You are on page 1of 4

Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế

2.1 Hợp tác kinh tế song phương

Đây là loại hình hội nhập kinh tế phổ biến, tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: hiệp định
kinh tế, thương mại, đầu tư hoặc các thỏa thuận thương mại tự do (FTA), song phương,…Hình
thức này thường được phát triển khi mỗi quốc gia thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.

Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước; có 16 đối tác chiến
lược, 14 đối tác toàn diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương;
gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên thế giới.

Có thể kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam với các đối tác quan trọng
như: Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (2000), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam –
Nhật Bản (VJEPA – 2008),….

2.2 Hội nhập kinh tế khu vực

Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và phát triển cho đến
ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại hình hội nhập kinh tế khu vực có sự thay đổi
theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Xét theo cấp độ, hội nhập kinh tế thường được chia
thành năm cấp độ là:

2.2.1 Khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi (Preferential Trade Arangement – PTA)

Các bên tham gia thỏa thuận hạ thấp một phần hàng rào thương mại hàng hóa cho nhau và duy
trì hàng rào đó với các bên thứ ba không tham gia thỏa thuận.

2.2.2 Khu vực/hiệp định thương mại tự do (Free Trade Area – FTA)

Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất
cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn;
và người ta thường đưa các dòng thuế này vào “danh sách nhạy cảm”. Chỉ một số ít dòng thuế sẽ
không được bãi bỏ và được liệt kê trong “danh sách loại trừ”.

Quy tắc xuất xứ là một phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ
những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại các nước thành
viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh tình trạng nước không tham gia hiệp định sử
dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang
nước còn lại của hiệp định không phải chịu thuế.
Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc đàm phán để thành
lập một hiệp định thương mại tự do rất mất thời gian và qua nhiều vòng thương thảo. Những
nước hăng hái với tự do hóa thương mại có thể thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan
sớm (còn gọi là chương trình thu hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết
thúc và hiệp định được thành lập.

2.2.3 Liên minh thuế quan (Custom Union – CU)

Đây có thể hiểu là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan
thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hóa từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh
thuế quan cho phép tránh được những phức tạp liên quan đến quy tắc xuất xứ, nhưng lại làm nảy
sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên.

Ví dụ: Liên minh hải quan Nam Phi (Southern African Customs Union – SACU); Cộng đồng
Kinh tế châu Âu (European Economic Community – EEC) thành lập năm 1957 – Từ năm 1968
đến trước những năm 80 của thế kỉ XX, EEC là một liên minh hải quan với chính sách thuế quan
đối ngoại chung.

2.2.4 Thị trường chung (Common Market – CM)

Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập cao hơn so với cu. Theo
đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài việc cho phép tự do di chuyển hàng hóa,
còn thoả thuận cho phép tự do di chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với
nhau.

Vi dụ: EU từ năm 1993, đã thiết lập Thị trường chung châu Âu (ECM); Thị trường chung Nam
Mỹ (MERCOSUR) được thành lập năm 1991 gồm: Argentina, Brazil, Uruguay, Paraguay,
Venezuela, Bolivia, Chile, Colombia, Ecuador và Peru.

2.2.5 Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic Union – EU)

Hội nhập kinh tế đến cấp độ này tạo ra một thị trường chung giữa các nền kinh tế (không còn
hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là
Khu vực đồng Euro. Các khu vực được thành lập với mục tiêu trở thành liên minh kinh tế tiền tệ
nhưng chưa hoàn thành được mục tiêu này gồm: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng
Caribbean.

Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung, như Liên minh Tiền tệ
Latin hồi thế kỷ 19, nhưng họ chưa xây dựng được một thị trường chung nên không gọi đó là
liên minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước chấp nhận đồng tiền của nước hay khu vực khác
làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình, nhưng giữa họ không có một thị trường chung, nên
không gọi là liên minh kinh tế – tiền tệ.
Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực thi chính sách tiền tệ
riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của toàn khối do một ngân hàng
trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường hợp của Ngân hàng Trung ương châu Âu.

Khi mà ngay cả chính sách tài chính cũng được thực hiện chung, hội nhập kinh tế đạt đến độ
hoàn toàn.

