You are on page 1of 148

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


********

PHẠM VĂN DŨNG

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU


SAU 1975
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM


MÃ SỐ : 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS -TS PHẠM THÀNH HƯNG

Hà Nội - 2010
MỤC LỤC

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.Lí do chọn đề tài 1
2.Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 9
4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu 10
5. Cấu trúc luận văn 11
PHẦN NỘI DUNG 12
Chương I 12
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU

1.Nguyễn Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn 12
văn học mới
1.1.Nguyễn Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền 12
tuyến
1.2. Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới 14
chung của văn học và thời đại
1.2.1. Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 14
1975
1.2.2. Khát vọng đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu 16
1.3. Sáng tác Nguyễn Minh Châu thời kỳ chống Mĩ 18
1.4. Những đột phá quả cảm trên con đường đổi mới tư duy nghệ 18
thuật
1.4.1. Những quan niệm mới về con người 18
1.4.2. Từ ý thức về con người cộng đồng tới ý thức về con người cá nhân 22
thế sự
1.4.3. Con người chủ thể lịch sử hay nạn nhân của lịch sử cùng với 25
những khát vọng sống và mưu cầu hạnh phúc

Chương II 34
NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG
2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 34
2.1.1.Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 34
2.1.1.1. Kết cấu sự kiện 34
2.1.1.2. Kết cấu tâm lý 35
2.1.1.3. Truyện không có cốt truyện 37
2.1.1.4. Phối hợp nhiều kiểu kết cấu cốt truyện 39
2.1.2 Tổ chức sự kiện 41
2.1.2.1.Tổ chức một sự kiện duy nhất 41
2.1.2.2. Tổ chức mối tương quan giữa các sự kiện 42
2.1.2.3. Cách sắp xếp các thành phần cốt truyện 49
2.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống 53
2.2.1. Tình huống nghịch lý 54
2.2.2. Tình huống tâm lý 54
2.2.3. Tình huống ngẫu nhiên 57
2.3. Quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh 58
2.3.1. Hệ thống nhân vật xây dựng trong quan hệ đối chiếu tương 59
phản
2.3.2. Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ bổ sung 65
2.3.3. Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với nghịch 69

2.3.3.1. Định nghĩa về nghịch lí 69
2.3.3.2.Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với những 70
nghịch lí trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
2.3.4. Hệ thống nhân vật xây dựng trong mối quan hệ với biểu tượng 83
2.3.4.1. Số phận nhân vật phản chiếu qua biểu tượng 85
2.3.4.2. Nội tâm và góc khuất tâm linh nhân vật biểu đạt qua biểu tượng 87
Chương III 91
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KHÔNG GIAN - THỜI GIAN VÀ LỰA CHỌN GIỌNG
ĐIỆU TRẦN THUẬT
3.1. Tổ chức không gian nghệ thuật 91
3.1.1 Tổ chức không gian trong sự đối lập 92
3.1.2. Tổ chức không gian tư tưởng, không gian tâm lý, không gian 97
văn hoá thẫm mỹ
3.1.3. Tổ chức không gian đời thường mang ý nghĩa nhân sinh 101
3.1.4. Tổ chức không gian với nhiều hình thức biểu tượng 102
3.2. Tổ chức thời gian nghệ thuật 105
3.2.1. Tổ chức theo trình tự thời gian 106
3.2.1.1.Thời gian theo trật tự tuyến tính 106
3.2.1.2. Đảo trật tự thời gian 108
3.2.2. Tổ chức các lớp thời gian 110
3.2.2.1. Tổ chức thời gian đồng hiện 110
3.2.2.2.Tổ chức các mối liên kết thời gian 112
3.2.3 Tổ chức thời gian ảo, thời gian viễn tưởng 115
3.2.4 Mở rộng thời gian nghệ thuật 117
3.3.Giọng điệu trần thuật 118
3.3.1.1.Các hình thức trần thuật 118
3.3.1.1.1. Trần thuật từ ngôi thứ ba 118
3.3.1.1.2.Trần thuật từ ngôi thứ nhất 120
3.3.1.2. Cách tổ chức điểm nhìn trần thuật 123
3.3.1.2.1. Sử dụng một điểm nhìn trần thuật 123
3.3.1.2.2. Phối hợp các điểm nhìn 126
3.3.2 Tổ chức giọng điệu trần thuật 131
PHẦN KẾT LUẬN 138

1.Nghệ thật tổ chức hình tuợng có nhiều đặc sắc, cách tân 138
2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và những cách tân so với truyền 139
thống
3. Nghệ thuật trần thuật có bước vận động mới với những cách tân 140
cụ thể
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Đã hai mươi mốt năm nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta,
vĩnh biệt cuộc đời mà ông nặng lòng yêu quý. Nhưng một đời người - một đời
văn khắc khoải “ Một niềm tin pha lẫn lo âu ” đối với con người của ông chắc
sẽ còn để lại những dấu ấn khó phai nhạt trong lòng những người yêu văn
chương. Sáng tác của ông đã được ghi nhận như một dấu son chói sáng trên
con đường đổi mới và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại.
Trước năm 1975 Nguyễn Minh Châu được biết đến và yêu mến qua
những trang viết về một hiện thực kháng chiến hào hùng, mang đậm chất sử
thi. Tác phẩm của ông được xem như những bước tượng đài ngôn từ tráng lệ
về sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Trong các tác phẩm của ông, ý thức cộng đồng bao trùm tất cả, tình yêu Tổ
quốc là hệ quy chiếu duy nhất và cao cả để định giá mọi quan hệ từ gia đình
cho đến xã hội, mọi tình cảm từ riêng chung của con người. Trong hoàn cảnh
chiến tranh lúc này rất cần sự đồng lòng, đồng chí cao độ. Điều đó như một
tất yếu lịch sử. Hoà mình vào dòng chảy mãnh liệt của lịch sử thời đại chống
Mĩ, những trang viết của Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành sứ mệnh văn
chương của mình.
Đất nước thống nhất giang sơn thu về một mối, kết thúc cuộc đấu tranh
giành quyền sống của dân tộc chúng ta bước vào một cuộc đấu tranh cho
quyền sống của mỗi con người. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời thường
tưởng như giản đơn ấy, bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho con người nói
chung, mỗi nhà văn như Nguyễn Minh Châu nói riêng những trăn trở và buộc
họ phải tự đổi mới mình cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Văn học sử thi
dần dần bộc lộ những sơ lược, công thức, khó đáp ứng được với cuộc sống
mới với bao phức tạp, bức xúc bôn bề. Với sự trăn trở của một ngòi bút có
lương tâm và trách nhiệm Nguyễn Minh Châu đã âm thầm lặng lẽ tìm hướng
đi, tự đổi mới chính mình, với những truyện ngắn mang tính luận đề, và sau

1
đó là một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư - thế sự, khám phá con người và
hiện thực ở nhiều chiều đa dạng phong phú, với những đổi mới và cách tân
nghệ thuật. Không nằm ngoài những khai phá khác, những đổi mới ấy không
lập tức được chấp nhận và ghi nhận, đôi lúc trở thành những tranh luận mang
tính diễn đàn. Hàng loạt những bài phê bình xuất hiện, khen có, chê có về
truyện ngắn của ông, thậm chí báo Văn nghệ đã phải tổ chức cả một cuộc hội
thảo để lật các mặt của vấn đề nhằm tìm ra chân lí. Qua nghiên cứu, đánh giá
ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau của các nhà nghiên cứu, phê bình, bạn
đọc… đặc biệt qua sức sống mãnh liệt của những truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu trong thời gian cho đến nay ta vẫn thấy rõ giá trị và vị trí mở đường "
tinh anh và tài năng " ( Nguyên Ngọc ) đã được khẳng định chắc chắn. Đó là
những thành tựu không chỉ của nhà văn mà còn là của cả nền văn học hiện đại
Việt Nam trong chặng đường đổi mới văn học. Đánh giá về các tác phẩm của
mình Nguyễn Minh Châu đã từng nhận: " Mình viết văn suốt đời tràng giang
đại hải, có khi chỉ còn lại vài cái truyện ngắn ".
Với hi vọng nhỏ nhoi muốn góp một phần vào sự hoàn thiện trong
nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và sự nghiệp văn học của
ông nói chung, tôi quyết định chọn đề tài " Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp " để nghiên cứu. Đồng thời
qua đó, tôi mong muốn được góp phần tìm hiểu sự vận động của quá trình văn
học trong giai đoạn thời kì đổi mới, tìm hiểu thêm một số vấn đề về nghệ
thuật truyện ngắn nhìn từ góc độ thi pháp học, một vấn đề đang được xem là
trung tâm của tự sự học hiện đại. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng luận
văn của mình có ý nghĩa giúp mình mở rộng kiến văn, từ đó sẽ giảng dạy có
hiệu quả hơn, đáp ứng được một cách tốt hơn những yêu cầu giáo dục trong
thời kỳ mới.

2.Lịch sử vấn đề

2
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đã để lại nhiều dấu ấn đặc sắc trong
lịch sử văn học nước nhà. Cho đến nay đã có hàng trăm bài viết , hàng chục
công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập đến nhiều khía cạnh về cuộc đời và sự
nghiệp của nhà văn. Theo thư mục tài liệu nghiên cứu tác giả, tác phẩm
Nguyễn Minh Châu do TS Nguyễn Trọng Hoàng và Nguyễn Đức Khuông
biên soạn năm 2002, số lượng bài viết về Nguyễn Minh Châu đã lên đến con
số 150. Đó là chưa kể đến các luận án Tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về Nguyễn
Minh Châu của các nghiên cứu sinh, học viên cao học qua nhiều thế hệ. Các
bài viết ấy đã được tập hợp , tuyển chọn và giới thiệu trong các cuốn Kỷ yếu
hội thảo 5 năm ngay mất Nguyễn Minh châu - Hội văn nghệ Nghệ An ,1995;
Nguyễn Minh Châu - con người và tác phẩm [ 3 ]; Nguyễn Minh Châu - về
tác giả và tác phẩm [ 21 ].
Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn nhất là những
truyện viết sau năm 1975 - là mảng sáng tác thu hút được sự chú ý đặc biệt và
gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu phê bình và đông đảo công chúng,
mà một trong những lý do là bởi sự cách tân nghệ thuật của nó. Cuộc " Trao
đổi về những truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu " [42 ]
đã chứng tỏ sức thu hút rộng rãi ấy. Tuy gây ra nhiều ý kiến trái chiều , song
qua thời gian những tìm tòi mở đường của Nguyễn Minh Châu nhanh chóng
được khẳng định. Truyện ngắn của ông dần dà được mặc nhiên thừa nhận ,
ngày càng có vị trí vững vàng trong công chúng văn học, trở thành đối tượng
cho những sự phân tích kỹ lưỡng , thấu đáo và khoa học. Cùng với sự ra đời
của các tập truyện "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê"... đặc
biệt là tập truyện cuối " Cỏ Lau" là sự xuất hiện của hàng loạt bài viết phân
tích thành công cũng như hạn chế của Nguyễn Minh Châu trong các tập
truyện đó mà chủ yếu là đánh giá cao những thành tựu thể hiện sự vận động
đổi mới trong tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người , phương
thức thể hiện ... Có thể kể đến một số bài viết nổi bật của Lại Nguyên Ân [
3,201-208 ], Ngô Thảo [ 51 ], Huỳnh Như Phương [ 3,164 -170 ],Trần Đình

3
Sử [ 46 ], Hoàng Ngọc Hiến [ 17 ], Đỗ Đức Hiểu [ 18 ], Lã Nguyên Tùng [ 37
], Nguyễn Văn Hạnh [ 14 ], Chu Văn Sơn [45], Lê Văn Tùng [ 57 ]...
Về nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy chưa có một công
trình nào nghiên cứu xem xét một cách toàn diện , trực tiếp đặc điểm truyện
ngắn nhìn từ góc độ thi pháp, song về các yếu tố liên quan đến nghệ thuật
truyện ngắn hoặc là những phương diện của nghệ thuật truyện ngắn như nhân
vật, cốt truyện , tình huống, nghệ thuật trần thuật ... thì đã có một số bài viết
và công trình đề cập đến.
Xem xét nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Ngô Thảo có
cùng quan điểm với Nguyễn Thị Minh Thái sau này , cho rằng nhân vật gây
được chú ý hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là nhân vật nữ,
những người phụ nữ đi qua chiến tranh. Tác giả đánh giá " Nguyễn Minh
Châu đã bộc lộ thế mạnh của một cây bút có khả năng phân tích và thể hiện
được những biến động tâm lý khá phức tạp của một con người không đơn
giản" [ 51 ].
Phạm Vĩnh Cư lại tìm thấy trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
những nhân vật tiểu thuyết đích thực ( Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát): Một
con người nhiều chiều, một tính cách vừa mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá
biệt vừa tiêu biểu, vừa là quá khứ của lịch sử tối tămvừa toả ánh sáng của
nhân tính vĩnh hằng của những giá trị đạo đức muôn đời [ 11 ]
Nguyễn Tri Nguyên nêu lên một kiểu nhân vật mới xuất hiện trong
nhiều sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu: Kiểu nhân vật hướng nội [
38].
Trong một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về Nguyễn Minh Châu,
Tôn Phương Lan đã phân loại nhân vật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu
thành hai loại nhân vật đặc trưng nhất thể hiện được phong cách nghệ thuật
của nhà văn: nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận. Tác giả đã
nhận xét: " Nếu trước những năm 80 , Nguyễn Minh Châu chủ yếu chỉ xây
dựng dạng nhân vật loại hình thì càng về sau , ngòi bút của ông đã vươn tới

4
sự khắc hoạ nên các dạng nhân vật tư tưởng , nhân vật tính cách - những
nhân vật có số phận riêng so với cộng đồng ". Đây là những nhân vật " được
xây dựng theo một quan niệm nghệ thuật nhằm tạo ra khả năng thể hiện đời
sống với chiều sâu nhất định, vừa mang thông điệp của tác giả , lại vừa tồn
tại một cách khách quan như những "Con - người - này"; và hệ thống những
nhân vật đó "đa dạng , đông đảo " trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Tôn Phương Lan cũng rút ra những thủ pháp trong xây dựng nhân vật của nhà
văn: miêu tả tâm lý, sử dụng đọc thoại nội tâm cùng yếu tố ngoại hình và tên
gọi. Theo tác giả, quá trình tái hiện " Con người trong con người " đó là quá
trình đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và " một trong những
phương diện đặc sắc thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu
chính là nhân vật " [ 30 ]
Cũng nhận diện về các kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn sau năm
1975 của Nguyễn Minh Châu, Trịnh Thu Tuyết phân chia thành các loại nhân
vật: nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách , nhân vật thế sự, nhân vật số phận [
58]. Đồng thời tác giả chỉ ra qúa trình vận động và đổi mới thế giới nhân vật
của Nguyễn Minh Châu từ các nhân vật lí tưởng đến những nhân vật đa chức
năng phản ánh cuộc sống đời tư, thế sự như đã kể trên. Trịnh Thu Tuyết cũng
đã khẳng định những đóng góp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong xây
dựng nhân vật thể hiện qua các biện pháp dùng độc thoại nội tâm, chi tiết
miêu tả tâm lý xác thực, miêu tả ngoại hình sinh động [ 59 ]...
Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu đi vào
tìm hiểu các kiểu loại nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, song
chưa xem xét nghệ thuật tổ chức nhân vật trong các mối quan hệ cụ thể để
kết cấu nên hình tượng nhân vật trong các tác phẩm của ông nói chung và
trong truyện ngắn nói riêng .
Về cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu , Trịnh Thu Tuyết
đã nhận diện và phân tích khá rõ ba kiểu cốt truyện trong truyện ngắn sau
1975 của nhà văn: Cốt truyện luận đề, cốt truyện sinh hoạt - thế sự, cốt truyện

5
đời tư. Qua đó tác giả đã chỉ ra sự vận động đổi mới trong phương diện kết
cấu tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là sự vận động từ những cốt truyện có
hành động bên ngoài chiếm ưu thế đến những cốt truyện chủ yếu dựa vào sự
vận đông tâm lý, cảm xúc bên trong. Từ đó Trịnh Thu Tuyết đã đi đến kết
luận : " Các sáng tác sau năm 1975 cuả Nguyễn Minh Châu đều thuộc kiểu
cốt truyện không biến cố, không có những xung đột khép kín dựa vào diễn
biến sự kiện . Cốt truyện được nới lỏng, chủ yếu dựa trên những xung đột tâm
lý chồng chéo không mở đầu, không có cao trào, cũng không kết thúc , tựa
dòng chảy " Tự nhiên, nhi nhiên " của cuộc sống vốn luôn tồn tại cùng những
mâu thuẫn, những xung đột vĩnh cửu"[59,140]. Trịnh Thu Tuyết cũng khẳng
định tuy đó không phải là kiểu cốt truyện mới mẻ trong lịch sử văn học nhân
loại, song những đóng góp của Nguyến Minh Châu trong đổi mới cốt truyện (
mở rộng khả năng phản ánh hiện thực, làm giảm bớt tính loại biệt ước lệ và sự
giản cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực đời sống ) đã góp phần đưa
văn học về gần hơn với cuộc đời, con người [ 59]. Bên cạnh những
công trình nghiên cứu của Trịnh Thu tuyết, còn có một số ý kiến rãi rác đề
cập đến cốt truyện trong các bài viết về Nguyễn Minh Châu của các nhà
nghiên cứu phê bình khác. Chẳng hạn như Ngọc Trai có nhận xét khái quát: "
Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề -
những luận đề về đạo đức nhân văn, về tâm lý xã hội " [ 55 ].
Công trình nghiên cứu của Trịnh Thu Tuyết và một số ý kiến về cốt
truyện nói trên chủ yếu đã nhận diện, phân chia các kiểu cốt truyện trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu dựa trên những đặc trưng nội dung , đề tài
của nó, song chưa đi vào cách tổ chức sự kiện , các thành phần cốt truyện theo
quan điểm nghệ thuật kết cấu. Cùng với nhân vật, cốt truyện, tình huống trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng là một phương diện nghệ thuật được
nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm và phân tích, đánh giá.
Bùi Việt Thắng, trên quan điểm loại hình, đã nêu lên ba dạng tình
huống cơ bản trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: tình huống - tương

6
phản; tình huống - thắt nút; tình huống - luận đề, từ đó rút ra bài học nghệ
thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu: mối quan hệ đời sống - tình huống
truyện là mối quan hệ biện chứng [58].
Trịnh Thu Tuyết đã nhận xét về tình huống trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu: trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra những tình huống
thử thách bên ngoài để các nhân vật của ông có điều kiện phát huy những sức
mạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn vốn có của họ…Từ sau năm 1975, nhà văn chủ yếu
tạo ra những tình huống tâm lý nhằm đưa nhân vật vào những cuộc đấu tranh
nội tâm, những vận động tâm lý với những day dứt, sám hối hay chiêm
nghiệm, nếm trải … Tác giả đã phân tích những dạng tình huống trong truyện
ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu (tình huống tự nhận thức, tình
huống nghịch lý, tình huống bi kịch ) để làm rõ cho nhận thức trên [58].
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Tôn
Phương Lan đã nêu rõ quan điểm coi việc tìm ra những dạng tình huống phổ
biến trong sáng tác của ông là một thao tác để tìm hiểu sự “độc đáo , lặp lại và
phát triển" trong quá trình tiếp cận đời sống hiện thực con người [30, 122].
Với quan điểm ấy, tác giả đi vào phân tích ba dạng tình huống trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu (tình huống nhận thức, tình huống tương phản và tình
huống thắt nút); từ đó đi đến nhận xét: Sự tìm tòi của Nguyễn Minh Châu
trong xây dựng tình huống diễn ra trên cả bề rộng lẫn bề sâu; đó cũng là một
trong những phương diện thể hiện bản sắc riêng của Nguyễn Minh Châu [30].
Ngoài nhân vật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được xem xét ở nhiều yếu tố: điểm
nhìn, giọng điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ trần thuật, Trịnh Thu Tuyết [58], Tôn
Phương Lan [30] có sự phát hiện thống nhất về điểm nhìn trần thuật trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu: trần thuật từ ngôi thứ ba (Trần thuật “biết
hết”, trần thuật khách thể) và trần thuật từ ngôi thứ nhất. Trịnh Thu Tuyết có
nhận xét chung : “trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975,
tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật hay nói khác đi là điểm

7
nhìn trần thuật được tác giả chọn lựa và xác định rất tinh tế, phù hợp với mỗi
kiểu loại nhân vật và thể tài để mỗi hình thức trần thuật có thể phát huy cao
nhất tác dụng nghệ thuật của nó.” [58,41].
Về giọng điệu trần thuật theo Tôn Phương Lan, giọng chủ âm trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu là giọng thâm trầm, trước 1980, giọng chủ
âm này lẫn vào giọng trữ tình quen thuộc, còn sau 1980, nó được thể hiện
dưới nhiều sắc thái cụ thể, với những mức độ khác nhau. Đặc biệt vào thời kỳ
đầu những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có xu hướng đi vào
triết lý, xu hướng này chi phối giọng điệu của truyện khá rõ [30].Từ góc độ
nghệ thuật truyện ngắn, Trịnh Thu Tuyết đã nhận định: “ Đổi mới quan niệm
nghệ thuật về con người, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
có sự thay đổi rõ nét trong giọng điệu trần thuật, tính chất độc thoại tôn kính
của sử thi đã được thay bằng tính chất bình đẳng, đa thanh hết sức mới
mẻ.”[58,47]. Tác giả đã phân tích tính chất này trong sáng tác của nhà văn
qua hai thời kỳ trước và sau năm 1975. Sau này, Trịnh Thu Tuyết đã tổng hợp
đầy đủ hơn quá trình vận động và đổi mới trong giọng điệu trần thuật của
Nguyễn Minh Châu: Từ giọng điệu trần thuật tôn kính đậm chất sử thi, đến
giọng điệu trần thuật suồng xã đậm chất đời thường; từ tính đơn giọng độc
thoại đến tính chất phức điệu, đa thanh [59].
Ngoài điểm nhìn, giọng điệu trần thuật, Tôn Phương Lan, Trịnh Thu
Tuyết còn đi vào phân tích ngôn ngữ, nhịp điệu trần thuật trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu.Tôn Phương Lan giới hạn việc xem xét giới hạn ngôn
ngữ trong phạm vi hẹp: cách sử dụng ngôn từ của ông trong việc miêu tả,
trong khả năng đưa ngôn ngữ văn chương gần gũi với ngôn ngữ của đời sống
tạo nên tính biểu cảm, biểu trưng nhằm nâng cấp nghệ thuật cho ngôn ngữ
trong tác phẩm của mình. Tôn Phương Lan cho rằng ngôn ngữ trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu là thứ ngôn ngữ “ được tinh lọc “[30]. Còn Trịnh Thu
Tuyết chỉ ra và phân tích nhịp điệu trần thuật phù hợp với mỗi loại thể tài,
nhân vật của Nguyễn Minh Châu, khẳng định hiệu quả nghệ thuật của nó là

8
“tác động vào thế giới nội tâm của người đọc, buộc người đọc không chỉ “
chứng kiến “ (câu chuyện sảy ra) mà phải “can thiệp” bằng cách tìm hiểu
suy ngẫm những vấn đề đặt ra trong tác phẩm…để cùng tác giả khám phá
những bề sâu bí ẩn của cuộc sống, con người”[58,46].
Nhìn chung các bài viết và công trình nghiên cứu kể trên đã xem xét
nhiều phương diện nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở nhiều
góc độ, bình diện khác nhau, và dù là phác thảo khái quát hay phân tích cụ thể
ít nhiều đều đề cập đến những khía cạnh, những yếu tố hoặc phương diện nào
đó của nghệ thuật truyện ngắn. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này một cách toàn
diện, trực tiếp, hệ thống theo quan điểm nghệ thuật là toàn bộ tổ chức nghệ
thuật của tác phẩm thì thật sự chưa có một chuyên luận nào đi sâu nghiên cứu
nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Ở luận văn này, tôi cố gắng
khảo sát nhằm tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở góc độ
thi pháp, từ đó góp phần làm rõ tư tưởng nghệ thuật cũng như tài năng độc
đáo của của nhà văn mở đường “tinh anh và tài năng” này. Và thật sự, những
bài viết và các công trình nghiên cứu kể trên đã là những gợi ý, tham khảo
quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ
góc độ thi pháp để thấy được những đổi mới, nét đặc sắc trong quan niệm
nghệ thuật về con người - nơi thể hiện tập trung tư tưởng nhân bản sâu sắc
của Nguyễn Minh Châu, cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả trong các
truyện ngắn.Tiếp cận truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu từ góc độ thi pháp
cho thấy sự cách tân nghệ thuật mang tính chất mở đường của ông - mở ra
những khả năng và hướng đi mới cho thể loại truyện ngắn trong nền văn xuôi
đương đại.
Nhìn chung, mục đích chính của luận văn là muốn khám phá những vẻ
đẹp đặc sắc trong phong cách nghệ thuật, những giá trị đích thực của truyện

9
ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 và những đóng góp của tác giả cho sự
đổi mới của nền văn xuôi Việt Nam.
4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các yếu tố thi pháp trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 thể hiện qua các phương diện nghệ
thuật tổ chức hình tượng không gian - thời gian, nhân vật; tổ chức cốt truyện,
trần thuật. Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đặc
biệt là các tác phẩm sau năm 1975, vì đây là những sáng tác có giá trị nghệ
thuật cao, thể hiện rõ sự trăn trở tìm tòi đổi mới, sự " Dũng cảm điềm đạm "
của một cây bút tài hoa, giàu lương tâm và trách nhiệm, rất đỗi nhân hậu và
nặng lòng với con người, cuộc sống.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng linh hoạt và kết
hợp các phương pháp sau :
Phương pháp thống kê, phân tích tác phẩm văn học dựa vào những đặc
trưng thể loại.( Truyện ngắn, loại tự sự).
Phương pháp hệ thống: luận văn khảo sát, phân tích các hiện tượng văn
học như những bộ phận của một cấu trúc, những yếu tố của một hệ thống.
Sử dụng các khái niệm công cụ của thi pháp học khi tiếp cận tác phẩm
với góc độ nghiên cứu theo hướng thi pháp.
Sử dụng phương pháp so sánh khi xem xét sự vận động của quá trình
văn học, sự đổi mới trong sáng tác của tác giả thông qua những đặc điểm của
truyện ngắn sau 1975.
Sử dụng kết hợp linh hoạt một cách khoa học các phương pháp khác.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung được trình bày trong ba chương:
Chương I. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu

10
Chương II. Nghệ thuật kết cấu và xây dựng tình huống
Chương III. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian và lựa chọn giọng điệu
trần thuật

11
Chương I
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
1.Nguyễn Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn văn
học mới
1.1.Nguyễn Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền tuyến
Những người yêu mến văn học thường dành cho nhà văn Nguyễn Minh
Châu một tên gọi vừa giản dị vừa gần gũi dễ thương: nhà văn chiến sĩ. Một
người chiến sĩ luôn hào mình vào mọi hoàn cảnh của đất nước và chọn cho
mình một lẽ sống cao đẹp. Chính lí tưởng cao đẹp là điều mà cây bút dũng
cảm của Nguyễn Minh Châu luôn hướng tới và thể hiện rõ trên từng trang
viết. Cả cuộc đời của mình Nguyễn Minh Châu gắn bó với cách mạng và quần
chúng nhân dân, vì vậy hơn ai hết, ông thiếu rõ cuộc sống của nhân dân với
những tâm tư, tình cảm, ngay cả những biến động tinh vi và nhỏ nhất trong
tâm hồn họ cũng được ông thấu hiểu, ông hiểu rõ cuộc sống của những người
lính, của chiến tranh và cách mạng và đây cũng chính là mảnh đất nuôi dưỡng
và bồi đắp tâm hồn ông.
Sinh ra ở một vùng quê nghèo của miền trung gian khổ: làng Thơi, xã
Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cuộc đời ông, ngay cả khi ông
đã đi khắp mọi miền đất nước luôn vẫn chịu những ám ảnh bởi cái dữ dội, cái
nghèo khó, hoang sơ của đất mẹ. Nhiều tác phẩm của ông đã thực sự gây xúc
động với những trang viết nặng ân tình trong sự gắn bó máu thịt và am hiểu
sâu sắc cho con người và quê hương.
Cuộc đời của Nguyễn Minh Châu luôn gắn liền với nhiều sự kiện của
cách mạng dân tộc và ở đâu, dù trong thời gian nào đi nữa ấn tượng lớn nhất
về ông trong lòng người đọc chính là hình ảnh của một anh bộ đội cầm bút.
Đó là những trang viết khi ông khoác trên mình chiếc ba lô, tham gia các cuộc
chiến. Hay những tác phẩm là kết quả của những ngày đi thực tế, lăn lộn ở
chiến trường của nhà văn trong những năm trước 1975. Nguyễn Minh Châu
đã từng tâm sự “ Tôi có kinh nghiệm mỗi chuyến đi thực tế của mình chỉ cần
có được cái may mắn và vinh dự, cuộc đời trao cho mình lấy một hai con
12
người như thế , họ đã sáng tác cho mình một nửa, làm hộ cái công việc nặng
nhọc, vất vả cho mình một nửa, họ như cái vạch nối giữa đời sống và nhà văn
” [ 28,96 ].
Năm 1975 sau khi đất nước vừa giải phóng, với cuốn sổ ghi chép trên
tay, ông có mặt ở nhiều nơi. Đất nước tuy hoà bình nhưng phải oằn mình đối
mặt với những khó khăn và phức tạp mới, phải giải quyết những hậu quả của
chiến tranh để lại trong đó có sự gắn liền và thống nhất hai miền. Năm 1977
tiểu thuyết Miền cháy ra đời đó là kết quả của một hành trình gian khổ của
người lính trong thời chiến.
Năm 1983, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ra
đời. Trong một cuộc thảo luận với báo văn nghệ Nguyễn Minh Châu đã từng
tâm sự: “ Sau chiến tranh, tôi đã đi thực tế nhiều lần, gặp nhiều đồng chí chỉ
huy và chiến sĩ cũ chuẩn bị cho một cuốn tiểu thuyết mà bối cảnh là cuộc
chiến đấu anh hùng ở thành cổ Quảng Trị năm 1972. Nhưng khi bắt tay vào
làm thì song song với những vấn đề chiến tranh chống Mỹ, cái “đời sống của
họ hôm nay ” nó bắt tôi phải quan tâm. Chắc các đồng chí cũng thấy những
biểu hiện của lối sống, đạo đức và thậm chí là cả quan niệm sống của những
con người xung quanh ta - nhất là thanh niên - khiến chúng ta không thể
không quan tâm và lo lắng ”.
Trong sự nghiệp văn học của mình, Nguyễn Minh Châu đã dành nhiều
trang viết của mình cho giải đất Miền Trung gian khổ và khối lửa. Đó là
những cuộc sống, con người cụ thể trong mối quan hệ với làng xóm, quê
hương, với vận mệnh đất nước, với thiên nhiên gần gũi ... một cách sống
động. Ta bắt gặp cuộc sống và con người hiện lên với một nét riêng rất
Nguyễn Minh Châu trong ( Mảnh đất tình yêu ) hay ( Phiên chợ Giát ) - tác
phẩm được hoàn thành trên giường bệnh khi nhà văn đang phải chiến đấu với
căn bệnh ung thư quái ác ở viện 108 - tác phẩm được Nguyên Ngọc đánh giá
là " một tuyệt tác của văn học hiện đại ".

