữa hai quốc gia mà lợi thế tuyệt đối dồn hết về một
phía. Một nước có hiệu quả sản xuất thấp hơn (chi phí cao hơn) trong sản xuất hầu hết các
loại sản phẩm thì vẫn có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi ngoại
thương, thông qua chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế so sánh.
- Một quốc gia có lợi thế so sánh khi quốc gia đó có khả năng sản xuất một hàng hóa với mức
chi phí cơ hội thấp hơn so với các quốc gia khác; Chi phí cơ hội của việc sản xuất ra một
hàng hóa là số lượng hàng hóa khác phải hi sinh khi chúng ta sử dụng nguồn lực để sản xuất
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

thêm một đơn vị hàng hóa đó. Lợi thế so sánh xác định thông qua tính toán chi phí cơ hội để
sản xuất ra một đơn vị sản phẩm trên cơ sở so sánh chi phí sản xuất các loại sản phẩm khác
nhau. 

4.2.3. Ví dụ về lợi thế so sánh của David Ricardo

David Ricardo tiếp tục sử dụng mô hình thương mại giản đơn tương tự như Adam Smith để
giải thích quan hệ thương mại giữa các quốc gia tham gia.
Trong mô hình của mình, ông vẫn giả thiết: Thế giới bao gồm 2 quốc gia (ví dụ là c và D),
mỗi quốc gia sản xuất hai mặt hàng giống nhau (ví dụ: lúa mì, vải); Chi phí vận chuyển bằng
0; Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất, dịch chuyển tự do giữa các ngành trong cùng một
nước, không dịch chuyển giữa các quốc gia; Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị
trường.
Bảng về năng suất lao động của hai quốc gia c, D
  Nước c Nước D

Lúa mì (kg/lđvlđ) 12 3

Vải (m/lđvlđ) 8 4
Sự khác nhau giữa bảng 2.1 và bảng 2.2 thể hiện: Nếu ở bảng 2.1, cả hai nước A và B, mỗi
nước đều có mặt hàng có lợi thế tuyệt đối cho riêng mình; Còn ở bảng 2.2, nước c có lợi thế
tuyệt đối ở cả hai mặt hàng, trong khi nước D không có lợi thế tuyệt đối ở bất kì mặt hàng
nào.
Chi phí cơ hội để sản xuất lúa mì là số mét vải phải từ bỏ để sản xuất thêm Ikg lúa mì: nước
C: 8/12 (m), nước D: 4/3 (m); Vậy nước c có chi phí cơ hội để sản xuất lúa mì thấp hơn, nên
nước c có lợi thế so sánh trong sản xuất lúa mì.
Chi phí cơ hội để sản xuất vải là số kg lúa mì phải từ bỏ để sản xuất thêm Im vải: nước C:
12/8 (kg), nước D: 3/4 (kg); Vậy, nước D có chi phí cơ hội để sản xuất vải thấp hơn, nên
nước D có lợi thế so sánh trong sản xuất vải.
Hoặc, một cách lý giải khác về lợi thế so sánh:
Tại nước D, nếu so sánh giữa lúa mì và vải, thì D có lợi thế so sánh về mặt hàng vải, vì năng
suất lao động để sản xuất vải của D chỉ kém 2 lần (4 so với 8) so với năng suất lao động sản
xuất vải của C; trong khi đó năng suất lao động đế sản xuất lúa mì của D lại kém những 4 lần
(3 so với 12) so với năng suất lao động sản xuất lúa mi của c. Vậy, dù không có lợi thế tuyệt
đối ở cả hai mặt hàng, nhưng D sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng vải, khi vải là mặt hàng ít bất
lợi hơn so với mặt hàng lúa mì.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Tương tự, tại nước c, nếu so sánh giữa lúa mì và vải, thì c có lợi thế so sánh về mặt hàng lúa
mì, vì năng suất lao động để sản xuất lúa mi của c hơn 4 lần (12 so với 3) so với năng suất lao
động sản xuất lúa mi của D; trong khi đó năng suất lao động để sản xuất vải của D chỉ hơn 2
lần (8 so với 4) so với năng suất lao động sản xuất vải của c. Vậy, dù có lợi thế tuyệt đối ở cả
hai mặt hàng, nhưng c sẽ có lợi thế so sánh ở mặt hàng lúa mì, khi lúa mì là mặt hàng có lợi
lớn hơn so với mặt hàng vải.
Theo David Ricardo, nước c sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu lúa mì và đổi về mặt
hàng vải; còn nước D sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu mặt hàng vải và đổi lấy mặt
hàng lúa mì.
Giả sử tỉ lệ hao đổi quốc tế là 1:1. Nếu nước c lấy 12kg lúa mì đổi lấy 12m vải của nước D,
thì nước c sẽ có lợi 4m vải, vì trong nội địa nước c chỉ có thể đổi 12kg lúa mì lấy 8m vải mà
thôi. Tương tự như vậy, nếu nước D nhận từ nước c 12kg lúa mì, thì nước D đã không phải
mất 4đvlđ để sản xuất lúa mì trong nước (do mỗi đvlđ nước D chỉ sản xuất được 3kg lúa mì),
với thời gian đó, nước D chỉ tập trung cho sản xuất vải thì sẽ được 16m (4đvlđ X 4m). Trong
đó, 12m dùng để trao đổi với nước c, còn 4m là lợi ích thuộc về nước D. Lúc này, cả thế giới
sẽ lợi thêm 4m + 4m = 8m vải so với không có trao đổi thương mại.
Như vậy, cả hai quốc gia đều có lợi khi chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có
lợi thế so sánh, cho dù lợi thế tuyệt đối dồn hết về một bên.
Công thức xác định lợi thế so sánh:
X = Chi phí sản xuất (CPSX) 1 đơn vị sản phẩm X ở nước C/CPSX 1 đơn vị sản phẩm X ở
nước D
y = CPSX 1 đơn vị sản phẩm Y ở nước C/CPSX 1 đơn vị sản phẩm Y ở nước D
X < y: Nước c có lợi thế so sánh ở sản phẩm X, nước D có lợi thế so sánh ở sản phẩm Y; và
ngược lại nếu X > y. 

