Professional Documents
Culture Documents
VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT NGÂM KHÚC NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX
VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT NGÂM KHÚC NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX
2015-0006
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 3, pp. 33-38
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
VÀI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT NGÂM KHÚC NỬA CUỐI THẾ KỈ XIX
Tóm tắt. Ngâm khúc là một trong những thể loại độc đáo, đạt nhiều thành tựu rực rỡ trong
văn học Việt Nam. Cùng với truyện Nôm và các thể loại văn học khác, ngâm khúc biểu
hiện sâu sắc tư tưởng và tình cảm của người Việt Nam. Bài viết đi sâu tìm hiểu hai phương
thức nghệ thuật cơ bản của khúc ngâm song thất lục bát thế kỉ XIX, qua đó chúng ta có cái
nhìn khái quát hơn về quá trình vận động của thể loại ngâm khúc.
Từ khóa: Ngâm khúc, khúc ngâm song thất lục bát.
1. Mở đầu
Ngâm khúc là một trong những thể loại độc đáo, đạt nhiều thành tựu rực rỡ trong văn học
Việt Nam [2, 4]. Cùng với truyện Nôm và các thể loại văn học khác, ngâm khúc biểu hiện sâu sắc
tư tưởng và tình cảm của người Việt Nam. Vì vậy, khúc ngâm song thất lục bát trở thành mảnh đất
màu mỡ cho các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, ngâm khúc thế kỉ XVIII đã được nghiên cứu nhiều
[3, 7], còn khúc ngâm song thất lục bát thế kỉ XIX, đặc biệt là những ngâm khúc ra đời vào cuối
thế kỉ XIX hầu như chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm tới. Do đó, bài viết chủ yếu đi sâu tìm
hiểu những thay đổi về hai phương diện nghệ thuật cơ bản của ngâm khúc: kết cấu và nghệ thuật
tự tình trong khúc ngâm song thất lục bát nửa cuối thế kỉ XIX.
33
Đào Thị Thu Thủy
Nhóm thứ hai gồm Bần nữ than (khuyết danh), Quả phụ ngâm (khuyết danh), viết về người
phụ nữ, tiếp tục văn mạch của các khúc ngâm giai đoạn trước. Tác giả nhập vai nhân vật trữ tình
cất lời than cho người quả phụ, người thôn nữ nghèo chịu cảnh lầm lỡ tình duyên. Với các khúc
ngâm này, ngâm khúc bắt đầu phản ánh số phận đau khổ của những người phụ nữ bình dân. Ngôn
ngữ thơ có những đoạn không được trau chuốt như những khúc ngâm xuất hiện trước.
Từ thế kỉ XVIII qua thế kỉ XIX, nhân vật trữ tình trong các khúc ngâm chủ yếu là nữ (5/8).
Ta dễ dàng nhận thấy, khúc ngâm chuyển đối tượng phản ánh theo hai hướng: hoặc từ nhân vật do
nhà văn sáng tạo, hư cấu sang nhân vật trữ tình có hình mẫu là tâm sự của chính tác giả trong cảnh
ngộ bi thương mà họ không may phải gánh chịu; hoặc từ nhân vật thuộc tầng lớp quý tộc đến nhân
vật thuộc tầng lớp bình dân. Khúc ngâm thế kỉ XX sẽ tiếp tục xuất hiện theo xu hướng đó. Sự thay
đổi này dẫn theo sự thay đổi ít nhiều về nghệ thuật, nghệ thuật tự tình, ngôn ngữ...
34
Vài nét về nghệ thuật ngâm khúc nửa cuối thế kỉ XIX
Bần nữ thán có kết cấu gần với Cung oán ngâm khúc. Người bần nữ có sắc, tài nhưng vì
nghèo mà mất đi hạnh phúc, nàng buồn rầu than, thở, oán hận cuộc đời. Ta có thể chia Bần nữ
thán ra từng đoạn nhỏ với các nội dung kế tiếp: cất tiếng than, tự xét mình, mong được thế này thế
khác, có ngờ đâu duyên phận lỡ làng, trách trời, trách nguỵêt lão, trách chị Hằng, trách người đời,
tức tối, tìm nguyên nhân xét chỉ vì nghèo, nỗi buồn rầu, tự an ủi, hi vọng, xét thấy còn nhiều hi
vọng, và đợi chờ. Tác giả diễn tả tâm trạng buồn tủi, than thân trách phận của người thiếu nữ. Kết
cấu đó phản ánh được tâm trạng con người trên một bình diện sâu rộng, chứ không phải chỉ trong
một khoảnh khắc như một bài thơ trữ tình. Kết cấu đó tương ứng với một số đoạn trong Cung oán
ngâm khúc.
Kết quả so sánh trên cho thấy tác giả Bần nữ thán đã khéo léo vận dụng mô hình Cung oán
ngâm khúc để phô diễn thế giới tâm trạng đầy phức tạp của người thiếu nữ xinh đẹp, có tài nhưng
lận đận tình duyên vì một nỗi nghèo. Nhà thơ bỏ đi đoạn kể người cung nữ hạnh phúc bên vua,
thay bằng những lời tự an ủi mình. Đoạn nói lên hy vọng, Cung oán ngâm khúc chỉ có bốn dòng
thì Bần nữ thán có tới 51 dòng, phân tích tình hình để nêu hi vọng, cho thấy mong ước của người
thiếu nữ có cơ sở hơn.
Kết cấu Bần nữ thán chưa chặt chẽ, làm diễn biến tác phẩm thiếu tự nhiên. Thanh Lãng phê
bình hình tượng người bần nữ “theo gót nàng ta nhận thấy nàng có nhiều điệu bộ ngượng ngập,
tố cáo nàng là một nhà nho cải trang” [dẫn lại 3;126], vì vậy, diễn biến tác phẩm thiếu tự nhiên.
