You are on page 1of 19

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................2
I. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – EU (EVFTA).........2
1. Xu hướng hợp tác trên thế giới và trong khu vực.................................2
2. Hiệp định thương mại tự do (FTA) là gì?.............................................3
2.1. Quá trình hình thành và phát triển FTA.........................................3
2.2. Tóm tắt về quá trình tham gia FTAs của Việt Nam.......................5
3. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU..............................7
3.1. Nội dung quan tâm của Việt Nam trong đàm phán EVFTA..........7
3.2. Lộ trình đàm phán Hiệp đinh thương mại Việt Nam – EU............7
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM..............................9
1. Cơ hội của Việt Nam khi ký kết FTA với EU.......................................9
2. Một số thách thức đặt ra cho Việt Nam sau khi ký kết EVFTA.........11
3. Các biện pháp đối phó với thách thức.................................................13
3.1. Đối với Nhà nước.........................................................................13
3.2. Đối với các hiệp hội.....................................................................13
3.3. Đối với doanh nghiệp...................................................................14
KẾT LUẬN.................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................16
LỜI MỞ ĐẦU

Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một xu thế khách quan. Trong
hơn một thập kỷ trở lại đây, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới có sự
gia tăng mạnh mẽ gắn hiền với sự phát triển của khoa học - công nghệ, sự
gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường, dân số… Sự gia tăng
mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi các
quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và
khu vực. Trong bối cảnh này, sẽ không thể phát triển nếu như không có sự
mở rộng mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực hay ngoài khu vực.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng
chủ động, nhanh nhạy tạo những bước chuyển mình để hội nhập kinh tế
quốc tế. Với mục tiêu “đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa mối quan hệ
kinh tế”, Việt Nam đang hướng tới con đường xuất khẩu hàng hóa để tìm
kiếm và mở rộng thị trường, từ đó nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của
nền kinh tế. Và để thực hiện điều đó, chúng ta đã vượt qua rất nhiều rào
cản, quy định khó khăn để kí kết các văn bản hợp tác và gia nhập vào các
tổ chức thương mại lớn (ASIAN, APEC, WTO…) có tính chất mở đường
cho nền kinh tế. Trong số đó, hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
(EVFTA) là một trong những hiệp định quan trọng, toàn diện, chất lượng
cao và cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU.
Tham gia hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU sẽ có ảnh
hưởng to lớn đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU. Vì vậy,
nghiên cứu những tác động của EVFTA tới nền kinh tế Việt Nam để từ đó
khuyến nghị các biện pháp tận dụng những mặt tích cực cũng như hạn chế
những rủi ro, tiêu cực là việc vô cùng quan trọng và cần thiết trong tiến
trình hội nhập. Chính vì những lý do trên mà em đã lựa chọn đề tài: “Tác
động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) đến nền
kinh tế Việt Nam” cho chủ đề nghiên cứu tiểu luận trong môn học này.

1
Em xin đặc biệt cảm ơn cô Đặng Hương Giang - giảng viên bộ môn
Kinh tế chính trị Mác – Lênin, đã tận tình giúp em hoàn thành bài tiểu luận
này.

NỘI DUNG

I. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – EU


(EVFTA)
1. Xu hướng hợp tác trên thế giới và trong khu vực
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là tiến trình phức tạp, vận động, phát
triển dưới tác động của các mâu thuẫn được biểu hiện thông qua các dạng
thức của cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội. Giải quyết mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, suy cho
cùng, là nhằm thiết lập một “trật tự” kinh tế thế giới mới có khả năng đảm
bảo cho sự phân phối các lợi ích giữa các quốc gia dân tộc một cách hợp lý
hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan đã và đang lôi cuốn
nhiều quốc gia cùng tham gia. Không thể phủ nhận những lợi ích mà toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế đem lại cho sự phát triển của mỗi quốc gia dân
tộc. Tuy nhiên, thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng bộc lộ tính
chất thiếu công bằng: trong khi các quốc gia công nghiệp phát triển được
hưởng lợi rất lớn thì các quốc gia đang phát triển, chậm phát triển lại chịu
nhiều thua thiệt. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế,
đồng thời kiên quyết đấu tranh giữ vững nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Các nước trên thế giới đã và đang tham gia vào tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế dưới các hình thức phổ biến như: khu vực mậu dịch tự do;
liên minh thuế quan; thị trường chung; … Trong những năm gần đây, cùng
với sự phát triển của sản xuất, hoạt động thương mại thế giới thể hiện ở các
nhu cầu giao thương, loại hình sản phẩm, dịch vụ, nguyên tắc, chuẩn mực
giao dịch... cũng có sự phát triển ngày càng cao, minh bạch, toàn diện,
hướng đến sự phát triển bền vững. Minh chứng cụ thể là sự chuyển đổi lên
2
mức độ rộng hơn, cao hơn trong các thỏa thuận thương mại tự do, mà hiện
nay được gọi là hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