13
Nguyễn Minh Châu đã làm việc, đã viết, đã cống hiến cho đến giây
phút cuối cùng của đời mình. Một con người suốt đời lao động và sáng tạo
nghệ thuật. Cho đến những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, nhà văn vẫn
kê từng trang giấy trên gối để viết. Ông đã dốc hết cả hơi thở cuối cùng của
mình cho các trang văn.
1.2. Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới
chung của văn học và thời đại
1.2.1. Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 1975
Nếu như Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 tồn tại và phát triển
trong hoàn cảnh chủ yếu là hai cuộc kháng chiến và gặp nhiều khó khăn trở
ngại từ khâu sáng tác đến tiếp nhận, dẫn đến mang đậm tính chất của văn học
thời chiến và nặng tính phiến diện trong việc phản ánh đời sống. Với việc quy
các sự đa dạng, phức tạp của hiện thực đời sống vào những mô hình mang
tính đơn giản, quy phạm, vào những hướng giải quyết có tính công thức, đề
cao bút pháp hiện thực, tái hiện đời sống trong trạng thái thức giống như nó
tồn tại, nhiều khi để mục đích phục vụ chính trị chi phối ít nhiều...đáp ứng
được nhu cầu của lịch sử, tạo nên tác dụng to lớn trong việc thức tỉnh, động
viên tuyên truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho nhân dân...thì văn học thời
kỳ sau năm 1975 lại có những đổi mới mang tính tất yếu. Trong những điều
kiện mới của lịch sử - xã hội: đất nước thống nhất, cuộc kháng chiến thắng lợi
mở ra một thời kỳ mới, thời kì của độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã
hội...Văn học cũng đã có những đổi mới thực sự. Gắn với vận mệnh của đất
nước một cách chặt chẽ, văn học dần chuyển sang một thời kì mới với những
vận động và quy luật khác trước.
Ngay sau năm 1975, cả nước đón nhận tinh thần hào hứng phấn khởi
của niềm vui chiến thắng nhưng đời sống còn biết bao khó khăn, gian khổ,
thử thách: những di hoạ của chiến tranh, đạo đức nhân cách của con người, và
hàng loạt các vấn đề khác... Văn học với quan niệm là một hình thái của ý
thức xã hội, đã nhanh chóng chuyển mình để phản ánh những gì đang diễn ra

14
vô cùng mạnh mẽ của cuộc sống. Tình hình xã hội đã đặt ra những yêu cầu
mới trong đó có văn hoá nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Xong
ngay lập tức văn học chưa bắt kịp được những yêu cầu đó một cách thoã mãn.
Năm năm sau, năm 1980 đất nước chúng ta rơi vào khủng hoảng kinh
tế trầm trọng, và chính nó ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống, văn
hoá xã hội, trong đó có văn học. Một thời kì đầy biến động đã đẩy không ít
văn nghệ sĩ rơi vào sự chao đảo, không giữ vững lập trường, bối rối trên con
đường lựa chọn cho mình một phương hướng sáng tác đúng đắn. Nguyên
Ngọc đã từng nhận xét đây chính là một " khoảng chân không trong văn học
".
Vượt qua khó khăn của cuộc khủng hoảng, từ năm 1986 nước ta thực
sự bước vào công cuộc đổi mới toàn diện. Đại hội Đảng VI với những quan
điểm mới về văn hoá xã hội và nhất là văn học nghệ thuật đã là nguồn động
viên khích lệ và tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ trong văn học.
Xuất phát từ đổi mới mạnh mẽ của văn hoá xã hội, văn học cũng không
ngoại lệ, các sáng tác văn học đã kịp thay đổi để bắt kịp với hiện thực đời
sống và nhu cầu của người đọc. Cuộc sống khác xưa vì thế con người không
chỉ quan tâm đến sự kiện lớn của đất nước, ôn lại lịch sử mà họ quan tâm
nhiều hơn đến cuộc sống thường nhật, đến mỗi cá nhân và từng số phận con
người. Họ chú ý nhiều hơn đến cuộc sống riêng tư. Văn học lúc này thực sự
phải có một sức khái quát lớn, hiện thực cuộc sống phải được khai thác ở cả
bề rộng và chiều sâu để đáp ứng nhu cầu con người. Nhu cầu về thẫm mĩ cũng
thay đổi đáng kể và đi vào thực tế hơn. Hàng loạt các nhà văn đã tự đổi mới
mình như: Vũ Tú Nam, Chu Văn, Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Lê Lựu, Ma Văn
Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp ... và Nguyễn Minh Châu
cũng không là nhà văn ngoài lệ. Các tác phẩm trong thời kì này đã mở rộng và
đào sâu sự khám phá hiện thực con người trong tính đa dạng, phức tạp và luôn
biến động trong xu thế dân chủ hoá và thức tỉnh ý thức cá nhân, tinh thần
nhân bản. Chính văn học đã đổi mới ngay từ nhận thức, trong phương thức

15
tiếp cận hiện thực, trong khuynh hướng sáng tác và cả trong thi pháp và thể
loại.
1.2.2. Khát vọng đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu
Trong các nhà văn Việt Nam từ sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu là
một tấm gương tiêu biểu cho quá trình tự đổi mới. Ông đã tự làm mới mình và
góp công lớn vào sự đổi mới nền văn học nước nhà một cách âm thầm mà vô
cùng mạnh mẽ, quyết liệt và triệt để, không chỉ trong sáng tác mà biểu hiện
ngay cả trong tư duy nghệ thuật của mình. Được xem là ngòi bút tiêu biểu của
thời kỳ văn học đổi mới - người mở đường đầy tài hoa và tinh anh (Nguyên
Ngọc). Với một loạt các bài phê bình, tiểu luận… cùng những tác phẩm
không chỉ minh họa xuất sắc cho bước chuyển âm thầm mà quyết liệt trong
quan niệm sáng tác mà còn đạt tới sự hoàn thiện nghệ thuật, Nguyễn Minh
Châu đã tạo cho mình một vị trí không thể thay thế trong giai đoạn quá độ của
văn học trước và sau 1975, trở thành một nhà văn đặt nền móng toàn diện và
sâu sắc cho sự đổi mới cả về quan niệm nghệ thuật lẫn phương thức biểu đạt.
Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu không chỉ thể hiện ở những tác
phẩm văn chương mà còn thể hiện rõ qua nhiều tiểu luận phê bình. Hãy đọc
lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ là một minh chứng cho
một nhân cách trung thực và dũng cảm đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh đổi
mới văn học với một cảm quan nhạy bén của một người chiến sĩ đầy ý thức
trách nhiệm với những suy tư trăn trở khi nhìn và chỉ ra những quy luật tất
yếu.
Trong suốt chiều dài văn học, Nguyễn Minh Châu là người cảm nhận
được sớm nhất, sâu xa nhất những yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới
toàn diện. Ông đã cùng đi suốt thời kì ấy bằng sự lặng lẽ, âm thầm, khiêm
nhường nhưng rất kiên định và dũng cảm. Các bước đi của ông chậm rãi
nhưng chắc chắn. Nguyễn Minh Châu không ồn ào mà lặng lẽ đi tiên phong
trên con đường đổi mới. Với ông, đổi mới trước hết phải là tự đổi mới chính
mình, cho nên con đường dù chông gai, trắc trở đến đâu ông vẫn nguyện làm

16
người lính tiên phong trên tuyến đầu đổi mới ngay cả những sáng tác trước và
sau chiến tranh.
Đối với một nền văn học nói chung và với mỗi người nghệ sĩ, mỗi nhà
văn nói riêng bao giờ ý thức nghệ thuật và sáng tác luôn có mối quan hệ
khăng khít và tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức nghệ thuật chính là yếu tố
căn bản chi phối và thúc đẩy sự vận động sáng tạo văn học. Với những trang
viết phê bình của Nguyễn Minh Châu khi chúng ta đi sâu tìm hiểu sự vận
động và ý thức đổi mới trong ý thức nghệ thuật là ta đã có cơ một cơ sở vững
chắc để lí giải những thành công trong sáng tác của ông. Chính sự vận động
và phát triển của một nền văn học chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố nhưng
quan trọng nhất và tác động trực tiếp có tính chất quyết định chính là ý thức
nghệ thuật của nhà văn. Đó là hệ thống những quan niệm của nhà văn về con
người, về nguyên tắc tiếp cận và phản ánh cuộc sống, về đề tài, chủ đề, cảm
hứng, nghệ thuật biểu đạt...

Như vậy, có thể thấy Nguyễn Minh Châu là người mở đường xuất sắc
cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nói như Nguyễn Khải, sau này đã có
người đứng trên vai ông để mà to lớn hơn nhưng vị trí tiên phong và những
cống hiến có tính chất khai phá của ông là không thể phủ nhận. Tìm ra hướng
đi mới cho văn học cả trên bình diện nội dung phản ánh lẫn bút pháp thể hiện
nhà văn đã công khai với bạn đọc một cách viết mới: hiện đại mà vẫn đậm đà
truyền thống. Ông đã đi được một chặng đường xa, dù nhọc nhằn nhưng thật
nhiều ý nghĩa. Từ Nguyễn Minh Châu vấn đề con người với số phận riêng
cùng vô vàn trăn trở âu lo đã được văn học quan tâm khai thác ở cách nhìn
mới. Hình như ông tự mình bứt phá và giúp một thế hệ nhà văn dám “bước
qua lời nguyền”, từ giã “cái thời lãng mạn” để đến với một thứ văn chương
chân thành hơn. Ở đó con người được sống thật, không phải cố tỏ ra “trùng
khít với chính mình, với bộ áo xã hội của nó một cách đau đớn, giả dối”
(Bakhtin).
1.3. Sáng tác Nguyễn Minh Châu thời kỳ chống Mĩ

17
Là nhà văn mặc áo lính, Nguyễn Minh Châu ý thức hết sức sâu sắc về
sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút trong giai đoạn khốc liệt nhất của
cuộc chiến. Đối với các sáng tác thời kì chống Mĩ, tâm niệm sáng tác trở
thành cháy bỏng trong ông lúc này là hướng đến cuộc “đấu tranh vì quyền
sống của cả dân tộc”, do vậy nhà văn đã dành gần nửa cuộc đời để say sưa
ngợi ca, mê mải khám phá vẻ đẹp lung linh, kỳ ảo của cuộc sống và tâm hồn
con người trong chiến tranh vệ quốc. Đó là những con người ngập tràn tình
cảm lãng mạn, trẻ trung tươi tắn như Lãm, Nguyệt (trong Mảnh trăng cuối
rừng), cô gái mang “niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống”, niềm tin ấy “như sợi
chỉ xanh óng ánh, bao nhiêu bom đạn dội xuống, cũng không hề đứt, không
thể nào tàn phá nổi”. Đó là Kinh, Lữ, Khuê, Cận, Lượng v.v... (trong Dấu
chân người lính) - những viên ngọc, sáng đẹp một cách rực rỡ, không có tỳ
vết. Khó có thể tìm thấy một khiếm khuyết trong phẩm chất của họ. “Từ giã
gia đình, trường học, từ giã cuộc sống tương lai đẹp đẽ hết sức bảo đảm bắt
đầu dựng cho họ, từ bỏ trái hạnh phúc đang ửng hồng trong vườn nhà để đi
vào cuộc chiến đấu đầy vất vả, hy sinh khá là vô tư, lạc quan tươi trẻ”, đó là
những gì Nguyễn Minh Châu nói về họ. Đúng như, nhà phê bình N.I.Niculin
trong bài viết Nguyễn Minh Châu và sáng tác của anh nhận xét: niềm tin
vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở
chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao
bọc trong một bầu không khí vô trùng…”
1.4. Những đột phá quả cảm trên con đường đổi mới tư duy nghệ thuật
1.4.1. Những quan niệm mới về con người
Trong cả cuộc đời sáng tác của mình Nguyễn Minh Châu được xem là
một người lính can trường và tiên phong trong công cuộc tự đổi mới mình và
tham gia vào quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Có thể nói sau năm 1975,
sự đổi mới ấy được bắt nguồn từ những trăn trở, day dứt, và ông đã dũng cảm
đi tới quyết định viết “ai điếu” cho một thời văn học lãng mạn, lý tưởng hoá

18
và đậm màu sắc minh hoạ tư tưởng. Sự đổi mới tư duy ấy bắt nguồn từ những
quan niệm mới mẻ về con người.
M.Gorki đã từng nói " Văn học là nhân học ", lời nói ấy còn vang vọng
mãi như một mệnh lệnh sáng tạo. Chính con người là trung tâm, là cái đích
cho sự khám phá nghệ thuật. Với văn học Việt Nam, trong suốt quá trình tồn
tại và biến đổi vẫn luôn là một sự vận động, tìm tòi và đổi mới không ngừng.
Sự đổi mới ấy được thể hiện ở nhiều bình diện xong ở trung tâm và chiều sâu
của những biến đổi ấy chính là sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con
người và sự hình thành những quan niệm nghệ thuật mới về con người.
Nếu như trong nền văn học kháng chiến là sự phát hiện và sáng tạo con
người quần chúng, con người của cộng đồng, con người tập thể. Được phát
triển trong điều kiện hoà bình, nền văn học Việt Nam từ sau năm 1975 vừa
được kế thừa từ những nguyên tắc truyền thống, đồng thời cũng mở ra những
bình diện mới trong sự thể hiện, lí giải con người. Quan niệm về con người
trong văn học thời kì đổi mới mang tính thống nhất của nền văn học dân tộc
trong toàn bộ quá trình vận động và phát triển nhưng cũng mang những nét
đặc trưng riêng của thời kì văn học sau năm 1975.
Ở thời kì này con người đã được thể hiện ở nhiều nét mới, được nhìn ở
nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã
hội, con người với lịch sử, con người với gia đình, con người với những
người khác và với cả chính mình. Con người được các nhà văn khám phá, soi
chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống và tư
tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng
tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ
quát. Con người xuất hiện trong sự đan cài, xen lẫn, giao tranh giữa bóng tối
và ánh sáng, giữa " rồng phượng và rắn rết ", cao cả và thấp hèn. Và cái đích
để các nhà văn hướng đến là để hiểu biết con người hơn và luôn chú ý đến sự
thức tỉnh khả năng tự nhận thức của con người, để hướng con người đến cái
thiện, cái đẹp và sự hoàn thiện về nhân cách.

19
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiên phong ở sự
chuyển biến trong quan niệm nghệ thuật về con người trong thời kì đổi mới
của văn học Việt Nam hiện đại. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu luôn gắn liền với quan niệm về con người. Nhà văn lấy con người làm
tâm điểm sáng tác và khẳng định cốt lõi của văn học là con người. Trong tập
tiểu luận phê bình Trang giấy trước đèn ông đã thẳng thật nói ra điều này: "
Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm - mà tâm điểm là con người "
[ 28,111].
Khi tìm đến con người, các nhà văn của mọi thời đại đều tiếp cận giải
mã con người theo những cách riêng khác nhau. Xong đều có chung mục đích
là để hiểu rõ con người hơn, hướng con người đến sự hoàn thiện, nhân bản
hơn. Là một nhà văn chân chính, Nguyễn Minh Châu chủ động đưa văn học
về với những quy luật vĩnh hằng của cuộc sống con người. Ông lấy đời tư và
bản chất bên trong của từng cá nhân con người làm điểm xuất phát và chuẩn
mực để đánh giá thế giới. Nhà triết học Nga nổi tiếng Berdiaep đã từng nói: "
Theo bản chất nội tại của nó, mỗi con người cũng là một thế giới lớn, một vũ
trụ vi mô, trong đó phản ánh và tồn tại toàn bộ thế giới hiện thực và tất cả
những thời đại lịch sử lớn...chỉ trong chiều sâu của chính mình, con người
mới có thể tìm thấy một cách thực sự chiều sâu của các thời đại bởi vì chiều
sâu của các thời đại là những tầng lớp bí ẩn thầm kín nhất ở ngay trong con
người, những tầng chỉ bị che khuất, bị đẩy lùi sang bình diện thứ hai, thứ ba
do sự hạn hẹp của ý thức ".
Bằng ý thức, lương tâm và trách nhiệm của người cầm bút Nguyễn
Minh Châu đã mạnh dạn chỉ ra những thực trạng của nền văn học chống Mĩ.
Bên cạnh những thành công thì văn học thời kì kháng chiến chủ yếu được viết
bằng cảm hứng ngợi ca nên con người thường được miêu tả phiến diện - con
người thường quá " xấu " hoặc quá " tốt ". Trong các tác phẩm của ông trước
năm 1975 con người thường xuất hiện với một chiều tốt đẹp, có nhân cách

20
cao thượng. Với vẻ đẹp ấy khiến ta ai cũng ước ao, mong muốn được một lần
ngắm nhìn, chiêm ngưỡng. Đó là các nhân vật như Nguyệt, Khuê, Lữ...
Sau năm 1975, những con người thật trong cuộc sống của chúng ta
không hề đơn giản chút nào. Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra rằng, cần
phải thay đổi cách nhìn một chiều, giản đơn về con người. Thay vì lí tưởng
hoá con người, nhà văn đã nhìn nhận con người trong tính toàn diện, đa dạng,
phức tạp của nó. Ông đã đi vào các số phận, các tính cách, tìm đến những nỗi
niềm riêng tư, sâu kín trong mỗi tâm hồn con người. Ông hiểu rằng trong bản
chất mỗi con người có cả tốt lẫn xấu, cả " rồng phượng lẫn rắn rết ". Chính từ
đó ông đã làm một cuộc chuyển đổi lớn lao trong quan niệm về con người.
Ông đã đi từ hướng ngoại đến hướng nội, từ số phận cộng đồng đến số phận
cá nhân và đi sâu vào bản chất sâu kín của mỗi con người. Trong suốt cuộc
đời cầm bút của mình nhà văn đã cố gắng để " khám phá ra tất cả những cái
gì khó nắm bắt nhất, xảy ra nơi cái thế giới bên trong con người " [ 28,108 ],
" phải có sự khám phá mới về con người và xã hội, khám phá ấy trong cái tiêu
cực, cái xa đoạ một vấn đề gì đó mới ".
Để viết lên những tác phẩm có giá trị có ý nghĩa về con người, phải
xuất phát từ tấm lòng, trái tim yêu thương dành cho con người. Chính Nguyễn
Minh Châu đã từng tâm sự: " Người viết nào cũng có thể có tính xấu nhưng
tôi không thể nào tưởng tượng nổi nhà văn lại không mang nặng trong mình
tình yêu cuộc sống và tình yêu thương con người. Tình yêu này của người
nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc
khoải, một mối quan tâm thường trực về số phận, hạnh phúc của những người
chung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có
khả năng cảm thông sâu sắc với những nổi đau khổ, bất hạnh của người đời,
giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được
trước cuộc sống "[ 28,111 ]. Hơn bao giờ hết trong sâu thẳm tấm lòng đôn
hậu của Nguyễn Minh Châu luôn cháy lên một niềm tin thiết tha, mãnh liệt

21
vào con người và mong muốn làm sao cho con người và cuộc đời của con
người ngày càng tốt đẹp hơn.
1.4.2. Từ ý thức về con người cộng đồng tới ý thức về con người cá nhân thế
sự
Có thể thấy những cách tân và đổi mới đặc sắc nhất của Nguyễn Minh
Châu là ý thức, cách nhìn và phản ánh con người ở một góc nhìn mới khác
hẳn với cách nhìn trong các sáng tác trước năm 1975. Nếu như trước năm
1975 là sự tiếp cận con người cộng đồng thì bây giờ ông lại chú trọng vào tiếp
cận con người cá nhân thế sự và vì thế Nguyễn Minh Châu đã tạo nên bước
xoay thần kì cho mình đó là cách thể hiện từ ý thức về con người cộng đồng
tới ý thức về con người cá nhân.
Nhà văn Lê Lựu đã từng nói: " Từ xưa đến nay, tôi vẫn thấy là một
Nguyễn Minh Châu. Trước đây có một Nguyễn Minh Châu tài hoa, tinh tế làm
sáng lên cái chi tiết bình thường hàng ngày. Vẫn cái tài hoa ấy, hôm nay nó
không bột phát tự nhiên mà sâu xa hơn ". Và " Anh nhìn đâu cũng ra truyện
ngắn ". Theo PGS. TS Tôn Phương Lan thì khả năng " nhìn đâu cũng ra
truyện ngắn " ấy chính là khả năng tiếp cận con người đời thường của nhà
văn. " Từ những câu chuyện không hề mang tính điển hình nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã tìm ra các khía cạnh khác nhau của thế thái nhân tình một thứ
triết học nhân sinh " [ 27 ]. Ông đã thực sự quan tâm đến những vấn đề tác
động tác động cụ thể đến cuộc sống hàng ngày của con người. Từ cuộc sống
mưu sinh, miếng cơm manh áo, đến tình cảm gia đình, tình làng nghĩa xóm,
tình yêu lứa đôi... Ông nhìn con người trong vẻ đẹp cuộc sống thường nhật
với những nỗi niềm trong đời sống tinh thần, trong cuộc mưu sinh, trong các
mối quan hệ giữa người với người.
Nét nổi bật và sắc cạnh, mới mẻ nhất của Nguyễn Minh Châu khi thể
hiện con người đời tư thế sự, con người cá nhân là khi ông thể hiện ý thức bản
năng làm mẹ của người đàn bà và ham muốn dục vọng của con người. Quì
trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành đã nói thay cho cả thế giới "

22
...trong một lúc, tôi hiểu được như thế nào là những người đàn bà. Tôi hiểu
được chính tôi bấy lâu nay. Tôi đã trông thấy, trong một phút, tất cả cái phần
sâu thẳm như một thiên phú riêng của tâm hồn những người đàn bà chúng
tôi: đó là bản năng chăm lo, bảo vệ lấy sự sống của con người - do chính
chúng tôi mang nặng đẻ đau sinh ra. Đó là tình thương người bẩm sinh của
nữ tính - sợi dây thần kinh đặc biệt nhạy cảm của nữ giới chúng tôi ". Trong
truyện ngắn Mẹ con chị Hằng cho đến lúc làm mẹ chị mới ý thức được người
mẹ có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc đời mình." Rồi chị bỗng thấy trong
bụng đau quằn lên. Cái thai lại đạp. Cũng chỉ còn hơn một tháng nữa chị đã
sinh. Chẳng biết là lần này là con trai hay con gái. Chị ao ước một đứa con
gái. Chợt chị nghĩ đến bà mẹ trong Thanh sắp ra ở với mình, bà mẹ hiền lành
và cũ kĩ của chị. Chao ôi, đến bây giờ chị Hằng mới sực nhớ ra mình vẫn có
một bà mẹ. Hình như trong những lúc quạnh vắng lại sắp sinh nở như thế
này, mới sực nghĩ đến mẹ, bà mẹ của chị đang ở trong nhà quê..." Bà cố Huân
cũng luôn ý thức được thiên chức làm mẹ của mình. Bà nghĩ rằng " Đời con
người ta vay của cha mẹ rồi trả cho con cái ". Chính vì suy nghĩ đó mà suốt
cuộc đời bà đều dành chăm lo cho con. Khi bà ở trong Vinh chăm lo cho
người con út bị sẩy thai, khi ra Hà Nội chăm con gái sinh, rồi lại chuẩn bị để
ra Hồng Quảng với con gái thứ hai mới đánh điện khẩn bà ra gấp... không một
lời trách móc, than thở. Những người đàn bà như người đàn bà trong Chiếc
thuyền ngoài xa, Huệ trong Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát, người mẹ trong
Mùa trái cóc ở miền Nam... đều là những người phụ nữ ý thức sâu sắc về
thiên chức làm mẹ của mình.
Con người ta bao giờ cũng vậy, luôn muốn được thoã mãn nhu cầu của
mình, như lại không dám nhìn thẳng vào bản thân và đối diện với chính mình.
Do không thể vượt qua được những luân lí đạo đức xã hội mà con người luôn
tìm cách che dấu dục vọng của mình. Nhưng có lẽ chính cái lúc gạt bỏ luân lí
dể sống cho bản năng, cho dục vọng thì là lúc con người mới thực sự là người
theo đúng nghĩa.

23
Sau năm 1975, văn học có điều kiện đi sâu vào những gì thuộc về cá
nhân đời tư con người. Đặc biệt từ năm 1986, trong tinh thần đổi mới, cùng
sự thay đổi quan niệm về con người, những yếu tố của đời sống các nhân
được các nhà văn quan tâm nhiều hơn. Là nhà văn luôn quan tâm và giành
nhiều tình yêu thương cho con người, Nguyễn Minh Châu đã hướng ngòi bút
của mình khai thác những vấn đề thuộc về con người, những gì người nhất.
Ông đã mạnh dạn đi vào khai thác những nhu cầu của đời sống cá nhân riêng
tư con người. Đây là một điều dũng cảm, tuy trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu không nhiều và mức độ thể hiện của nó cũng không mãnh liệt như một
số cây bút sau này như: Chu Lai, Đỗ Hoàng Diệu...xong đã gây được ấn
tượng mạnh trong lòng người đọc khi ông viết về tình yêu gắn với những ham
muốn dục vọng bản năng của con người.
Trong Cỏ lau tuy nói về lòng chung thuỷ của người phụ nữ, đó là Thai
- "một thứ đàn bà cổ. Những người đàn bà chờ chồng có thể hoá đá ". Nhưng
chuyện không dừng lại ở đấy mà tình yêu có thêm màu sắc mới lạ. Cũng nói
về tình yêu nhưng ông đã tiến xa hơn, tình yêu gắn với thứ tình yêu xác thịt.
Tuy nhiên Nguyễn Minh Châu chỉ mới chạm tới, điều đó được thể hiện qua
lời của Quảng - chồng mới của Thai: " ngày trước ông và Thai sống với nhau
được ít quá. Hình như hai người mới bén nhau thôi. Rồi xa nhau suốt tám
năm. Ông ra đi biền biệt. Thương nhớ, chờ đợi đằng đẵng, thế rồi ông trở
về...chỉ còn là cái xác trôi ngoài sông. Khi phải lén lút chôn ông, Thai đau
đớn lắm. Vì thế mà chẳng bao giờ nguôi đi cho ( ...) Giá ngày đó, ông và Thai
cưới nhau xong, ông để lại cho cô ấy một đứa con, trước khi ông ra miền Bắc.
Thì Thai cũng được thoã mãn một phần. Một đứa con... dù sao về mặt tâm lí,
người đàn bà cũng đỡ ẩn ức..."
Trong Khách ở quê ra khi miêu tả Huệ nhà văn cũng đã gợi một cái gì
đó rất bản năng: " Sau một lứa đẻ, hai bầu vú để thỗn thễn, bây giờ " eo "
người lại trở nên gọn gàng, và chiếc nịt vú của người đàn bà cũng may bằng
thứ mặt hàng quân phục. Đêm nằm bên vợ, bây giờ hắn thấy trên khuôn ngực

24
trắng như ngó sen tự nhiên úp vào hai cái vung chắm bằng thứ vải tô châu
mới xanh biếc, như hai con cánh cam to tổ bố, nom đến tức mắt ".
Nói về những ham muốn dục vọng bản năng của con người tuy Nguyễn
Minh Châu chưa thể hiện nó ở một sự vồ vập đến mãnh liệt. Ông không đưa
ngòi bút của mình vào những câu chuyện phòng the mùi mẫn, nhưng những
điều mà ông đã phản ánh, và hướng người đọc đến thì cũng đủ để người đọc
khó quên và đó cũng là một nét mới trong những sáng tác sau năm 1975 của
ông. Đây là bước khởi đầu để các nhà văn sau này tiếp bước trên con đường
sáng tạo nghệ thuật.
Các nhân vật trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
đều có sự chuyển đổi rõ rệt trong việc chuyển đổi ý thức từ con người cộng
đồng trở về với con người cá nhân và thế sự. Các nhân vật trong truyện ngắn
không còn là những con người tiêu biểu cho cả một lớp người hay dân tộc mà
là những con người cụ thể với những tính cách, mảng đời, số phận rất riêng
của mình. Mỗi nhân vật là một nét riêng không hề trùng lặp trong cuộc sống
vốn đa chiều và đầy phức tạp.
1.4.3. Con người chủ thể lịch sử hay nạn nhân của lịch sử cùng với những
khát vọng sống và mưu cầu hạnh phúc
Nguyễn Minh Châu là cây bút luôn đi tìm cái đẹp, hướng cái đẹp để
khẳng định cái đẹp, cái thơ của cuộc sống tuy ông không hề thi vị hoá cuộc
sống, không dễ dãi nhìn cuộc sống một chiều. Với ông cuộc sống không bao
giờ cũng tốt đẹp, là thảm hồng trên đường đi, mà cuộc sống luôn có những
phần lộ ra bên ngoài và cả những phần còn ẩn khuất. Cuộc sống có cả bóng
tối và ánh sáng, có cả âm dương và cả những biến đổi thăng trầm. Cuộc sống
vốn phức tạp và con người trong cuộc sống phải đấu tranh để tồn tại, để sống,
để giành lấy cái thiện và ánh sáng. Trong cuộc đấu tranh ấy, bản chất con
người được hiện rõ với nhiều điều, tốt, xấu, thiện, ác. Trong sự lo toan bộn bề
của cuộc sống, những mặt trái của xã hội lại được bọc lộ rõ nét hơn.