4.2.4. Đánh giá học thuyết của David Ricardo

- Ưu điểm học thuyết của David Ricardo

Thuyết lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) tiến bộ hơn rất nhiều so với thuyết lợi thế tuyệt đối
(lợi thế tuyệt đối trở thành trường họp đặc biệt của lợi thế so sánh). Do đó, thuyết này được
ứng dụng rất rộng và phát triển cho đến ngày nay. Có thể nói thương mại quốc tế giữa các
nước hiện nay chủ yếu dựa trên khai thác các mặt hàng có lợi thế so sánh.
Ngoài ứng dụng trong thương mại quốc tế, thuyết lợi thế so sánh còn được ứng dụng trong
nghiên cứu phân công lao động giữa các vùng, địa phương, thậm chí các tổ đội, cá nhân trong
doanh nghiệp, tổ chức.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

- Nhược điểm học thuyết của David Ricardo

Học thuyết chưa tính đến các yếu tố ngoài lao động ảnh hưởng đến lợi thế của hàng hóa và
trao đổi ngoại thương như: sự thay đổi công nghệ, chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa và hàng
rào bảo hộ thương mại.
Những giả định của Ricardo khi phân tích mô hình thương mại giản đơn giữa hai quốc gia có
nhiều điểm không thực tế (giống Adam Smith).
Như vậy, mặc dù còn nhiều hạn chế song lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo là sự
phát triển của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith. Nó góp phần giải thích nguyên
nhân của phần lớn thương mại quốc tế đang diễn ra hiện nay và là nền tảng để các quốc gia
xác định hướng chuyên môn hóa sản xuất cũng như tăng khả năng cạnh tranh cho mình trên
thị trường thế giới. Khái niệm lợi thế so sánh đã trở thành khái niệm trọng yếu của thương
mại quốc tế. Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 - Paul Samuelson đã viết:
“Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc
nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả
một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình”.
4.3. Trình bày học thuyết kinh tế tân cổ điển: "Lợi ích kinh tế theo quy mô". Lấy ví dụ
4.3.1. Khái niệm về lợi ích kinh tế
Trước hết để hiểu từng thuật ngữ Lợi ích kinh tế, ta cùng tìm hiểu nhu cầu là gì? Nhu cầu là
đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người. Tuy nhiên, nhu cầu không phải là những
cái chung chung trừu tượng, mà phải là nhu cầu về của cải, vật chất và dịch vụ nhằm thỏa
mãn đời sống vật chất và tinh thần của mỗi người, mỗi cộng đồng và mỗi tập đoàn xã hội
nhất định. Nói cách khác, nhu cầu kinh tế trước hết cũng là nhu cầu về vật chất, song không
phải mọi nhu cầu về vật chất đều là nhu cầu kinh tế. Trong tiến trình vận động và phát triển
của lịch sử xã hội loài người, chỉ khi nào xuất hiện các hình thức khác nhau về sở hữu tư liệu
sản xuất, xuất hiện phân công lao động xã hội, lúc đó những nhu cầu về vật chất của con
người mới mang tính chất xã hội và chuyển hóa thành nhu cầu kinh tế. Khi nhu cầu kinh tế
của một chủ thể nào đó được đáp ứng, được thỏa mãn thì lúc đó mới xuất hiện lợi ích kinh tế.
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng như nhu cầu
tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của mình. Lợi ích có thể là
lợi ích vật chất và tinh thần. Như vậy, có thể định nghĩa lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của
con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội
ứng với trình độ phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Trên thực tế, lợi ích kinh tế thực chất sẽ là lợi ích vật chất, lợi ích kinh tế phản ánh mục đích
và động cơ khách quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế, xã hội và do
hệ thống quan hệ sản xuất quyết định. Lợi ích kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp
ứng nhu cầu làm nảy sinh lợi ích. Vì thế ta nhận thấy rằng, Lợi ích kinh tế là một phạm trù
kinh tế, một mặt nó phản ánh những điều kiện, những phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu vật
chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. 
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy định một cách khách
quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất. Ph.Ăng viết: "Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu
hiện trước hết dưới hình thức lợi ích". Lê-nin cũng cho rằng: "Lợi ích của giai cấp này hay
giai cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ thống quan
hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ". Như vậy, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đều thấy rõ lợi ích quan trọng nhất của những người lao động không
phải là lợi ích về chính trị, mà chính là Lợi ích kinh tế.  

4.3.2. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế

 Xét về bản chất:

- Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ thể trong nền
sản xuất xã hội. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà
mỗi người có được, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Phản ánh quan hệ giữa
con người với con người trong quá trình tham gia các hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất
cho bản thân.
- Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định.
Không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất mà nó là sản phẩm của những
quan hệ sản xuất. Các thành viên trong xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong
quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được.
- Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy định hệ thống lợi ích
kinh tế của xã hội đó. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta tồn tại nhiều quan
hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do
đó hệ thống lợi ích kinh tế cũng mang tính đa dạng. Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch
sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn
lịch sử đó.
 Xét về biểu hiện:
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

- Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh tế. Trong thực tế,
lợi ích kinh tế thông thường sẽ được biểu hiện ở các hình thức thu nhập cụ thể: Tiền lương,
tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí và các hình thức cụ thể khác
- Gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng: lợi ích của chủ doanh
nghiệp trước hết là lợi nhuận, lợi ích người lao động là thu nhập. Tất nhiên, mỗi cá nhân,
trong các mối quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực hiện hoạt
động kinh tế trọng nhất thời, không phải luôn đặt mục tiêu lợi ích vật chất lên hàng đầu. Song
về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích quyết định. Nếu
không thấy được vai trò của lợi ích kinh tế sẽ làm suy giảm động lực. 
- Khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa rằng lợi ích đó được xác lập trong quan hệ
nào, vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó thể hiện chủ thể đó biểu hiện như thế nào. Ví dụ
họ là chủ sở hữu, hay nhà quản lý, là lao động làm thuê hay trung gian; ai là người thụ hưởng
lợi ích, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể đó, biện pháp thực hiện gì... Trong nền
kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động ở đó có quan hệ lợi ích
và lợi ích kinh tế.

4.3.3. Vai trò của lợi ích kinh tế 

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong phú đa dạng và
các hoạt động hướng tới lợi ích nhất định. Có thể khái quát vai trò của lợi ích kinh tế trên một
số khía cạnh chủ yếu sau:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã hội
+ Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, nâng
cao phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản thân. Trong nền kinh tế thị
trường, phương thức và mức độ phụ thuộc thỏa mãn nhu cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu
nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu càng tốt. Vì
vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi
ích kinh tế của các giai cấp tầng lớp xã hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho
sự ổn định và phát triển xã hội vừa là biểu hiện sự phát triển
+ Về khía cạnh kinh tế tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi ích chính
đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ với các chủ thể khác
trong xã hội. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng góp
vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì lợi ích của mình người lao động tích cực lao động sản
xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động; chủ doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng cách
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục
vụ người tiêu dùng... Tất cả những điều đó đều tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất, của nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
+ Mọi vận động của lịch sử đều xoay quanh vấn đề lợi ích và được ưu tiên là lợi ích kinh tế.
Mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của con người trong quan hệ sản xuất
xã hội nên để thực hiện lợi ích mình các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau thực hiện
quyền làm chủ với tư liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các
giai cấp trong lịch sử - động lực quan trọng của xã hội tiến bộ
+ Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều kiện cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính
trị, lợi ích xã hội, văn hóa của các chủ thể xã hội.
+ Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội.
Theo C.Mác: "Cội nguồn phát triển của xã hội không phải là quá trình nhận thức mà là các
quan hệ của đời sống vật chất, tức là lợi ích kinh tế của con người"
+ Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì rất nhiều lý do, các lợi ích kinh tế, nhất là lợi
ích cá nhân, không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện cơ chế thị trường, quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta là: Coi lợi ích kinh tế là động lực của hoạt động kinh tế; phải
tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng. Điều này góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất
nước ta trong những năm qua. 