2. Hiệp định thương mại tự do (FTA) là gì?


Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về các Hiệp định thương mại tự do.
Theo cách hiểu chung nhất thì một Hiệp định thương mại tự do (Free Trade
Agreement – FTA) là một hiệp định, một thỏa thuận thương mại giữa hai
hoặc nhiều nước thành viên. Theo đó, các nước tham gia hiệp định sẽ tiến
hành lộ trình cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm
tiến tới thành lập một khu vực mậu dịch tự do. Điều này cho phép các quốc
gia tận dụng lợi thế so sánh của mình, chuyên môn hóa và phân công lao
động để thu được tối đa lợi ích từ việc tăng cường giao thương.
Đây thực chất là một hình thức liên kết kinh tế quốc tế, tiến tới hình
thành một thị trường thống nhất về hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, các
nước thành viên vẫn giữ được quyền độc lập, tự chủ trong quan hệ buôn
bán với các nước ngoài khu vực. Nói cách khác, những thành viên của FTA
có thể duy trì chính sách thuế quan riêng và những hàng rào thương mại
khác đối với thế giới bên ngoài hiệp định.
Để tránh trốn thuế (thông qua tái xuất), các nước sử dụng hệ thống xác
nhận nguồn gốc phổ biến gọi là quy tắc xuất xứ, trong đó yêu cầu hàm
lượng nội địa tối thiểu của các nguyên liệu đầu vào và giá trị gia tăng của
hàng hóa. Đạt được tỉ lệ xuất xứ tối thiểu theo yêu cầu, hàng hóa mới được
xem xét là thuộc diện giao thương theo FTA. Nói cách khác, nhà xuất khẩu
về cơ bản phải chứng minh được xuất xứ của sản phẩm, đồng thời nhà nhập
khẩu phải có được thông tin sản phẩm từ tất cả các nhà cung cấp trong
chuỗi cung ứng.
FTA có thể mang nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ hiệp định Đối tác
Kinh tế (Economic Partnership Agreement); hiệp định thương mại khu vực
(Regional Trade Agreement), … nhưng bản chất đều là các thỏa thuận
hướng tới tự do hóa thương mại giữa các quốc gia thành viên.

3
1.1. Quá trình hình thành và phát triển FTA
Từ những năm đầu của thập niên 1990, song song với quá trình hình
thành sự kết nối chung của tự do thương mại và dịch vụ toàn cầu, chủ nghĩa
khu vực đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về lượng và về chất. Các khu vực
và các quốc gia trên thế giới cũng đẩy mạnh tìm kiếm, hợp tác sâu rộng
hơn để tháo gỡ những bế tắc trong các khuôn khổ hợp tác đa phương kể từ
cuối những năm 80 của thế kỷ trước. Vì vậy, các mô hình liên kết kinh tế
khu vực như: Liên minh châu Âu, Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ, Khu
vực thương mại tự do ASEAN, … các FTA song phương và đa phương lần
lượt ra đời phát triển với tốc độ nhanh chóng.
Trước đó, chủ nghĩa khu vực thường mang hình thái khu vực mậu
dịch tự do (Free Trade Area) nhưng kể từ thập niên 1990, hình thái FTA
song phương hoặc nhiều bên trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác
rộng hơn, không chỉ giới hạn trong việc thực hiện tự do hóa thương mại
hàng hóa, dịch vụ mà còn cả xúc tiến và tự do hoá đầu tư, hợp tác chuyển
giao công nghệ, thuận lợi hóa thủ tục hải quan, xây dựng năng lực và nhiều
nội dung mới khác như lao động, môi trường.
Chủ nghĩa khu vực đang tồn tại một cách khách quan bên cạnh hệ
thống thương mại đa phương của WTO. Khủng hoảng tài chính kinh tế -
toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế toàn cầu bởi sự lan
rộng mạnh mẽ của nó tới các thị trường tại các quốc gia lớn như Trung
Quốc, Nhật Bản hay Liên minh châu Âu, … Các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan đã được các quốc gia lập nên nhằm bảo vệ nền kinh tế mặt khác
lại gây trở ngại cho hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài,
điều này đã “bóp méo” thương mại quốc tế, làm giảm hiệu quả trong việc
phân bổ các nguồn lực. Vấn đề này chỉ có thể giải quyết thông qua đàm
phán đa phương giữa các quốc gia thành viên WTO.
Tuy nhiên, tại vòng đàm phán Doha – DDA (Doha Development
Agenda) đã xảy ra bất đồng về chính sách thương mại trong nông nghiệp
giữa Mỹ và Ấn Độ,… dẫn tới kết quả là đàm phán bị hoãn vào năm 2008.
Để đối phó với sự bế tắc trong vòng Doha, nhận ra tầm quan trọng của việc
giảm sự lệ thuộc vào thị trường Mỹ và EU để có thể tránh hoặc chí ít hạn