25
Là nhà văn rất gần với cuộc sống, Nguyễn Minh Châu hiểu hơn ai hết
những gì đang diễn ra của đời sống xã hội con người. Ông đã mạnh dạn
hướng ngòi bút của mình vào sự tha hoá biến chất về đạo đức và nhân cách
con người. Từ đó, nhà văn lôi ra những mặt trái của xã hội, để cảnh tỉnh và
thức tỉnh lương tâm ở mỗi con người. Bằng sự từng trãi trong cuộc sống
Nguyễn Minh Châu đã chiêm nghiệm được rằng:" Những biểu hiện của lối
sống đạo đức và thậm chí là cả quan niệm sống của những người xung quanh
ta - nhất là thanh niên - khiến chúng ta không thể không quan tâm và lo lắng.
Tôi nghiệm thấy mỗi lần đất nước chuyển từ chiến tranh sang hoà bình,
chúng ta lại phải đạt ra vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân. Song so với lần hoà
bình năm 1954 thì cái lần hoà bình sau năm 1975 này, diện mạo của chủ
nghĩa cá nhân nó to hơn. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang sống trong một thời kỳ
mà con người Việt Nam chưa bao giừo đạt đến tầm vóc lớn lao như vậy.
Nhưng bên cạnh đó, cũng thấy những gì nằm trong tính cách và tâm lí con
người hiện nay đã tạo nên cái mà chúng ta thường gọi chúng là tiêu cực xã
hội " [ 28,100 ]. Nhà văn đã quyết tâm dùng ngòi bút của mình "tham gia trợ
lực vào cuộc giao tranh giữa cái tốt và cái xấu bên trong mỗi con người, mỗi
cuộc giao tranh không có gì ồn ào nhưng xảy ra từng ngày và khắp mọi lĩnh
vực đời sống " [ 28, 100 ].
Những tiêu cực xã hội có thể len lỏi vào cuộc sống của bất cứ ai, bất
cứ lúc nào và ở đâu. Nó đặt ra cho mọi người những điều cần phải quan tâm
và những vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Đi sâu vào tìm hiểu những
phẩm chất bên trong của con người, Nguyễn Minh Châu quan niệm rằng: "
Mỗi truyện ngắn tôi nêu ra một trường hợp cụ thể và xen vào mạch kể
chuyện, tôi bàn bạc về quan niệm sống hoặc báo động một điều gì " [ 28, 100
]. Xong đối với chính bản thân nhà văn, đó không hề là công việc dễ dàng,
không thể ngày một ngày hai. Cuộc chiến tranh chống quân xâm lược khó
khăn, gian khổ, khốc liệt nhưng cuộc chiến trên mặt trận đạo đức còn gian
khổ hơn nhiều. Nhưng làm được điều gì đó cho xã hội tốt đẹp hơn cũng là

26
niềm hạnh phúc của nhà văn. Với Nguyễn Minh Châu " niềm hạnh phúc lớn
nhất và cũng đồng thời là cái điều khổ ải nhất trần đời của một anh cầm bút
xưa nay vẫn là công việc khám phá ra tất cả những cái gì khó nắm bắt nhất
xảy ra nơi cái thế giới bên trong con người " [28,108 ].
Trong Mùa trái cóc ở miền Nam xuất hiện nhân vật Toàn - một cán bộ
đã hoàn toàn thoái hoá, biến chất trở thành con người ích kỉ, tàn nhẫn không
có tình người, không còn khả năng xúc động ngay cả khi gặp lại mẹ mình sau
hơn hai mươi năm xa cách. Bản chất đó không chỉ được thể hiện ở lời nói,
hành động mà ngay cả ở thái độ của anh đối với mọi người, với bạn cũng rất
lạnh lùng. Tác giả đã miêu tả thật tỉ mỉ các chi tiết để người đọc chứng kiến
thật rõ nét cụ thể tâm hồn khô cứng, vô cảm đến tàn nhẫn của Toàn. Chính
Nguyễn Minh Châu đã đau đớn và thốt lên rằng: " Hỡi trời đất, đã có ai trên
đời này nhìn thấy đứa con đang ngửi giọt nước mắt của người mẹ ". Ta xót
thương cho người mẹ tội nghiệp và trách đứa con tàn nhẫn. Trong khi đứa con
ấy luôn nhắc đến những khuôn mẫu, phép tắc trong quân ngũ như lại đánh rơi
mất đạo lí làm người. Dù rằng Toàn có lí do trách mẹ vì mẹ đã bỏ anh đi với
người đàn ông khác, nhưng thật tàn nhẫn với một người đã sinh thành và suốt
đời mang nặng trong lòng tình yêu thương con vô hạn và luôn như mang một
tội lỗi to lớn đối với con. Chính sự hiểu biết hạn hẹp của Toàn về cuộc sống,
về tình người, cái điều mà khi bước ra khỏi cuộc chiến nhiều người chưa ý
thức được để kịp trang bị cho bản thân mình, hay đó cũng chính là những mặt
chưa hoàn thiện của mỗi con người. Xây dựng nhân vật Toàn Nguyễn Minh
Châu đã báo động cho cả xã hội một vấn đề lớn lao về đạo đức, nhân cách, về
sự tha hoá biến chất của con người. Điều đó giúp những người có lương tâm,
có trách nhiệm với cuộc sống, với xã hội không thể không quan tâm, ở ngoài
cuộc đứng nhìn mà phải hành động ngay lập tức.
Sự tha hoá biến chất về đạo đức nhân cách, lối sống của con người có
nguồn gốc từ đâu? Lí do nào đã tạo điều kiện cho tính cách ấy tồn tại, phát
triển và gây tội ác? Phải chăng nó xuất phát từ chỗ coi thường lương tâm,

27
lương tri của mỗi con người, con người không biết cảnh giác với ngay chính
sự hiểu biết còn hạn hẹp của mình về cuộc sống, tình người. Hay trong mỗi
con người còn có mặt chưa hoàn thiện và mặt chưa hoàn thiện đó lấn át, chi
phối mọi hành động suy nghĩ của con người. Phải chăng câu nói của nhà hiền
triết xưa luôn nhắc ta "hãy tự biết mình " đã bị chúng ta lãng quên. Đó quả là
nguy hại, nó sẽ từng buớc dẫn con người ta đến sự cằn cỗi trống rỗng của tâm
hồn mà hậu quả của nó ta không hề lường trước được. Cuộc sống hãy biết phê
phán những thái độ bàng quan, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác,
phải cảnh giác với sự xa đoạ đo thói ham mê quyền lực gây nên.
Một trong những đổi mới trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đó là
khả năng tự nhận thức của con người. Không chỉ thể hiện những vi phạm của
chuẩn mực đạo đức, Nguyễn Minh Châu còn phát hiện ra những mặt tốt đẹp
của con người, đó là lòng vị tha, khát vọng sống hoàn hảo, khát vọng được "
làm lại " mình. Cái mà trước đây thường được hiểu như là những truyền
thống, mĩ tục của nhân dân thì bây giờ nó gắn với ý thức của mỗi con người
về nhân cách.

Đất nước giải phóng hoàn toàn, Nguyễn Minh Châu lại đưa người đọc
vào một " cuộc chiến " mới không hề kém phần gay go ác liệt. Đó là cuộc
sống ở bên trong mỗi con người để giữ gìn và và hoàn thành nhân cách của
mình. Một cuộc chiến không có sự khoan nhượng để giành lấy phần tốt đẹp,
để tiêu diệt phần xấu xa u tối trong mỗi con người và trong cả xẫ hội. Chính
vì vậy mà " nhà văn rất cần thiết phải có mặt trên đời, để làm công việc cảnh
tỉnh nhân loại và báo hiệu trước những tai hoạ " [ 28, 164 ] và " để làm công
việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái
ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người
cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng
tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho
những con người không còn có ai để bênh vực " [ 28, 165 ].

28
Khả năng tự nhận thức là " khả năng tự phanh phui mổ xẻ ý thức mình,
lối sống của mình" [ 2 ]. Đó chính là khả năng mà con người chứng kiến
những gì xảy ra với họ và họ ý thức về mình và từ đó thay đổi cách nghĩ, cách
nhìn và cách sống của mình. Đó là điều ta có thể gặp trong một số truyện
ngắn viết sau năm 1975: Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Cỏ lau…
Trong truyện ngắn Bức tranh, từ chỗ tính kiêu hãnh và tự ái nghề
nghiệp khi từ chối vẽ tranh của người hoạ sĩ ta thấy xuất hiện một loạt các
trạng thái tự bạch tự nhận thức. Sau khi người lính trở thành ân nhân anh đã
vẽ bức chân dung " như thần " nhưng rồi lại quên mất lời hứa. Sau nhiều năm
kể từ khi bức tranh đoạt giải cao ở cuộc thi quốc tế, anh vô tình gặp lại người
lính năm xưa. Chính cuộc gặp gỡ tình cờ, ngắn ngủi ấy đã để lại trong lòng
người hoạ sĩ những dằn vặt, cắn rứt, với những dằng xé lương tâm bởi sự vô
tâm, thất hứa của mình. Bao câu hỏi bật ra bao quanh lấy tâm hồn người hoạ
sĩ. Mỗi câu hỏi vang lên là một lần quặn thắt, đau đớn khi chính người hoạ sĩ
còn nhớ y nguyên lời hứa của mình. Đau xót vì tội lỗi của mình gây ra, người
hoạ sĩ đã lặng lẽ đi tìm con người thực của mình bằng việc tự ý thức lại, tự
làm sáng tỏ bản chất con người mình. Từ chỗ biện hộ cho hành vi của mình
anh đã nhận ra sai lầm từ sự vô ơn của mình. Xong sự phán xử của lương tâm
mới là toà án nghiêm minh cao nhất của con người. Người hoạ sĩ đã tự vấn
lương tâm, tự thú tội với chính mình để mong tìm được sự thanh thản trong
tâm hồn. Quá trình đấu tranh nội tâm dai dẳng, quyết liệt nhất chính là quá
trình dẫn đến sự ra đời bức chân dung tự hoạ của người hoạ sĩ. Anh ta đã đi
tìm lại chính mình để đối mặt với cái chính mình trong mỗi đường nét không
khoan nhượng của bức tranh. Điều quan trọng ở đây Nguyễn Minh Châu đã
để cho nhân vật của ông tự nghiêm khắc với mình. Không phải tự thú với một
ai khác, không phải là sự phán quyết từ bên ngoài mà chính là sự phán quyết
từ bên trong con người anh ta. Chính tác giả đã nêu lên mục đích duy nhất là

29
hướng con người tới sự hoàn thiện nhân cách và vẻ đẹp nhân văn trong tâm
hồn mỗi con người.
Khác với Bức tranh, trong truyện ngắn Bến quê Nguyễn Minh Châu
đã để cho Nhĩ tự nhận thức lại về mình và về cái bến sông quê trong sự ân hận
và nuối tiếc. Nhưng có lẽ đó cũng là lời nhắn nhủ với mỗi người chúng ta:
những ai đang xa quê hương hãy một lần trở về để nhìn lại quê hương, để tìm
lại chính bản thân mình. Ngay cả những ai đang sống trên quê hương hãy
giang rộng vòng tay, mở hết cánh cửa lòng mình, để thưởng thức và ôm hết
những vẻ đẹp bình dị mà không kém phần quyến rũ của quê hương.
Khả năng tự nhận thức của con người là vấn đề mà Nguyễn Minh Châu
rất tâm đắc, và thể hiện thành công trong nhiều tác phẩm. Tác giả đã khuyên
mỗi người hãy tự biết ý thức lại về những công việc mình đã làm để từ đó
thay đổi cách suy nghĩ cũng như lựa chọn được những hành động đúng đắn.
Cuộc sống vốn phức tạp, bận rộn, bản thân con người cũng không hề đơn giản
và bị lôi cuốn hết việc này qua việc khác, có khi cả những việc sai trái, xấu
xa, có hại đến người khác mà bản thân mình chẳng hề hay biết. Nếu con
người không biết nhìn lại chính mình thì xã hội sẽ như thế nào? Việc tự nhận
thức lại mình là một việc làm cần thiết đối với mỗi con người, với mọi người
và toàn xã hội. Nguyễn Minh Châu đã để cho con người tự ý thức, tự nhìn lại
mình nhưng không hề cô lập con người. Ông khám phá con người bằng tính
cách cá nhân, qua đạo đức, bằng ứng xử và hành động, trong mối quan hệ với
người khác, với xã hội, với quê hương xứ sở. Nguyễn Minh Châu đã thực sự
gửi tới mọi người ngày ấy và tương lai thông điệp hãy " tạm ngừng một chút
cái nhịp sống bận bịu, chen lấn, để tự suy nghĩ về chính mình "
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết từ sau năm 1975 có
một điều đặc biệt trong phản ánh con người đó là hình ảnh những con người
cô đơn tìm về với thế giới tâm linh. Tiếp cận và giải mã con người, ông tập
trung vào mọi biến đổi trong đời sống nội tâm con người. Ông cảm nhận đuợc
nỗi buồn đau, sự cô đơn trong mỗi cuộc đời, số phận. Trong hiện thực cuộc

30
sống, con người đang phải gắng nén chịu một cách âm thầm những phong ba
bão táp của cuộc đời. Cuộc sống xô bồ đôi khi không có chỗ cho ta san sẻ bớt
những nổi đau. Một lúc nào đó con người sẽ tìm đến một thế giới khác, khác
với hiện thực mà mình đang sống - thế giới tâm linh. Với Ngyễn Minh Châu
ông đã đi đúng hướng với sự phát triển tâm lí con người. Ông " Thích trình
bày những vấn đề đạo đức xã hội dưới dạng tâm lí, tập trung sự chú ý vào
những diễn biến sâu kín mang tính chất quy luật bên trong của tâm lí con
người " [ 28, 112 ].Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc để con người
cô đơn tìm về với thế giới tâm linh. Trong truyện ngắn Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, nhân vật Quì trở thành người đàn bà mộng du sau khi
người trung đoàn trưởng mất, lang thang trên những chuyến tàu tốc hành, trò
chuyện với vong linh những người đã từng yêu chị. Trong truyện ngắn Mùa
trái cóc ở miền Nam, nhà thờ Tin lành chính là nơi duy nhất để người mẹ lúc
về nhà nương tựa. Cũng như các trang viết của các nhà văn hiện đại: Nguyễn
Trí Huân ( Chim én bay ), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng ), Bảo ninh ( Nỗi buồn
chiến tranh ), Nguyễn Khắc Trường ( Mảnh đất lắm người nhiều ma ),
Nguyễn Anh Thái ( Mảnh vỡ của đàn ông )…Nguyễn Minh Châu đã dũng
cảm hướng ngòi bút của mình vào một đề tài mới và đạt được những thành
công nhất định.
Hướng vào thế giới tâm linh, không phải các nhà văn đưa chúng ta vào
cõi vô thức, mà ngược lại, ở đó con người được thanh thản hơn. Ngày nay
chưa có lí giải khoa học một cách chính xác về thế giới tâm linh, xong những
điều mà chúng ta biết chính là con người hướng tới tâm linh để thanh lọc tâm
hồn. Ở đó con người được quyền suy nghĩ những gì mà họ cho là thiêng liêng
nhất. Khám phá đời sống tâm linh của con người chính là đi vào khám phá thể
hiện đời sống tinh thần phong phú và phức tạp của con người.
Khi đất nước vừa thống nhất, tâm linh vẫn là vấn đề cấm kị của văn học
nghệ thuật nhưng Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm hướng ngòi bút của mình
vào khai thác thế giới tâm linh trong đời sống taam hồn con người. Điều đó

31
không có nghĩa là ông đi trái với quy luật của xã hội. Có lẽ Nguyễn Minh
Châu đã sớm nhận ra, khi đất nước độc lập thì nhu cầu tâm linh cũng là một
nhu cầu chính đáng của con người. Điều quan trong hơn ông không hướng họ
đến một niềm tin mù quáng mà hướng họ đến một sự bình tâm, thanh thản
trong tâm hồn.
Trong cuộc đời viết văn của mình, sự gần gũi với cuộc sống hiện tại đời
thường chính là động lực để Nguyễn Minh Châu mạnh dạn khám phá những
vấn đề gai góc nhức nhối của cuộc sống, những thân phận và tính cách dị biệt
phức tạp nhiều ẩn số.
Nói về con người dị biệt khác thường trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu có lẽ không phải là nét mới. Đã có nhiều tác giả viết về đề tài này
nhưng điều cuốn hút ở ông là những quan niệm tiến bộ. Ông quan niệm cái
xấu xí, dị thường như là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa con người và
hoàn cảnh. Kiểu nhân vật dị biệt chính là sự khái quát sinh động những
nghịch cảnh, những mặt đối lập, những mâu thuẫn phức tạp còn hiện hữu hay
tiềm ẩn dưới cái vẻ bề ngoài thô kệch hay lạ lùng. Đó là Quì trong Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành, là anh hoạ sĩ trong Bức tranh, lão Khúng trong
Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…Trong bài tiểu luận Hãy đọc lời ai điếu
cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Nguyễn Minh Châu đã viết :" Bốn
mươi triệu dân của nước Tây Ban Nha được nhân loại biết đến và kính trọng
bằng một lão gàn vĩ đại vì mang trên mình tính ảo tưởng muôn đời của toàn
thể nhân loại. Và gần một tỉ người của đất nước Trung Hoa được nhân loại
thấu hiểu sâu sắc bằng một anh chàng nông dân AQ. Cả Đông Ki Sốt và AQ
chẳng hề làm xấu Tây Ban Nha lẫn Trung Quốc mà làm đẹp cho đất nước này
"
Đi sâu vào số phận con người xem con người vừa là chủ thể lịch sử vừa
là nạn nhân của lịch sử cùng với những khát vọng sống và mưu cầu hạnh phúc
của con người Nguyễn Minh Châu không có phát hiện nào được xem là mới
xong cách viết, cách tiếp cận và tư duy về con người của nhà văn đã có những

32
bước tiến đầu thật sâu sắc, nó chính là sự mở đầu mang tính tiên phong để các
nhà văn sau này kế thừa và phát huy.
Sự thay đổi và phát triển tư duy nghệ thuật xét đến cùng, cái quan trọng
nhất chính là sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Nguyễn Minh
Châu đã sớm đặt ra cho mình nhiệm vụ phải thay đổi cách viết, cách nhìn
nhận về cuộc sống nói chung và con người nói riêng. Chính điều đó tạo nên
một Nguyễn Minh Châu : luôn đề cao con người, coi con người là giá trị cao
nhất của cuộc sống, cho dù cuộc sống vốn nhiều biến động và đổi thay. Kết
tinh của tâm huyết và tài năng, của thế giới quan và nhân sinh quan được thể
hiện rõ nhất ở cách cắt nghĩa, lí giải và xây dựng hình tượng con người.
Những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh
Châu cũng chính là tiền đề của mọi cách tân trong sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn.

33
Chương II
NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG

2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện


Cốt truyện là " Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư
tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất
trong tác phẩm tự sự " [13,88]. Thông thường có hai loại cốt truyện chủ yếu:
"Một loại kể về một trường hợp đặc biệt nào đó và một loại truyện kể về
những sự kiện đơn giản bình thường " [ 58,103 ].
Căn cứ vào khái niệm cốt truyện, có thể thấy cốt lõi của cốt truyện là hệ
thống sự kiện, được sắp xếp thành các phần của cốt truyện.
Qua quá trình khảo sát thực tế truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, ta
nhận thấy cốt truyện trong các sáng tác của ông thường được tổ chức theo
những cách thức sau.
2.1.1.Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có cả hai loại cốt truyện như trên, và
có một số truyện ngắn có thể xếp vào loại truyện không có cốt truyện, ( Tuy
đây là vấn đề đang được bàn cãi ) song phần lớn truyện ngắn của ông thuộc
loại cốt truyện thứ hai, đặc biệt là truyện ngắn sau 1975.
2.1.1.1. Kết cấu sự kiện
Đối với loại kết cấu sự kiện, đây là kiểu kết cấu cốt truyện chặt chẽ với
nhiều sự kiện, biến cố, linh động. Với kiểu kết cấu này, cốt truyện trở thành
cái khung để qua đó tính cách nhân vật bộc lộ rõ nét. Có thể bắt gặp loại cốt
truyện này trong các sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu như: Cơn
giông, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam …
Trong tác phẩm “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Nguyễn
Minh Châu đã tổ chức cốt truyện dàn trải trong một thời gian dài tạo nên tính
chất ly kỳ, hấp dẫn của một cốt truyện phiêu lưu. Đó là cuộc phiêu lưu tình ái
của nhân vật Quì, với 12 năm ở chiến trường B và trở về hậu phương, mối

34
tình ấy được thể hiện thông qua hồi ức về những người đàn ông đã đi qua đời
chị. Trong những câu chuyện về Hoà, về Hậu, về những người lính Trường
Sơn đã từng yêu Quì, về bác sĩ Thương, về Ph..., nhà văn đặc biệt chú ý xây
dựng nhiều tình huống rắc rối, ly kì, căng thẳng như chuyện tỏ tình vừa bằng
van xin vừa bằng đe doạ của Quì; cái chết với nụ cười bí ẩn của Hoà; Quì tình
cờ biết được tình yêu của những người lính qua nhật ký của họ, từ bất ngờ
gây nên cái chết cho Hậu, rồi những lần gặp gỡ với Ph.., những đêm lang
thang trong cơn mộng du của Quì... Xây dựng những tình tiết ấy nhằm đi sâu
vào tâm lý phức tạp của nhân vật, để thể nghiệm những chiêm nghiệm, suy
nghĩ, nhận thức của Quì sau mỗi diễn biến cuộc đời từ quá khứ của chị, từ đó
bộc lộ tính cách đặc sắc và có phần dị biệt khác thường của nhân vật này -
Một nhân cách cao đẹp luôn khát khao vươn tới sự tận mĩ, tận thiện, luôn luôn
muốn vươn lên trên cái dung tục tầm thường của cuộc sống.
Không kém những sự kiện, biến cố, cốt truyện trong “Cỏ lau” hoàn
toàn có thể triển khai thành một tiểu thuyết thực sự. Truyện xoay quanh bi
kịch của bộ ba Lực - Thai - Quảng, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành
công nhiều tình huống, nhiều cảnh đời đan xen, nhiều xung đột tâm lý một
cách đa chiều của các nhân vật, đặt trong sự pha trộn những khoảng thời gian
của hiện tại, quá khứ, tương lai, trong những không gian đầy kỷ niệm và ý
tưởng…Tất cả được triển khai trong một cốt truyện có kết cấu rõ ràng, để rồi
làm toát lên chủ đề tư tưởng chính của tác phẩm: Số phận con người sau chiến
tranh.
2.1.1.2. Kết cấu tâm lý
Đối với loại kết cấu tâm lý có thể xem đây là kiểu kết cấu cốt truyện
"lỏng " không biến cố, truyện của ý thức, tâm trạng. Trong kiểu kết cấu, chất
"chuyện " mờ nhạt, rất khó tóm tắt, khó kể lại. Truyện thường có rất ít những
chuyển động về mặt hành động bên ngoài, nếu có cũng không tác động nhiều
đến cốt truyện. Người đọc hiếm tìm thấy những xung đột phức tạp, những
tình huống kịch, hoặc lối kể chuyện có trước có sau. Ở loại kết cấu này, các

35
yếu tố sự kiện, tình tiết nhân vật ...được triển khai theo mạch vận động của
cảm xúc, suy nghĩ là chính, hoặc triển khai từ những tình huống tâm lý. Kiểu
kết cấu này ta thường bắt gặp ở nhiều tác giả và tác phẩm trước năm 1945
như Nam Cao, Thạch Lam... Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được
tổ chức cốt truyện theo kiểu kết cấu tâm lý: Bức tranh, Dấu vết nghề nghiệp,
Một lần đối chứng, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát…
Đọc Bức tranh, Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp, Một lần đối chứng, ta
dường như không thấy có hành động bên ngoài nào đáng kể. Đó chỉ là một
cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa người hoạ sĩ với anh chiến sĩ " thồ " tranh năm xưa,
những lần đi cắt tóc của hoạ sĩ ( Bức tranh ); sự dịch chuyển khó khăn của
nhân vật Nhĩ trong hoàn cảnh bệnh tật và hành động nhờ con trai đi sang bến
sông trước mặt( Bến quê ); những" biến cố " nhỏ nhoi của các con vật ( Một
lần đối chứng) ... Hầu như toàn bộ câu chuyện diễn ra trong mạch vận động
của cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ, tâm lý của các nhân vật. Ở Bức tranh, cốt
truyện được triển khai từ hàng loạt những giằng xé nội tâm của nhân vật hoạ
sĩ: đặt ra câu hỏi rồi tự trả lời, tự đối thoại, biện hộ cho lỗi lầm, rồi tự kết tội
mình... cuối cùng là nhận rõ con người của mình trong sự sám hối. Còn trong
“Bến quê” là câu chuyện về nhận thức, chiêm nghiệm của một con người
trong những giây phút cuối đời. Người thủ thành già ( Dấu vết nghề nghiệp )
cuối đời nhìn lại những thành công, thất bại đánh dấu những " khoảnh khắc
hoàn hảo " và " thường xuyên không hoàn hảo" của mình để thấu tấm lòng
khoan dung, nhân hậu của người đồng nghiệp như một sự trải nghiệm tình
người, tình đời. Hay trong Một lần đối chứng, cốt truyện được triển khai khá
đặc biệt, từ sự quan sát loài vật đi đến những suy ngẫm về con người; từ đó
đưa ra đề nghị một cuộc đối chứng giữa cái thiện và cái ác, giữa lý trí, trí tuệ
và bản năng mù quáng, giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và
chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và khoảng tối trong tâm hồn con người...Tất
cả đều được tổ chức bằng sự vận động tâm lý, từ đó nhằm mục đích thể hiện
rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm và khắc hoạ tính cách nhân vật.

36
Trong Khách ở quê ra, khi mới đọc ta thấy cốt truyện dường như rời
rạc thiếu tập trung, có cảm giác như có sự phân tán chủ đề. Hành động bên
ngoài của nhân vật chỉ thấy: lão Khúng và Định hàn huyên trong bữa rượu
gặp mặt ở đầu truyện. Định đưa Khúng đi chợ mua sắm và lão gặp Khúng đáp
tàu ra về ở cuối truyện. Xong Nguyễn Minh Châu đã tổ chức cốt truyện trải ra
thành nhiều vấn đề thông qua những lời kể và hồi ức của nhân vật, thoạt trông
có vẻ rời rạc, không ăn nhịp. Những chi tiết, tình huống mà tác giả sử dụng
tưởng như ngẫu nhiên, lôn xộn, nhưng đều kết dính vào trong mạch truyện về
tính cách nông dân của lão Khúng và những biểu hiện tính cách ấy trước xu
hướng đô thị hoá. Điều đó cho thấy cách triển khai cốt truyện khá tự do của
tác giả - cách viết mà Trần Đình Sử đã giải thích bằng luật " hội tụ ánh sáng
": tác giả đã sử dụng luật này để " soi rọi vào một chi tiết làm cho hình tượng
của anh tuy bề ngoài rất cá biệt nhưng lại có tầm khái quát đáng kể " [ 46 ].
Chính luật " hội tụ ánh sáng " mà Trần Đình Sử đã nêu ra khiến cho tác phẩm
mở ra nhiều vấn đề trong khuôn khổ một cốt truyện ngắn và nó góp phần làm
nên tính chất đa thanh trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
2.1.1.3. Truyện không có cốt truyện
Trong các sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975, có
một số truyện có thể xem là " không có cốt truyện". Đúng ra, là loại truyện kể
về những " sự đơn giản, bình thường " được xây dựng từ những bức tranh đời
sống, những cốt truyện không có mở đầu hay kết thúc, vắng bóng những thắt
nút, mở nút hồi hộp, chỉ có sự tái hiện những dòng đời đang tự nhiên trôi
chảy. Trước năm 1975 ta ta từng bắt gặp nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh
Châu viết theo kiểu này để tái hiện lên những mảnh đời bình dị trong cảm xúc
ngợi ca cuộc sống, con người và kháng chiến. ( Lá thư vui, Những vùng trời
khác nhau, Chuyện Đại đội ...). Sau 1975, loại truyện " không có cốt truyện "
được Nguyễn Minh Châu tiếp tục phát triển theo một hướng mới đi vào đề tài
sinh hoạt, thế sự: Hương và Phai, Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Người
đàn bà tốt bụng….Trong các truyện, cốt truyện được triển khai bằng những

37
chi tiết miêu tả, kể lại những sự việc bình thường của cuộc sống. Trong truyện
ta dễ nhận thấy không có sự xuất hiện của những tình huống có vấn đề. Nhân
vật mặc nhiên cư xử, hành động theo thói quen, nếp sống của họ. Tác giả và
người đọc mới là người nhận thức và suy ngẫm những vấn đề nảy sinh từ
cách ứng xử, lối sống... của nhân vật. Tất cả những sự việc diễn ra của dòng
đời đang trôi chảy tự nhiên được tác giả sắp xếp trong những mối tương quan
nhân quả để tự người đọc nhận ra bản chất, quy luật của cuộc sống từ những
sự kiện bình dị nhất, nhỏ nhặt đời thường.
Đọc truyện ngắn Đứa ăn cắp, ta bắt gặp cốt truyện là sự tái hiện bức
tranh đời sống quen thuộc ở một khu tập thể. Nhà văn chỉ làm công việc thuật
lại những chi tiết đời thường đang diễn ra ở đó: những câu chuyện nhàm chán,
vô vị, vô trách nhiệm của những người đàn bà, những trạng thái cảm xúc của
con người ( phẫn nộ, sợ hãi, hả hê, sung sướng, căm giận, bịn rịn, xót
thương...) Cốt truyện không hề có sự biến cố nào nổi bật, kể cả khi xuất hiện
cái chết của một con người.(Sự kiện có thể xem là điểm nút trong một cao
trào bi kịch nào đó của cuộc sống thường ngày) xong trong truyện nó chỉ là đề
tài bàn luận của những người đàn bà hay thóc mách... Xong ẩn sau những bức
tranh thế sự ấy, người đọc nhìn thấy ở tác giả thái độ phê phán nghiêm khắc
với những lời nói, hành vi vô trách nhiệm, sự thờ ơ, dửng dưng với số phận và
danh dự con người.
Có kết cấu giống như trong Đứa ăn cắp, cốt truyện trong Hương và
Phai, Mẹ con chị Hằng, Người đàn bà tốt bụng cũng gồm những mảnh đời
vụn vặt, bình dị, những bức tranh đời sống được nhà văn thuật lại trong tư thế
của người kể chuyện một cách khác quan. Chỉ là chuyện về cách ứng xử với
chồng con, với mẹ từ một người mẹ trẻ ( Mẹ con chi Hằng ); đó là chuyện
một người đàn bà tốt bụng với tất cả mọi người trong khu tập thể và làm cho
khu tập thể nhiều phen lao đao vì sự sốt sắng hồn nhiên của mình. (Người
đàn bà tốt bụng) hay những câu truyện tầm phào trong hiệu sách, nơi vòi
nước công cộng, bên chảo ô mai, chuyện đám cưới, chuyện lo toan sinh kế

38
hàng ngày... từ góc nhìn của hai đứa trẻ (Hương và Phai )... Người đọc không
bắt gặp những tình tiết ly kỳ rắc rối căng thẳng, cũng không có sự kiện, biến
cố nào đáng kể trong mạch truyện trôi chảy một cách dung dị. Xong cũng từ
chính những nghịch lý xuất hiện trong các câu chuyện đời thường ấy, Nguyễn
Minh Châu lại giúp người đọc nhận ra và khái quát nên những triết lý nhân
sinh, chiêm nghiệm lẽ đời và cảnh tỉnh những tình trạng đạo đức trong xã hội.
2.1.1.4. Phối hợp nhiều kiểu kết cấu cốt truyện
Trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu, không phải tất cả các
truyện ngắn của ông đều có thể phân định rạch ròi theo các kiểu kết cấu cốt
truyện đã được nêu trên. Ngay cả những truyện đã được xếp vào một trong
những loại cốt truyện nào đó cũng chỉ là sự xem xét kết cấu truyện ở những
nội dung cơ bản nhất của nó. Nghiên cứu sâu từ góc độ thi pháp học khi khảo
sát truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, ta nhận thấy nhiều truyện được tổ
chức theo cách phối hợp nhiều kiểu cốt truyện.
Đọc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, người đọc dễ nhận ra
đây là cốt truyện có kết cấu chặt chẽ rõ ràng với nhiều sự kiện, nhiều biến cố (
Kiểu kết cấu sự kiện), xong đồng thời đây cũng là một cốt truyện được tổ
chức theo kiểu kết cấu tâm lý. Truyện có xen kẽ với những tình huống ly kỳ,
rắc rối, căng thẳng là những diễn biến tâm lý vừa phức tạp vừa sâu sắc của
nhân vật Quỳ. Cứ sau mỗi chuyện về một con người, một đau thương. Quỳ lại
có cơ hội để chiêm nghiệm, suy ngẫm, nhận thức lại những dấu ấn sâu đậm do
chính những biến cố ấy để lại trong chị, về những quan niệm, lẽ sống của chị,
về những vấn đề triết lý nhân sinh... Chính vì thế, có thể nói, truyện vừa là
những sự kiện ,biến cố bề bộn vừa là dòng ý thức, tâm trạng của nhân vật
chính. Đây là kiểu kết hợp hai kiểu kết cấu sự kiện và kết cấu tâm lý, tạo nên
hiệu quả nghệ thuật đáng kể cho việc xây dựng một nhân vật có tính cách đặc
biệt - có phần dị biệt và đáng nhớ trong tâm lý người đọc.
Trong cốt truyện Bức tranh, Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê có sự có
sự phối hợp kiểu kết cấu luận đề và kết cấu tâm lý. Được xây dựng trên những