4.3.4. Ví dụ về lợi ích kinh tế

Trong các xã hội có giai cấp, lợi ích kinh tế tất yếu mang tính chất giai cấp. Ví dụ, trong xã
hội tư bản chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp tư sản là thu được giá trị thặng dư và lợi nhuận tối
đa bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê. Còn lợi ích kinh tế của những người lao
động chỉ hạn chế trong phạm vi giá trị sức lao động của họ. Do lợi ích kinh tế có tính giai cấp
nên trong điều kiện có nhiều thành phần kinh tế như hiện nay tất yếu tồn tại mâu thuẫn về lợi
ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa các chủ thể kinh tế khác với nhau
Ví dụ lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Có thể thấy lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông thôn của Hà Nội còn thấp, năng suất lao
động thất. Trong khi đó, CNH, HĐH xác định chuyển đổi căn bản, toàn diện hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ quản lý từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng lao
động cùng với công nghệ, phương tiện máy móc kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. 
Lợi ích kinh tế của nông dân chính là nhu cầu được chuyển đổi từ sử dụng lao động thủ công
sang lao động sử dụng công nghệ tạo ra năng suất lao động hiệu quả. Lợi ích kinh tế của nông
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

dân là tổng thể những nguồn thu từ hoạt động kinh tế của họ để đáp ứng nhu cầu sản xuất và
sinh hoạt cho mọi thành viên trong gia đình. Trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế quốc
dân, người dân vừa là chủ thể tiến hành, vừa là người trực tiếp thụ hưởng thành quả của quá
trình CNH, HĐH. Chính người nông dân trực tiếp giải quyết lợi ích cho chính mình thông
qua phát triển sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho bản thân và gia đình.

4.4. Áp dụng các mô hình kinh tế trên vào kinh doanh quốc tế như thế nào?
• Áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tăng cường giao tiếp và quản lý trong quá
trình kinh doanh quốc tế.
• Áp dụng lợi ích kinh tế theo quy mô bằng cách tăng quy mô sản xuất và sử dụng công nghệ
để giảm chi phí và cải thiện chất lượng hàng hóa và dịch vụ.
• Áp dụng lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối để tối ưu hóa phân chia lao động và tài
nguyên trong quá trình sản xuất, từ đó tăng cường năng suất và hiệu quả kinh doanh.
• Tận dụng các thỏa thuận thương mại, hiệp định và liên kết quốc tế để mở rộng thị trường,
tăng cường xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.
• Xem xét các yếu tố văn hóa, chính trị và pháp lý của các quốc gia khác nhau để xây dựng
chiến lược kinh doanh quốc tế phù hợp và tận dụng cơ hội thị trường.
• Đánh giá rủi ro và cân nhắc các chiến lược kinh doanh để đảm bảo sự bền vững và phát
triển trong môi trường kinh doanh quốc tế.
Câu 5.
Tìm hiểu và trình bày về mô hình Lợi thế cạnh tranh quốc gia (mô hình kim cương) của
Micheal Porter. Lấy ví dụ minh họa
1.Mô hình kim cương Porter là gì?

Trong tiếng Anh thì mô hình kim cương Porter được biết đến với tên gọi đó là Porter
Diamond. Đồng thời thì Porter Diamond, được gọi đúng là Lý thuyết Porter Diamond về Lợi
thế Quốc gia, là một mô hình được thiết kế để giúp hiểu lợi thế cạnh tranh mà các quốc gia
hoặc nhóm sở hữu do các yếu tố nhất định sẵn có và để giải thích cách các chính phủ có thể
hoạt động như chất xúc tác để nâng cao vị thế của một quốc gia trong môi trường kinh tế
cạnh tranh toàn cầu.

Mô hình được tạo ra bởi Michael Porter, một cơ quan được công nhận về chiến lược doanh
nghiệp và cạnh tranh kinh tế, đồng thời là người sáng lập Viện Chiến lược và Năng lực cạnh
tranh tại Trường Kinh doanh Harvard. Đó là một lý thuyết kinh tế chủ động, chứ không phải
là một lý thuyết chỉ đơn giản là định lượng các lợi thế cạnh tranh mà một quốc gia hoặc khu
vực có thể có. Porter Diamond còn được gọi là “Porter’s Diamond” hoặc “Diamond Model”.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Mô hình Porter Diamond giải thích các yếu tố có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho thị trường
hoặc nền kinh tế quốc gia này so với một thị trường hoặc nền kinh tế quốc gia khác.

Nó có thể được sử dụng cả để mô tả các nguồn lợi thế cạnh tranh của một quốc gia và con
đường để đạt được lợi thế đó.

Mô hình này cũng có thể được các doanh nghiệp sử dụng để giúp định hướng và định hình
chiến lược về cách tiếp cận đầu tư và hoạt động tại các thị trường quốc gia khác nhau.

2. Đặc điểm của mô hình kim cương Porter:

Từ khái niệm trên, có thể đưa ra các đặc điểm của mô hình kim cương Porter như sau:

Thứ nhất, đối với mô hình kim cương Porter được biết đến dựa trên gợi ý rằng các quốc gia
có thể tạo ra những lợi thế về nhân tố mới cho mình, chẳng hạn như một ngành công nghệ
mạnh, lao động có tay nghề cao và sự hỗ trợ của chính phủ đối với nền kinh tế của một quốc
gia. Hầu hết các lý thuyết truyền thống của kinh tế học toàn cầu khác nhau bằng cách đề cập
đến các yếu tố, hoặc các yếu tố, mà một quốc gia hoặc khu vực vốn có, chẳng hạn như đất
đai, vị trí, tài nguyên thiên nhiên, lao động và quy mô dân số là những yếu tố quyết định
chính trong lợi thế kinh tế cạnh tranh của một quốc gia. Một ứng dụng khác của Porter
Diamond là trong chiến lược doanh nghiệp, được sử dụng như một khuôn khổ để phân tích
giá trị tương đối của việc đầu tư và hoạt động tại các thị trường quốc gia khác nhau.