4
chế được sự tác động tiêu cực của các cuộc khủng hoảng, các quốc gia có
xu hướng quay trở lại việc kí kết các Hiệp định thương mại tự do – FTA.
Theo thống kê của Ban Thư ký WTO, tính đến 3/2008 đã có 209 hiệp định
thương mại khu vực (RTAs) được thông báo cho WTO, trong đó có 119
hiệp định thương mại tự do (FTAs). Trong số 119 FTAs được thông báo
cho WTO, có tới 96 FTAs (chiếm 81%) được ký kết và có hiệu lực trong
giai đoạn 1995 – 2007. Đáng chú ý là 69 FTAs (chiếm 72%) được hình
thành trong giai đoạn 2001 – 2007, tức là trong thời gian diễn ra vòng đàm
phán Doha.
Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã tỏ ra khá tích cực trong việc ký
kết và tham gia các FTA. Ngay cả những nước trước đây tỏ ra thờ ơ với
FTA mà dành nhiều quan tâm cho WTO và hệ thống thương mại đa
phương như Mỹ, Nhật và EU cũng đã có sự thay đổi.
1.1. Tóm tắt về quá trình tham gia FTAs của Việt Nam
Tham gia vào FTA tức là sẵn sàng hội nhập, đương đầu thách thức.
PGS.TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam thì nhấn
mạnh, chưa bao giờ Việt Nam nỗ lực tham gia FTA như hiện nay. Sự nỗ
lực này khẳng định ý chí, tinh thần Việt Nam, dù gặp không ít khó khăn.
Đây là tiến trình rất tích cực. 
Trình bày báo cáo tóm tắt kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện
các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên” diễn ra
vào 23/9/2020, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Văn Giàu cho biết,
tính đến hết năm 2019, Việt Nam đã ký kết 13 FTA có hiệu lực và hiện
đang đàm phán 03 FTA. Trong số 13 FTA đã có hiệu lực và đang triển
khai, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) là FTA thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam tham gia, tiếp theo đó là
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA).
Theo ông Nguyễn Văn Giàu, các FTA mà Việt Nam tham gia có độ
phủ rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm
gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác
kinh tế - thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn
nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại

5
nêu rõ, việc tham gia các FTA đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta duy trì
mức tăng trưởng cao từ 6-7%/năm, kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định; lạm
phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm.
Dưới đây xin khái quát lại những mốc thời gian quan trọng trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của Việt Nam, tính đến tháng
9/2020, được thống kê bởi Trung tâm WTO và Hội nhập:

ST
FTA Hiện trạng Đối tác
T
Các FTA đã có hiệu lực
1 AFTA Có hiệu lực từ 1993 ASEAN
2 ACFTA Có hiệu lực từ 2003 ASEAN, Trung Quốc
3 AKFTA Có hiệu lực từ 2007 ASEAN, Hàn Quốc
4 AJCEP Có hiệu lực từ 2008 ASEAN, Nhật Bản
5 VJEPA Có hiệu lực từ 2009 Việt Nam, Nhật Bản
6 AIFTA Có hiệu lực từ 2010 ASEAN, Ấn Độ
7 AANZFTA Có hiệu lực từ 2010 ASEAN, Australia, New Zealand
8 VCFTA Có hiệu lực từ 2014 Việt Nam, Chile
9 VKFTA Có hiệu lực từ  2015 Việt Nam, Hàn Quốc
VN – Việt Nam, Nga, Belarus, Amenia,
10 Có hiệu lực từ  2016
EAEUFTA Kazakhstan, Kyrgyzstan
Việt Nam, Canada, Mexico, Peru,
CPTPP Có hiệu lực từ 30/12/2018, có
Chi Lê, New Zealand, Australia,
11 (Tiền thân là hiệu lực tại Việt Nam từ
Nhật Bản, Singapore, Brunei,
TPP) 14/1/2019
Malaysia
Có hiệu lực tại Hong Kong
(Trung Quốc), Lào, Myanmar, ASEAN, Hong Kong (Trung
12 AHKFTA
Thái Lan, Singapore và Việt Quốc)
Nam từ 11/6/2019
13 EVFTA Kí kết vào 30/6/2019 Việt Nam, EU (28 thành viên)
Các FTA đang đàm phán
14 RCEP Khởi động đàm phán tháng ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc,
3/2013, hoàn tất đàm phán văn Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New
6
kiện Zealand
Việt Nam  – Khởi động đàm phán tháng Việt Nam, EFTA (Thụy Sĩ, Na
15
EFTAFTA 5/2012 Uy, Iceland, Liechtenstein)
Việt Nam – Khởi động đàm phán tháng
16 Việt Nam, Israel
Israel FTA 12/2015
3. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU
1.1. Nội dung quan tâm của Việt Nam trong đàm phán EVFTA
“Là chủ thể quan trọng của khu vực Đông Nam Á, Việt Nam trở thành
chặn dừng chân đầu tiên của phái đoàn EU trong chuyến khảo sát, tìm kiếm
cơ hội đầu tư lần này. Tuy nhiên sau Việt Nam, phái đoàn sẽ tiếp tục khảo
sát cơ hội đầu tư tại một số quốc gia khác trong khu vực ASEAN như Thái
Lan, Myanmar… Chính vì vậy, Việt Nam cần cho các nhà đầu tư EU thấy
được lợi thế cạnh tranh đặc biệt của mình để củng cố thêm quyết tâm của
các nhà đầu tư EU khi lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư…” là
khuyến nghị của ông Preben Hjortlund – Chủ tịch Phòng Thương mại châu
Âu tại Việt Nam tại “Diễn đàn doanh nghiệp và giao lưu thương mại EU –
Việt Nam” do VCCI – HCM phối hợp với phái đoàn EU tại Việt Nam tổ
chức. Việt Nam xác định rõ chủ trương trong tham gia Hiệp định thương
mại tự do với EU là tăng cường quan hệ với EU, đặc biệt về kinh tế,
thương mại, đầu tư. Do đó Việt Nam đã quyết tâm thúc đẩy mạnh mẽ, hoàn
tất đàm phán FTA với EU kể từ 09/2014.
Tuy nhiên, vấn đề chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai bên luôn
là sự bất lợi và đòi hỏi Việt Nam cần có sự cố gắng tích cực nhất có thể để
rút ngắn khoảng cách cũng như nâng cao tầm hiệu quả nền kinh tế của
mình để sánh ngang với những nước có nền kinh tế hàng đầu. Trong khi
đó, EU là thị trường nổi tiếng khó tính và cầu toàn nên các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường này phải đảm bảo yếu tố chất lượng
cũng như thời hạn giao hàng; các sản phẩm phải đảm bảo yêu cầu về môi
trường: xanh, sạch và trách nhiệm xã hội. Vì thế doanh nghiệp cần phải lưu
ý phát triển các yếu tố sản xuất, kinh doanh bền vững, thân thiện môi
trường, áp dụng công nghệ xanh, quy chế kinh tế thị trường đầy đủ cho
Việt Nam, v.v..