39
nguyên tác luận đề, những cốt truyện này được triển khai từ những hạt nhân
cốt lõi là xung đột đầy nghịch lý, mang tính chất bi kịch, dẫn người đọc tới sự
phản tỉnh trong nhận thức về một quan niệm tư tưởng vốn có. Điều dễ nhận
thấy trong những tác phẩm này là, để thực hiện được cốt truyện như thế, nhà
văn đã sử dụng nhiều chi tiết miêu tả sự vận động của tâm lý, cảm xúc, suy
nghĩ bên trong của nhân vật. Chính vì thế, những vấn đề tư tưởng nhà văn đưa
ra đã đến được với người đọc một cách thuyết phục. Sự thành công ấy do một
phần tài năng của tác giả trong nghệ thuật miêu tả tâm lý, một phần do đó
chính là sự trăn trở, suy ngẫm từ ruột gan của nhà văn. Hay đúng hơn là sự
thành công trong việc sử dụng, phối hợp kết cấu luận đề với kết cấu tâm lý
đem lại hiệu quả mang giá trị nhân văn và thẫm mỹ cao.
Ngoài những kiểu phối hợp kể trên ta còn bắt gặp nhiều kiểu kết cấu
khác trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Nghiên cứu và tìm hiểu Sắm vai,
Chiếc thuyền ngoài xa ta bắt gặp kiểu kết cấu sự kiện với kết cấu luận đề,
truyện Cơn giông, Cỏ lau…lại là sự kết hợp tài tình giữa kết cấu sự kiện với
kết cấu tâm lý... Có thể nói, sự phối hợp nhiều kiểu kết cấu trong tổ chức cốt
truyện là một nét đặc sắc trong nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, góp phần tạo nên thành công trong việc thể hiện con người và hiện thức
trong sáng tác sau năm 1975.
2.1.2 Tổ chức sự kiện
Sự kiện là những biến đổi, tác động, sự cố có ý nghĩa quan trọng đối
với nhân vật, làm cho nhân vật và quan hệ của chúng không giữ nguyên hiện
trạng mà phải biến đối theo. Đối với tổ chức cốt truyện, sự kiện là chất liệu cơ
bản để tạo thành một cốt truyện. Những sự kiện lớn có thể tạo thành những
bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời nhân vật và được gọi là các biến cố.
Việc tổ chức một cách có hệ thống sự kiện, biến cố là một nhân tố quan trọng
của tổ chức cốt truyện.
2.1.2.1.Tổ chức một sự kiện duy nhất

40
Đọc và tìm hiểu Bức tranh, Sắm vai, Bến quê, Hạng … có thể thấy
đây là những truyện có một sự kiện duy nhất. Trong Bức tranh chỉ có một sự
kiện: cuộc gặp gỡ tình cờ của người hoạ sĩ với anh lính thồ tranh cho mình
tám năm về trước trên đường từ chiến trường ra hậu phương - giờ là người
thợ cắt tóc. Theo diễn biến thông thường, người đọc chờ đợi một cuộc gặp gỡ
vui vẻ hoặc bồi hồi cảm động trong việc ôn lại những kỉ niệm chiến trường,
hay có thể là sự " thanh toán " nợ nần của nhau trong quá khứ đã sống...
Nhưng trong Bức tranh, truyện không kết nối bằng những hành động bên
ngoài mà được đẩy vào diễn biến tâm lý bên trong của nhân vật hoạ sĩ. Cuộc
sống tinh thần của người hoạ sĩ đã biến đổi, tâm hồn ông không còn cảm thấy
thanh thản do " món nợ quá khứ " được đánh thức lại một cách ngẫu nhiên từ
cuộc gặp gỡ tình cờ đó. Chính cuộc gặp gỡ tình cờ đã đẩy người hoạ sĩ vào
một cuộc đấu tranh nội tâm hết sức quyết liệt, dai dẳng, luôn bị giằng xé giữa
hai phần tốt - xấu trong con người mình. Ta cảm thấy bất ngờ thực sự bởi diễn
biến của câu truyện. Xong những gì diễn ra trong nội tâm của nhân vật và kết
quả của nó lại đem đến cho người đọc một niềm tin vào sự hướng thiện của
nhân cách con người sau khi con người đã nhận ra bản chất của chính mình.
Cùng một mạch vận động tâm lý, sự kiện nhân vật Nhĩ bị ốm, phải nhờ
con trai hộ mình đi sang bến sông trước mặt trong Bến quê, không giống như
sự mở đầu trong Bức tranh mà là kết thúc cho một diễn biến tâm lý. Sự kiện
này là kết quả mang sức nặng của nhận thức nhân vật về cái hữu hạn, về
những giới hạn của cuộc đời, về nỗi ân hận đau đớn khi mất đi những điều
quý giá mà không bao giờ có thể lấy lại và bù đắp được.
Không như trong Bức tranh và Bến quê tổ chức sự kiện trong quá trình
diễn biến tâm lý, ở Sắm vai, sự kiện nhà văn T sắm vai giữa đời thường theo
ý muốn của người vợ trẻ được đặt ngay trong những chuyện hàng ngày dường
như rất vặt vãnh, nhỏ nhặt. Nhưng chính nó lại là sự kiện có tác động lớn đến
nhân vật, đẩy nhân vật vào bi kịch đánh mất mình. Những sự việc tưởng
chừng như bình thường trong cuộc sống lại ẩn chứa một vấn đề tư tưởng sâu

41
xa: sống trong vai diễn, đánh mất mình là một cực hình mà con người đến
một giới hạn nào đó sẽ không thể chịu đựng nổi và nhất định sẽ trở về với con
nguời thật của chính mình. Đây chính là vấn đề lựa chọn cách sống sao cho
đúng với bản chất của mình- điều đã khiến Nguyễn Minh Châu đau đáu, trăn
trở trong nhiều năm trời mới có thể khái quát và nói thật ra được.
Có thể nhận thấy cách tổ chức một sự kiện duy nhất gắn với những diễn
biến tâm lý hoặc với những sự việc tưởng như đơn giản bình thường như
trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã góp phần khắc sâu những
vấn đề tư tuởng mà tác giả muốn gửi đến người đọc thông qua tác phẩm.
2.1.2.2. Tổ chức mối tương quan giữa các sự kiện
Khảo sát và nghiên cứu truuyện ngắn Nguyễn Minh Châu ta thấy chủ
yếu là loại truyện ý thức, tư tưởng, tâm trạng. Trong các truyện ngắn, lượng
sự kiện không nhiều và chủ yếu đóng vai trò gợi tâm lý, suy nghĩ, nhận thức
hoặc cảm xúc, tâm trạng... của chính các nhân vật. Để thể hiện rõ vai trò đó,
hệ thống sự kiện được tổ chức trong mối tuơng quan cố định. Thể hiện rõ
trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, mối tương quan giữa các kiện
được tổ chức khá linh hoạt dưới các cung bậc khác nhau.
Đôi khi sự kiện được tổ chức nối tiếp nhau theo phép tăng cấp, sự kiện
nọ nối tiếp sự kiện kia để qua đó bộc lộ hết các hành động, tính cách của từng
nhân vật. Cách tổ chức này ta thường bắt gặp nhiều trong các sáng tác của
Nguyễn Minh Châu trước năm 1975.
Sau năm 1975, ở một số truyện sự kiện được tổ chức theo lối kết cấu
tương đồng. Sự kiện nọ nối tiếp sự kiện kia tái hiện lại cả cuộc đời, số phận,
tính cách của nhân vật.Trong Mùa trái cóc ở miền Nam, toàn bộ sự kiện
được thuật lại qua lời kể của nhân vật " tôi ", người chứng kiến và tham gia
câu chuyện.Truyện gồm các sự kiện chính: cuộc gặp gỡ sau hơn hai mươi
năm giữa sư bà Thiện Linh và con trai; cuộc hội ý căng thẳng giữa Toàn và
các đại đội trưởng; cái chết đầy nghịch lý của Phác; kết thúc là sự kiện sư bà
Thiện Linh đi ăn mày cầu xin tình thương của thiên hạ. Xen kẽ trong các sự

42
kiện ấy là những sự việc mà nhân vật " tôi " quan sát thấy trong chuyến đi
xuống tiểu đoàn và câu chuyện quá khứ của người mẹ đau khổ. Các sự kiện
chính nối tiếp nhau đã tập trung làm nổi bật tính cách và số phận của các nhân
vật: Toàn đại diện cho kiểu người cơ hội, độc đoán, một cỗ máy duy ý trí, đầy
lạnh lùng và tàn nhẫn; còn nhân vật người mẹ là hiện thân của của số phận
đau khổ, tội nghiệp. Số phận ấy khiến cho tất cả người đọc cảm thấy xót xa
thương cảm. Đối với kiểu " ông quan cách mạng " như Toàn hay như con trai
ông già đi khai hoang trong truyện Cỏ lau độc ác, mê quyền lực, gây bao điều
nghịch lý đau đớn cho người khác - loại hạng người mới " nảy nòi " sau ngày
chiến thắng - đã làm cho Nguyễn Minh Châu cảm thấy " chìm ngập trong nỗi
lo âu lớn lao khắc khoải về con nguời " - nỗi lo âu xuất phát từ một trái tim
đầy nhân hậu đối với con nguời và cuộc đời.
Được tổ chức sự kiện theo lối tương đồng, ở Cỏ lau, Chiếc thuyền
ngoài xa, ta bắt gặp hệ thống sự kiện gắn liền với mỗi nhân vật đều hoà kết
lại để làm hiện rõ số phận éo le, ngang trái của con người sau chiến tranh, số
phận của các nhân vật hiện rõ như của người phụ nữ làng chài đầy nhọc nhằn
bất hạnh... Có thể thấy, cách kết cấu sự kiện theo lối tương đồng trong mỗi
truyện đã góp phần vào thành công trong việc xây dựng nhân vật và thể hiện
tư tưởng, chủ đề của từng tác phẩm.

Trong tác phẩm Phiên chợ Giát, một tuyệt tác cuối đời của Nguyễn
Minh Châu khi ông linh cảm được hơn bao giờ hết cái chết đã gần kề vì căn
bệnh quái ác, ta thấy sự kiện chính trong truyện được tổ chức trong mối tương
quan có tính chất tương phản: quan hệ nhân quả và quan hệ phản nhân quả.
Truyện gồm bốn sự kiện chính: lão Khúng dắt bò đi bán; lão Khúng nhớ lại
cuộc đời; lão Khúng giải thoát cho con bò; con bò trở về. Quan sát mạch sự
kiện này, ta thấy sự kiện dắt bò đi bán là tác nhân của sự kiện lão nhớ lại cuộc
đời mình. Vì chính cuộc đời nhọc nhằn bất hạnh trong cuộc sinh tồn gắn với
cái kiếp đeo ách trên vai suốt đời của con bò mà lão Khúng quyết định giải
thoát cho con bò. Mối quan hệ giữa sự kiện thứ hai và sự kiện thứ ba là mối

43
quan hệ nhân quả. Nhưng mối quan hệ giữa sự kiện lão Khúng giải thoát cho
con bò và sự kiện con bò trở về lại là mối quan hệ phản nhân quả. Con bò từ
chối sự tự do mà con người ban cho nó. Có một trăn trở đặt ra, điều này có
hợp lý không ? Suốt cuộc đời đeo ách cúi mặt trên những luống cày cùng lão
Khúng, sự vướng víu của cái cày và sợi dây thừng với con bò đã trở thành
nhu cầu sống. Nó giống như cảm giác lão Khúng mơ bị búa bổ vào đầu
nhưng vẫn " bình thản y như tuân thủ một lẽ đương nhiên ". Tự do đến với
con bò chỉ khi phục tùng, nô lệ đã trở thành một bản năng, nhu cầu sống, cho
nên việc con bò trở về là một kết cục tất yếu. Từ mối quan hệ nhân quả này
cho thấy Nguyễn Minh Châu đã phát hiện ra trong cái ồn ào xốc nổi của thời
đại một chân lý: để sinh tồn, con người phải ép mình trong muôn vàn lo toan
định liệu; con người có thể không làm nô lệ của ai nhưng sẽ là nô lệ của thói
quen của chính mình. Quan niệm này còn được xem xét và thể hiện rõ hơn
trong trạng thái của sự kiện đầu. ( lão Khúng dắt bò đi bán) và sự kiện cuối
(con bò trở về). Trong sự kiện đầu, biết việc bán bò là hợp lẽ nhưng lão
Khúng (và cả vợ con lão) vẫn đau khổ vì mối gắn bó thân tình sâu nặng.
Riêng lão Khúng, sự tiếc nối day dứt về số phận của nó còn lớn hơn nhiều, vì
lão là người gắn bó với nó lâu và tha thiết hơn ai hết. Nhưng đến sự kiện cuối
cùng, lão đã " tự nguyện chấp nhận số phận ". Chính sự kiện cuối cùng lặp lại
trạng thái của sự kiện đầu nhưng đã chuyển sang một trạng thái mới. Sự trùng
lặp trong bản chất của trạng thái tâm lý cho thấy con người không thể thay đổi
được số phận một phần bởi sự ràng buộc của thói quen nô lệ vốn đã được
hình thành trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Đồng thời, việc con bò trở về cho
thấy tính chất ảo tưởng trong khát vọng của con người. Giải phóng và tự do
luôn là khát vọng tốt đẹp song không phải khi nào con người cũng có thể thực
hiện được nó. Thực tế cuộc sống cho thấy, con người không chỉ bị ràng buộc
bởi thói quen mà còn chịu sự chi phối của số phận. Họ đầy suy tư, ngâm ngợi,
đằm và chín hơn khi nói về mình và mọi người, kể cả cách thể hiện niềm vui,
nỗi buồn cũng khác. Màu sắc triết lý đã phảng phất đâu đó trong các truyện

44
ngắn về sau của nhà văn và thoảng cả chút hơi hướng của cái bi không thể
tránh khỏi. Đó chính là khía cạnh tội nghiệp đáng thương của kiếp người mà
Nguyễn Minh Châu bằng linh cảm nhạy bén, bằng những trải nghiệm, thấu
hiểu, đã phát hiện và thể hiện qua bút lực phi thường tuyệt vời trong tác phẩm
nói riêng và trong các sáng tác của mình nói chung.

Đối với truyện có nhiều sự kiện, ngoài những cách thức tổ chức sự kiện
theo lối tăng cấp, tuơng đồng, nhân quả và phản nhân quả như trên, Nguyễn
Minh Châu còn tổ chức sự kiện theo hình thức lắp ghép các mảng sự kiện trộn
lẫn. Có thể bắt gặp kiểu cấu trúc này qua một số truyện như : Bên đường
chiến

tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cơn giông, Khách ở quê ra,
Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên chợ Giát.

Đối với hình thức lắp ghép các mảng sự kiện, trật tự các sự kiện bị đảo
lộn, từ đó gây được ấn tượng mạnh đối với người đọc và làm nổi bật lên chủ
đề tư tưởng. Có lúc cốt truyện là sự đan xen giữa các sự kiện thời gian, quá
khứ và hiện tại. Tất cả làm sáng lên, đối lập nhau một cách linh hoạt để mỗi
truyện đi đến khám phá đến tận cùng số phận và tâm hồn nhân vật. Bên
đường chiến tranh là một câu chuyện cảm động về một tình yêu trong sáng,
thuỷ chung khắc khoải trong ba mươi năm bặt tin xa cách mà sự kiện trong
quá khứ được đánh thức từ sự kiện hiện tại. Hiện tại ấy là hai người tình cũ
An và Hạnh gặp nhau bên bờ một cái giếng, gợi lại quá khứ " y như hồi đang
còn trẻ ở Vô Hốt " khi Hạnh còn là một cô bé đã đánh ghen một cách táo
tợn.Sợi tóc bạc trên mái tóc xoã xuống thành giếng của Hạnh sáng lên như nét
vẽ của thời gian, soi rõ kỷ niệm thời đầu xanh tuổi trẻ. Cuộc gặp mặt vui vẻ
của họ trong hiện tại là giây phút để Hạnh sống trong một vùng tưởng tượng
huyền ảo của mộng tưởng quá khứ, của nỗi đau mất mát và cả niềm sung
sướng xúc động. Hiện tại ấy cũng làm bùng lên nỗi niềm khắc khoải đợi chờ "
cất giấu một nửa trái tim " cho người tình của Hạnh trong quá khứ. Sự kiện
trong hiện tại và quá khứ đan xen nhau, soi chiếu cho nhau làm sáng rõ lên vẻ
45
đẹp trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Đó chính là cội nguồn của sức mạnh
tinh thần vạn năng đối với con người.
Không đặt ngoài tổ chức mối quan hệ như Bên đường chiến tranh, hệ
thống sự kiện trong Cơn giông, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Khách ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát... cũng được tổ chức theo hình thức
đan xen giữa sự kiện thời gian quá khứ và thời gian hiện tại. Những sự kiện
thời gian quá khứ hiện về qua lời kể của nhân vật (Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành ) hoặc qua hồi ức, nhớ lại của nhân vật ( Cơn giông, Khách ở
quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát ) tất cả được đan cài với những sự kiện trong
hiện tại để nối liền quá khứ - hiện tại, tất cả liên kết với nhau trong sự vận
động của mạch truyện, từ đó thể hiện một cách sâu sắc, tinh tế thế giới vi diệu
bên trong của con người với cả những góc khuất sâu thẳm nhất của tâm hồn.
Chính cách tổ chức sự kiện này đã góp phần tạo nên hệ thống nhân vật hướng
nội - nét thành công và đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và cũng
là đóng góp mới mẻ cho văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Đọc Phiên chợ Giát, người đọc cảm thấy thích thú bởi trình tự sự kiện
đan xen giữa quá khứ - hiện tại còn được kết hợp với trình tự sự kiện đan xen
giữa cái ảo và cái thực. Cái ảo trong truyện ngắn này được biểu hiện qua hình
thức giấc mơ. Trong giấc mơ thứ nhất trước khi dắt con bò đi bán, lão Khúng
thấy mình bổ chiếc búa to nặng xuống đầu con khoang đen; trong giấc mơ
sau, khi trên đường đi, lão thấy mình mang thân nửa người nửa bò, bị đánh
bằng búa tạ và bình thản như tuân theo như một lẽ đương nhiên. Điều kỳ lạ
nhất trong giấc mơ của lão là cái ảo hoà trộn và rây rưa đến tận cõi thực khiến
lão Khúng khi tỉnh giấc vẫn không thoát khỏi những ám ảnh về tên hung thần
đồ tể, về cảm giác của loài vật do giấc mơ hằn lại trong tâm trí lão. Lão chỉ
yên tâm nằm xuống khi nghe rõ tiếng khụt khịt của con khoang đen sau nhà
bếp. Trên đường đi, khi đã tỉnh sau giấc mơ thấy mình biến thành bò, lão
nhanh chóng sờ nắn chân tay xem mình có đuôi hay không. Khi biết mình "
vẫn là loài người nguyên vẹn " lão vẫn như thấy hình dáng bò của lão trong

46
thân bò hoang dã đang đi trên núi... trong khi bản thân gã hoàn toàn sống
trong cái thực: trên đường mang con bò xuống chợ Giát. Chính cái kiếp người
- bò vốn được vận hành từ lâu trong thực tế con người lão Khúng mà lão
không ý thức được thì bây giờ nó bắt đầu xuất hiện và va đập trong đầu lão.
Đúng như Đỗ Đức Hiểu, trong Đổi mới đọc và bình văn, Nxb Hội Nhà văn,
H.1999 từng nói “Truyện không khép kín ở một ý nghĩa nào, nó mở cho mỗi
nhóm người đọc một chân trời … Sự hóa thân người / bò của ông lão Khúng/
Khoang đen, sự phân đôi nhân cách ấy, sự kết hợp hai ý thức con người/ con
vật ấy, là bi kịch của nhân vật, của thời đại. Sự quan sát xã hội di chuyển vào
sự quan sát nội tâm, tạo nên một tâm lý vận động, đó là nghệ thuật của truyện
ngắn Phiên chợ Giát. Văn bản di động trên nhiều bình diện: ngôn ngữ, hình
tượng, xã hội, tâm lý, quá vãng và hiện tại, lịch sử và tưởng tượng ”
Có thể xem cách thức tổ chức sự kiện sự đan xen cái ảo và cái thực, đặt
nhân vật trong trạng thái tâm lý hoà trộn lan man rây rưa từ mơ sang tỉnh, từ
hư sang thực đã khiến cho hình tượng nhân vật trở nên đa nghĩa. Nét nghệ
thuật này đã bắt nhanh và nhịp cùng tính đa nghĩa của hình tượng văn xuôi
đương đại, chính nó đã góp phần lớn khẳng định vai trò của văn học trong
việc phản ánh thế giới đa dạng, đa chiều.
Cùng được tổ chức sự kiện theo cách lắp ghép nhưng trong Sống mãi
với cây xanh, thiên truyện duy nhất của Nguyễn Minh Châu mang nhiều nét
viễn tưởng lại có kiểu lắp ghép các mảng cốt truyện. Các mảng cốt truyện nhỏ
này có thể hoàn toàn độc lập với nhau trong một mạch truyện về những con
người muốn " sống mãi với cây xanh ". Truyện được xây dựng dưới dạng hồi
ký của hai nhân vật đặc biệt là cây sấu và cây cột điện, với ba mảng tổ chức:
chuyện về một người biết nói chuyện với cây cối; chuyện về một chàng thanh
niên lang thang tìm cha và một cô gái ngại xê dịch; chuyện về một người đàn
bà dưới gốc cây sầu đông. Trong đó mỗi mảng lại có cách tổ chức sự kiện cốt
truyện riêng, nhưng tựu trung lại đều tập trung thể hiện tính cách, số phận của
những con người ước mong được " sống mãi với cây xanh " - với môi trường

47
thiên nhiên, trong hoàn cảnh đất nước đang ngày càng bị đô thị hoá và qua đó
thể hiện rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm: đời sống, số phận mỗi con người,
mỗi cộng đồng dù lớn hay nhỏ đều có thể đổi thay theo sự vận động đi lên của
cuộc sống, nhưng con người không thể và không bao giờ nên quên lãng quá
khứ, đặc biệt phải sống hoà hợp cùng thiên nhiên - môi trường xanh của cuộc
sống. Đúng như nhận xét của Lại Nguyên Ân: " Những truyện ngắn có nội
dung triết học, đôi khi mang cả màu sắc "viễn tưởng" như trên, của Nguyễn
Minh Châu, như vậy, không phải là đuổi theo cái bóng mơ hồ của những sự
trừu tượng tư biện, trái lại, là những sáng tạo in đậm những thao thức suy
nghĩ của nhà văn trên hàng loạt vấn đề cấp thiết đã và đang diễn ra trong đời
sống ý thức của xã hội chúng ta. Chiều sâu mới mẻ trong sáng tác truyện của
Nguyễn Minh Châu chính là nảy sinh trong sự đổi mới các bình diện nhận
thức đời sống, mạnh dạn đi tìm nhiều cách thể hiện khác nhau, tự làm phong
phú các khả năng nghệ thuật của mình và của chung nền văn xuôi chúng ta,
vốn đang bước vào một thời kỳ phát triển mới." ( Tạp chí Văn học, số 3/1987
).
2.1.2.3. Cách sắp xếp các thành phần cốt truyện
Cùng với việc tổ chức sự kiện, cách sắp xếp các thành phần cốt truyện
chính là một khía cạnh của tổ chức cốt truyện.
Nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ta thấy truyện ngắn của
ông có cách sắp xếp thành phần cốt truyện hết sức linh hoạt, có nhiều nét mới,
hiện đại. Đa phần các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sử dụng hai cách
sắp xếp thành phần cốt truyện: truyền thống và không truyền thống.
Đối với cách sắp xếp thành phần cốt truyện theo kiểu truyền thống,
đây là kiểu kết cấu mà nhà văn tổ chức, sắp xếp các sự kiện, sự việc trong tác
phẩm theo trình tự: đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề. Nói cách
khác, cách sắp xếp theo trình tự gồm năm phần theo một mô típ chung: trình
bày, thắt nút, phát triển, cao trào và mở nút. Đối với truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu cách sắp xếp này không nhiều, trong hơn ba mươi truyện ngắn

48
của ông chỉ có vài truyện kết cấu theo kiểu truyền thống. Tiêu biểu trong số
này là truyện Sắm vai.
Trong truyện Sắm vai, phần trình bày mở đầu cho câu chuyện là những
lời giới thiệu đôi nét của nhân vật " tôi " về mình, về nhà văn T. - nhân vật
chính của câu truyện, mà ấn tượng mạnh nhất là " con người đã dám tự tước
bỏ đi hết mọi cái phù phiếm, những lớp vỏ bề ngoài vô bổ, tất cả những cái gì
lấp lánh, có thể lừa dối mình và người khác, trong cuộc sống hàng ngày của
chính mình ". Sau dòng giới thiệu, truyện được thắt nút bằng sự kiện " tôi "
thấy anh T. thay đổi thời gian biểu và những thói quen riêng của mình thành
giống như mọi người. Cái " nút " của truyện được triển khai tiếp theo trong
phần phát triển với toàn bộ các sự kiện được khai thác tới tận mọi góc cạnh
của nó: anh T. từ chỗ thay đổi thói quen, bắt đầu thay đổi ngoại hình, anh lắp
răng giả, cai thuốc lào để giữ răng và hơi thở, may quần áo theo kiểu dáng,
màu sắc thanh niên, nhuộm tóc... Nguyên nhân xuất hiện những " biến cố " ấy
là vợ anh ta sắp từ nước ngoài về.Sự kiện đó còn đẩy anh T. đến chỗ phải
thay đổi cả nếp sống, phải sắm vai người chồng lịch lãm, vui vẻ, trẻ trung
theo đạo diễn của cô vợ trẻ. Cao trào của quá trình thay đổi này là trò chơi "
vợ chồng dỗi nhau " mà trong đó anh phải nói cười như một cái máy. Đây là
một thử thách căng thẳng đối với một người ưa sống chân thật, giản dị, xuề
xoà như anh. Rồi hậu quả tất yếu xuất hiện. Câu chuyện kết thúc bằng việc
anh trở lại với con người thật của chính mình: trong bộ quần áo bộ đội - công
nhân giản dị, viết tiếp những trang bản thảo của cuốn tiểu thuyết dang dở -
tiếp tục thực hiện nghiệp cầm bút của mình.
Nhìn toàn cục tác phẩm, cốt truyện được tổ chức theo kiểu kết cấu luận
đề chặt chẽ, nghiêm ngặt và gắn kết. Các tình tiết, sự kiện được sắp xếp theo
đúng trình tự của cốt truyện truyền thống và làm nổi bật lên vấn đề tư tưởng
mà nhà văn muốn gửi đến người đọc: con người trong hoàn cảnh nào cũng
cần sống đúng với bản ngã của mình.

49
Không chỉ có Sắm vai, kiểu sắp xếp thành phần cốt truyện truyền thống
còn xuất hiện trong một số truyện gnắn khác của Nguyễn Minh Châu như :
Người mẹ xóm thờ, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng… Nhìn
chung, với kiểu kết cấu truyền thống các truyện được hình thành từ nhiều lớp,
có sự kế tiếp nhau xoay quanh cuộc đời, số phận, tư tưởng, tính cách nhân vật
để cùng hướng về biểu đạt giá trị tư tưởng của tác phẩm. Cách sắp xếp sự
kiện, sự việc có trước có sau của kiểu kết cấu truyền thống giúp người đọc có
thể sâu chuỗi, sắp xếp thành một mạch theo trình tự và kể lại câu chuyện một
cách đơn giản. Đây là ưu thế của kiểu kết cấu truyền thống.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn được mệnh danh là người " mở đường "
luôn trăn trở tìm tòi và sáng tạo, không dễ gì mà ông dừng lại ở một kiểu kết
cấu đơn nhất mà thực tế ông luôn sử dụng những cách sắp xếp thành phần cốt
truyện mới mẻ và đa dạng khác tạo nên nét riêng của cây bút " tinh anh và tài
hoa ".
Đối với cách sắp xếp thành phần cốt truyện theo cách thứ hai -
không theo truyền thống các truyện ngắn chiếm phần lớn các tác phẩm trong
cả sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Có một điều bất ngờ và lý thú
là ở mỗi truyện cụ thể cách sắp xếp lại được vận dụng một cách linh hoạt
không giống nhau. Trong quá trình nghiên cứu và khảo sát, ta thấy cách tổ
chức sắp xếp thành phần cốt truyện không theo truyền thống của Nguyễn
Minh Châu có một số điểm nổi bật đáng kể.
Đặc điểm đầu tiên trong kiểu kết cấu sắp xếp thành phần cốt truyện
không theo truyền thống là các cốt truyện được triển khai theo dòng ý thức,
tâm trạng, theo diễn biến tâm lý của nhân vật hoặc là sự ghi lại những chuyện
nhân sinh thế sự như vốn có trong dòng đời đang mặc nhiên trôi chảy. Sự kiện
trong các truyện thường được dàn trải, không có những xung đột, đột biến và
thường là các quá trình nhận thức của nhân vật (trong loại truyện ý thức và
tâm trạng) hoặc là những chiêm nghiệm nhân sinh mà tác giả để tự người đọc
rút ra qua việc kể chuyện ( trong loại truyện nhân sinh thế sự ).