Porter Diamond được thể hiện trực quan bằng một biểu đồ giống như bốn điểm của một viên
kim cương. Bốn điểm đại diện cho bốn yếu tố quyết định có liên quan lẫn nhau mà Porter lý
thuyết là yếu tố quyết định lợi thế kinh tế so sánh của quốc gia. Bốn yếu tố này là chiến lược,
cấu trúc và sự cạnh tranh của doanh nghiệp; các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan; điều
kiện cầu; và điều kiện nhân tố. Về mặt nào đó, chúng cũng có thể được coi là tương tự như
các lực lượng cùng tên trong mô hình chiến lược kinh doanh Năm Lực lượng của Porter.

Chiến lược, cấu trúc doanh nghiệp và sự cạnh tranh đề cập đến thực tế cơ bản là cạnh tranh
dẫn đến việc các doanh nghiệp tìm cách tăng sản lượng và phát triển các đổi mới công nghệ.
Sự tập trung sức mạnh thị trường, mức độ cạnh tranh và khả năng thâm nhập thị trường của
các công ty đối thủ đều có ảnh hưởng ở đây. Điểm này liên quan đến lực lượng của các đối
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

thủ cạnh tranh và các rào cản đối với những người mới gia nhập thị trường trong mô hình
Năm Lực lượng.

Các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan đề cập đến các ngành công nghiệp thượng nguồn và
hạ nguồn tạo điều kiện cho đổi mới thông qua trao đổi ý tưởng. Những điều này có thể thúc
đẩy đổi mới tùy thuộc vào mức độ minh bạch và chuyển giao kiến thức. Các ngành công
nghiệp hỗ trợ liên quan trong mô hình Kim cương tương ứng với các nhà cung cấp và khách
hàng có thể đại diện cho các mối đe dọa hoặc cơ hội trong mô hình Năm Lực lượng. Điều
kiện nhu cầu đề cập đến quy mô và tính chất của cơ sở khách hàng đối với sản phẩm, điều
này cũng thúc đẩy sự đổi mới và cải tiến sản phẩm. Các thị trường tiêu dùng lớn hơn, năng
động hơn sẽ tạo ra nhu cầu và kích thích nhu cầu khác biệt hóa và đổi mới, cũng như quy mô
thị trường lớn hơn cho các doanh nghiệp.

3. Nội dung mô hình kim cương Porter:

Mô hình kim cương của Giáo sư Michael Porter phân tích các yếu tố quyết định lợi thế cạnh
tranh đồng thời đánh giá một quốc gia hay vùng lãnh thổ có môi trường kinh doanh vi mô
lành mạnh hay không. Mô hình đưa ra bốn nhân tố tác động qua lại lẫn nhau và quyết định lợi
thế cạnh tranh quốc gia/vùng lãnh thổ đó là:

– Điều kiện đầu vào sẵn có: Điều kiện sẵn có của một môi trường kinh doanh bao gồm tính
hiệu quả, chất lượng và sự chuyên môn hóa của các điều kiện sẵn có cho doanh nghiệp. Đông
thời thì đối với các điều kiện này sẽ có tác động đến năng lực sáng tạo và năng suất lao động,
bao gồm: vốn, con người, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng vật chất và hành chính, công
nghệ thông tin. Các yếu tố này cần được kết hợp một cách đầy đủ để tạo sơ sở hình thành lợi
thế cạnh tranh.

– Chiến lược cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty: Các qui định, qui tắc, cơ chế khuyến khích
và áp lực chi phối loại hình, mức độ cạnh tranh địa phương tạo ra những ảnh hưởng lớn tới
chính sách thúc đẩy năng suất.

– Các điều kiện về nhu cầu: Nhu cầu thị trường ảnh hưởng tới qui mô và tăng trưởng thị
trưởng đồng thời liên quan đến cả tính chất khách hàng. Nói chung là đối với môi trường kinh
doanh lành mạnh sẽ có mức cầu cao từ các nhóm khách hàng địa phương phức tạp, do đó
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

buộc các doanh nghiệp phải cung cấp hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao hơn mới có khả
năng thành công.

– Các ngành hỗ trợ và có liên quan: Để có được sự thành công của môi trường kinh doanh vi
mô cần có được số lượng lớn nhà cung cấp có năng lực tại địa phương và thay vì từng ngành
công nghiệp riêng lẻ cần có các cụm ngành.

– bên cạnh đó thì cơ hội và chính phủ là hai yếu tố quyết định ảnh hưởng đến môi trường, có
tác động gián tiếp đến bốn yếu tố chính.

Yếu tố quyết định cuối cùng, và là yếu tố quan trọng nhất theo lý thuyết của Porter, đó là các
điều kiện của yếu tố. Điều kiện nhân tố là những yếu tố mà Porter tin rằng nền kinh tế của
một quốc gia có thể tự tạo ra, chẳng hạn như nguồn lao động có tay nghề cao, đổi mới công
nghệ, cơ sở hạ tầng và vốn. Ví dụ, Nhật Bản đã phát triển sự hiện diện kinh tế toàn cầu mang
tính cạnh tranh vượt ra ngoài các nguồn lực vốn có của đất nước, một phần bằng cách sản
xuất một số lượng rất cao kỹ sư đã giúp thúc đẩy đổi mới công nghệ của các ngành công
nghiệp Nhật Bản. Porter cho rằng các yếu tố của điều kiện nhân tố quan trọng hơn trong việc
xác định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia hơn là các yếu tố kế thừa tự nhiên như đất đai và
tài nguyên thiên nhiên. Ông cũng gợi ý thêm rằng vai trò chính của chính phủ trong việc thúc
đẩy nền kinh tế của một quốc gia là khuyến khích và thách thức các doanh nghiệp trong nước
tập trung vào việc tạo ra và phát triển các yếu tố của điều kiện nhân tố. Một cách để chính
phủ thực hiện mục tiêu đó là kích thích cạnh tranh giữa các công ty trong nước bằng cách
thiết lập và thực thi luật chống tín nhiệm.

Câu 6.
Tìm hiểu và trình bày Lý thuyết vòng đời sản phẩm Product Life Cycle Theory (Veron).
Lấy ví dụ minh họa cho một sản phẩm cụ thể.