7
1.2. Lộ trình đàm phán Hiệp đinh thương mại Việt Nam – EU
EU là một thị trường rộng lớn với 27 quốc gia thành viên, một trong
những đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam. Hai bên đã tiến
hành đàm phán về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU từ tháng
6/2012. Với tham vọng đàm phán một hiệp định toàn diện, FTA Việt Nam
– EU nếu được ký kết sẽ có tác động rất lớn đến từng ngành và toàn bộ nền
kinh tế Việt Nam.
Trải qua nhiều lần đàm phán, Việt Nam và EU đã triển khai một số
nội dung quan trọng trong đàm phán hai bên, cụ thể trên một số lĩnh vực
như thương mại hàng hóa; thương mại dịch vụ; đầu tư; cán cân thương mại,
cán cân thanh toán quốc tế và ngân sách nhà nước; lĩnh vực sở hữu trí tuệ,
lao động, môi trường, chính sách cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, mua
sắm công, cải cách thể chế; tạo thêm việc làm mới…
Sau 9 năm ròng rã hai bên nỗ lực đàm phán và chuẩn bị, Việt Nam đã
ký kết thành công hiệp định thương mại EVFTA. Hiệp định chính thức có
hiệu lực từ ngày 1/8/2020 sau khi được Quốc hội hai bên phê
chuẩn. EVFTA nói riêng cũng như các FTA thế hệ mới nói chung bao gồm
các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực, trong đó mức độ
cam kết mở cửa mạnh (ví dụ thường là xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 95
– 100% số dòng thuế, mở cửa mạnh nhiều lĩnh vực dịch vụ, …), đặt ra
nhiều tiêu chuẩn cao trong các vấn đề quy tắc.
Hiện nay, đại dịch Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp và khó lường,
làm đứt gãy thương mại quốc tế. Nền kinh tế toàn cầu đang trong tình trạng
suy giảm mạnh, và châu Âu cũng như Việt Nam không nằm ngoài xu
hướng này. Bởi vậy, có thể coi việc các nền kinh tế châu Âu mở cửa trở lại
sau đại dịch là quá trình thử nghiệm kiếm tìm cơ hội, và các nền kinh tế
khác, như Việt Nam, hoàn toàn có thể làm một phần của cơ hội đó. Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam và liên minh châu Âu tuy có hiệu lực vào
khoảng thời gian khó khăn này nhưng là một trong những giải pháp mà EU
tính đến, được kỳ vọng sẽ có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động thương mại
quốc tế giữa hai bên, thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch.

8
9
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những phương diện của quá
trình toàn cầu hóa, trong đó các quốc gia có những kết nối và hợp tác mạnh
mẽ để phát triển kinh tế. Sự ra đời của các Hiệp định thương mại tự do
(FTA) đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa; đặt mỗi quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển như Việt Nam trước những cơ hội và
thách thức. Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại đã chỉ rõ, việc tham gia các FTA,
đặc biệt là các FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao và toàn diện như CPTPP và
EVFTA không chỉ mang lại cơ hội mà còn kèm theo những rủi ro và thách
thức, nhất là năng lực cạnh tranh để tác động tăng trưởng kinh tế, có thể rủi
ro đối với doanh nghiệp trong nước; thách thức về hoàn thiện khuôn khổ
pháp luật cũng như trong thực thi các cam kết trong những lĩnh vực mới
chưa có trong các FTA trước đây, như lao động, công đoàn, môi trường.
1. Cơ hội của Việt Nam khi ký kết FTA với EU
Việc ký kết và tham gia FTA thế hệ mới như EVFTA sẽ có tác động
lớn đến nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy tự do thương mại cả về mặt lượng
và chất thông qua việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, theo đó, kim
ngạch xuất nhập khẩu sang các nước đối tác sẽ tăng, củng cố thị trường
truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy
quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng. Cụ thể:
Thứ nhất, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu: Tự do hóa thương mại nói
chung và các FTA thế hệ mới nói riêng có tác động thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu. Những quy định trong các FTA này buộc nền kinh tế thành viên,
trong đó có Việt Nam, phải tái cấu trúc, mở ra những thị trường mới và tạo
sức hút về hàng hóa. Trong thời gian tới, khi việc thực hiện cắt giảm thuế
quan theo các FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu thì xuất khẩu của Việt
Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh. Hiệp định CPTPP và
EVFTA đi vào thực thi sẽ là động lực cho xuất khẩu của Việt Nam trong
thời gian tới.
Thứ hai, đối với sản xuất trong nước: Việc tham gia các FTA thế hệ
mới sẽ khiến cho nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất
10
trong nước có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp
được cắt giảm, từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập
khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất khẩu. Việc cắt giảm thuế quan
sẽ khiến hàng hóa nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là các nước EU vào Việt
Nam sẽ nhiều hơn do giá thành rẻ, mẫu mã phong phú và đa dạng, tác động
tích cực đến sản xuất trong nước.
Thứ ba, đối với môi trường kinh doanh: Việc tham gia các FTA thế hệ
mới như EVFTA, CPTPP về các vấn đề thể chế, chính sách pháp luật sau
đường biên giới… sẽ tạo điều kiện và động lực cơ hội để thay đổi, cải thiện
chính sách và pháp luật theo hướng minh bạch hơn, thuận lợi và phù hợp
hơn với thông lệ quốc tế. Các FTA thế hệ mới sẽ giúp Việt Nam kiện toàn
hơn bộ máy nhà nước, theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng
cường trách nhiệm, kỷ cương kỷ luật của cán bộ, từ đó, hỗ trợ cho tiến trình
đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam.
Thứ tư, đối với thu hút đầu tư nước ngoài (FDI): Trong các FTA thế
hệ mới đều có các cam kết đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành,
triển khai, vận hành, kinh doanh. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư
nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh hơn. Các FTA thế hệ mới
cũng có các quy định về phát triển bền vững, giúp hạn chế bớt những công
nghệ lạc hậu và thúc đẩy phát triển các công nghệ sử dụng nguồn năng
lượng tái tạo, thân thiện với môi trường. Những xu hướng này mang lại
nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam và cho các doanh nghiệp Việt Nam.
EVFTA tuy chưa có hiệu lực trong khoảng thời gian dài nhưng hứa
hẹn tạo ra sự ổn định kinh tế quan trọng trong trung hạn. Đối với tất cả các
lĩnh vực, một mặt hiệp định tạo ra các điều kiện pháp lý và kỹ thuật, mặt
khác là các điều kiện thị trường bao gồm những khía cạnh thương mại, bí
quyết kinh doanh, bảo vệ thương hiệu (cả những trường hợp đã được đăng
ký trước đó). Đây là một quá trình dài hơi không phải ngày một ngày hai
mà có được, và nó cần được duy trì trong suốt vòng đời của doanh nghiệp.
Với EVFTA, tất cả đang bắt đầu bước vào một cuộc chơi mới, một sự khởi
đầu mới đầy hứa hẹn nhưng cũng tiềm ẩn không ít thách thức mà hai bên