50
Có một điều thích thú trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, có rất
nhiều cốt truyện không đầy đủ thành phần của cốt truyện truyền thống. Có
những cốt truyện không có phần trình bày ( Bến quê, Phiên chợ Giát ) hoặc
phần trình bày xen dần vào các thành phần khác của cốt truyện ( Bức tranh,
Khách ở quê ra ). Đối với những truyện này thường được mở đầu khi sự việc
xảy ra hoặc thậm chí đã kết thúc. Tức truyện mở đầu từ giữa, ( từ một hoàn
cảnh, một tâm trạng, hoặc một biến cố cụ thể ) hoặc từ cuối ( kết thúc một số
phận, một xung đột ...) từ đó tạo ra một kết cấu xen kẽ về thời gian, có thể là
quá khứ - hiện tại - tương lai, hay đôi khi là sự trái ngược hoặc chỉ có quá khứ
- hiện tại... Bến quê bắt đầu từ tâm trạng Nhĩ - một người nằm trên giường
bệnh, từ tâm trạng mở ra khát khao trải lòng với bến quê sông Hồng gần nhà,
nên dù sức tàn lực kiệt, anh cũng " cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cung
còn sót lại để nhô người ra ngoài " (Cách kết cấu này ta đã từng gặp trong
sáng tác của cây bút truyện ngắn tiêu biểu của văn học Việt Nam trước 1945 :
Nam Cao với tác phẩm Chí Phèo ). Hay khác hơn trong Bức tranh được bắt
đầu từ cuối truyện, khi nhân vật hoạ sĩ đã vẽ xong bức chân dung tự hoạ, sau
đó câu chuyện mới được kể lại tạo nên kết cấu xen kẽ thời gian hiện tại - quá
khứ.
Có những sáng tác của Nguyễn Minh Châu lại không có phần mở nút
(Chiếc thuyền ngoài xa, Mùa trái cóc ở miền nam, Phiên chợ Giát...) Cái
nghịch lý mà người đàn bà làng chài (Chiếc thuyền ngoài xa) chấp nhận đã
được giải thích nguyên nhân, nhưng tất cả mọi nhân vật trong truyện đều phải
đầu hàng nghịch lý đó nên có thể xem xung đột nghịch lý vẫn chưa được giải
quyết hết.Tương tự, cái chết đầy nghịch lý của Phác, việc sư bà Thiện Linh
trở thành người ăn mày tình thương của thiên hạ giữa cõi đời ( Mùa trái cóc ở
miền Nam ) cũng chưa thực sự là sự xoá bỏ xung đột mâu thuẫn. Hay việc lão
Khúng ( Phiên chợ Giát ) không thành công trong việc giải thoát con bò lại
đưa câu chuyện về một giai đoạn phát triển mới... Với cách kết thúc không
phải bằng sự xoá bỏ xung đột, mâu thuẫn, những truyện ngắn như trên đã tạo

51
thành một kiểu kết thúc để ngỏ, dành cho người đọc một khoảng lặng để nhận
thức, suy ngẫm, chiêm nghiệm những lẽ đời tình người, những bức xúc của
cuộc đời, những trạng thái tồn tại của con người trong thế giới... Có thể nói,
đây là nét độc đáo hiếm có trong nghệ thuật tổ chức cốt truyện, đổi mới tư
duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Đây là sự đổi mới từ quan niệm, ý
thức về cuộc sống: dòng đời luôn tiếp diễn với tất cả sự phức tạp, rắc rối của
nó, đúng như Bakhtin là không có mở đầu và không có kết thúc.Đó là một
kiểu tư duy mới mang tính tiểu thuyết, hiện đại hơn so với tư duy nghệ thuật
của văn học thời kỳ trước Nguyễn Minh Châu, coi nhiệm vụ của mỗi tác
phẩm thực sự khi kết thúc phải giải quyết xong một vấn đề, một xung đột nào
đó, vì thế mà hình ảnh về thế giới mà nó mang đến cho người đọc nhiều khi
chưa thực sự sát với thực tại cuộc sống vốn luôn chảy trôi, đầy biến động và
chứa đựng nhiều xung đột không có điểm dừng.
Một biểu hiện rõ nét của cách sắp xếp thành phần cốt truyện không
theo kiểu truyền thống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là cách đảo trật
tự của thành phần cốt truyện một cách độc đáo. Trong Phiên chợ Giát, truyện
mở đầu khi sự kiện đã ở giai đoạn phát triển ( hành trình bán con bò của lão
Khúng ), sau đó mới lần giở lại điểm thắt nút trong quá khứ ( việc quyết định
bán con bò ), tiếp đến lại từ điểm thắt nút trong quá khứ đến điểm cao trào
trong hiện tại ( việc lão Khúng giải phóng con bò ). Không có điểm khởi nút,
câu chuyện quay về trạng thái xung đột đang ở giai đoạn phát triển ( không
giải quyết được việc giải phóng con bò). Sự bố trí các thành phần cốt truyện
như trên cho thấy chiêm nghiệm của tác giả về trạng thái tồn tại của con
người trong thế giới thật sâu sắc và tinh tế: đó là trạng thái bất ổn, không có
xung đột nào có điểm dừng của nó.
Không chỉ ở Phiên chợ Giát, cách đảo các thành phần cốt truyện còn
được sử dụng trong một số truyện ngắn khác như: Khách ở quê ra, Cỏ
lau...Tuy được sắp xếp theo những trật tự khác nhau, xong các thành phần cốt

52
truyện trong các truyện đều góp phần tạo nên chiều sâu kịch tính trong tính
cách nhân vật và đem đến cho cốt truyện nét hấp dẫn độc đáo.
2.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống
Tình huống tự sự là một yếu tố đóng vai trò quan trọng trong tổ chức
cốt truyện của truyện ngắn. Nguyễn Minh Châu đã quan niệm:" Nghĩ ra được
một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay, thế là coi như đã xong được một
nửa " [10,252 ]. Với quan niệm của mình, việc lựa chọn khoảng khắc đời
sống có ý nghĩa để xây dựng tình huống truyện được Nguyễn Minh Châu đặc
biệt chú trọng. Theo ông " người cầm bút có biệt tài có thể chọn trong cái
dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc
nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất... buộc con người ở vào một tình thế phải
bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là
khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người " [10,252 ]
Trong thực tế nghiên cứu đã có nhiều nhà nghiên cứu văn học tổng kết
các loại hình tình huống nghệ thuật tạo tình huống của Nguyễn Minh Châu
theo những quan điểm, góc độ khác nhau. Bản thân cá nhân, trong khuôn khổ
của luận văn chỉ nghiên cứu từ góc độ kết cấu truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu sau năm 1975 để đề cập đến vấn đề tổ chức tình huống gắn với việc tổ
chức nhân vật và tổ chức cốt truyện. Đó là việc tổ chức tình huống nghịch lý,
tình huống tâm lý và tình huống ngẫu nhiên.
2.2.1. Tình huống nghịch lý
Trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, việc xây dựng tình huống
nghịch lý gắn với việc tổ chức nhân vật trong quan hệ với nghịch lý. ( Nội
dung này được thể hiện và trình bày ở phần nghệ thuật tổ chức nhân vật của
chương II ).
2.2.2. Tình huống tâm lý
Đối với, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu hệ thống tình huống thường
tạo nên cảm xúc đối nghịch, nhà văn rất hay tạo tình huống tâm lý, chủ yếu
bằng cách đưa tình huống bên ngoài vào tình huống bên trong, tạo nên sự vận

53
động của cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng nhân vật, từ đó triển khai thành công
cốt truyện tâm lý( kiểu cốt truyện thứ 2 - Chương II ) Trong các truyện ngắn:
Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cơn giông, Bến quê,
Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, Phiên chợ Giát… đều có cốt truyện xây dựng
trên tình huống tâm lý. Có thể nói truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ít hành
động, đây là nét tiêu biểu và đặc trưng không chỉ riêng nhà văn mà còn là nét
đặc trưng của truyện ngắn hiện đại Việt Nam sau 1975.
Một điều dễ nhận thấy, tình huống tâm lý trong các tác phảm Nguyễn
Minh Châu dược tổ chức thành một số dạng cơ bản. Đó có thể là tình huống
tự nhận thức thông qua các cuộc đấu tranh nội tâm hay xung đột tinh thần (
Bức tranh, Hạng ), sự chiêm nghiệm, trải nghiệm ( Bến quê, Dấu vết nghề
nghiệp, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành), hay sự đối chứng( Một lần
đối chứng)... Dạng tình huống này chiếm tỷ lệ cao trong các truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu. Ngoài ra, tình huống tâm lý có thể là dạng tình huống
cảm xúc, tâm trạng qua sự vận động của dòng hồi tưởng, hồi ức ( Cơn giông,
Bên đường chiến tranh, Phiên chợ Giát ). Cũng có khi, tình huống tâm lý
được tạo ra từ sự kết hợp những tình huống ngẫu nhiên và nghịch lý ( Bến
quê ).
Có thể thấy điển hình cho tình huống tự nhận thức trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu là tình huống được tác giả thể hiện trong truyện ngắn
Bức tranh. Cuộc gặp lại của người hoạ sĩ và người chiến sĩ là sự kiện quan
trọng, mấu chốt để tạo nên tình huống truyện. Chính nó đẩy mạch truyện phát
triển theo hướng bất ngờ với người đọc. Người hoạ sĩ từ lúc này không còn
được yên ổn với những thành đạt của mình, với quá khứ vẻ vang dám lăn lộn
chiến trường để lấy thực tế sáng tác, với sự kính nể trọng vọng của mọi người
đối với mình trong hiện tại. Ông bị đặt vào tình thế phải đối mặt với sự thật,
với lương tâm để nói lên tiếng nói tự thú, nhìn nhận một cách trung thực bản
chất con người thật của mình. Cuộc gặp lại ngẫu nhiên đã đánh thức con
người lương tâm của nhân vật. Hành động bên ngoài đã được chuyển thành

54
tình huống tâm lí để tác giả triển khai cốt truyện. Trong tác phẩm, Nguyễn
Minh Châu đã chọn được những giây phút đặc biệt để nhân vật tự nhận thức
về chính mình: những giây phút hoạ sĩ ngồi ngửa mặt trên trên chiếc ghế cắt
tóc. Những giằng xé dữ dội giữa hai phần cao thượng - thấp hèn, tốt - xấu,
ánh sáng lương tâm - bóng tối vị kỉ diễn ra âm thầm nơi " con người bên
trong " của người hoạ sĩ đều được bắt đầu và tiếp diễn từ giây phút đó. Theo
mạch truyện, tính cách nhân vật dần dần được thay đổi rõ rệt. Đặc biệt, sự
thay đổi này diễn ra hoàn toàn ở phía hoạ sĩ, vì tác giả đã để cho anh chiến sĩ -
người thợ cắt tóc im lặng. Như vậy xung đột truyện hoàn toàn lăn vào trong,
dữ dội hơn trong nội tâm nhân vật hoạ sĩ, truyện không hề có xung đột bên
ngoài. Được xây dựng từ tình huống tâm lí, cốt truyện đã chuyển tải một cách
sinh động, không khô cứng ý đồ tư tưởng - luận đề của tác giả. Con người cần
phải được thức tỉnh lương tâm - nhân cách, để nhìn thấu lỗi lầm (nhiều khi
mơ hồ như sự lãng quên mà người ta có thể biện minh cho nó), nhìn thấu thói
đạo đức giả được ngụy biện bằng danh nghĩa lợi ích cộng đồng mà thực chất
là sự chà đạp lên số phận cá nhân - điều đã từng xẩy ra trong hoàn cảnh chiến
tranh. Nhà văn đã rất tinh tế khi vạch ra sự thật dưới lớp vỏ lí lẽ về vai trò,
nhân cách, sứ mạng nghệ thuật của người nghệ sĩ nhằm che đậy cho sự thờ ơ,
nhẫn tâm trước quyền sống chính đáng và số phận của mỗi cá nhân con
người. Biết rằng lợi ích của cộng đồng - số phận cá nhân không phải khi nào
cũng thống nhất, song việc nhân danh lợi ích cộng đồng để bỏ qua, thậm chí
chà đạp lên lợi ích cá nhân là điều mà nhà văn muốn cảnh báo, đồng thời kêu
gọi con người hãy tự ý thức, soi xét việc làm cũng như bản chất con người
mình bằng ánh sáng của lương tri để hướng thiện.
Dạng tình huống tâm lí thứ hai thường thấy trong truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 là dạng tình huống cảm xúc, tâm trạng. Ở
những cốt truyện có dạng tình huống này chỉ bằng khoảnh khắc của tâm
trạng, nhà văn đã tổ chức thành công cốt truyện tâm lí hấp dẫn, chân thực và
bộc lộ trọn vẹn tính cách nhân vật, từ đó thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của

55
truyện. Có thể thấy, việc tổ chức những tình huống cảm xúc, tâm trạng, tự
nhận thức, Nguyễn Minh Châu đã đưa nhân vật vào những day dứt, sám hối
hay nếm trải, chiêm nghiệm... Đây là sự khác biệt với những gì trước đây ông
từng đặt nhân vật vào trong những khó khăn, thử thách bên ngoài nhằm bộc lộ
phẩm chất và lí tưởng cao đẹp của nhân vật. Điều này cho thấy sự thay đổi
trong hướng tiếp cận con người của Nguyễn Minh Châu: khắc hoạ đời sống
tinh thần con người với quá trình vận động chân thực, tinh tế , sâu sắc.
2.2.3. Tình huống ngẫu nhiên
Cuộc sống vốn luôn diễn ra theo một quy luật riêng của nó, song thực
tế nó luôn chứa đựng những điều ngẫu nhiên mà con người khó có thể lường
trước được, đó là những ngẫu nhiên mà khi đến với con người mà không theo
ý muốn của con người. Với quan niệm ngẫu nhiên là một phần bản chất của
cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã đưa ngẫu nhiên vào trong các truyện ngắn
của mình, tổ chức thành những tình huống để triển khai cốt truyện một cách
gần gũi, giản dị, tự nhiên đời thường, vừa hấp dẫn, thuyết phục người đọc. Có
thể gặp nhiều tình huống ngẫu nhiên có tính nghệ thuật cao trong nhiều truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
Trong Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa tình huống ngẫu nhiên nảy sinh
trong những hoàn cảnh ít nhiều có vấn đề: người phóng viên tình cờ phát hiện
ra điều nghịch lí của nghệ thuật - đời sống khi chụp ảnh làm lịch trong Chiếc
thuyền ngoài xa; Lực trở về, ngẫu nhiên chụp ảnh ở quán ảnh của chồng Thai
trong Cỏ lau... Khác với các truyện ấy, ở Hương và Phai, tình huống ngẫu
nhiên được tổ chức từ câu chuyện đời thường tưởng chừng hết sức nhỏ nhặt,
vặt vãnh: vì trời mưa, Cái Phai phải ở lại nhà cái Hương sau buổi học thêm, "
thưởng thức" món mứt khế nấu vụng của hai anh cái Hương mà hai đứa trẻ
nhớ đến tài nấu mứt của chị Phấn - chị cái Phai, từ đó chúng nảy ra trò đùa
gán ghép tinh quái. Chuyện sẽ chẳng có gì nếu cái ngẫu nhiên này không đi
đến một hiện thực: đám cưới của chị cái Phai và anh trai Hương. Trong thực
tế cuộc sống, điều này không phải không thể xảy ra. Diễn biến của cốt truyện

56
hết sức tự nhiên từ một tình huống ngẫu nhiên đã góp phần làm rõ tính tự
nhiên của nó. Một trò đùa trẻ con nhưng có thể làm xáo trộn cả đời người.
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Minh Châu không sử dụng ngẫu nhiên một
cách tràn lan dẫn đến sa đà vô nghĩa lí mà ông dựa vào ngẫu nhiên để khám
phá những quy luật cuộc sống, mà một trong những quy luật đó là tác động có
thật và nhiều khi khá mạnh mẽ của cái ngẫu nhiên đến cuộc sống con người.
Qua các kết cấu hình tượng ( thời gian, không gian, nhân vật ) kết cấu
sự kiện, ta thấy rõ đóng góp to lớn của Nguyễn Minh Châu cho văn xuôi
đương đại chủ yếu ở các phương tiện: quan niệm nghệ thuật về hiện thực, con
người; thay đổi quan niệm về thế giới nhân vật cũng như thủ pháp xây dựng
nhân vật, thủ pháp tổ chức cốt truyện. Ngoài ra những đóng góp ấy còn thể
hiện rõ nét trên phương diện kết cấu trần thuật.
2.3. Quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh
Hệ thống nhân vật là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các yếu tố cụ thể
cảm tính tạo nên hình tượng nghệ thuật mà trung tâm là các mối quan hệ của
các nhân vật. Dựa trên bình diện thể hiện đề tài, tư tưởng, cảm hứng và nhiều
tiêu chí khác ta có thể phân biệt được nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật
chính diện, nhân vật phản diện... Đối với phương diện kết cấu, nói đến hệ
thống hình tượng nhân vật là nói đến việc tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể
của tác phẩm, có mối liên quan mật thiết với cách thức tổ chức không gian -
thời gian nghệ thuật, cách tổ chức cốt truyện, tình huống, tổ chức trần thuật...
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, thế giới
nhân vật khá đa dạng, phong phú, bao gồm các loại nhân vật chủ yếu: Nhân
vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật thế sự, nhân vật số phận...
Qua nghiên cứu và khảo sát ta thấy hệ thống các hình tượng nhân vật
này được tổ chức chủ yếu trong mối quan hệ đối chiếu tương phản, quan hệ
bổ sung, quan hệ với những nghịch lý và quan hệ với những biểu tượng.
2.3.1. Hệ thống nhân vật xây dựng trong quan hệ đối chiếu tương phản

57
Quan hệ đối chiếu tương phản là mối quan hệ làm nổi bật sự đối lập và
khác biệt của các nhân vật. Đối chiếu, tương phản là một nguyên tắc hết sức
phổ biến thường gặp. Nó không chỉ làm nổi bật các nhân vật khác tuyến mà
còn làm cho các nhân vật cùng tuyến trở nên sắc nét. Trong các truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu, sự đối chiếu tương phản không chỉ xuất hiện trong
quan hệ giữa các nhân vật mà còn xuất hiện và nằm ngay trong bản thân nhân
vật.
Đối với quan hệ đối chiếu tương phản giữa các nhân vật Nguyễn Minh
Châu đã tổ chức thành công và đem lại hiệu quả cao qua một số truyện ngắn:
Sắm vai, Khách ở quê ra, Mùa trái cóc ở miền nam…
Ở Sắm vai, quan hệ đối chiếu tương phản không phải diễn ra ở các
nhân vật khác tuyến như trên, mà nó diễn ra giữa hai nhân vật cùng tuyến: nhà
văn T. và người vợ của mình.
T.là một nhà văn có bề dày của sự từng trải trong cuộc đời và nghề
nghiệp. Ấn tượng mạnh nhất mà anh gây cho nhân vật " tôi " - người kể
chuyện là ấn tượng về " một con người đã dám tự tước bỏ đi hết mọi cái phù
phiếm, những lớp vỏ bề ngoài vô bổ, tất cả những cái gì lấp lánh có thể lừa
dối mình và người khác, trong cuộc sống hàng ngày của chính mình ". Với
anh, con người có thể đánh mất vàng bạc châu báu, nhưng không được đánh
mất mình. Cách sống của anh là " nhất thiết phải biến cái giản ước bớt những
cái rườm rà, phiền toái đi! " cốt lõi nhất là sống sao để có thể làm việc được.
Anh là mẫu người ưa cuộc sống giản dị, ghét rườm rà kiểu cách. Xong cô vợ
anh lại là người phù phiếm, hời hợt, thích hình thức. Chiều theo ý vợ anh phải
" sắm vai " thật hơn cả sự thật một người chồng hào hoa, phong nhã, vui vẻ,
trẻ trung, với gương mặt như " còn háo trang dở dang ", rồi đi, đứng, bắt tay,
cười xã giao, thậm chí cả chơi trò " vợ chồng giận nhau " nhất nhất phải theo
sự " đạo diễn " của vợ. Một cuộc sắm vai hài hước vừa đau đớn vừa xót xa."
Vai " mà anh phải ắm là tấm gương phản chiếu lối sống, con người của vợ
anh, hoàn toàn tương phản với con người thật của anh. Anh phải sắm vai,

58
xong cuộc sống gia đình đâu phải là sân khấu vì thế anh không thể còn là con
người thật của chính mình, và anh nhận ra rằng mình không thể đánh mất
mình bởi anh đã từng quan niệm lối sống mà mình đã có là lẽ sống cao cả
nhất. Chính bi kịch của anh là lời cảnh tỉnh mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi
đến đến người đọc: hãy sống bằng chính bản ngã đích thực của mình, đừng
bao giờ phải " sắm vai " trong cuộc đời cũng như trên trang viết, để không
phải theo thời lựa gió, làm những " con kỳ nhông " đổi màu. Bởi vì, với con
người, không có mất mát nào đau đớn và nhục nhã hơn bi kịch tự đánh mất
mình.
Có thể nói thành công trong việc truyền đi thông điệp của nhà văn qua
truyện ngắn Sắm vai chính là cách xây dựng kết cấu hình tượng nhân vật
trong quan hệ tương phản, thể hiện qua hai nhân vật nhà văn T. và vợ anh ta.
Nét độc đáo trong kết cấu này là sự tương phản của các nhân vật được làm rõ,
trực tiếp hiện lên trong cùng một tuýen nhân vật nó không giống như hai
tuyến nhân vật đối kháng nhau như trong Cơn giông, mâu thuẫn vừa được
phản ánh từ chính một nhân vật, trong mối quan hệ thật giữa con người thật
giản dị với con người giả phù phiếm mà anh ta phải sắm vai - và con người
giả phù phiếm ấy là chân dung đích thực của một con người khác đối lập với
con người anh. Kiểu kết cấu tương phản nhân vật - nhân vật thông qua nhân
vật sắm vai đã thể hiện rõ ý định và chủ đề tư tưởng một cách sâu sắc, tinh tế,
thấm thía: đưa những trải nghiệm, chiêm nghiệm của mình về một lẽ sống của
con người. Cách đưa ấy thật gần gũi, giản dị mà tài tình xứng đáng với tài
năng của một cây bút truyện ngắn bậc thầy.
Có thể thấy, kiểu kết cấu hình tượng nhân vật trong quan hệ đối chiếu
tương phản giữa các nhân vật được Nguyễn Minh Châu sử dụng để xây dựng
nên các nhân vật khái quát, nhân vật tư tưởng hoặc những nhân vật tính
cách... cùng một kiểu kết cấu, song nghệ thuật tổ chức, xây dựng hình tượng
nhân vật trong mối quan hệ đối chiếu ở mỗi truyện ngắn, mỗi nhân vật cụ thể

59
đều có những nét độc đáo riêng. Đây cũng là biểu hiện của một tài năng lớn
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật như Nguyễn Minh Châu.
Ngoài cách tổ chức quan hệ đối chiếu tương phản giữa các nhân vật
truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 còn lôi cuốn người đọc ở cách
tổ chức quan hệ đối chiếu tương phản ngay trong bản thân nhân vật.
Trong cuộc sống, mỗi con người luôn luôn là một thế giới bí ẩn, đầy
phức tạp và không phải mọi suy nghĩ, tâm tư, hành động... luôn là sự thống
nhất.Xuất phát từ những thay đổi căn bản trong quan niệm nghệ thuật về con
người, thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trở nên đa
dạng, phong phú như chính sự phong phú đa dạng của cuộc đời ông. Từ thuần
tuý những nhân vật lý tưởng phản ánh hiện thực lớn lao của cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại, các sáng tác sau năm 1975 , đặc biệt ở thập kỷ 80 của Nguyễn
Minh Châu đã tạo nên nhiều kiểu nhân vật mới, trong những mối quan hệ
mới. Một trong kiểu tổ chức nhân vật ấy là xây dựng hình tượng nhân vật
trong mối quan hệ đối chiếu tương phản của bản thân nhân vật. Bức tranh là
truyện ngắn viết năm 1976 được xem là tác phẩm đánh dấu cách tổ chức nhân
vật như vậy.
Trước đây, trong văn học Việt Nam 1945 - 1975 nói chung và trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu nói riêng, người đọc gặp nhiều các nhân vật
lý tưởng, thống nhất trong những vẻ đẹp chung, những " con người nhất phiến
" bởi được xây dựng trên mối quan hệ đối lập với những kẻ thù dân tộc thì ở
Bức tranh hình ảnh con người lại hiện lên trong sự suy tư, sám hối, với
những tương phản trong chính thế giới nội tâm của mình. Nhà văn đã để cho
nhân vật - người hoạ sĩ tự nhìn nhận và đánh giá về con người mình: " trong
con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết,
thiên thần và ác quỷ ". Một nhận thức có tính chân lý, không phải tự nhiên
đến với nhân vật trong diễn biến cuộc sống thông thường, mà là kết quả rút ra
từ cuộc đấu tranh nội tâm âm thầm mà dai dẳng và không kém phần quyết
liệt. Đó là cuộc đấu tranh giữa các phần tích cực - mặt phải - phần ánh sáng

60
với phần thấp hèn - mặt trái - phần bóng tối trong chính con người hoạ sĩ.
Nhân vật luôn được nhà văn đặt giữa ranh giới hai phần, bị giằng xé, cắn dứt
lương tâm chỉ bởi một câu hỏi: có thừa nhận lỗi lầm của mình, cũng là thừa
nhận bản chất con người mình hay không? Cuối cùng, sau bao nhiêu dằn vặt,
sám hối, nhân cách đích thực đã giúp người hoạ sĩ vượt lên thấp hèn trong con
người mình để hướng thiện.Trong nhiều chủ đề của tác phẩm, khám phá về
con người với thế giới nội tâm đầy phức tạp, bí ẩn thông qua một nhận thức
mang tính chất chân lý của nhân vật. Đây chính là một chủ đề thể hiện nét đổi
mới căn bản trong quan điểm nghệ thuật về con người đa chiều của Nguyễn
Minh Châu, được soi rọi từ nghệ thuật kết cấu hình tượng nhân vật. Đó là
cách xây dựng nhân vật để gửi gắm một tư tưởng, bằng một thủ pháp sinh
động, giàu sức thuyết phục, qua nhân vật nhà văn đã giúp cho nhiều nhân vật
trong các truyện ngắn khác của mình, dù là nhân vật tư tưởng cũng trở nên
sống động hơn, đời thường hơn. Chính vì thế những vấn đề tư tưởng, những
bức thông điệp trĩu nặng tình người và trách nhiệm của nhà văn gửi đến người
đọc sẽ mang tính thuyết phục cao hơn.
Bên cạnh Bức tranh, ta còn gặp cách kết cấu nhân vật tương phản
trong chính bản thân nhân vật qua những nhân vật tư tưởng khác như Nhĩ (
Bến quê ), người thủ thành già ( Dấu vết nghề nghiệp), hay nhân vật tính
cách, nhân vật số phận như Quì ( Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ),
lão Khúng ( Phiên chợ Giát )...Sự tương phản trong chính bản thân nhân vật
có khi chỉ diễn ra trong nhận thức của nhân vật: hoạ sĩ ( Bức tranh ), người
thủ thành già ( Dấu vết nghề nghiệp), Nhĩ ( Bến quê ); có khi nằm trong tính
cách, số phận nhân vật : Quì (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ), lão
Khúng ( Phiên chợ Giát ). Xong với mỗi nhân vật, dù trong một kiểu kết cấu
hình tượng, Nguyễn Minh Châu lại có cách tổ chức, xây dựng một cách linh
hoạt, không hề trùng lặp, khiến cho nhân vật hiện lên với những nét riêng, để
lại ấn tượng đậm nét cho người đọc. Nhân vật người thủ thành già trong Dấu
vết nghề nghiệp là một minh chứng. Nhân vật được xây dựng theo kiểu nhân

61
vật suy tư, sám hối, xong không hề giống trong nhân vật truyện ngắn Bức
tranh người hoạ sĩ nhận ra những tương phản trong con người mình sau một
loạt những giằng xé vật vã nội tâm,người thủ thành già đã kết luận trong tập
hồi ký mười năm của mình:" Con người ta thường xuyên không hoàn hảo,
nhưng có những khoảnh khắc hoàn hảo ". Một sự thật mang tính tất yếu về sự
thống nhất của các mặt đối lập trong mỗi con người - tưởng chừng như ai
cũng có thể thừa nhận mà không cần trải qua biến cố lớn nào trong đời. Thế
nhưng, đây là kết luận mà người thủ thành già thấm thía từ những trải nghiệm
trong suốt mấy chục năm bắt bóng trong khung thành và cầm còi trên sân cỏ.
Khi người thủ thành già nhận ra điều đó, ông tự thấy có thể yên tâm về
những sai sót nghề nghiệp của mình. Nhưng ông vẫn không thể không day dứt
khi sự không hoàn hảo của mình lại gắn với hành động thiếu trung thực của
một vị trọng tài nổi tiếng công minh, tinh tường. Hiểu và hàm ơn lòng tốt, tâm
lý của người trọng tài, người từng vừa là đồng nghiệp vừa là tình địch, nhưng
phải tận những giây cuối đời, ông mới đủ dũng khí nói thật ra điều đó - một bí
mật nghề nghiệp mà trước đó hơn mười năm ông đã viết trong thiên hồi ký
hoàn chỉnh của mình xong đã dấu biệt tất cả mọi người. Việc đặt nhân vật
trong quan hệ tương phản ngay chính bản thân nhân vật như vậy, Nguyễn
Minh Châu đã mở ra và định hướng một dạng nhân vật ít gặp trong văn học
trước đó: kiểu nhân vật hướng nội, nhân vật nhận thức tự ý thức. Đây là một
trong những đổi mới quan trọng trong cách thức xây dựng nhân vật, một đóng
góp mới lạ cho văn học đương đại.
Sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trong cách kết cấu nhân vật theo lối
tương phản không chỉ dơn thuần dừng lại ở những nhân vật hướng nội. Có
những nhân vật hiện dần lên với những nét tương phản nằm trong hoàn cảnh
số phận, tính cách nhân vật. Sự thức tỉnh của Nhĩ ( Bến quê ) bắt đầu từ sự
đối lập về hoàn cảnh hiện tại với quá khứ của anh. Con người vốn đã đi "
khắp mọi xó xỉnh trên trái đất " một thời, giờ đây trong cảnh bán thân bất toại,
dịch chuyển giữa một không gian vô cùng nhỏ hẹp (cái phản) mà khó nhọc

62
hơn đi (nửa vòng trái đất). Nhưng chính trong nghịch cảnh ấy, nhân vật mới
nhận ra một điều giản dị: cái bến quê gân gũi mới là nơi neo đậu bình yên của
mọi con thuyền sau bao xuôi ngược, cũng như gia đình, nơi có người vợ tần
tảo nhẫn nại hiền hậu mới là " bến quê " - chỗ dựa tinh thần cuối cùng của
cuộc đời cũng như tâm hồn anh.
Ở nhân vật lão Khúng ( Phiên chợ Giát ), quan hệ tương phản trong
nhân vật này được tác giả thể hiện qua những cung bậc nhân cách và tâm linh
- với cái nhìn thuần tuý từ góc độ con người và cá nhân: vừa ngây thơ vừa láu
cá, vừa ngờ vực vừa cả tin, vừa tự tin vừa tự ty, mặc cảm, bảo thủ kiên cố, tư
tưởng thì tư hữu, chắt bóp, cát cứ... những mặt tương phản nói trên đã góp
phần làm rõ hình tượng chân thực đặc sắc về người nông dân. Với lão Khúng
(trong Phiên Chợ Giát), “anh nông dân suốt đời đi sau con bò vạch những
luống cày trong đêm tối” - hình ảnh điển hình của nông dân Việt Nam làm ăn
cá thể lạc hậu đã cho thấy bản lĩnh nghệ thuật cũng như quá trình cách tân văn
học của Nguyễn Minh Châu đã được khẳng định chắc chắn. “Truyện không
khép kín ở một ý nghĩa nào, nó mở cho mỗi nhóm người đọc một chân trời …
Sự hóa thân người / bò của ông lão Khúng/ Khoang đen, sự phân đôi nhân
cách ấy, sự kết hợp hai ý thức con người/ con vật ấy, là bi kịch của nhân vật,
của thời đại. Sự quan sát xã hội di chuyển vào sự quan sát nội tâm, tạo nên
một tâm lý vận động, đó là nghệ thuật của truyện ngắn Phiên chợ Giát. Văn
bản di động trên nhiều bình diện: ngôn ngữ, hình tượng, xã hội, tâm lý, quá
vãng và hiện tại, lịch sử và tưởng tượng”[Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới đọc và bình
văn, Nxb Hội Nhà văn, H.1999]. Suốt cuộc đời lão Khúng vắt kiệt sức lực của
mình, của vợ con cho đất nhưng đến đời con lão chúng còn phải đi xa hơn
nữa, đến với miền đất còn nhọc nhằn hơn. Lão và con bò Khoang - công cụ
lao động hiệu quả nhất - luôn gắn bó với nhau. Khi lão quyết định thả nó về
rừng cũng chính là khi nó đã quá quen với cái ách nô lệ trên cổ, vĩnh viễn
quên mất tự do. Sự trở về của con bò Khoang ở cuối truyện là sự trở về của bi
kịch con người… Dường như mỗi lúc Nguyễn Minh Châu lại về gần hơn với