1. Lý thuyết vòng đời sản phẩm (product life theory) là gì?

Lý thuyết vòng đời sản phẩm là một lý thuyết giải thích sự thay đổi trong xu hướng phát triển
của thương mại quốc tế theo thời gian. Nó được xây dựng trên cơ sở một chuỗi các quá trình
đổi mới và quảng bá sản phẩm nối tiếp nhau. Theo lý thuyết này, sản phẩm được chia thành 4
giai đoạn.
- Trong giai đoạn đầu tiên, khi sản phẩm mới được tung ra thị trường, thị trường tiêu thụ sản
phẩm chủ yếu là nước sản xuất sản phẩm đó vì có mối quan hệ gắn bó giữa đổi mới và nhu
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

cầu. Những nước sản xuất đầu tiên thường là các nước công nghiệp tiên tiến và chúng trở
thành nhà xuất khẩu cho các nước khác với thu nhập cao.
- Giai đoạn thứ hai bắt đầu khi sản xuất sản phẩm diễn ra ở các nước công nghiệp hàng đầu
khác và gradually thay thế cho hàng xuất khẩu từ nước đổi mới sang các thị trường này.
- Giai đoạn thứ ba bắt đầu khi nhu cầu của các nước khác về sản phẩm mới đạt tới quy mô
cho phép các nhà sản xuất thu được lợi thế của sản xuất quy mô lớn và bản thân họ trở thành
các nhà xuất khẩu ròng (tức là xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu) sang các nước không sản xuất
sản phẩm mới, qua đó thay thế cho hàng xuất khẩu từ nước đổi mới. Trong giai đoạn cuối
cùng, khi công nghệ và sản phẩm ngày càng được tiêu chuẩn hóa và ngay cả những công
nhân không được đào tạo cũng có thể sản xuất, các nước đang phát triển có chi phí thấp bắt
đầu xuất khẩu sản phẩm này và họ tiếp tục thay thế xuất khẩu của nước đổi mới. Cùng trong
giai đoạn này, nước đổi mới đã chuyển sang sản xuất các sản phẩm mới khác.
Tóm lại, lý thuyết vòng đời sản phẩm giải thích quá trình phát triển sản phẩm từ khi mới xuất
hiện trên thị trường cho đến khi bị thay thế bởi sản phẩm mới. Điều này có thể giúp các
doanh nghiệp phát triển chiến lược marketing phù hợp để tận dụng tối đa mỗi giai đoạn trong
vòng đời sản phẩm. Tuy nhiên, lý thuyết vòng đời sản phẩm không phải là một công thức
chắc chắn và áp dụng cho tất cả các sản phẩm. Trong một số trường hợp, vòng đời của sản
phẩm có thể kéo dài hơn hoặc ngắn hơn so với 4 giai đoạn đã được đề cập. Ví dụ, sản phẩm
Apple iPhone có thể được xem như là một ngoại lệ, vì nó đã duy trì một vị trí khá vững chắc
trên thị trường trong suốt nhiều năm. Sản phẩm này đã có nhiều đổi mới và cải tiến trong thời
gian, nhưng vẫn được coi là một sản phẩm hot trên thị trường hiện nay.
Một điều quan trọng cần lưu ý là, để thành công trên thị trường, các công ty cần phải dành
nhiều thời gian và nỗ lực để nghiên cứu và hiểu rõ nhu cầu của khách hàng. Bằng cách hiểu
được nhu cầu của khách hàng, các công ty có thể tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp và
tối ưu hóa các chiến lược quảng bá và tiếp thị. Cuối cùng, lý thuyết vòng đời sản phẩm là một
công cụ hữu ích để giải thích sự phát triển của các sản phẩm và thị trường. Nó cũng giúp các
công ty hiểu rõ hơn về quyết định chiến lược của mình và gi

2. Vai trò của lý thuyết vòng đời sản phẩm

Lý thuyết vòng đời sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các doanh nghiệp hiểu
rõ hơn về quá trình phát triển sản phẩm của mình trên thị trường và tìm ra các chiến lược phù
hợp để cải thiện doanh số và lợi nhuận.
Đầu tiên, lý thuyết này giúp các doanh nghiệp dự đoán được những thay đổi trong thị trường
và tìm ra cách thích nghi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nó giúp các doanh nghiệp hiểu
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

rõ hơn về tình hình cạnh tranh trong ngành và tìm ra các cách để tăng cường sức cạnh tranh
của sản phẩm của mình.
Thứ hai, lý thuyết vòng đời sản phẩm giúp các doanh nghiệp quyết định chiến lược phân phối
sản phẩm sao cho hiệu quả. Theo lý thuyết này, việc phân phối sản phẩm phù hợp trong từng
giai đoạn của vòng đời sản phẩm sẽ giúp tối ưu hóa doanh số và lợi nhuận.
Cuối cùng, lý thuyết vòng đời sản phẩm cũng giúp các doanh nghiệp quyết định về chiến
lược giá cả và quảng bá sản phẩm. Việc lựa chọn giá cả phù hợp và các hoạt động quảng bá
sản phẩm hiệu quả sẽ giúp tăng doanh số và lợi nhuận cho sản phẩm trong mỗi giai đoạn của
vòng đời sản phẩm.
Vì vậy, lý thuyết vòng đời sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các doanh
nghiệp tăng cường sức cạnh tranh và đạt được thành công trên thị trường. Lý thuyết vòng đời
sản phẩm có vai trò quan trọng trong việc định hướng chiến lược phát triển sản phẩm và đưa
ra quyết định về việc khi nào nên tung ra sản phẩm mới và khi nào nên ngừng sản xuất sản
phẩm cũ. Nó cũng giúp các doanh nghiệp định hình được các chiến lược giá cả và tiếp cận thị
trường phù hợp với từng giai đoạn trong vòng đời sản phẩm.
Đối với các nhà sản xuất, lý thuyết vòng đời sản phẩm giúp họ dự đoán và kiểm soát chi phí
sản xuất, quảng bá, tiếp thị và quản lý đầu tư tài chính. Nó cũng giúp cho các doanh nghiệp
hiểu rõ hơn về nhu cầu của khách hàng và đưa ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với thị
hiếu và nhu cầu của khách hàng trong từng giai đoạn của vòng đời sản phẩm.
Đối với người tiêu dùng, lý thuyết vòng đời sản phẩm giúp họ đánh giá đúng giá trị của sản
phẩm và lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu của họ. Nó cũng giúp người tiêu dùng đánh
giá được thời điểm nên mua sản phẩm mới và khi nào nên chuyển sang sử dụng sản phẩm
khác thay thế.
Tóm lại, lý thuyết vòng đời sản phẩm đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển
sản phẩm, giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về thị trường và nhu cầu của khách hàng,
từ đó đưa ra các chiến lược phù hợp để tăng cường sức cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao
nhất.