Theo khái niệm của các nhà kinh tế lớn, quốc tế, các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế có thể
được phân loại theo mức độ sâu rộng và tính chất của sự gắn kết giữa các nền kinh tế. Các hình
thức hội nhập kinh tế quốc tế theo khái niệm này bao gồm:

 Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Hình thức hợp tác thương mại nhằm giảm hoặc
loại bỏ thuế quan đối với một số mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng giữa các quốc gia tham
gia
 Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Hình thức hợp tác thương mại nhằm giảm hoặc loại bỏ
thuế quan đối với tất cả các mặt hàng giữa các quốc gia tham gia
 Liên minh thuế quan (CU): Hình thức hợp tác thương mại nhằm giảm hoặc loại bỏ thuế
quan đối với tất cả các mặt hàng giữa các quốc gia tham gia, đồng thời áp dụng một mức
thuế quan chung đối với các quốc gia không tham gia
 Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Hình thức hợp tác thương mại nhằm
giảm hoặc loại bỏ thuế quan đối với tất cả các mặt hàng giữa các quốc gia tham gia, đồng
thời thống nhất các quy định về sản phẩm, dịch vụ, lao động, vốn và tiền tệ
 Liên minh kinh tế - tiền tệ: Hình thức hợp tác thương mại nhằm giảm hoặc loại bỏ thuế
quan đối với tất cả các mặt hàng giữa các quốc gia tham gia, đồng thời thống nhất các
quy định về sản phẩm, dịch vụ, lao động, vốn và tiền tệ, cũng như sử dụng một đồng tiền
chung

Một số ví dụ về các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế theo khái niệm này là:

 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP): Một FTA giữa 12 quốc gia ở châu
Á - Thái Bình Dương, bao gồm Việt Nam, nhằm tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn
nhất thế giới
 Liên minh châu Âu (EU): Một liên minh kinh tế - tiền tệ giữa 27 quốc gia ở châu Âu,
nhằm tạo ra một thị trường chung và một đồng tiền chung là euro
 Hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA): Một FTA giữa 10 quốc gia thành viên
của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nhằm tạo ra một khu vực thương mại
tự do và tăng cường hợp tác kinh tế khu vực

Vấn đề về các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ đề rộng lớn và phức tạp, liên quan
đến nhiều khía cạnh của kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Một số vấn đề mở rộng có thể được
nêu ra như sau:

 Lợi ích và rủi ro của hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều
lợi ích cho các quốc gia tham gia, như tăng trưởng kinh tế, mở rộng thị trường, thu hút
đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng cuộc sống, hợp tác và hòa
bình. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều rủi ro và thách thức, như mất
cân bằng kinh tế, mất chủ quyền, mất bản sắc văn hóa, tác động tiêu cực đến môi trường,
an ninh và xã hội
 Điều kiện và yếu tố ảnh hưởng đến hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế
không phải là một quá trình tự nhiên mà là một quá trình có chủ đích và có chiến lược.
Để hội nhập kinh tế quốc tế thành công, các quốc gia cần có những điều kiện và yếu tố
thuận lợi, như động lực và ý chí chính trị, nền kinh tế mở và cạnh tranh, hệ thống pháp
luật và quản lý hiệu quả, năng lực nhân lực và khoa học công nghệ, sự tham gia và đồng
thuận của xã hội
 Các mô hình và kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế có
nhiều mô hình và kinh nghiệm khác nhau, tùy thuộc vào mức độ, phạm vi, lĩnh vực và
đối tượng của hội nhập. Một số mô hình và kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế tiêu
biểu có thể kể đến như: Liên minh châu Âu (EU), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại tự
do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam -
Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam - Chile (VCFTA), Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEUFTA)
 Quá trình và kết quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Việt Nam là một quốc
gia tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đã tham gia nhiều hiệp định và tổ chức
kinh tế quốc tế, đặc biệt là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm
2007. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã đem lại nhiều kết quả tích cực,
như tăng trưởng kinh tế cao, cải thiện cân đối thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài,
nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng cuộc sống, hợp tác và hòa bình. Tuy
nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, như mất cân
bằng kinh tế, mất chủ quyền, mất bản sắc văn hóa, tác động tiêu cực đến môi trường, an
ninh và xã hội

You might also like