63
nông dân, với làng quê miền Trung đói nghèo, lam lũ của mình; mỗi lúc càng
như hiểu rằng chiến tranh đi qua, thời gian đi qua mà sao nỗi cay cực của
những kiếp người vẫn cứ chất chồng thêm…

Chính từ cách nhìn nhận hiện thực và quan niệm nghệ thuật về con
người thay đổi như trên nên tất yếu giọng điệu trong những trang viết sau này
của Nguyễn Minh Châu không thể dạt dào cảm xúc lãng mạn, hào sảng, say
mê, bay bổng. Giọng văn ông giờ đây từng trải, trầm tĩnh hơn và xen lẫn chút
chiêm nghiệm và suy ngẫm. Điều này thể hiện khá rõ qua phát ngôn và tính
cách của các nhân vật trong một số tác phẩm như Quỳ, Lực, Phi Phi, Thai,
Lão Khúng v..v… Họ đầy suy tư, ngâm ngợi, đằm và chín hơn khi nói về
mình và mọi người, kể cả cách thể hiện niềm vui, nỗi buồn cũng khác. Màu
sắc triết lý đã phảng phất đâu đó trong các truyện ngắn về sau của nhà văn và
thoảng cả chút hơi hướng của cái bi không thể tránh khỏi.
2.3.2. Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ bổ sung
Quan hệ bổ sung là quan hệ của các nhân vật cùng loại, nhằm mở rộng
phạm vi của một hiện tượng. Nhân vật bổ sung thường là nhân vật phụ làm
cho nhân vật chính thêm rõ nét, có bề dày. Các nhân vật này mang tính chất
phụ thuộc, nhưng lại có tác dụng mở rộng đề tài.
Cách tổ chức kết cấu hình tượng nhân vật trong mối quan hệ bổ sung
khá phổ biến trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
Nếu như ở các sáng tác trước năm 1975 các nhân vật đều hiện lên bổ
sung cho nhau để tập trung hoàn thiện những phẩm chất chung của dân tộc,
của thời đại. Đó là lòng yêu nước, niềm say mê lý tưởng, tinh thần dũng cảm,
sẵn sàng hy sinh từ tính mạng đến của cải, từ lợi ích cá nhân đến tình cảm
riêng tư cho lợi ích chung cao quý của cộng đồng. Họ đều là những nhân vật
lý tưởng. Sau năm 1975 với các truyện ngắn: Bến quê, Bên đường chiến
tranh, Dấu vết nghề nghiệp, Chiếc thuyền ngoài xa, Sống mãi với cây xanh,
Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát…lại có những đóng góp
mới mẻ trong nghệ thuật. Với quan điểm tiếp cận nhân bản, Nguyễn Minh

64
Châu đã miêu tả con người đầy đặn và trung thực hơn, không chỉ với những
phẩm chất lý tưởng, những vẻ đẹp sử thi hào hùng, mà với cả sự trả giá,
những góc tối âm thầm trong số phận, những cảnh ngộ, những đau đớn riêng
tư. Tuy vẫn sử dụng lối kết cấu hình tượng nhân vật trong mối quan hệ bổ
sung, song trong các truyện ngắn, hệ thống nhân vật được chú ý xây dựng bổ
sung cho nhau ở nhiều góc độ, nhiều phương diện: số phận, tính cách, phẩm
chất đạo đức, lối sống, cảnh ngộ, tâm trạng... Trong Cỏ lau, có thể hình dung
thế giới nhân vật giống như một nhóm tượng đài về số phận con người: Lực,
Thai, Quảng, Phi Phi ... tất cả đều là những nạn nhân của chiến tranh với cuộc
đời éo le, ngang trái.Chiến tranh thật ác độc với Lực. Cưới vợ được mấy
ngày, anh lên đường đến chiến trường; sau chiến tranh trở về, anh phải chịu
mất mát quá to lớn, đó là những bi kịch không thể giải toả. Cuộc chiến đã lấy
mất của anh hơn hai mươi năm tuổi trẻ giống " như một nhát dao phạt ngang
cuộc đời thành hai nửa " vừa không thể gắn lại như cũ, vừa không thể cắt lìa
hẳn, do vậy mà vết thương đến cuối đời anh vẫn thấy chảy máu đau đớn. Em
trai hy sinh, người cha già sống gửi trong ngôi nhà xa lạ, người vợ dịu dàng
chung thuỷ đã có một cuộc sống riêng - đó là những gì chiến tranh đã để lại
sau khi đã đi qua. Giờ đây, tưong lai chờ dợi anh phía trước là tuổi già cô đơn
với những hoài niệm, day dứt. Hình ảnh hai người già cô độc sống giữa
những người đàn bà bằng đá câm lặng cuối truyện có nét gì đó thật buồn thảm
khiến người đọc xúc động và đau đớn.
Thai vợ Lực lại mang một bi kịch khác của số phận. Người phụ nữ chỉ
có thể yêu được một lần trong đời, nên sau khi tự tay mang xác và chôn người
mà chị tưởng là chồng mình, đến ngày hoà bình, chị phải sống trong sự phân
thân đau đớn khi lập gia đình với người khác.Cái bóng bên ngoài vẫn phải
làm lụng vất vả và lo toan, sinh con đẻ cái... nhưng trọn vẹn linh hồn bên
trong vẫn sống với người chồng cũ trong từng phút, từng giây, ròng rã hơn hai
mươi bốn năm trời. Đến khi chồng về, dù tình cảm vẫn còn rất sâu nặng,
nhưng chị không thể rời bỏ được gia đình hiện tại. Chiến tranh đã ghép lẫn

65
lộn những nửa đời khác nhau lại với nhau để tạo nên những bi kịch nặng nề,
đau đớn.
Bổ sung cho những nhân vật có số phận bi kịch như Thai là những số
phận không kém phần bi kịch, dù biết thực tế nỗi đau của chiến tranh là
không thể đong đếm nặng nhẹ cho riêng ai. Đó là cuộc đời của ông Quảng,
Phi Phi... Với ông Quảng, chiến tranh đã cướp đi sự chung thuỷ của người vợ
thứ nhất, đem đến cho ông người vợ thứ hai thuỷ chung son sắt nhưng không
bao giờ ông được bà dành cho ông tình cảm đó, khiến ông vừa yêu thương
kính trọng, vừa hờn giận khổ sở vì ghen tuông, và lúc nào cũng nơm nớp lo sợ
một sự tan vỡ, lúc nào cũng mặc cảm vì vị thế của mình. Còn Phi Phi, cũng là
kiểu nhân vật chỉ yêu một lần trong đời, đã trả thù đời bằng những phá phách
điên khùng sau khi đã bị chiến tranh cướp mất người yêu, bị hất ra lề đường
lẫn trong đám con gái " ăn sương " phe phẩy hư hỏng. Hình ảnh của cô - một
người con gái hai mươi tuổi trong những ngày đi tìm hài cốt người yêu vừa
ngang bướng xấc xược vừa đau khổ - đã gieo vào trái tim người đọc nỗi xót
xa và cả niềm căn giận sự tàn bạo của chiến tranh.
Một loạt các nhân vật như Thai, Lực, ông Quảng, Phi Phi ... được
Nguyễn Minh Châu xây dựng trong mối quan hệ bổ sung, đã làm nên một
tượng đài mở rộng phạm vi của đề tài tác phẩm. Đó là số phận con người sau
chiến tranh, những số phận bi kịch và mất mát, đau đớn được khéo léo đặt
trong không gian gắn liền với nhiều biểu tượng giàu ý nghĩa ( cỏ lau, người đá
) tạo sức mạnh ám ảnh, dư ba.
Không giống trong Cỏ lau, mối quan hệ bổ sung giữa các nhân vật
trong Mùa trái cóc ở miền Nam diễn ra trên phương diện đạo đức cách mạng.
Toàn, nhân vật chính của câu chuyện, trong chiến tranh là kẻ hèn nhát, sợ
chết, khi chiến tranh kết thúc, trở thành cán bộ chỉ huy, đã biến doanh trại
thành nhà tù, đối xử với mẹ không còn tình người, xu nịnh cấp trên, nạt cấp
dưới, thực sự là một cỗ máy khát thèm quyền lực, vô cảm lạnh lùng và tàn
nhẫn. Bổ sung cho nhân vật Toàn là Đĩnh - kẻ bợ đỡ để kiếm chức quyền,

66
kiếm miếng ăn, là nhân vật Thái - vị cán bộ cấp trên, từng là người có tư
tưởng tự do, sau khi đi cải tạo tư tưởng ở trại Z8 về bị nhào nặn thành một
con người máy móc, thấy " cuộc sống bao giờ cũng suôn sẻ, thuận lợi và tốt
đẹp, cuộc sống bao giờ cũng tốt quá, tốt quá, cách mạng bao giờ cũng như
một cỗ máy tuyệt đối chuẩn xác, hoàn hảo, chẳng có chi tiết nào cần phải
điều chỉnh, sữa chữa dù chỉ là một chi tiết nhỏ "
Toàn, Thái là hai nhân vật bổ sung, soi chiếu cho nhau, làm rõ bức chân
dung của một kiểu mẫu con người cơ hội, kiểu người " cỗ máy " duy ý chí.
Đó là những con người không phải không có trong hàng ngũ cán bộ cách
mạng cả trong thời chiến lẫn thời bình. Khi xây dựng các nhân vật trong mối
quan hệ bổ sung Nguyễn Minh Châu đã chú ý khắc họa quá trình vận động
của tính cách, ông đã làm thành một cuộc đối chứng lại những quan điểm về
con người tĩnh tại, quan niệm hoàn cảnh sinh ra tính cách, quan niệm con
người có thể làm chủ hoàn cảnh, từ đó khẳng định quan niệm con người đa
chiều và luôn vận động. Đây là một trong những đổi mới có tính chất mở
đường của Nguyễn Minh Châu trong văn học đương đại.
Có thể thấy, tổ chức hình tượng nhân vật trong mối quan hệ bổ sung là
kết cấu hình tượng khá phổ biến trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Tuy
nhiên, trong sự vận động của quá trình sáng tác sau năm 1975 lối kết cấu hình
tượng đã có nhiều đổi mới, thể hiện nét đổi mới trong quan niệm nghệ thuật
về hiện thực con người cũng như phương thức thể hiện của nhà văn. Đó là sự
mở rộng hiện thực phản ánh, mở rộng phạm vi đề tài, khắc hoạ hình ảnh con
người ở nhiều chiều, đặc biệt đi sâu khám phá thế giới bên trong của con
người, thông qua những cảnh ngộ, những số phận khác nhau, với những góc
khuất, những tầng sâu trong tâm hồn con người, để từ đó khái quát nên những
quy luật của cuộc sống.
2.3.3. Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với nghịch lý
Ngoài hệ thống hình tượng nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ
đối chiếu tương phản và mối quan hệ bổ sung, truyện ngắn Nguyễn Minh

67
Châu còn có những nhân vật được tác giả xây dựng trong mối quan hệ với
những nghịch lí.
2.3.3.1. Định nghĩa về nghịch lí
Theo quan niệm thông thường, phổ biến, nghịch lí được định nghĩa "
Điều có vẻ ngược với logic thông thường nhưng vẫn đúng hoặc khó bác bỏ "[
43,657].
Đối với văn học " nghịch lí " ngoài quan niệm như trên còn có cách
nhìn nhận riêng.
Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: " Nghịch lí là một biện pháp
gây ấn tượng bất ngờ khêu gợi những suy nghĩ có tính chất trí tuệ lí thú "
[13,177].
Trong 150 thuật ngữ văn học định nghĩa:"Nghịch lí: một châm ngôn
hoặc một phán đoán mà nội dung của nó bất đồng rõ rệt - so với ý kiến đã
được số đông chấp nhận đã trở thành truyền thống, hoặc so với lẽ phải thông
thường... Bất cứ nghịch lí nào cũng có vẻ như là sự phủ định cái ý kiến dường
như đúng đắn một cách đương nhiên về điều kiện. Bản thân nghịch lí có khả
năng thuyết phục và gây ấn tượng một cách độc lập với sự sâu sắc đúng đắn
của phát ngôn " [ 1,218 ].
Với hai định nghĩa trên ta thấy nét chung cơ bản đều nói đến các đặc
trưng và sức mạnh nghịch lí. Tổng hợp lại về nội dung, nghịch lí là những
điều chứa đựng sự trái ngược với cách hiểu thông thường, truyền thống, có
tính bất ngờ và có sức khái quát. Đó cũng chính là bản chất của nghịch lí.
Trong văn học nghịch lí được sử dụng nhiều, linh hoạt và đem lại hiệu
quả nghệ thuật cao. Với tư cách là một biện pháp nghệ thuật, nghịch lí đem lại
hiệu quả truyền đạt lớn.
2.3.3.2.Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với những
nghịch lí trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
Trong các truyện ngắn của mình Nguyễn Minh Châu đã sử dụng nghịch
lí như một thủ pháp nghệ thuật tổ chức xây dựng nhân vật. Bên cạnh thế giới

68
của những điều nghịch lí mà nhà văn đã khám phá và tái hiện trong truyện
ngắn, ông còn tạo ra hệ thống nhân vật mâu thuẫn đối nghịch, tự tạo ra nghịch
lí và đầu hàng bởi những nghịch lí của cuộc sống.
Cuộc sống con người dù trong hoàn cảnh nào cũng đều biểu hiện những
nghịch lí. Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra điều đó và ông đã tìm ra chìa
khoá cho riêng mình để thâm nhập vào cuộc sống xưa nay tưởng như vẫn là
mảnh đất của những điều hợp lí, thuận lí. Nhà văn đã bỏ qua cách thể nghiệm
cuộc sống một cách cổ điển để tìm đến một cách nói cách tân: đưa nghịch lí
cuộc đời vào trong tác phẩm, tổ chức thành những tình huống truyện ngắn, và
chỉ ra mối quan hệ của con người với những nghịch lí thông qua những nhân
vật cụ thể, có sức ám ảnh đối với người đọc. Từ đó ông khái quát lên những
quy luật của cuộc sống, rút ra những trải nghiệm, chiêm nghiệm của mình về
cuộc sống.
Trong các truyện ngắn của mình sau năm 1975 Nguyễn Minh Châu
thường xây dựng một số tình huống nghịch lí sau:
Trước hết là những nghịch lí đời thường, đối với cuộc sống hàng ngày
những điều bất thường, nghịch lí vẫn luôn cận kề với cái bình thường, thường
tình. Nguyễn Minh Châu đã khéo léo tìm ra và lắp ghép muôn vàn những hiện
trạng đối nghịch đó trên trang viết. Nghịch lí trở thành yếu tố hoà kết không
thể thiếu của nhà văn khi thể hiện những mạch sống đời tư. Trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu, những nghịch lí đời thường được tổ chức gắn liền với
nhân vật ở nhiều phương diện như đời tư, số phận, tính cách, cảnh ngộ...từ đó
giúp người đọc nhận ra tính chất ngẫu nhiên, vô thường, không theo một quy
luật sắp xếp nào của cuộc sống.
Trong Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp, những nghịch lí đời thường đến
với nhân vật trong bi kịch ở những giây phút cuối cùng của đời người hay
cuối đời nhìn lại. Cả cuộc đời trai trẻ, Nhĩ ( Bến quê ) đã đi tới " không sót
một xó xỉnh nào trên trái đất ", bôn ba khắp mọi phương trời song chưa hề
một lần sang bờ bên kia sông quê mình. Đến khi lâm vào cảnh bán thân bất

69
toại, Nhĩ mới nhận ra sự thật cay đắng: cái chân trời gần gũi, ngay bờ bên kia
sông trước của sổ nhà mình mãi mãi đóng khung một miền đất mà anh không
thể và không bao giờ với tới được nữa trong hành trình đời người của mình.
Một nghịch lí có tính chất định mệnh và bi kịch: con người có khả năng làm
những điều lớn lao phi thường nhưng nhiều khi lại bất lực trong những việc
hết sức giản đơn và dễ dãi. Trong , Dấu vết nghề nghiệp người thủ thành già
dù đã kết luận " con người ta thường xuyên không hoàn hảo, nhưng có những
khoảnh khắc hoàn hảo ", song đến tận những giây phút cuối đời sau hơn 50
năm từ giã việc bắt bóng vẫn không thể hiểu nổi tại sao mình lại có thể để lọt
lưới quả bóng thứ năm - quả bóng mà theo ông đứa trẻ lên ba cũng có thể nhặt
ôm vào bụng được.Trong khi ông, một thủ thành nổi tiếng bắt được những
pha bóng vừa khó vừa hiểm hóc đang ở đỉnh cao tài năng và phong độ lại để
lọt lưới? Một thực tế nghịch lí được tổ chức thành tình huống của câu chuyện
đã thực sự nói lên một chân lí: cuộc sống có quy luật, song nhiều khi là sự sắp
xếp của những điều hết sức ngẫu nhiên.
Khác với Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp, nghịch lí trong Sắm vai lại
được tổ chức như một bi hài - hài kịch về con người vốn bản chất ưa lối sống
giản dị lại phải sắm vai giữa đời thường - như mang một cái mặt nạ rường rà,
kiểu cách, hình thức, trái ngược hẳn với con người thật của chính mình, cuối
cùng lại nhận ra rằng không thể sắm vai được nữa, bởi con người nếu đánh
mất mình là lâm vào thế bi kịch.
Vẫn là một dạng nghịch lí - bi kịch, song nghịch lí trong Chiếc thuyền
ngoài xa, Sống mãi với cây xanh không gắn với bi kịch tư tưởng như trong
Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp, Sắm vai mà gắn với bi kịch về số phận nhân
vật. Vì hạnh phúc gia đình, vì mưu sinh nhọc nhằn trên sông nước, những
người đàn bà làng chài ( Chiếc thuyền ngoài xa ) nhẫn nhục chịu đựng số
phận đau khổ chứ nhất định không bỏ nguồn gốc gây đau khổ cho đời
mình.Trong Sống mãi với cây xanh, việc đô thị hoá một khu phố đã khiến cho

70
một con người suốt đời sống với cây xanh như bác Thông phải đau đớn, suy
sụp tinh thần đến cùng cực...
Bên cạnh những nghịch lí được tổ chức gắn liền với bi kịch tư tưởng,
số phận của nhân vật, trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, nghịch lí còn
được tổ chức gắn với những vấn đề thế sự trong mạch sống đời tư lặng lẽ của
nhân vật.
Đó là những nghịch lí xảy ra từ những sự việc tưởng chừng rất lặt vặt
của cuộc sống đời thường, song nó lại trở thành những vấn đề mang ý nghĩa
nhân sinh - thế sự nhờ được khám phá tinh tế và tổ chức tình huống mang tính
nghệ thuật của tác giả. Trò đùa gán ghép trẻ con của "hai con nhóc "(Hương
và Phai) tưởng chẳng có gì đáng nói. Nhưng từ đó, Nguyễn Minh Châu đã
triển khai câu chuyện một cách tự nhiên để phản ánh một nghịch lí: trò đùa trẻ
con ấy khi trở thành sự thật lại có ý nghĩa xáo trộn cả đời người, có thể dựng
nên một nghịch cảnh khó thay đổi: một gia đình vốn khấm khá càng trở nên
khá giả hơn nhờ có thêm một người con dâu biết thu vén, còn gia đình kia vốn
đã khó khăn lại càng vất vả hơn vì mất đi trụ cột chính của gia đình. Hay
trong Mẹ con chị Hằng, Người đàn bà tốt bụng, nghịch lí được xây dựng từ
điểm xuất phát là cách cư xử đối nghịch đầy mâu thuẫn - nuông chiều con
nhưng lại quá khắt khe với mẹ - của một người mẹ trẻ ( Mẹ con chị Hằng ),
là lòng tốt ban phát rộng rãi nhiều khi lại gây ra phiền nhiễu cho mọi nguời
xung quanh ( Người đàn bà tốt bụng ). Tất cả những nghịch lí ấy của cuộc
sống thường nhật được Nguyễn Minh Châu sử dụng như một âm sắc chủ đạo
để tổ chức tình huống và xây dựng nên nhân vật nghịch lí.
Ngoài những nghịch lí đời thường trong các truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu ta còn bắt gặp nhiều nghịch lí trong và sau chiến tranh. Với
Nguyễn Minh Châu ông không chỉ phát hiện và thể nghiệm những tình huống
nghịch lí trong đời thường mà ông còn viết về nghịch lí đời sống trong và tiếp
sau chiến tranh. Điều này không chỉ thể hiện năng lực tiếp cận cuộc sống mà
còn thể hiện cả lòng dũng cảm của nhà văn. Chính từ các nghịch lí ấy cho

71
thấy cách nhìn nhận của tác giả về mặt trái của chiến tranh với những tiêu
cực, kém hoàn mĩ của nó. Điều này rõ ràng đã đi ngược lại với cách nhìn nhận
đánh giá về chiến tranh như một sự thuần nhất, trong giọng điệu ngợi ca của
văn học trước đó. Cùng với sự " dũng cảm điềm đạm " này đã tạo nên giá trị
nghệ thuật từ cách tổ chức những tình huống nghịch lí độc đáo gắn với những
nhân vật nghịch lí đặc sắc trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Sự trở về của người lính sau chiến tranh không phải hiếm gặp trong văn
học Việt nam cũng như trong văn học thế giới. Đó là hình ảnh người lính
Hồng quân Xô viết trở về với một kết thúc có hậu trong văn học Nga, hay
những số phận, thân phận con người với nhiều cách nhìn nhận, đánh giá khác
nhau trong các trang viết của Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh, Chu Lai
trong Ăn mày dĩ vãng... Nguyễn Minh Châu đã góp vào dòng thể hiện nhiều
âm sắc ấy một tiếng nói riêng của mình. Đó là nghệ thuật tổ chức tình huống
nghịch lí gắn liền với số phận, tính cách người lính trong các truyện Cỏ lau,
Mùa trái cóc ở miền Nam, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành...
Trong Cỏ lau, nghịch lí được tạo ra từ sự kiện Lực trở về sau những
năm tháng chiến tranh. Theo lẽ thường, sự trở về của anh phải là niềm hân
hoan, hạnh phúc vì nó lấp đầy khoảng trống đau thương sau những ngày xa
cách. Thế nhưng, trái lại, nó lại có thể là nguy cơ tan nát một gia đình - gia
đình của vợ anh và người chồng mới của cô. Anh và Thai vẫn yêu thương
nhau tha thiết nhưng vĩnh viễn không trở về với nhau. Vì Thai không thể từ
bỏ cuộc sống hiện tại với người chồng tốt bụng và những đứa con đáng yêu
để trở về với tình yêu của mình. Còn Lực cũng không thể tạo dựng lại hạnh
phúc của mình trên sự tan vỡ của gia đình Thai. Vì vậy, cả hai người đành
phải chấp nhận sự an bài của số phận. Cái nghịch lí đau lòng ấy đã trở thành
cái nền làm nổi rõ số phận khổ đau, mất mát của nhân vật sau chiến tranh.
Tình huống nghịch lí trong Mùa trái cóc ở miền Nam lại hiện hình qua
những sự việc, sự kiện xảy ra ở doanh trại bộ đội sau ngày chiến thắng. Đó là
cuộc gặp gỡ của mẹ, con sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc, xa cách. Cuộc

72
gặp gỡ sau hai mươi năm đáng lẽ phải vui vẻ cảm động, nhưng hoàn toàn bất
ngờ và trái ngược, nó như một " phiên toà đại hình " mà tội nhân là người mẹ,
còn quan toà là đứa con trai bằng xương bằng thịt mà sau bao năm mong mỏi
bà mới được gặp. Bà mẹ càng xưng tôn con trai mình như một bậc chí tôn thì
người con trai lại càng hiện lên với trái tim sắt đá lạnh lùng, vô cảm, khô cạn
tình thương. Cũng chính người con trai ấy của bà đã tạo nên bao nhiêu nghịch
lí cho đồng đội: bắt người lính dưới quyền vào thứ quân lệnh quái gở ( tập đi
đều cả khi trời nắng lẫn trời mưa, sống tách biệt hoàn toàn với cuộc sống "
phức tạp và bẩn thỉu " ở bên ngoài - cuộc sống trong hoà bình mà chính
những người lính ấy đã đổ bao xương máu mới có được). Còn Phác, một
nguời lính thực sự, xông pha giữa đạn lửa bao lần không chết, vậy mà trở về
đồi sống hoà bình ít ngày anh lại chết vì cách gài mìn vô lý theo mệnh lệnh
của một người được coi là đồng đội.
Những điều nghịch lí ấy đã được tổ chức thành những tình huống
truyện hấp dẫn, đem đến cho người đọc một cảm giác nhức nhối: chiến tranh,
bên cạnh phần lí tưởng tốt đẹp còn có những góc khuất tối tăm với bao nghịch
lí, mâu thuẫn gây đau đớn cho con người ngay cả sau khi nó đã đi qua. Đây
cũng là cách nhìn biện chứng về chiến tranh mà Nguyễn Minh Châu muốn đề
cập thông qua việc đưa ra những tình huống nghịch lí trong truyện ngắn của
mình. Cũng viết về nguời lính trong và sau chiến tranh, Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành lại tổ chức tình huống nghịch lí gắn với bi kịch tâm hồn
của người phụ nữ luôn khao khát cái toàn thiện toàn mĩ. Duyên dáng, thông
minh, khả ái, nhân hậu, đầy nữ tính, được rất nhiều người yêu, tưởng chừng
không còn thiếu điều điều kiện nào để có hạnh phúc, song tâm hồn Quì dường
như không lúc nào được yên ổn. Cô đòi hỏi người yêu phải như một thánh
nhân, không chấp nhận những mặt đời thường ở anh. Sau này, cô đã bị trả giá
cho sai lầm ấy bằng việc từ chối tình yêu chân thành, chung thuỷ của bác sĩ
Thương để tái sinh tình yêu, tài năng của Ph. mà không nghĩ rằng mình đã
làm công việc của một thánh nhân. Thành công, nhưng tâm hồn Quì vẫn

73
không hoàn toàn thanh thản. Cơn bệnh mộng du lại là một sự trả giá tiếp theo
cho khát vọng hoàn thiện, toàn mĩ không bao giờ thoả của chị. Cuộc đời Quì
dường như là một chuỗi những điều nghịch lí.
Có thể khẳng định, tổ chức những tình huống nghịch lí là một trong
những thủ pháp nghệ thuật để thể hiện những phức tạp trong cuộc sống của
Nguyễn Minh Châu. Trong dòng chuyển biến phức tạp của cuộc sống, nhà
văn đã tài tình phân luồng ra những tình thế nghịch lí, tự do chuyển đến người
đọc những lời kết luận sâu sắc và thấm thía. Đặc biệt, việc tổ chức những tình
huống nghịch lí còn gắn liền với việc tổ chức, xây dựng hình tượng nhân vật
trong mối quan hệ với nghịch lí. Nguyễn Minh Châu đã tạo ra một hệ thống
nhân vật mâu thuẫn đối nghịch, tự tạo nên nghịch lí, đầu hàng bởi những
nghịch lí của cuộc sống hoặc vừa tạo ra nghịch lí vừa trả giá cho nghịch lí
mình tạo ra trong một loạt những truyện ngắn sau năm 1975.
Bên cạnh những tình huống nghịch lí Nguyễn Minh Châu còn chú
trọng xây dựng thành công những nhân vật nghịch lý. Đó là những nhân vật
tự tạo ra nghịch lý hay nhân vật bất lực với hoàn cảnh nghịch lý.
Cuộc sống của con người vốn là sự tồn tại đa dạng của những điều
nghịch lí, mà nền tảng của những tình huống nghịch lí là những điều ngẫu
nhiên. Trong mỗi cuộc đời, những tình huống nghịch lí không phải hoàn toàn
do những ngẫu nhiên đem lại, mà nhiều khi do chính con người tạo ra. Đây
cũng là điều mà Nguyễn Minh Châu muốn chỉ ra thông qua kiểu nhân vật tự
tạo ra nghịch lí trong truyện ngắn sau 1975. Kiểu nhân vật này được tổ chức
xây dựng theo hai dạng: những nhân vật không ý thức được việc tạo ra nghịch
lí và những nhân vật vừa tạo ra nghịch lí vừa trả giá cho nghịch lí mà mình
tạo ra.
Ở loại nhân vật nghịch lí đầu tiên, ta thấy họ là những con người say
sưa sống theo những tập quán, quan niệm của riêng mình mà không biết mình
đã phạm phải những điều nghịch lí. Đó là các nhân vật trong các truyện thế
sự: Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Người đàn bà tốt bụng. Những người