3. Ví dụ về lý thuyết vòng đời sản phẩm

Một ví dụ về lý thuyết vòng đời sản phẩm là sản phẩm điện thoại di động của hãng Apple.
Giai đoạn 1: Khi sản phẩm iPhone được giới thiệu vào năm 2007, thị trường tiêu thụ chủ yếu
ở các nước phát triển như Mỹ và Châu Âu. Trong giai đoạn này, công nghệ đột phá của
iPhone đã thu hút sự quan tâm của khách hàng và dẫn đầu xu hướng mới trong ngành công
nghiệp điện thoại di động.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Giai đoạn 2: Khi sản phẩm đã được khẳng định và trở thành một phong cách sống của các
quốc gia phát triển, sản xuất và tiêu thụ iPhone đã được mở rộng sang các nước có chi phí lao
động thấp hơn như Trung Quốc và Ấn Độ.
Giai đoạn 3: Sau khi thị trường tiêu thụ ở các quốc gia phát triển đã bão hòa, các công ty điện
thoại di động Trung Quốc đã bắt đầu sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm tương tự như iPhone,
làm giảm phần thị trường của Apple.
Giai đoạn 4: Hiện tại, Apple đã chuyển sang sản xuất các sản phẩm khác như iPad và Apple
Watch, để đáp ứng nhu cầu mới của khách hàng và giữ vững thị phần của mình.
Tổng quan về vòng đời của sản phẩm iPhone, chúng ta có thể thấy rõ ràng sự thay đổi của thị
trường tiêu thụ và sản xuất, cùng với sự đổi mới và cạnh tranh trong ngành công nghiệp điện
thoại di động.
Một ví dụ khác về lý thuyết vòng đời sản phẩm là iPhone của Apple. Khi iPhone được giới
thiệu vào năm 2007, nó là một sản phẩm đột phá, đưa công nghệ màn hình cảm ứng và giao
diện người dùng mới vào thị trường điện thoại di động. Trong giai đoạn đầu, iPhone chỉ được
sản xuất tại Mỹ và được bán ra trên toàn cầu thông qua các thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên,
ngay sau đó, các nhà sản xuất điện thoại khác trên toàn thế giới đã bắt đầu sản xuất các sản
phẩm tương tự, đưa ra thị trường với giá cả cạnh tranh hơn.
Trong giai đoạn tiếp theo, iPhone trở thành một sản phẩm quan trọng trong ngành công
nghiệp điện thoại di động và được sản xuất ở nhiều nước trên thế giới. Sản phẩm này đã trở
nên rất phổ biến và được sử dụng rộng rãi bởi các đối tượng khác nhau, từ người dùng cá
nhân cho đến doanh nghiệp và tổ chức.
Trong giai đoạn thứ ba, với sự tăng trưởng của thị trường smartphone, Apple đã trở thành
một nhà sản xuất hàng đầu trong ngành công nghiệp này và đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm
mới như iPad và Apple Watch. iPhone vẫn là một sản phẩm thành công, nhưng Apple đã phải
đối mặt với sự cạnh tranh từ các đối thủ khác với các sản phẩm tương tự với giá cả cạnh tranh
hơn.
Trong giai đoạn cuối cùng, công nghệ smartphone ngày càng tiêu chuẩn hóa và trở thành một
sản phẩm phổ thông. Các nhà sản xuất ở các nước có chi phí lao động thấp bắt đầu sản xuất
các sản phẩm smartphone với giá rẻ hơn, đẩy Apple đối mặt với cạnh tranh mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, Apple vẫn tiếp tục cập nhật và cải tiến sản phẩm iPhone của họ, tạo ra các phiên
bản mới để đáp ứng nhu cầu của người dùng và giữ vững vị trí của mình trong ngành công
nghiệp điện thoại di động.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Câu 7.
Phân tích những lợi ích và hạn chế của xu hướng toàn cầu hóa trong bối cảnh hiện nay
đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
1.Tích cực:
Hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội mới và những thách
thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Những cơ hội đó có thể kể đến là: Có một thị
trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát
triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)...; có điều kiện tiếp nhận công nghệ
sản xuất và công nghệ quản
lý thông qua các dự án đầu tư.
 Thị trường rộng lớn.
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường tiêu thụ và thị trường yếu tố sản xuất. Trong giao lưu
thương mại thị trường rộng lớn là cơ hội để các doanh nghiệp tăng doanh thu và lợi nhuận từ
việc buôn bán, trao đổi các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ,… của mình cho thị trường các nước
khác trên thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO
thì những vướng mắc trong hàng rào bảo hộ: phi thuế quan,… phần nào được giải tỏa. Các
nước tham gia vào sân chơi này phải mở cửa thị trường để hàng hóa, sản phẩm được giao lưu
buôn bán tự do, dễ dàng. Do đó, Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được lựa chọn và sử dụng
các nguồn đầu vào có chất lượng, giá cả hợp lý, tiết kiệm chi phí sản xuất…
 Thu hút vốn đầu tư, các nguồn tài trợ từ nước ngoài.
Các doanh nghiệp Việt nam thường xuyên đối mặt với khả năng tài chính hạn hẹp do tiềm lực
vốn đất nước chư đủ mạnh. Quá trình toàn cầu hóa với làn sóng đầu tư mạnh mẽ của các chủ
đầu tư nước ngoài, các nguồn tài trợ vốn từ các tổ chức lớn như Ngân hàng thế giới (WB),…
là cơ hội rõ ràng để các doanh nghiệp Việt giải tỏa cơn khát vốn bấy lâu.
 Có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và trình độ quản lý tiên tiến, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.Thông qua các dự án, các hợp đồng hợp tác kinh doanh các doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội tiếp cận với công nghệ, máy móc hiện đại, cách quản lý tiên tiến. Trong
thời đại bùng nổ khoa học công nghệ như ngày nay, thêm vào đó là những thuận lợi do toàn
cầu hóa các doanh nghiệp có thể dễ dàng đổi mới công nghệ sản xuất nâng cao chất lượng
sản phẩm, công xuất sản xuất, nâng cao trình độ quản lý,…
 Cơ hội khẳng định được vị thế của doanh nghiệp.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, Một thế giới kết nối, sự bảo hộ thương hiệu
được quan tâm, cùng các hình thức quảng cáo quảng bá sản phẩm, dịch vụ đa dạng phong
phú. Đây là cơ hội rõ nét để các doanh nghiệp khẳng định vị thế, quảng bá, nâng tầm hình
ảnh của mình trên trường quốc tế, với bè bạn các nước.
Ví dụ: nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên, may mặc Việt Tiến, Viettell...là những thương hiệu
đã có vị thế của riêng mình.
 Cơ hội giao lưu hợp tác, trao đổi học hỏi với các doanh nghiệp khác trên thế giới.
 Toàn cầu hóa cũng tạo cơ hội cho các doanh ngiệp giao lưu văn hóa, học hỏi kinh nghiệm,
hợp tác quốc tế với thế giới, với các doanh nghiệp khác không chỉ trong mà cả ngoài nước.
2. Tiêu cực:
 Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không được đối xử một cách công bằng
VN hiện nay vẫn hơn 70% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn mà lĩnh vực sản xuất chính
là nông nghiệp. Trong cơ cấu xuất khẩu, những mặt hàng chủ yếu của chúng ta chiếm tỷ
trọng không nhỏ vẫn là những mặt hàng nông phẩm (Thủy sản, Gạo, cà phê, tiêu, điều, cao
su, rau quả…). Các sản phẩm này khi xuất khẩu hầu hết dưới dạng thô và sơ chế, giá trị thu
được rất thấp. Bên cạnh đó, những mặt hàng này vấp phải những hàng rào hàng bảo hộ gay
gắt từ nước ngoài. Khi chúng ta gia nhập WTO, một sân chơi được cho là bình đẳng, tự do,
các hàng hóa là lợi thế các quốc gia sẽ được trao đổi, mua bán thuận lợi. Lật lại lịch sử khi ra
đời 1995, WTO đã phớt lờ những vấn đề các nước đang phát triển bức xúc nhất là nông
nghiệp. Mỹ và Liên minh châu Âu vẫn duy trì một chế độ bảo hộ dưới dạng trợ cấp nông
nghiệp ở mức cao (khoảng 300 tỷ USD/năm) khiến cho giá trị nông sản xuất khẩu của họ
thấp hơn mức giá sản xuất ở các quốc gia đang phát triển. Điều này làm cho các doanh
nghiệp xuất khẩu nông sản của chúng ta không thể cạnh tranh được. Hội nghị Seattle năm
1999 đánh dấu một bước ngoặt: lần đầu tiên, các nước đang phát triển đã đương đầu với các
nước phát triển và bác bỏ đề xuất của họ mở ra một đàm phán mới về tự do hoá thương mại
(mang tên vòng Thiên niên kỷ). Trong khi đó, bên ngoài hội nghị, các tổ chức của xã hội dân
sự thế giới xuống đường biểu tình ồ ạt, phản kháng WTO. Thông qua tại hội nghị Doha năm
2001, tuyên bố khai mạc của vòng đàm phán “về phát triển” xác định “đặt nhu cầu và lợi ích
của các nước đang phát triển vào trung tâm chương tr.nh làm việc”, và “thương mại quốc tế
có thể giữ vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế và giảm bớt đói nghèo”. Dù
đặt chữ ký dưới bản tuyên bố này, nhiều nước phía Nam tỏ ra hoài nghi lời hứa của phía Bắc,
và họ đã có lý. Một lần nữa, các nước phát triển nuốt lời cam kết của họ, trước tiên trong hồ
sơ nông nghiệp. Năm 2002, Mỹ ra đạo luật tăng trợ cấp cho nông nghiệp lên gấp đôi. Đưa ra
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