11
phải khắc phục để có thể tận dụng hiệu quả “sức mạnh” mà EVFTA mang
lại.
2. Một số thách thức đặt ra cho Việt Nam sau khi ký kết EVFTA
Một sự thật không thể chối cãi là bên cạnh những thuận lợi mà
EVFTA mang lại thì hiệp định thương mại tự do này cũng đặt ra không ít
thách thức cho nền kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, thách thức về hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Quá trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đã có những
tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam. Công tác xây dựng thể chế,
chính sách dần được hoàn thiện, giúp nền kinh tế Việt Nam có những
chuyển biến rõ nét. Hội nhập quốc tế góp phần mở rộng thị trường, tăng lợi
thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nước trong khu
vực; qua đó, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có chuyển biến về chất. Tuy nhiên,
so với thông lệ quốc tế, thể chế kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh của
Việt Nam còn khoảng cách lớn. Nếu chúng ta không nỗ lực cải cách, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường thì đây chính là rào cản ngăn dòng vốn đầu
tư nước ngoài có chất lượng vào Việt Nam, không nâng được năng lực
cạnh tranh của hàng hóa, sản phẩm Việt Nam trong thương mại quốc tế.
Thứ hai, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp Việt Nam cũng
như từng sản phẩm hiện nay còn thấp. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo
lộ trình cam kết dẫn đến các hàng hóa sản xuất trong nước chịu sự cạnh
tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu, đồng thời các ngành sản xuất trong
nước chịu tác động trực tiếp của những biến động trên thị trường hàng hóa
quốc tế. Mặt khác, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu
là gia công lắp ráp, nguyên phụ liệu đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu; Tỷ lệ
doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu thấp, trong khi tỷ lệ nội địa
hóa sản phẩm chậm được cải thiện...
Thứ ba, đối với nhập khẩu, mặc dù việc ký kết FTA với nhiều đối tác
song trong ngắn hạn, nhập khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các
thị trường truyền thống (như Trung Quốc), do mức độ cam kết thuế sâu
cũng như vị trí địa lý thuận lợi sẽ khiến cho vấn đề nhập siêu từ Trung