74
đàn bà trong khu tập thể ( Đứa ăn cắp ) thực tâm rất hồn nhiên trong tất cả
các cung bậc tình cảm của họ: hả hê khi tìm ra thủ phạm của " hai thước vải
hoa " và những món đồ bị mất vặt là cái Thoan, rồi lại bực tức căm giận tìm
mọi cách đuổi cô về quê, rồi cũng chính họ chia tay Thoan một cách bịn rịn
và sụt sùi thương sót vì cái chết trong kì sinh nở của cô. Họ yêu ghét rõ ràng,
tin chắc vào cách xử sự " thấu lí đạt tình " của mình: vừa giữ yên ổn cho khu
tập thể vừa giữ trọn tình nghĩa hàng xóm; nhưng không ai trong họ mảy may
ý thức được rằng chính họ là người gián tiếp gây ra cái chết của Thoan. Vì cái
chết thảm trong khi sinh con ở vùng quê hẻo lánh thiếu dụng cụ y tế không
nằm trong ý muốn của họ. Chính vì vậy họ đã vô tình trở thành những người
độc ác tàn nhẫn một cách hồn nhiên. Cũng hồn nhiên như thế, cô Hoằng (
Người đàn bà tốt bụng ) đã ban phát lòng tốt một cách rộng rãi, vô tư cho tất
cả mọi người, vì không bao giờ cô hận thù, ghét bỏ bất kì ai. Cô không bao
giờ có thể ngờ tới những hậu quả phiền nhiễu do sự tốt bụng của cô: làm cả
khu tập thể chao đảo trong cơn sốt mê say " con rồng bốn chân ", hồi hộp lo
sợ vì cái tin thất thiệt cô mang về, sung sướng như " chết đi sống lại ". Và
người gần gũi cô nhất là ông chồng già ngày đêm phải chịu đựng sự hồn
nhiên ngây thơ con trẻ ở tuổi già của cô một cách " khổ sở và xấu hổ ". Quả
thực lòng tốt hồn nhiên sẽ gây phiền hà nếu người ta không ý thức được giới
hạn của nó.
Trong phạm vi gia đình, chị Hằng ( Mẹ con chị Hằng ) cũng là một
nhân vật tự tạo ra nghịch lí bởi cách sống bạc bẽo hồn nhiên của mình. Chị
nuông chiều con vô điều kiện, sẵn sàng tuân theo tất cả những yêu cầu của
con không hề mảy may suy nghĩ, nhưng với mẹ, chị lại đối xử quá khắt khe.
Chị cũng yêu mẹ, nhưng chỉ nhớ tới mình " có một bà mẹ trên đời " những
khi neo vắng; chị cũng có đôi lúc ân hận vì đã cáu gắt với mẹ, nhưng lại bào
chữa vì " bà mẹ cũ kĩ ấy vụng về, luộm thuộm đến mức không thể không cáu
gắt được ". Dường như, những gì chị nhận được một cách tự nhiên từ mẹ như
tình yêu thương, lòng hy sinh... thì chị trả lại cho đứa con của mình và xem đó

75
là một sự mặc nhiên. Cho nên, sự chiêm nghiệm buồn bã của bà cụ Huân mẹ
chị ở cuối truyện: " Đời con người ta vay của cha mẹ rồi trả cho con cái, cho
nên tui cũng không buồn cho cái Hằng mô !", khiến cho câu chuyện không
dừng lại ở mức độ phê phán mà còn mang một nội dung triết lí, khái quát một
chiêm nghiệm vè một quy luật cuộc đời.
Nét chung dễ nhận thấy trong cách thức tổ chức xây dựng những nhân
vật tự tạo ra nghịch lí qua các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là việc đặt
nhân vật thế sự trong những phạm vi từ nhỏ hẹp như gia đình ( Mẹ con chị
Hằng ) đến rộng lớn hơn là xã hội ( Đứa ăn cắp, Người đàn bà tốt bụng ),
trong những mối quan hệ phổ biến, không thể thiếu của mỗi con người trong
cuộc sống cộng đồng như quan hệ mẹ con, vợ chồng, hàng xóm...Ở đây, nhà
văn không đi sâu khắc hoạ tư tưởng với những giằng xé xung đột nội tâm như
những nhân vật hướng nội hoặc tập trung làm rõ số phận, tính cách như các
nhân vật số phận, nhân vật tính cách... mà chỉ kể lại, trần thuật lại một cách tự
nhiên, chân thực, khách quan về những con người đang hồn nhiên bộc lộ cách
sống, cách nghĩ của mình trong môi trường quen thuộc, trong dòng đời dung
dị đang mặc nhiên trôi chảy. Phát hiện ra những hậu quả trái khoáy của sự vô
ý thức, dẫn đến độc ác, tốt bụng và cả bạc bẽo một cách hồn nhiên - những
nghịch lí do con người tự tạo ra trong cuộc sống. Chính điều đó đã giúp
Nguyễn Minh Châu xây dựng thành công một dạng nhân vật nghịch lí. Song
điều mà nhà văn muốn nói qua các tác phẩm của mình không chỉ dừng lại ở
sự phê phán những thói tục đời thường, mà còn cảnh tỉnh người đọc trước
những nguy cơ của nó. Sâu xa hơn, ta thấy rõ ở đó thái độ điềm đạm trong sự
chiêm nghiệm tình đời, lẽ đời sâu sắc, tinh tế của nhà văn; đồng thời cũng
thấy ở ông một tấm lòng nhân hậu đối với con người và cuộc sống.
Khi tổ chức một hệ thống những nhân vật tự tạo ra nghịch lí như những
người đàn bà trong khu tập thể ( Đứa ăn cắp ), cô Hoằng ( Người đàn bà tốt
bụng ), chị Hằng ( Mẹ con chị Hằng ), hay những người con của ông già đi
khai hoang ( Cỏ lau )... Nguyễn Minh Châu đã vạch ra một trong những nét

76
bản chất của con người, của cuộc sống: nguyên nhân gây ra trớ trêu của số
phận, đời sống con người nhiều khi không chỉ là do sự xô đẩy của điều ngẫu
nhiên mà nó còn do chính con người tạo ra. Cũng có nghĩa là những mâu
thuẫn nghịch lí không chỉ có sẵn trong sự vận động biến chuyển của cuộc
sống mà còn nằm trong mỗi con người. Đây cũng là một nét riêng trong cách
khám phá cuộc sống, con người của Nguyễn Minh Châu.
Dạng nhân vật thứ hai ( vừa tạo ra nghịch lí vừa phải trả giá cho nghịch
lí) là kiểu nhân vật tương đối dị biệt, không xuất hiện nhiều trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu. Trong mối quan hệ nhân vật - nghịch lí này, nhà văn đã
sử dụng nghịch lí như một nguyên tắc chủ đạo để thể hiện tất cả những phức
tạp, mâu thuẫn trong tính cách, tâm hồn nhân vật, tái hiện " lịch sử tâm hồn
thời đại " phong phú và đa dạng, đồng thời khẳng định quan niệm con người
đa dạng phức tạp nhiều chiều - như một cách bác bỏ quan niệm con người "
nhất phiến " giản đơn một chiều, sơ lược và công thức đã từng xuất hiện trong
các sáng tác trước đây.
Có thể nói, nhân vật Quì ( Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ) là
một tiêu biểu cho cách thức xây dựng nhân vật như trên. Trong truyện ngắn,
nghịch lí được sử dụng như nguyên tắc tổ chức để phơi trần, bóc tách sự mâu
thuẫn đa chiều của nhân vật. Nhà văn đã xây dựng nên cuộc đời của nhân vật
Quì bằng một chuỗi những mâu thuẫn nghịch lí chồng chéo. Con người chị là
sự hội tụ của những điều bất thường dị biệt, chúng luôn trỗi dậy, khiến tâm
hồn chị không lúc nào yên ổn. Từ cách yêu cho đến quan niệm, hành động...
của chị đều có nhiều khác thường và nhiều đối nghịch mâu thuẫn.Yêu khi
lòng tự ái bị xúc phạm. Tỏ tình vừa bằng van vỉ cầu xin, vừa bằng súng K54,
đòi hỏi người yêu phải là một thánh nhân rồi bỏ người yêu vì không chấp
nhận những mặt đời thường ở anh, cả khi cháy lên khát vọng tình yêu và niềm
hối tiếc ân hận khi người yêu đang ở ranh giới cận kề với cái chết. Sau này,
chị quyết tâm sửa chữa cho quan niệm sai lầm của mình bằng việc từ chối
tình yêu của bác sĩ Thương để đem tình yêu của mình tái sinh tình yêu. Hay

77
như với Hậu, vì bất ngờ gây nên cái chết của anh ta mà chị đã nhận làm người
yêu của anh, như một cách để bù đắp một phần lỗi lầm do mình gây ra trong
khi sau này chị tự hỏi liệu Hậu còn sống chị có yêu Hậu không... Như thế, cả
cuộc đời chị chồng chéo những mâu thuẫn nghịch lí, vì nhiều lúc chị trả giá
cho lầm lỗi này lại vô tình tạo ra những nghịch lí khác. Chính vì thế, cả cuộc
đời chị dường như " chỉ dùng vào việc chữa chạy những đám cháy, những
lầm lẫn mà tình yêu của mình đã gây ra ". Cả cuộc đời chị không thoát nổi
cuộc hành trình tìm kiếm " những giá trị tuyệt đối hoàn mĩ, những con người
tuyệt đối hoàn mĩ, cái điều chẳng bao giờ có, cơn khát cháy lòng của một tâm
hồn đàn bà quá ham hố ".
Bằng cách xây dựng nhân vật nghịch lí độc đáo, Nguyễn Minh Châu đã
làm cho nhân vật Quì trở thành một gương mặt đặc sắc, để lại ấn tượng khó
quên với các chàng trai trong tác phẩm và cả với cả những người đọc khi tiếp
cận tác phẩm.
Không chỉ ở nhân vật Quì, người đọc còn gặp những nét dị biệt chứa
đựng nghịch lí ở những nhân vật khác như ông Quảng ( Cỏ lau ), lão Khúng (
Phiên chợ Giát )... Nghịch lí mà ông Quảng ( Cỏ lau ) vừa tự tạo ra cho mình
vừa phải sống để trả giá nằm ở sự bất hạnh trong hạnh phúc riêng của đời
mình. Tác giả đã đặt vào nhân vật này sự đối lập trớ trêu đầy nghịch lí giữa
hai người phụ nữ trong đời ông: một người bội bạc, một người thuỷ chung
đoan chính đến mức hoá đá, nhưng lại không phải dành cho ông mà là cho
người chồng trước kia. Bi kịch với người vợ trước có thể là sự bất hạnh ngẫu
nhiên, song bi kịch với người vợ thứ hai lại là do ông lựa chọn. Vì thế, cuộc
đời ông là cả một gánh nặng nghịch lí trong khổ sở ghen tuông và thấp thỏm
lo lắng vì sự trở về từ cõi âm đầy bất thường của người lính đó. Đây là những
trả giá cho những nghịch lí mà ông đã tạo ra cho chính cuộc đời mình.
Có thể nói, những nhân vật được tổ chức xây dựng từ những điều
nghịch lí nói trên đã bọc lộ một hướng tiếp cận khá sâu sắc, tinh tế của nhà
văn về con người. Đó là những phát hiện, khơi ra phần khuất lấp ẩn sâu trong

78
mỗi con người, dù đó có thể là những mặt hoàn thiện hoặc chưa hoàn thiện về
con người. Nhưng đáng quý hơn cả là Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm được
cái nhìn nhân ái về con người đến người đọc một cách tự nhiên và hiệu quả.
Ngoài việc xây dựng thành công nhân vật tự tạo ra nghịch lý Nguyễn
Minh Châu còn đạt được nhiều thành công trong việc xây dựng các nhân vật
bất lực với hoàn cảnh nghịch lý. Trong cuộc đời con người, vốn đầy rẫy
những nghịch lí. Những nghịch lí ấy khiến con người nhiều khi phải đương
đầu với những oái oăm, trớ trêu của số phận, của hoàn cảnh. Tất nhiên trong
thực tế không phải con người nào cũng giành được chiến thắng. Trước thực tế
ấy, con người đôi khi trở nên yếu đuối, nhỏ bé trước sự chi phối của hoàn
cảnh, buộc phải tiếp nhận sự đưa đẩy của những điều nghịch lí. Nguyễn Minh
Châu đã tái hiện hiện thực đời sống ấy bằng cách xây dựng nên những nhân
vật bất lực với hoàn cảnh nghịch lí trong nhiều truyện ngắn của mình: Chiếc
thuyền ngoài xa, Bến quê, Mùa trái cóc ở miền Nam...
Đối với số phận và tính cách con người, Nguyễn Minh Châu đã từng
quan niệm: " Con người từ khi sinh ra lọt lòng đã nhận một thứ mã số về tính
cách như con dấu đóng vào từng số phận riêng tư cứ thế mang lấy hết đời "(
Trang giấy trước đèn ). Chính nhà văn đã tìm ra dấu ấn riêng của số phận
trong từng trang đời mỗi cá nhân bằng cách dùng nghịch lí làm một trong
những nguyên tắc thể hiện khi tổ chức xây dựng nhân vật.
Khi tổ chức những nhân vật này, trước hết Nguyễn Minh Châu luôn đặt
nhân vật trước một hoàn cảnh, một tình huống nghịch lí. Đó có thể là nghịch
lí giữa hoàn cảnh với khả năng và ước muốn của con người ( Bến quê ) hay là
nghịch lí giữa hoàn cảnh với số phận con người ( Chiếc thuyền ngoài xa,
Mùa trái cóc ở miền Nam ). Những nghịch lí ấy bắt con người phải đối chọi
với nó, phải lựa chọn cách sử sự với nó. Và vì nhiều lí do kgác nhau, họ phải
đầu hàng trước nghịch lí, bởi không còn cách nào khác hơn để có thể thay đổi
hoặc chiến thắng nó.

79
Ngay khi ấy, con người chấp nhận nghịch lí như một điều tất yếu.
Trong Chiếc thuyền ngoài xa, quan hệ nhân vật - nghịch lí được đặt ra trong
một sự thật đau lòng: người đàn bà thuyền chài thường xuyên chịu những cơn
mưa đòn của người chồng vũ phu với một thái độ tự nguyện, không kêu,
không chống trả, không chạy chốn, và đặc biệt là nhất định không bỏ chồng
theo lời khuyên của "vị Bao Công phố huyện làng biển ". Người đàn bà đó
đón nhận nghịch lí với một sự nhẫn nhục đáng bất ngờ, chấp nhận nó như một
phần tất yếu của cuộc sống. Chính điều đó khiến cho những người xung
quanh như nhân vật " tôi ", vị quan toà nghiêm nghị Đẩu, và cả đứa con trai,
con gái của người đàn bà ấy sửng sốt không hiểu nổi, vì thế mà họ sẵn sàng
can thiệp để giải phóng cho người phụ nữ bất hạnh. Nhưng chỉ bằng một lời
giải thích đơn giản về vai trò cần thiết của người đàn ông trong sự mưu sinh
nhọc nhằn trên sông nước, người đàn bà thuyền chài đã làm cho tất cả hiểu ra
khúc mắc tâm tư cũng như nghịch cảnh của chị. Phải có một người chịu đựng
sự đớn đau để đổi lấy sự tồn tại của gia đình. Sức mạnh của điều nghịch lí đã
bắt con người phải đầu hàng. Việc đầu hàng này đồng nghĩa với việc chấp
nhận những nghịch lí đang tồn tại như một phần của cuộc sống mà con người
không thể thay đổi được. Sự trầm tĩnh đầy trải nghiệm cuộc đời của người
đàn bà thuyền chài làm cho người đọc thấy thêm được góc khuất về số phận
con người trong cuộc sống.
Tương tự như các nhân vật nêu trên, sự đầu hàng của Thai, Lực ( Cỏ
lau ), Nhĩ ( Bến quê ), sư bà Thiện Linh ( Mùa trái cóc ở miền Nam ) trước
hoàn cảnh nghịch lí đều là những biểu hiện của sự bất lực, lệ thuộc vào hoàn
cảnh, chịu sức ép của những ngẫu nhiên vô thường trong cuộc sống đầy phức
tạp và biến động. Con người có thể chiến thắng thế lực thù địch nhưng nhiều
khi không thể chiến thắng nổi số phận của mình. Vì " cuộc sống không diễn
ra theo quy định của những hành động có ý muốn chủ quan mà là kết quả
khách quan nhiều mặt " (Trần Đình Sử ). Thai và Lực ( Cỏ lau ) vẫn còn yêu
nhau tha thiết nhưng không thể về sống với nhau được bởi cả hai bị trói buộc

80
vào những sợi dây luật lệ đạo đức nhân nghĩa, những bổn phận, lương tâm,
trách nhiệm... Nhĩ ( Bến quê ) chẳng còn có thể bao giờ vượt được một
khoảng cách ngắn ngủi để đi tới bến sông trước mặt. Sư bà Thiện Linh ( Mùa
trái cóc ở miền Nam ) trở thành một người đàn bà ăn mày " đóng vai người
khốn khó giữa cõi đời ngửa tay xin tình thương của thiên hạ " sau khi đứa con
trai - đức thánh chí tôn của bà đã nhẫn tâm ngoảnh mặt trước nỗi đau của
người mẹ... Tất cả những bi kịch và số phận ấy là biểu hiện của một sự bất lực
trước những nghịch lí của cuộc sống, mà trong đó ít nhiều do chính con người
vô tình tạo ra.
Bằng cách tổ chức xây dựng nhân vật trong mối quan hệ với hoàn cảnh
nghịch lí như thế, Nguyễn Minh Châu không chỉ thể hiện phần phức tạp,
nhiều chiều của mối quan hệ con người - hoàn cảnh, mà còn thể hiện một
cách chân thực hình ảnh con người. Nhà văn đã nêu bật tính chất nhỏ bé, tội
nghiệp của con người trong vòng quay của cuộc sống, trong bàn tay sắp đặt
vô thường của tạo hoá. Sự chi phối mạnh mẽ của ngoại cảnh làm cho con
người nhiều khi không trùng khít lên bản thân mình, không được sống, được
chuyển dịch theo ý muốn chủ quan của cá nhân. Dù viết về những điều nghịch
lí, song Nguyễn Minh Châu không dẫn người đọc đến cái nhìn bi quan về
cuộc sống, mà quan trọng hơn ông đã đưa ra một cái nhìn trầm tĩnh và tỉnh
táo: con người hoàn toàn có thể thấy được những nghịch lí của cuộc sống,
chấp nhận nó là một phần tất yếu và phổ biến trong trong đời sống để từ đó
tìm ra cách ứng xử phù hợp với nó. Đây cũng là một trong những quy luật về
bản chất cuộc sống mà Nguyễn Minh Châu đã nhận ra và thổi vào trang viết
của mình một cách tự nhiên. Chính vì thế có thể nói, nghịch lí là một khám
phá đặc sắc trong sáng tác truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
2.3.4. Hệ thống nhân vật xây dựng trong mối quan hệ với biểu tượng
Trong hành trình văn học của mình, Nguyễn Minh Châu đã không
ngừng tìm kiếm và thử nghiệm những cách thể hiện mới để tự mở rộng bản
sắc của chính mình. Hình ảnh biểu tượng là một phương tiện cách tân nghệ

81
thuật độc đáo trong sáng tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn sau năm
1975.
Nguyễn Tri Nguyên đã từng nói: Sử dụng ẩn dụ, biểu tượng là " thủ
pháp nghệ thuật... ổn định trong phong cách truyện ngắn Nguyễn Minh Châu,
trước và sau 1975 "[ 38 ]. Đặc biệt với những truyện ngắn viết sau 1975, hình
ảnh biểu tượng xuất hiện với tần số rất cao, tham gia vào nhiều yếu tố cấu trúc
truyện ngắn như hình tượng nhân vật, chất triết lí, chất trữ tình, phong cách
nghệ thuật... Trong đó, việc tổ chức hình tượng nhân vật trong quan hệ với
những biểu tượng đã trở thành phổ biến trong một loạt truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Cơn giông, Bến quê, Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau, Phiên
chợ Giát... Cùng với cách xây dựng hình tượng nhân vật trong các mối quan
hệ đối chiếu tương phản, quan hệ bổ sung, quan hệ với những nghịch lí... cách
xây dựng hình tượng nhân vật gắn với những biểu tượng cũng đem đến những
dấu ấn đặc biệt cho thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu.
Những yếu tố: ngoại hình, nội tâm, tư tưởng, số phận, tính cách ... đã
làm nên bức chân dung hoàn thiện về nhân vật, còn biểu tượng tạo nên điểm
sáng trong bức chân dung, tạo điểm nhấn mang sức nặng ám ảnh cho nhân
vật, dù đôi khi biểu tượng không tham gia vào cốt truyện hoặc hành động của
nhân vật. Chính vì thế, trong mối quan hệ nhân vật - biểu tượng, không phải
lúc nào biểu tượng cũng là cái không thể thiếu, song nó thực sự là một hiện
tượng thẩm mĩ đa nghĩa góp phần thể hiện thế giới nhân vật một cách sâu sắc
hơn.
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, nhà văn
thường tổ chức mối quan hệ nhân vật - biểu tượng trong những mói tương
quan khác nhau với thời gian, không gian để giúp người đọc thấy rõ những ý
nghĩa sâu xa khác nhau của mối quan hệ trong từng truyện ngắn cụ thể. Gắn
với nhân vật, hình ảnh biểu tượng thường trở đi, trở lại trong tác phẩm, khi thì

82
như tấm gương phản chiếu số phận nhân vật, khi thì thể hiện sự phân thân
trong tâm lí, tính cách của nhân vật, lúc lại là bức tranh nội tâm và góc khuất
tâm linh nhân vật...Khảo sát truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 ta
thường thấy hệ thống nhân vật xây dựng trong quan hệ với những biểu tượng
được tổ chức theo hai dạng chính.
2.3.4.1. Số phận nhân vật phản chiếu qua biểu tượng
Đối với những nhân vật này, biểu tượng luôn gắn liền với những bước
thăng trầm trong suốt cuộc đời nhân vật, nó như tấm gương phản chiếu số
phận nhân vật. Cuộc đời Quì ( Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ) luôn
diễn ra những cơn mộng du - biểu tượng của một bi kịch tâm hồn luôn muốn
vươn tới chân trời của những giá trị tuyệt đối hoàn mĩ. Trong Cỏ lau, số phận
của những nhân vật Lực, Thai, Quảng, Phi Phi ... lại được phản chiếu qua
biểu tượng vọng phu đầy ám ảnh. Họ đều là những nạn nhân của chiến tranh
với những mảng đời éo le, ngang trái. Chiến tranh như " nhát dao phạt ngang
" xé lìa cuộc đời họ thành hai nửa không thể gắn liền lại như cũ, rồi lại ghép
lẫn lộn những nửa đời khác biệt với nhau tạo nên những bi kịch nặng nề đau
đớn cho họ: xa cách, li tán, mất mát khổ đau, éo le ngang trái, lỡ làng dang
dở, cô đơn bất hạnh... Những hòn vọng phu nhan nhản đứng câm lặng giữa
một vùng núi ngút ngàn cỏ lau mang cái tên " Đợi " đầy ý nghĩa đã làm nên
một nhóm tượng đài về những số phận đầy bi kịch ấy. Tổ chức quan hệ nhân
vật - biểu tượng trong một không gian rộng, có ý nghĩa vĩnh cửu, với một thời
gian vận động từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai, nhà văn đã tạo ra sự ám
ảnh không dứt trong tâm trí người đọc về những số phận con người sau chiến
tranh.
Nhân vật tiêu biểu nhất cho cách tổ chức này là nhân vật lão Khúng
trong Phiên chợ Giát. Con bò khoang là hình ảnh biểu tượng có quan hệ mật
thiết với lão Khúng - nhân vật trung tâm của truyện, đây là hình tượng không
thể thiếu để làm nên hình tượng nhân vật nửa người - nửa bò đặc sắc trong tác

83
phẩm. Kiểu nhân vật dị biệt này cũng thể hiện bước chuyển đổi quan niệm về
thế giới nhân vật trong văn chương của Nguyễn Minh Châu.
Nhân vật lão Khúng được xây dựng trong sự song hành với hình tượng
con bò trong suốt tác phẩm. Mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân vật và biểu
tượng được tổ chức làm nổi bật lên chân dung về một kiếp người - bò với tất
cả hành trình sống từ mưu sinh đến cái chết, với thân phận nhọc nhằn, bất
hạnh và cả những dự cảm về tình thế của mình trong thế giới.
Trước tiên, quan hệ lão Khúng - con bò được đặt trong mối tương quan
với sự vận động của không gian rộng, tối, sâu, vắng; với sự vận động của thời
gian là hành trình đi trong đêm. Trong sự vây bọc mịt mùng này, lão Khúng
và con vật vẫn nhận ra nhau, vẫn tìm đúng đường đi dù phải " thập thõm, mò
mẫm đi giữa mặt đất bao la và tăm tối ". Điều này cho thấy mối liên hệ giữa
người và vật là mối liên hệ bản năng. Đó cũng có thể coi là cái thâm căn cố đế
của những thói quen, là sự bền chặt của thân phận người - bò trong cuộc đời
của con người. Chính trong mối tương quan với sự vận động của không gian -
thời gian hành trình sống của con bò được hiểu là hành trình sống của lão
Khúng: hành trình "từ quê ra " - hành trình mưu sinh; hành trình đến phiên
chợ Giát - hành trình đến cái chết, nó như một quy luật của tự nhiên. Trong
hành trình sống của lão Khúng, hình tượng con bò luôn song hành với những
sự kiện bất hạnh liên tiếp xảy ra với lão: con trai hi sinh, cả cuộc đời đi sau
con bò vạch những luống cày trong bóng tối ngỡ an bình mà nơm nớp lo âu (
mất bò, mất cắp, kèn cựa nhau...), con bò cả đời nhẫn nại rồi cũng đi đến cái
chết... Vì thế, có thể nói, biểu tượng con bò mang ý nghĩa định mệnh, nó là sự
hiện hình khái quát nhất của những bất hạnh đời người, chính nó bổ sung
thêm một nét vào thân phận người - bò của nhân vật.
Mối quan hệ chặt chẽ, song hành của lão Khúng và con bò còn được tổ
chức thông qua sự sắp đặt hai giấc mơ. Ở giấc mơ thứ nhất, con bò - lão
Khúng là quan hệ nạn nhân - tội nhân, ở giấc mơ thứ hai là quan hệ tội nhân -
nạn nhân. Sự đảo lộn quan hệ của hai giắc mơ này cho thấy dự cảm của con

84
người về tình thế của mình trong thế giới: con người có khi là tội nhân đồng
thời là nạn nhân của chính mình.
Được tổ chức trong mối quan hệ chặt chẽ với biểu tượng bò khoang,
nhân vật lão Khúng đã trở thành một hình tượng nhân vật dị biệt, thể hiện
bước chuyển đổi từ thế giới nhân vật toàn bích đến thế giới nhân vật méo mó,
sứt mẻ trong quan niệm về thế giới nhân vật của văn học hiện đại mà Nguyễn
Minh Châu đã tiếưp nhận và sáng tạo. Kiểu nhân vật này ta đã từng bắt gặp
trong các truyện ngắn của Kafka, Nguyễn Huy Thiệp ... trong những nét bút
tinh tuý đã thấy trước cái bất ổn trong sự tồn tại của thế giưới hiện đại.
2.3.4.2. Nội tâm và góc khuất tâm linh nhân vật biểu đạt qua biểu tượng
Thế giới nội tâm, tâm linh của con người luôn là một vũ trụ bí ẩn, phức
tạp, nó là đề tài luôn được các nhà văn khơi gợi và khám phá. Trong cuộc
sống, con người không chỉ chịu sự chỉ huy, chi phối của lí trí, tình cảm mà
còn có những giây phút bất chợt, những khoảnh khắc chịu tác động của trực
giác, linh cảm , tâm linh. Quan tâm tới vấn đề này, Nguyễn Minh Châu đã sử
dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp nghệ thuật để hiểu sâu hơn tâm lí con
người, và chính biểu tượng sẽ là một trong những phương tiện để nhà văn
biểu đạt góc khuất tâm linh vô hình, khó nắm bắt một cách rạch ròi và rõ nét
của nhân vật.
Trong việc xây dựng những nhân vật với thế giới nội tâm và góc khuất
tâm linh, có khi biểu tượng không tham gia vào cốt truyện hoặc hành động
của nhân vật mà được tổ chức như một hình tượng tô điểm thêm cho thế giới
tâm linh con người mang màu sắc lãng mạn, kì ảo, góp phần làm cho tác
phẩm có không khí như huyền thoại. Cách xây dựng này ta đã từng gặp trong
sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 với Mảnh trăng. Sau năm
1975 cách xây dựng nhân vật theo kiểu này được đổi mới và sáng tạo, biểu
tượng lại trở thành hình tượng thể hiện sự tự nhận thức nhiều khi đến bất ngờ
trong tâm linh nhân vật. Với nhân vật Quì ( Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành), góc khuất tâm linh được biểu đạt thông qua biểu tượng những cơn

85
mộng du và ảo giác. Kể từ sau khi người trung đoàn trưởng hi sinh, dường
như Quì luôn hành động theo sự mách bảo của tâm linh, của nụ cười bí ẩn.
Chị trở thành người đàn bà mộng du đưa kí ức lang thang trên những chuyến
tàu tốc hành, sống trong một tâm trạng tưởng tượng gây ra do ảo giác. Chị trò
chuyện với vong linh những người đã yêu chị. Rồi một lần khác, trong
khoảnh khắc đặc biệt của tâm trạng, chị chợt nghĩ ra, chợt tự nhiên khám phá
thấy những điều vô cùng giản dị về giá trị con người và sức mạnh của nghệ
thuật khi ngắm bức tượng gỗ ngàn mắt, ngàn tay trên toà sen. Nhận thức cùng
với ảo giác mồ hôi và nụ cười bí ẩn trên bức tượng gỗ trong những giây phút
ấy làm thành khoảnh khắc " bừng ngộ " trong chị mà lí tính không hề lí giải
được.Cũng vì những khoảnh khắc bừng ngộ ấy mà Quì thường lang thang
trong mộng ảo để săn tìm hư vô, chính những giá trị tuyệt đối, hoàn mĩ đã
khiến cuộc đời chị mộng và thực xen lẫn khó tách rời. Mộng như những
chuyến tàu mà ga đỗ của nó là sự thực, là nhận thức để rồi nó không dừng lại,
nó di tiếp những chặng đường đời bằng sinh khí của mộng tưởng chở Quì suốt
dọc hành trình.
Khám phá thế giới nội tâm, tâm linh để nắm bắt con người đích thực ở
trong con người, Nguyễn Minh Châu còn sử dụng biểu tượng để thể hiện sự
phân thân tâm lí, tính cách của nhân vật. Nhân vật hoạ sĩ ( Bức tranh ) là một
minh chứng cụ thể. Nhà văn đã khắc hoạ sự phân thân tâm lí phức tạp của
nhân vật này thông qua một cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng, gay gắt, quyết
liệt. Trong quá trình diễn ra cuộc đấu tranh, sự phân thân tâm lí của người hoạ
sĩ luôn gắn liền với một hình ảnh biểu tượng: tấm gương soi của anh thợ cắt
tóc. Một vật dụng nghề nghiệp bình thường của người thợ, nhưng với người
hoạ sĩ, đó là phương tiện để ông ta tự soi ngắm bộ mặt thật của chính mình, tự
lột cái mặt nạ để lộ ra khuôn mắt xấu xí và lạ lùng của mình. Khuôn mặt ấy
chính là " khuôn mắt bên trong " của người hoạ sĩ, được tái hiện trong bức
chân dung tự hoạ đánh dấu kết quả của cuộc đấu tranh nội tâm khốc liệt. Biểu
tượng bức chân dung là một phiên bản để tác giả chiêm nghiệm, khám phá,

86
phát hiện ra tính hai mặt trong một con người. Được đặt ở phần đầu - cuối tác
phẩm theo lối kết cấu đầu cuối tương ứng, biểu tượng này càng có giá trị
khẳng định và làm tăng sức nặng tư tưởng cho vấn đề mà nhà văn đặt ra trong
tác phẩm.
Bên cạnh những nhân vật nói trên, người đọc còn đọc trong truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu những nhân vật có thế giới nội tâm được biểu đạt
bằng biểu tượng như Huệ ( Khách ở quê ra ) với biểu tượng tiếng xe cút kít
luôn làm rung lên trường liên tưởng của cô về dĩ vãng...
Có thể thấy, tổ chức những nhân vật với thế giới nội tâm, tâm linh
phong phú, dùng hình ảnh biểu tượng để góp phần thể hiện thế giới tâm linh
ấy, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào tâm lí nhân vật, mở ra những khả năng
mới trong cuộc chiếm lĩnh hiện thực đời sống, huy động tối đa năng lực của
một cây bút trữ tình mẫn cảm. Đây cũng là cách tổ chức nhân vật sáng tạo, là
dấu hiệu của sự hoàn thiện trong tư tưởng, nghệ thuật của ông.
Bằng việc tiến hành khảo sát toàn bộ nghệ thuật tổ chức xây dựng hình
tượng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 trong
các mối quan hệ cụ thể của nhân vật chúng ta đã có được cách nhìn riêng và
tương đối cụ thể về một trong những đặc điểm nổi bật đặc sắc của Nguyễn
Minh Châu. Thực ra, sự phân chia cách xây dựng kết cấu hình tượng như vậy
chỉ mang tính chất tương đối, giúp cho việc xem xét nghệ thuật kết cấu trong
truyện ngắn của ông được rõ ràng, hệ thống hơn. Trong nhiều tác phẩm, nhà
văn đã tổ chức hình tượng nhân vật trong sự kết hợp các mối quan hệ đối
chiếu tương phản, quan hệ bổ sung, quan hệ với nghịch lí, quan hệ với biểu
tượng... đặt trong các bình diện gắn liền với cuộc sống, số phận, tính cách
nhân vật như xã hội, gia đình, bản thân, môi trường thiên nhiên... Từ đó tạo ra
một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có sức sống lâu bền với thời gian
và công chúng. Thế giới nhân vật ấy chính là sự khẳng định thành công trong
nghệ thuật kết cấu hình tượng của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm

87
1975, và góp phần vào việc khẳng định tài năng cũng như tư tuởng nghệ thuật
đặc sắc của tác giả.