ra cùng năm đó, cuộc cải cách chính sách nông nghiệp chung của Liên hiệp châu Âu hoá ra
chỉ là thay đổi hình thái, màu mè của những trợ cấp trước đây (chuyển trợ cấp nông sản thành
trợ cấp nông dân).
Gia nhập WTO, VN đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều khác: bãi bỏ ngay mọi trợ cấp
trong xuất khẩu nông sản (các nước thành viên khác đến năm 2013 mới cắt giảm); từ bỏ
quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong nông nghiệp (các nước thành viên khác vẫn giữ quyền
đó).
Các quốc gia phát triển luôn đưa ra “củ cà rốt” mở cửa thị trường, đẩy mạnh đầu tư, chuyển
giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại họ sẵn sàng đập “cây gậy” chống bán
phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ thuật một cách vô lý lên đầu bất cứ
quốc gia nào mà họ cho là vi phạm (Điển hình như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của
VN). Điều trớ trêu là những đối tượng trực tiếp chịu những “cú đánh” này lại là những người
nông dân nghèo, những người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn.
 Vấp phải sự cạnh tranh quá lớn từ các Doanh nghiệp nước ngoài
Luồng tiền đầu tư có từ nhiều nguồn trong đó có cả từ những tập đoàn tư bản lớn mà vốn,
công nghệ, trình độ quản lý đã đạt mức cao. Với những điều kiện đó, khi các tập đoàn này
vào, họ có thể sử dụng nhiều biện pháp thậm chí mang tính “thanh toán”. Gần như các doanh
nghiệp trong nước rất khó khăn trong việc cạnh tranh, hoặc phải chấp nhận làm các công ty
con cho những tập đoàn này. Một dẫn chứng kinh điển là trường hợp một tập đoàn nước ngọt
hàng đầu thế giới đã chịu lỗ nhiều năm liền để có thể thâu tóm vốn sở hữu và chiếm lĩnh thị
phần ở VN – đây là một bài học mà cho tới này vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta thử
suy nghĩ, nếu thị trường trong nước chịu sự kiểm soát phần lớn từ các tập đoàn đầu tư nước
ngoài, khi có một trục trặc xảy ra (ví dụ như: khủng hoảng, suy thoái, hay động cơ chính
trị…), các tập đoàn này đồng loạt rút chân, một lượng lớn lao động thất nghiệp, các ngành
sản xuất ngưng trệ, hàng hóa không thể tự túc được, nền kinh tế sẽ càng rơi xuống đáy tiêu
điều.
 Các luồng vốn tài chính từ thị trường nước ngoài xâm nhập vào trong nước,thôn tính thị
trường trong nước,gây nguy cơ khủng hoảng tài chính, khiến nhiều doanh nghiệp phá sản.
Một khía cạnh không thể không nhắc tới về ảnh hưởng của đầu tư quốc tế là đầu tư tài chính.

Câu 8.
Trình bày về lịch sử hình thành các công ty đa quốc gia (MNC).
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

1. Mnc là gì?

Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (từ các chữ Multinational corporation) hoặc
MNE (từ các chữ Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay
cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả
ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan
hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia.

2. Quá trình ra đời và phát triển công ty đa quốc gia

Công ty Xuyên quốc gia (MNC) gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất lớn tư bản
chủ nghĩa. Trong thời kỳ đầu cạnh tranh tự do của chủ nghĩa tư bản, mục đích lợi nhuận và sự
phát triển sản xuất đã làm tăng yêu cầu về thị trường nguyên liệu, thị trường lao động, thị
trường hàng hoá và thị trường tài chính. Các yêu cầu đó đã thúc đẩy việc tăng cường khai
thác và mở rộng hoạt động kinh doanh sang nước khác. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt
cùng hướng nhiều công ty trong nước đi tìm lợi nhuận trong thị trường bên ngoài.

Quá trình này đã được tạo điều kiện bởi sự phát triển của thương mại quốc tế đã hình thành
qua nhiều thế kỷ trước. Quá trình này cũng được tạo điều kiện bởi sự ủng hộ của các nhà
nước tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa thực dân. Đồng thời, quá trình đi từ hợp tác giản đơn đến
liên kết sâu sắc hơn trong giới công thương tư bản đã làm tăng khả năng thực hiện sự mở
rộng này. Trên cơ sở đó, các tổ chức kinh doanh quốc tế bắt đầu được hình thành và phát
triển. 