12
Quốc chưa thể giải quyết dứt điểm. Bên cạnh đó, việc cắt giảm thuế cũng
tạo nhiều áp lực đến hoạt động của doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, có một số vấn đề đặt ra đối với dòng vốn FDI: Đóng góp của
FDI trong việc nâng cao năng lực công nghiệp, còn hạn chế; Mối liên kết
giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu kém; Các
doanh nghiệp FDI chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công lắp ráp, thâm
dụng lao động và ít có khả năng tạo tác động lan tỏa về mặt công nghệ;
Khung pháp lý và chính sách mở cửa FDI, hội nhập kinh tế quốc tế tuy đã
được cải thiện, song vẫn còn nhiều hạn chế trong quản lý, dẫn tới các vấn
đề như ô nhiễm môi trường, chuyển giá, trốn thuế…; Dòng vốn liên thông
hơn với quốc tế cũng khiến cho những nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô gia
tăng trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động cũng đặt
ra những thách thức trong việc xây dựng và thực thi các chính sách kinh tế
vĩ mô.
Thứ năm, tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ thuế xuất nhập khẩu trên
tổng thu ngân sách nhà nước có xu hướng giảm, do thuế suất thuế nhập
khẩu ưu đãi và ưu đãi đặc biệt vào lộ trình cắt giảm sâu.
Thứ sáu, thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa thực sự phát
triển. Mở cửa thị trường theo cam kết đã tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt
trên cả 3 cấp độ gồm: Cạnh tranh giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm
nước ngoài; cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp
nước ngoài và cạnh tranh giữa các chính phủ về thể chế và môi trường kinh
doanh.
Thứ bảy, trình độ đội ngũ cán bộ và năng lực của các cơ quan quản lý
nhà nước cần tiếp tục tăng cường để đáp ứng yêu cầu quản lý, giám sát thị
trường, cải cách thủ tục hành chính, hạn chế gian lận thương mại…
Bên cạnh đó, nhận thức của một bộ phận người dân và doanh nghiệp
về những cơ hội do FTA mang lại còn hạn chế, tạo ra thách thức trong việc
triển khai và nắm bắt cơ hội. Viê ̣c đánh giá tác đô ̣ng và tình hình thực hiê ̣n
FTA tại thời điểm này là thực sự cần thiết với mục đích mang lại cái nhìn
bao quát, xác định được cơ hội – thách thức với doanh nghiệp và nền kinh

13
tế, đồng thời hỗ trợ và giúp cho công tác thực thi trong thời gian tới được
hiê ̣u quả hơn, mang lại lợi ích lớn hơn cho nước ta.
3. Các biện pháp đối phó với thách thức
Để có thể tận dụng được những cơ hội và hạn chế những thách thức
trong thực hiện cam kết của các FTA thế hệ mới, thời gian tới, cần chú
trọng đến một số giải pháp sau:
1.1. Đối với Nhà nước
 Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách gắn với việc thực hiện các cam
kết hội nhập, nhằm nâng cao hiệu quả huy động, sử dụng vốn đầu tư, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh; thay đổi chính sách thu hút FDI theo
hướng chọn lọc các dự án, đối tác phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt
Nam; chú trọng hướng phát triển bền vững để giảm thiểu tác động tiêu cực;
tăng cường công tác kiểm soát các doanh nghiệp FDI, nhất là các doanh
nghiệp thường báo lỗ để tránh các hiện tượng chuyển giá. 
 Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, cần đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả, duy
trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, không gây xáo trộn, ảnh hưởng
đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các nhà đầu tư
mới; kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, bãi bỏ quy định không phù hợp
với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ trong các điều
ước quốc tế song phương, đa phương và khu vực mà Việt Nam là thành
viên.
 Đẩy mạnh cải cách hành chính trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh
vực về đầu tư, xây dựng, đất đai, thuế, hải quan, xuất nhập khẩu phù hợp
với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; giám sát chặt chẽ việc ban hành
và áp dụng các giấy phép, điều kiện kinh doanh.
 Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các cam kết, hiệp định mà Việt
Nam tham gia đến từng ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân để
các đối tượng có liên quan thực hiện hiệu quả các cam kết; Hoàn thiện các
chính sách thương mại cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam và không
xung đột với các cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.

14
1.2. Đối với các hiệp hội
 Tiếp tục triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho doanh
nghiệp về pháp luật kinh doanh, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cũng
như kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện quốc tế, những rào cản thương
mại của các thị trường xuất khẩu; Tổ chức nhiều chương trình xúc tiến
thương mại – đầu tư theo thị trường, ngành hàng và lĩnh vực kinh doanh cụ
thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước.
 Tiếp tục đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan
quản lý, tạo điều kiện kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng
cường phổ biến thông tin hội nhập về pháp luật của các nước, sở hữu trí
tuệ, sở hữu công nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ… cho các
doanh nghiệp hội viên, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu.
1.3. Đối với doanh nghiệp
 Tăng cường liên kết với nhau, tạo những cơ hội đầu tư nhằm tăng sức
mạnh cạnh tranh; chủ động xây dựng năng lực sản xuất, kinh doanh, cải
thiện chất lượng, mẫu mã sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và
xây dựng thương hiệu; tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ,
đầu tư vào các vùng trồng nguyên liệu để giảm thiểu phụ thuộc nguyên phụ
liệu của các nhà cung cấp nước ngoài.
 Đổi mới hoạt động quản trị doanh nghiệp và công nghệ thông tin,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường quảng bá thương hiệu. Cùng với
đó, chủ động xây dựng các chiến lược kinh doanh, phát triển sản xuất để có
thể cạnh tranh với hàng hóa từ các nước trong khu vực ngay cả trong thị
trường nội địa và thị trường xuất khẩu, nghiên cứu đáp ứng các tiêu chí về
quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi về thuế quan. Các doanh nghiệp
cũng cần theo dõi sát sao các thông tin, lộ trình cam kết... từ đó, đưa ra định
hướng đúng, xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý.
 Cần có cơ chế đầu tư nguồn nhân lực sớm, có chính sách đãi ngộ về
vật chất và tinh thần thỏa đáng cho người lao động, đặc biệt là lao động có
tay nghề cao. Đây chính là đầu tư cho nguồn nhân lực để tạo ra lợi thế cạnh
tranh khi hội nhập. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần đổi mới cơ chế quản