Nhược điểm này giống như Cung oán ngâm khúc, nhà văn muốn gửi gắm tâm sự qua hình tượng
nhân vật nhưng có lẽ, do quá “sốt sắng” thể hiện mình, đồng thời, tổ chức kết cấu tổng thể cũng
như kết cấu hình tượng nhân vật chưa tốt nên hình tượng nhân vật chưa thật thống nhất. Người bần
nữ có nhiều nét giống nhà nho cải trang (như đã nói phần trên). Đoạn cuối cùng, trong hi vọng,
nhân vật trữ tình có những ý tưởng lạc quan quá, giống cách suy luận của nhà nho:
Năm khi thiếu, có khi thừa,
Ngày thì khi sớm khi trưa khác nào.
Có đâu lại gieo đào trả lí,
Có đâu nên nhắn cá gửi chim.
Miễn cho chí ở cho bền,
Chẳng lo phận khó, chẳng phiền muộn duyên.
Những suy luận dài dòng, sôi nổi ấy hợp với lí luận nhà nho hơn là lời của một cô gái.
Kết cấu tác phẩm tương đối dễ dãi, làm giảm giá trị tác phẩm. Bần nữ thán học mô hình
kết cấu trông bốn bề trong Chinh phụ ngâm. Tác giả miêu tả thành công nỗi sầu muộn nhức nhối,
chồng chất của người thiếu nữ qua cảnh:
Trông non tây đá xiên lỗ chỗ,
Trông bể đông sóng vỗ mênh mông,
Lại càng như nấu như nung,
Như hun, như đốt, càng nồng, càng mê.
35
Đào Thị Thu Thủy
Nếu người chinh phụ mượn hoa, rượu, đàn để quên đi muộn phiền nhưng không thể xoá
nhoà nỗi buồn, dù trong khoảnh khắc, thì người bần nữ cũng vậy. Nàng còn mượn đến cả cờ, thơ
để mong khuây khoả nhưng cũng như chinh phụ, nàng không sao quên nổi muộn phiền. Nhưng
hành động chơi cờ lại “tố cáo” nàng là đàn ông cải trang. Một người con gái đau khổ không thể
nghĩ đến chơi cờ. Học tập người đi trước, có thay đổi, nhưng người đi sau vận dụng vụng về hơn.
Và cách diễn đạt cũng kém hơn.
Kết cấu trùng điệp từ Chinh phụ ngâm đến Bần nữ thán vẫn tiếp tục phát huy tác dụng. Ví
như đoạn từ dòng 119 - 123 với 125 - 129; 129- 136; 137- 144; 145- 152... tất cả nhằm phô diễn
những sắc thái buồn sầu vô hạn của nhân vật trữ tình.
36
Vài nét về nghệ thuật ngâm khúc nửa cuối thế kỉ XIX
3. Kết luận
Cùng với những đổi thay khác về hình tượng nhân vật trữ tình, ngôn ngữ... khúc ngâm cuối
thế kỉ XIX đó có những biểu hiện "rập khuôn" của thể loại, cho thấy sự "khủng hoảng" bước đầu
của thể loại này. Những sáng tạo mới chưa lấp đầy chỗ trống cho lối mòn biểu hiện của thể loại.
Số tác phẩm không nhiều cùng với hướng sáng tác "rập khuôn" đó bắt đầu báo hiệu sự "suy yếu"
của thể loại văn học độc đáo của dân tộc. Mặc dù vậy, những khúc ngâm cuối thế kỉ XIX đó làm
phong phú thêm thể loại ngâm khúc, đồng thời “dự báo” thể loại này không còn chiếm vị thế quan
trọng trên văn đàn, nó có thể bị thay thế bởi những thể loại văn học khác, phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử mới của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2002. Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
[2] Dương Quảng Hàm, 1968. Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu Sài Gòn.
37
Đào Thị Thu Thủy
[3] Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận, 1999. Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[4] Đặng Thai Mai, 1992. Giảng văn Chinh phụ ngâm. Nxb Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, Khoa Ngữ Văn, Hà Nội.
[5] Nhiều tác giả, 2002. Lí luận văn học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[6] Nhiều tác giả, 1983. Từ điển văn học, Tập 1. Nxb Khoa học Xã hội.
[7] Trần Đình Sử, 1999. Mấy vấn đề thi pháp Văn học Trung đại Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
ABSTRACT
The art of "Double Seven-Six-Eight” poems of the 19th century
Ngam Khuc is one unique genre of poetry, which has gained great achievements in
Vietnamese literature. Along with Nom poetry and other literatary genres, Ngam Khuc has
expressed deep thoughts and feelings of Vietnamese people. This article provides insights into
the art of "Double Seven-Six-Eight” poems of the 19th century. This also provides us with a better
overview of the development of this poetry type.
Ngâm khúc là một trong những thể loại độc đáo, đạt nhiều thành tựu rực rỡ trong văn học
Việt Nam. Cùng với truyện Nôm và các thể loại văn học khác, ngâm khúc biểu hiện sâu sắc tư
tưởng và tình cảm của người Việt Nam. Bài viết đi sâu tìm hiểu hai phương thức nghệ thuật cơ bản
của khúc ngâm song thất lục bát thế kỉ XIX, qua đó chúng ta có cái nhìn khái quát hơn về quá trình
vận động của thể loại ngâm khúc.
Keyword: Ngam Khuc, "Double Seven-Six-Eight” poems.
38