+ Các MNC thực sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc.
Trong thời kỳ này, quá trình tích tụ tư bản, tập trung sản xuất, sự kết hợp giữa giới tài chính
và giới công thương đã dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn sản xuất-kinh doanh lớn
theo xu hướng độc quyền. Sự cạnh tranh tự do trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản với sự
thôn tính “cá lớn nuốt cá bé” cũng tạo thêm điều kiện cho sự hình thành các tổ chức kinh
doanh độc quyền lớn. Đáng chú ý, sự cạnh tranh và xu hướng độc quyền diễn ra mạnh mẽ cả
trên thị trường trong nước lẫn ngoài nước nên càng làm tăng tính quốc tế của các công ty này.

+ Sự nổi lên của các công ty độc quyền và sự vươn mạnh ra thế giới còn nhờ sự kết hợp chặt
chẽ giữa quyền lực kinh tế với quyền lực chính trị của nhà nước TBCN. Sau Chiến tranh Thế
giới II, sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nhu cầu tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

sự hợp tác chính trị giữa các TBCN đã tạo điều kiện cho sự phát triển tiếp tục của các MNC,
đặc biệt trong thế giới tư bản. Nhiều MNC ra đời và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. 

+ Sự phát triển của MNC không chỉ ở sự nắm giữ các lĩnh vực kinh tế trọng yếu, năng lực tài
chính và khoa học kỹ thuật,… mà còn ở sự mở rộng hoạt động kinh doanh ra khắp thế giới tư
bản. Vai trò của MNC trong QHQT cũng vì thế mà đã tăng lên qua sự đóng góp rất lớn vào
việc tăng trưởng các dòng đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thương mại xuyên quốc gia và mở
rộng phân công lao động quốc tế. 

+ Đáng chú ý, sự thay đổi cách nhìn nhận về MNC ở các nước TBCN đã góp phần đáng kể
cho sự mở rộng hoạt động kinh doanh quốc tế của các MNC. MNC ngày càng được coi là
công cụ phát triển, là sự tạo công ăn việc làm, là nguồn thuế thu, là sự khắc phục về vốn, kỹ
thuật, công nghệ và kinh nghiệm làm ăn quốc tế. Bởi thế, các nước đều mở cửa thị trường,
khuyến khích FDI và thậm chí còn cạnh tranh với nhau trong việc thu hút MNC. Nhờ đó, các
MNC đã bành trướng khá nhanh và mở rộng vai trò trong đời sống quốc tế. 

+ Sau Chiến tranh Lạnh, MNC đã có sự phát triển chóng mặt với số lượng các MNC tăng gần
gấp đôi, từ khoảng 37.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 70.000 vào năm 2004. Đồng thời, mức
độ quốc tế hoá của chúng cũng phát triển chưa từng thấy với số lượng chi nhánh nước ngoài
tăng gần bốn lần, từ 170.000 đầu thập kỷ 1990 lên gần 690.000 vào năm 2004. Một điểm
khác cũng đáng chú ý, MNC không còn là độc quyền của các nước phát triển hàng đầu mà đã
xuất hiện cả trong các nền kinh tế đang phát triển hoặc mới nổi. Tuy nhiên, quy mô và vai trò
của các MNC này vẫn còn rất khiêm tốn. Các MNC cũng là người nắm giữ hầu hết vốn đầu
tư nước ngoài.

Các MNC thực hiện hơn 80% thương mại thế giới. Các MNC chi phối hầu hết các ngành
công nghiệp và dịch vụ quan trọng của thế giới. Các MNC cũng nắm giữ phần lớn công nghệ
tiên tiến và quá trình chuyển giao công nghệ. Các MNC vẫn tiếp tục nằm trong trung tâm của
sự phát triển. Thế và lực của MNC tiếp tục phát triển trong những năm gần đây với xu hướng
sáp nhập và thu nhận để hình thành các tập đoàn lớn, nhất là trong những lĩnh vực kinh tế
quan trọng như truyền thông, ngân hàng-tài chính, giao thông vận tải… Tất cả những điều
này đang làm tăng vai trò của MNC đối với quốc gia và QHQT. 

Lựa chọn một doanh nghiệp MNC để giới thiệu về hoạt động kinh doanh quốc tế tại Việt
Nam. Phân tích, đánh giá về hoạt động kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp về lĩnh vực,
sản phẩm, thị trường, cạnh tranh và khả năng sinh lời tại thị trường Việt Nam.
Nguyễn Thúy Hiền KDO307.He1 2223 2211510037

Tập đoàn Intel (Integrated Electronics) thành lập năm 1968 tại Santa Clara,


California, Hoa Kỳ, là nhà sản xuất các sản phẩm như chip vi xử lý cho máy tính, bo mạch
chủ, ổ nhớ flash, card mạng và các thiết bị máy tính khác. Intel cũng là công ty sản xuất thiết
bị chất bán dẫn lớn nhất thế giới, và là nhà phát minh ra chuỗi vi mạch xử lý thế hệ x86 mà
bộ xử lý tìm thấy ở các máy tính cá nhân. Intel làm ra các sản phẩm chip bo mạch chủ, card
mạng, các mạch tổ hợp, chip nhớ, chip đồ họa, bộ xử lý nhúng và các thiết bị khác có liên
quan đến công nghệ thông tin.
Lý do về sản phẩm

 - Hiện nay, chất bán dẫn đang dần trở thành một phần không thể thiếu ở nhiều nơi trên
thế giới. Đây cũng là một yếu tố hiện diện trong nhiều lĩnh vực trọng tâm như giáo
dục, tài chính, sản xuất, y tế, giao thông vận tải và quốc phòng an ninh. Chúng ta đang
chứng kiến lượng nhu cầu vô tận dành cho các sản phẩm điện toán trên khắp mọi lĩnh
vực. 
 Các sản phẩm bán dẫn cao cấp hỗ trợ nhân loại đạt được nhiều thành tựu vượt trội
nhờ vào "siêu cường công nghệ", rồi kết nối rộng khắp và trí tuệ nhân tạo - tất cả đều
làm bùng nổ nhu cầu dành cho chất bán dẫn. 

Lý do Việt Nam là một nước tiềm năng, hấp dẫn


 Việt Nam đang nổi lên là cơ sở sản xuất thay thế Trung Quốc đối với ngành công
nghiệp chất bán dẫn toàn cầu. Quốc gia này đã đầu tư hàng tỷ USD để thiết lập các
trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm thu hút các nhà sản xuất chip lớn.
 Việt Nam có nguồn nhân lực kỹ thuật trẻ, chất lượng, với chi phí tương đối thấp.
 Việt Nam cũng tự hào là một trong những nền kinh tế mở hàng đầu thế giới, với 15
hiệp định thương mại tự do (FTA), môi trường kinh doanh ngày càng cải thiện và một
chính phủ ổn định với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội rõ ràng. 
 Tính trung lập về địa chính trị cũng là một điểm cộng khác cho các công ty công nghệ
đang tìm kiếm một địa điểm có rủi ro thấp để sản xuất và xuất khẩu.

You might also like