15
lý tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh, khuyến
khích người lao động tự động nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của mình.

16
KẾT LUẬN

Thế kỉ 21 đang bước những bước đi đầu tiên. Quá trình hội nhập của
Việt Nam trong thế kỉ 21 – thế kỉ của công nghệ thông tin cũng đang dần
được mở rộng. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thực sự là điều kiện tiên
quyết để Việt Nam có thể phát triển kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “sánh
vai với các cường quốc năm châu “. Bởi Việt Nam không chỉ là đi theo xu
hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời cơ cho đất nước.
Nhìn chung, EVFTA không chỉ là bước đệm cho sự phát triển về kinh
tế và xã hội Việt Nam mà nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc
tương trợ lẫn nhau giữa các quốc gia, tạo điều kiện cho các nước phục hồi
kinh tế nhanh chóng nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid – 19 diễn biến
phức tạp như hiện nay. Về lâu dài, thuận lợi hóa thương mại là một yếu tố
thay đổi cuộc chơi và Việt Nam đang đi đúng hướng để biến những thách
thức do Covid – 19 gây ra thành cơ hội giúp tăng cường những cải cách
liên quan. Việt Nam có thể tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro từ quá
trình này nếu có thể tái định vị vị thế của mình một cách tốt nhất trong thời
gian hậu Covid – 19. Để làm được điều này, Việt Nam cần có những giải
pháp chính sách mạnh mẽ và chủ động hơn, để có thể tận dụng tối đa
nguồn lực khi tham gia vào các hiệp định thương mại tự do lớn như
EVFTA, từ đó xây dựng năng lực sản xuất và xuất khẩu ở cấp cao hơn theo
hướng ưu tiên giá trị gia tăng và công nghệ cao.
Tiểu luận đã làm rõ được những tác động của hiệp định EVFTA lên
nền kinh tế Việt Nam sau khi được ký kết, đã chỉ ra những lợi thế mà Việt
Nam nhận được khi EVFTA có hiệu lực tuy nhiên vẫn còn những bất cập
cần sự chung tay giải quyết của cả Nhà nước và các doanh nghiệp.
Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song
không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và
đánh giá của cô để em rút kinh nghiệm trong những bài luận sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
2. ThS Phạm Xuân Thiên – Đại học Quốc gia Hà Nội, “Mối quan hệ
giữa hợp tác và đấu tranh trong hội nhập kinh tế”, Tạp chí Tài chính
08/05/2014.
3. Chu Văn, “Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày hôm
nay 1/8”, Báo điện tử Thế giới & Việt Nam 01/08/2020.
4. Minh Thư, “Cơ hội và thách thức khi Việt Nam tham gia các FTA”,
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam 12/10/2020.
5. “Việc tham gia các FTA mang lại nhiều tác động tích cực cho nền
kinh tế Việt Nam”, Báo điện tử Bộ Công thương Việt Nam.
6. TS Lê Quang Thuận – Viện Chiến lược và Chính sách tài chính,
“Các hiệp định tư do thương mại thế hệ mới và tác động đối với
kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Tài chính 01/07/2019.
7. Hoài An, “EVFTA – nút tăng tốc cho Việt Nam hậu Covid – 19”,
Diễn đàn The LEADER 10/05/2020.
8. “Báo Nikkei: Sự bứt phá ngoạn mục của Việt Nam trong đại dịch
COVID – 19”, Báo điện tử Vietnamplus 22/01/2021

18

You might also like