88
Chương III
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KHÔNG GIAN - THỜI GIAN VÀ LỰA CHỌN GIỌNG ĐIỆU
TRẦN THUẬT
Theo " Từ điển thuật ngữ văn học ", không gian, thời gian nghệ thuật
là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của
nó. Với hình thức tồn tại đó, " Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy
cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho
thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay của một giai
đoạn văn học " [13,135], còn " thời gian nghệ thuật gắn liền với với tổ chức
bên trong của hình tượng nghệ thuật...Trong thế giới nghệ thuật, thời gian
nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được dấu kín để
miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả. Phạm
trù thời gian nghệ thuật cung cấp một cơ sở để phân tích cấu trúc bên trong
của hình tượng văn học " [13,272].
Có thể nói, không gian, thời gian nghệ thuật là hai phạm trù tương ứng,
thống nhất chặt chẽ trong một chỉnh thể nghệ thuật. Tổ chức không gian - thời
gian nghệ thuật là một trong những phương diện kết cấu nghệ thuật của tác
phẩm.
Khảo sát và nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, ta thấy
không gian - thời gian nghệ thuật được tổ chức như một hình tượng nghệ
thuật gắn liền với các yếu tố khác cấu thành tác phẩm như hình tượng nhân
vật, cốt truyện, nghệ thuật trần thuật...Nhà văn đã tổ chức không gian - thời
gian nghệ thuật trong truyện ngắn theo nhiều cách thức sáng tạo, góp phần
làm nổi rõ tính cách nhân vật, chủ đề tư tưởng tác phẩm và thể hiện được
phong cách nghệ thuật của tác giả.
3.1. Tổ chức không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật.
Không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có nhân vật

89
nào không có một nền cảnh nào đó. Bản thân người kể chuyện hay nhà thơ trữ
tình cũng nhìn nhận sự việc trong một khoảng cách, góc nhìn nhất định.
Trước 1975 không gian trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu gắn
liền với những bước đi lớn của lịch sử dân tộc qua khói lửa chiến tranh những
: Dấu chân người lính, Miền cháy, Những vùng trời khác nhau…Không
gian đó gắn với không khí sử thi và nhân vật anh hùng. Đó là thi pháp có giá
trị rực rỡ của văn học một thời kì, mà ngay cả trong nhiều tác phẩm sau này,
Nguyễn Minh Châu vẫn còn tiếp tục trình diễn nhân vật trong khoảng không
gian rộng lớn đó xong với một tư duy sáng tạo và đổi mới không dẫm lại
những " dấu chân " trước của mình.
Sau năm 1975 không gian trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu là một khoảng không gian mới thức dạy trong nhà văn những miền đất
lạ: Cuộc sống thường nhật trong mỗi nếp nhà, tâm sự và vận mệnh cá nhân
một con người, niềm thao thức thế sự, sự tự hối và phản tỉnh của đời người,
những ngõ ngách khuất dạng của tâm hồn tư tưởng...Đó là một khoảng không
gian mới, không gian của thế sự đời thường, gắn liền với số phận, tính cách,
tư tưởng, tâm trạng.
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu cả trước và nhất là sau
năm 1975, không gian nghệ thuật dù mang chất sử thi hay thế sự cũng đều
gắn liền với hình tượng nhân vật, và được tổ chức trong các mối liên hệ chặt
chẽ với thời gian nghệ thuật, với các yếu tố khác trong tác phẩm như hình
tượng nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật trần thuật... Đa số các truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu không gian nghệ thuật được tổ chức theo một số nguyên
tắc và cách thức chủ yếu sau.
3.1.1 Tổ chức không gian trong sự đối lập
Nghiên cứu sự đối lập là nghiên cứu sự đối lập giữa các mảng không
gian trong tác phẩm. Mục đích cao nhất của sự đối lập này không phải để làm
rõ tính chất khác biệt đến mức tương phản của các mảng không gian, mà
thông qua đó thể hiện nhân vật và bộc lộ chủ đề tư tưởng tác phẩm. Nhà văn

90
đã chia không gian làm nhiều mảng đối lập nhau, đặt nhân vật vào trong
những mảng không gian ấy và trong sự vận động của chúng, để từ đó làm
hiện lên bức chân dung về nhân vật với những số phận, tính cách, tư tưởng,
những quá trình diễn biến tâm lí, những suy tư, thức nhận, phản tỉnh, chiêm
nghiệm... và cả những góc khuất của tâm hồn, tâm linh...
Tuân theo nguyên tắc này, có những truyện không gian được tổ chức
trong sự đối lập giữa các mảng sáng - tối. Đọc Phiên chợ Giát ta thấy rõ
trong truyện không gian, thời gian chia làm nhiều mảng có tính lưỡng diện:
mảng tối - mảng sáng, mảng thuộc về thiên nhiên và mảng thuộc về đời sống
con người, mảng mặt đất - mảng vũ trụ... Các mảng này chen chúc nhau tạo
nên bộ mặt đa diện, muôn màu của thế giới.Tuy nhiên trong các mảng không
gian đó, hai mảng không gian đối lập tối - sáng đóng vai trò quán xuyến nổi
bật. Mối tương quan giữa hai không gian này thể hiện rõ nhất qua mối tương
quan của các gam màu. Các gam màu trong truyện không được tả trực tiếp mà
được thể hiện thông qua các sự vật mang màu. Gam màu tối là màu của máu
và bóng đêm. Bóng đêm thì phủ lên toàn bộ sự vật: cái bếp của lão Khúng,
giấc mơ, con đường đến chợ... Còn màu máu thì vón cục thành những mảng
tiết, hiện hình trong giấc mơ. Đây là những mảng màu gắn với tuyến sự vật
thuộc mặt đất. Còn gam màu sáng là gam màu mà ánh sáng loé lên ở cuối
chân trời đằng tây và ánh sáng của những ngôi sao xanh - mảng màu gắn với
tuyến nhân vật thuộc màu trời. Màu sáng ít ỏi này lại được tổ chức trong giai
đoạn lụi tàn, ở khoảng cách vời vợi, ở sắc thái lạnh: " ở cuối chân trời đằng
tây chợt loé lên như đốm lửa bùi nhùi rơm rồi tắt ngấm mất hút "," trong thế
giới bao la giữa đêm tối sâu thẵm tĩnh mịch, chỉ những ngôi sao xanh ngời
ngợi và ẩm ướt đang nhấp nháy tận đỉnh trời "," cái lạnh như từ những vạt
sao xanh ngời ngợi tận trên đỉnh trời tiết ra theo từng nhịp ánh sáng nhấp
nháy "... Sắc lạnh của ánh sáng cùng gam màu đỏ, đen loang lổ bao trùm mặt
đật đẩy thế giới hiện tại về điểm xuất phát nhân loại bước đi từ thuở hồng
hoang sang thời văn minh.

91
Song hành với sự vận động của hai mảng từ tối sang sáng là hành trình
con người nhìn rõ hơn cái số kiếp của mình. Sự di chuyển này làm thắt ngặt
hơn bi kịch của con người khi nó ý thức sâu sắc về những bất hạnh không thể
thay đổi.
Ngoài Phiên chợ Giát ta còn bắt gặp nhiều truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu nhiều truyện ngắn không gian nghệ thuật được tổ chức trong sự
đối lập giữa mảng không gian nhỏ hẹp với mảng không gian rộng lớn: Bức
tranh, Người dàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Mùa trái cóc ở
miền Nam, Sống mãi với cây xanh...
Trong các truyện ngắn, mảng không gian nhỏ hẹp thường là không gian
gắn liền với cuộc sống của nhân vật trong hiện tại. Đó là những không gian
sinh hoạt đời thường: một căn phòng có tấm phản kê sát ở ô cửa sổ nhìn ra
bến sông trước mặt mà Nhĩ thường nằm trong những ngày bệnh nặng cuối đời
( Bến quê ), một quán cắt tóc nhỏ xuềnh xoàng ( Bức tranh ), một góc bệnh
viện vừa là nơi Quì làm việc vừa là nơi chị chữa bệnh, cũng chính là nơi chị
kể chuyện đời mình cho nhân vật " tôi " nghe ( Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành ), hay một doanh trại bộ đội sau ngày giải phóng (Mùa trái cóc
ở miền Nam), một ngõ phố hẹp có căn phòng tuềnh toàng của bác Thông, cô
Loan, bà Ngan ( Sống mãi với cây xanh )...Đối lập với những không gian nhỏ
hẹp là những không gian được tổ chức trong sự trải rộng của cả quãng đời dài
của nhân vật, với những bôn ba, tìm kiếm, thăng trầm và từng trải. Đó là
những miền đất nước mà bước chân đi đến mọi xó xỉnh trên trái đất, những
không gian viễn xứ được đo bằng những miền, châu lục, quốc gia, đại
dương... mà Nhĩ (Bến quê) đã từng qua. Đó là những cánh rừng Trường Sơn
bạt ngàn, mênh mông thời đánh Mĩ - nơi Quì đã sống " trọn cuộc đời mình "
những năm tuổi trẻ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) hay không gian
từ Bắc chí Nam mà người mẹ - sư bà Thiện Linh từng lưu lạc tha hương
(Mùa trái cóc ở miền Nam)... Những không gian này có khi được nhắc đến
khi kể về nhân vật ( Bến quê ), có khi được miêu tả trong sự gắn bó với cuộc

92
sống, số phận, tính cách nhân vật ở những thời điểm cụ thể, thường là trong
quá khứ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Mùa trái cóc ở miền
Nam). Hai mảng không gian nhỏ hẹp và rộng lớn được tổ chức trong sự đối
lập, có lúc xen kẽ giữa các sự kiện quá khứ - hiện tại (Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Mùa trái cóc ở miền Nam), hoặc xen vào giữa dòng
tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật (Bến quê), hoặc trong sự nối tiếp thời gian
quá khứ - hiện tại. Cách tổ chức ấy tạo ra sự đối chiếu giữa những quãng đời
của nhân vật, tạo ra sự đối thoại giữa những cảm xúc, tâm trạng, nhận thức,
chiêm nghiệm, phản tỉnh... trong tâm hồn nhân vật. Với Quì (Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành), quãng đời tuổi trẻ sôi nổi, " khác đời " của chị
diễn ra hoàn toàn trong những cánh rừng Trường Sơn bao la rộng lớn - một
không gian tương ứng với cách sống, cách yêu, với những quan niệm sống
khác thường của chị. Nó dường như đối lập với cuộc đời hiện tại (trong một
không gian nhỏ hẹp là quân y viện nơi chị vừa là y sĩ vừa là bệnh nhân) bề
ngoài có vẻ yên ổn, bình lặng, nhưng thực ra bên trong vẫn có những đợt sóng
ngầm của nỗi khát khao sự toàn bích không thoả trong tâm hồn chị. Còn với
sư bà Thiện Linh (Mùa trái cóc ở miền Nam), không gian rộng lớn từ Bắc chí
Nam là nơi ghi dấu những cơ cực, những nỗi khổ tâm day dứt vì thương con
của bà: nhưng cái căn phòng nhỏ trong " tư dinh " thủ trưởng tiểu đoàn 7 mới
là nơi chứng kiến một nỗi xót xa lớn hơn gấp bội lần những gì đã qua trong
đời bà: sự phán xét lạnh lùng, tàn nhẫn như một quan toà độc ác của con trai
bà - đức thánh chí tôn bao năm bà đi tìm "để ăn mày tình thương và sự tha thứ
". Một không gian nhỏ khắc hoạ đỉnh điểm một nỗi đau lớn. Hình ảnh người
mẹ đi lang thang " ngửa tay xin tình thương của thiên hạ " cuối truyện là sự
trở về với những không gian lưu lạc rộng lớn mà bà đã từng trải qua, trở về
kiếp người ăn mày của quá khứ nhưng trong một nỗi thống khổ lớn lao hơn
nhiều. Kết cục nhức nhối này như nhấn đậm thêm nét kết cấu sau cùng cho
một số phận đau khổ, tội nghiệp của con người giữa cõi đời còn nhiều cái ác
đang hiện hình ngay ở những gì thân thiết xung quanh mình.

93
Khác với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Mùa trái cóc ở
miền Nam, những không gian đối lập là bối cảnh để làm rõ tính cách, số phận
nhân vật, trong Bến quê, Bức tranh, sự đối lập giữa hai mảng không gian nhỏ
hẹp và rộng lớn là một trong những yếu tố thúc đẩy cho những nhận thức nội
tâm. Với Nhĩ (Bến quê) đó là sự nhận thức về một điều giản dị: trong cuộc
đời, con người đừng vì những "chùng chình ","vòng vèo " mà để mất những gì
gần gũi, quý báu. Còn trong Bức tranh là sự khám phá, nhận rõ bản chất con
người mình của nhân vật.
Trong một truyện ngắn duy nhất được xây dựng bằng những nét viễn
tưởng Sống mãi với cây xanh Nguyễn Minh Châu đã tổ chức không gian
trong sự đối lập giữa thế giới của thiên nhiên với xã hội đô thị. Dưới hình
thức hồi kí của hai nhân vật đặc biệt (cây sấu và cây cột điện) qua lời dịch của
một người "biết nói chuyện với cây cối " là bác Thông, thế giới thiên nhiên
trong truyện hiện lên một cách sinh động, trong trẻo, thuần khiết. Vẻ đẹp ấy
được tác giả miêu tả trong một sự kiện viễn tưởng: đại hội của các loài cây
với sự góp mặt của rất nhiều loại cây, của nàng Gió, bà mẹ Đất và đại diện
duy nhất của con người là bác Thông. Vấn đề chính của đại hội là vấn đề
thành thị hiện đại với thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn con người trong thế giới
đó. Đối lập với thế giới thiên nhiên là không gian xã hội đô thị được đặt trong
thời gian viễn tưởng 20 năm sau: một khu phố xây dựng thí điểm với đại lộ
rộng, thẳng tắp, hệ thống đèn ban đêm toả sáng dịu mát. Cây cối được thay
bằng những hè phố xi măng, những cây bàng, cây sấu hay trút lá nhường chỗ
cho những cây thông có dáng đứng kiêu kì hợp với khung cảnh đường phố đô
thị mới. Đặt giữa sự đối lập ấy, con người hiện ra như cầu nối hai miền không
gian. Đó là những con người như bác Thông suốt đời làm nghề trồng cây, gắn
bó với cây cối bằng tình cảm máu thịt, là cô Loan từ khi còn là cô bé, giao
thừa năm nào cũng gửi cho thiên nhiên một chiếc lá vào hòm thư, là bà Ngan
- người thấu hiểu và đồng cảm sâu xa với tình yêu đất đai, cây cối của bác
Thông hơn ai hết. Mỗi người có một tâm trạng, một số phận, một cuộc đời

94
riêng khác nhau trong cuộc biến thiên chung: bác Thông đau khổ, suy sụp tinh
thần nặng nề, cô Loan sau này thành một nhà văn - xúc động mãnh liệt khi
gặp lại hình ảnh quá khứ, bà Ngan đến tuổi già sống với hoài niệm về thời
gian đã qua...Thông qua việc tổ chức không gian đối lập, khắc hoạ số phận
của con người trong những không gian ấy, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến
người đọc bức thông điệp khẩn thiết: đô thị hoá là xu thế, quy luật phát triển
tất yếu của thành thị, song điều con người cần phải làm là không chỉ chinh
phục mà còn phải sống hoà hợp với thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên. Đặc biệt
phản ánh số phận con người, tâm hồn con người trong quá trình đô thị hoá là
vấn đề nhà văn quan tâm hàng đầu và dành nhiều niềm trắc ẩn sâu xa nhất của
một tấm lòng nhân hậu, thiết tha với con người và cuộc sống trên mặt đất, tất
cả được trang điểm trước hết " bằng những Con Người ".
3.1.2. Tổ chức không gian tư tưởng, không gian tâm lý, không gian văn
hoá thẫm mỹ
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, không
gian ngoài ý nghĩa thực là nền cảnh, bối cảnh cho nhân vật xuất hiện, hành
động và bộc lộ mình còn được tổ chức dưới một hình thức đặc biệt để thể hiện
thế giới bên trong của con người: không gian tư tưởng, không gian tâm lí,
không gian văn hoá thẫm mĩ. Đó là những không gian để con người nhìn sâu
vào thế giới nội tâm của chính mình, vận động tư tưởng, tâm lí trong thế giới
đó, từ đó nhận thức, suy ngẫm, chiêm nghiệm...những vấn đề tư tưởng, nhân
sinh có ý nghĩa vĩnh hằng. Truyện ngắn Bến quê, Bức tranh, Một lần đối
chứng …là một minh chứng rõ nét cho điều dó.
Trong Bến quê, không gian nghệ thuật được tổ chức như một hình thức
của quan niệm, của tư tưởng, mà các yếu tố khác như thời gian nghệ thuật, hệ
thống nhân vật, chi tiết nghệ thuật...là các yếu tố cộng hưởng tạo ra một
không gian độc đáo gắn liền với vận mệnh tinh thần văn hoá của nhân vật
Nhĩ.

95
Trong Bến quê, vẫn là không gian hiện thực cụ thể. Nó không phải là
một bến sông chung nào đó, mà là cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa
sổ mà Nhĩ đã bất ngờ phát hiện ra khi nằm trên tấm phản sát cửa sổ trong
những ngày bệnh nặng. Nó hiện lên trước mắt anh trong những tia nắng sớm
của ngày đầu thu, phô ra" thứ màu vàng thau xen với màu xanh non, những
màu sắc quen thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ ". Một không
gian của sự trù phú bình dị như bao đời. Từ không gian hiện thực, nó trở
thành không gian tâm lí. Ngay lập tức, cái bến sông quê vừa nhìn thấy đã lay
động tâm hồn Nhĩ, làm xuất hiện trong anh giây phút độc thoại:" Suốt đời Nhĩ
đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là chân trời gần
gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến ". Trong cảm nhận của Nhĩ, thời
gian của hiện thực đã vụt đến thời gian quá vãng, không gian cũng từ cận
cảnh bay tới không gian xa viễn của quá khứ. Cảm nhận bến sông quê vừa "
gần gũi " lại vừa " xa lắc " không phải là trạng thái nặng nề của sự cắn rứt
lương tâm, mà chỉ là niềm hối tiếc pha chút ân hận vì suốt bao năm trải bước
khắp mọi phương trời đã không dù chỉ một lần ngoái về để nhìn ra được vẻ
đẹp của cái nơi thân quen, gần gũi nhất mình đã sinh ra, ở và lớn lên. Đây
thực sự là bước thức nhận của tâm hồn và trí tuệ trên hành trình đời người của
Nhĩ. Từ thức nhận đó, anh khao khát chiếm lĩnh cái không gian gần gũi nhỏ
bé - quá nhỏ bé so với những miền đất mà anh đã từng qua. Nhưng sức tàn lực
kiệt, anh chỉ còn có thể nhờ con đi hộ, rồi lo lắng sợ con trễ chuyến đò ngang
trong ngày, buồn bã suy nghĩ về " vòng vèo " hoặc "chùng chình" của cuộc
đời, thấm thía cái điều anh khám phá "giống như một niềm mê say pha lẫn nỗi
ân hận đau đớn" và tuyệt vọng bởi sự bất lực của mình.
Cùng với không gian bến quê, một không gian nhỏ hẹp khác cũng tạo
ra một phía của sự nhận thức như trên. Đó là không gian trong cửa sổ. Nó là
không gian của gia đình, nơi Nhĩ tìm thấy chỗ nương tựa trong những ngày
cuối đời sau bao năm bôn tẩu, tìm kiếm. Một không gian mang ý nghĩa tư
tưởng: người vợ mà " lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá ",

96
đứa con trai thay anh đặt bước chân để thám hiểm bến sông quê theo lời cầu
khẩn của anh - đó chính là cái " bến quê " tinh thần của đời anh.
Có thể nói, toàn bộ không gian nhỏ hẹp của tấm phản, căn phòng,
khung cửa sổ, bến sông quê cạnh nhà trong tác phẩm đã được tổ chức thành
một không gian nghệ thuật để tạo và thể hiện những diễn biến của quá trình
tâm lí, tư tưởng của nhân vật. Cùng với không gian ấy là sự đối chứng của
thời gian thực tại ngắn ngủi của ngày thường với thời gian lịch sử - đời người
mà Nhĩ đã trải qua. Có thể xem thời gian trong trường hợp này là chiều thứ tư
của không gian: chiều sâu. Không gian Bến quê là một không gian tư tưởng,
vì nó chứa đựng những thức nhận của nhân vật về đường đời của cuộc sống,
chứa đựng cả những phát hiện ấm áp tình người, tình đời của nhân vật và
cũng là của tác giả về những gì thân quen, thương yêu nhất (người vợ, những
gì hồn nhiên gần gũi nhất ( bầy trẻ con và ông lão láng giềng), những gì giàu
có, thuần phác nhất và cổ sơ nhất của mảnh đất đã sinh ra con người và đón
nhận con người trở về - mảnh đất " Bến quê ". Vì thế, không gian nhỏ hẹp của
tác phẩm lại trở thành thước đo không gian rộng lớn của con người nói chung.
Không gian trong Bến quê là không gian tâm lí, tư tưởng đồng thời
cũng là không gian văn hoá thẫm mĩ mới mẻ của Nguyễn Minh Châu sau năm
1975. Chính không gian đó đã khái quát cho kiểu không gian của cuộc sống
thường nhật chứa đựng tâm sự, vận mệnh cá nhân một con người, chứa đựng
nhận thức tâm lí, ngõ khuất tâm hồn tư tưởng...trong ý nghĩa tượng trưng của
Bến quê. Còn trong ý nghĩa trực tiếp cụ thể đó là mảnh đất quê hương nơi đã
sinh thành, nuôi dưỡng, li biệt và đón nhận mỗi con người trở về khi giã từ
cuộc sống.
Không khác nhiều trong Bến quê, không gian nghệ thuật trong Bức
tranh cũng được tổ chức thành không gian tư tưởng, tâm lý. Đó cũng là một
không gian nhỏ hẹp: Quán cắt tóc nhỏ ở ngoại ô thành phố. Đây là nơi người
hoạ sĩ, nhân vật chính của tác phẩm tình cờ gặp lại anh chiến sĩ " thồ " tranh
cho mình tám năm về trước, giờ là chủ nhân của cái quán cắt tóc nhỏ bé,

97
tuềnh toàng ấy. Song nó không được xây dựng như một khung cảnh cho sự
gặp gỡ thông thường, mà chuyển thành không gian cho sự vận động của tư
tưởng, tâm lí bên trong của nhân vật. Từ lần đầu tiên cho đến những lần sau,
mỗi khi đến quán cắt tóc, ngồi trên chiếc ghế đã trở thành quen thuộc, trong
con người hoạ sĩ lại xuất hiện những day dứt, dằn vặt, giằng xé ngày càng
tăng, cùng với nỗi hổ thẹn " da mặt tôi cứ dày lên ".Vì thế, chính không gian
nhỏ hẹp này là nơi mà người hoạ sĩ đã có lần muốn trốn tránh nhưng rồi lại tự
tìm đến (dù đã có lần nó thay đổi vị trí), ngồi vào chiếc ghế cắt tóc như là sự
nạp mình cho toà án lương tâm. Cái quán nhỏ bé rất bình thường đã trở thành
một toà án để nhân vật tự phán xử mình. Chi tiết anh thợ cắt tóc chuyển quán
vào trong phố là một dụng công nghệ thuật của tác giả. Không gian địa lí có
thể thay đổi, xong sự day dứt lương tâm thì không bao giờ buông tha anh
chừng nào anh còn chưa nhận thấu lỗi lầm của mình một cách thành thực.
Chính vì thế người hoạ sĩ phải trở đi trở lại nơi này, một cách tự nguyện, dù
mỗi lần đến đó giống như đến trước vành móng ngựa của phiên toà đại hình -
phiên toà của lương tâm đạo đức. Chính ở phiên toà này mà người hoạ sĩ, sau
bao dằn vặt, sám hối đã đi đến nhận rõ bản chất " rồng phượng lẫn rắn rết,
thiên thần và ác quỷ " của con người mình, và thể hiện khám phá đó bằng một
bức chân dung tự hoạ đầy ý nghĩa.
Nhìn chung, tổ chức không gian tư tưởng, tâm lý và văn hoá thẫm mỹ
là một thủ pháp kết cấu độc đáo của Nguyễn Minh Châu. Chính nó đã góp
phần giúp cho tác giả đi sâu khám phá và thể hiện những quá trình vận động
tư tưởng, tâm lí của con người một cách chân thực, sinh động, từ đó khái quát
thành những vấn đề tư tưởng có sức thuyết phục cao đối với người đọc.
3.1.3. Tổ chức không gian đời thường mang ý nghĩa nhân sinh
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 một
trong những hình thức biểu hiện không gian nghệ thuật được nhiều người chú
ý là không gian hiện thực đời thường. Đó là không gian để nhân vật sống,
hoạt động, tự thể hiện mình trong cuộc sống đời thường. Trong dòng chảy

98
chung đó, nhiều truyện ngắn sinh hoạt thế sự của Nguyễn Minh Châu được tổ
chức trong không gian sinh hoạt đời thường mang ý nghĩa nhân sinh. Có thể
điểm qua các truyện ngắn: Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Người đàn bà tốt
bụng, Hương và Phai, Sắm vai...
Đối với các truyện ngắn này, người đọc có cảm tưởng như Nguyễn
Minh Châu đang thuật lại một cách khách quan những chuyện xảy ra ở chính
dãy nhà mình, khu tập thể của mình.Trong không gian ấy, dòng đời đang mặc
nhiên trôi chảy, nhà văn chỉ làm công việc ghi lại đầy đủ, chân thực. Không
gian thường gặp trong các truyện này là không gian nhỏ hẹp: một dãy hoặc
một khu tập thể (Đứa ăn cắp, Người đàn bà tốt bụng ), một căn phòng, một
ngôi nhà ( Mẹ con chị Hằng, Sắm vai ). Những không gian nhỏ hẹp ấy là môi
trường sống, môi trường hoạt động của các nhân vật, là môi trường quen
thuộc để các nhân vật tự bộc lộ mình một cách tự nhiên, nhiều khi hồn nhiên.
Những người đàn bà trong khu tập thể ( Đứa ăn cắp ) thoải mái trò chuyện,
bình luận về tất cả mọi chuyện đang diễn ra trong khu tập thể, kể cả sự kiện
cô Thoan chết cũng chỉ là một trong vô số các đề tài bàn tán của họ, mà
không một ai mảy may ý thức được rằng chính họ đã vô tình gián tiếp gây ra
cái chết của Thoan vì sự kiên quyết đòi đuổi cô về quê của họ. Cô Hoằng (
Người đàn bà tốt bụng ) lúc nào cũng hồn nhiên ban phát lòng tốt cho cả dãy
K. mà không ngờ đến sự phiền nhiễu đôi khi do chính lòng tốt ấy gây ra. Chị
Hằng ( Mẹ con chị Hằng ) cư xử với mẹ trong ngôi nhà của mình - nhiều lúc
không rõ ranh giới giữa một người con gái được nuông chiều với một người
chủ nhà, nên bạc bẽo với mẹ một cách hồn nhiên. Chính sự bộc lộ mình một
cách hồn nhiên ấy của các nhân vật trong không gian của họ đã khiến cho
không gian đời thường trở thành không gian chứa đựng những ý nghĩa nhân
sinh có tính phổ quát và muôn thuở của con người: lòng tốt, cách đối nhân xử
thế - con người cần luôn luôn ý thức được những điều đó. Trong Sắm vai, căn
phòng nhỏ hẹp của nhà văn T. lại là nơi diễn ra bi kịch lớn: bi kịch đánh mất
mình. Ở đấy, anh phải đi lại, đứng ngồi, cười nói, trong vai một người chồng

99
lịch lãm, trẻ trung xong phù phiếm, hình thức, hoàn toàn tương phản với lối
sống giản dị, thích giản tiện những cái rườm rà, phiền toái trong bản chất con
người chân thật của anh. Khi anh trở lại chính mình, thoát ra khỏi không gian
trói buộc đó bằng cách tìm đến một không gian khác, cũng nhỏ hẹp xong lại
tự do: căn phòng của anh diễn viên - nhà văn trẻ hàng xóm. Sự chuyển đổi
không gian này chỉ là giải pháp tình thế, xong nó là bước đầu để anh sắp xếp
lại cuộc sống của mình khi trở lại chính mình. Như vậy, ở đây không gian
ngoài ý nghĩa là không gian sinh hoạt còn là không gian để con người được
sống đúng với bản ngã của mình - một không gian mang ý nghĩa tư tưởng.
3.1.4. Tổ chức không gian với nhiều hình thức biểu tượng
Nhìn dưới góc độ văn học, biểu tượng là một phương tiện tạo hình và
biểu đạt hữu hiệu có tính đa nghĩa thể hiện dưới dạng một hình tượng cụ thể,
cảm tính, có thể được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong tác phẩm và có giá
trị gợi cảm cao. Chính vì thế, hình ảnh biểu tượng bản thân nó đã mang bản
chất tượng trưng, đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Đó là phần mà hình
tượng vượt ra khỏi chính nó, là sự hiện diện của một lớp nghĩa nào đó vừa
hoà hợp với hình tượng, vừa không đồng nhất vào hình tượng.
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, sử dụng
hình ảnh biểu tượng là một cách tân nghệ thuật độc đáo. Hệ thống biểu tượng
thực sự là một hiện tượng thẫm mĩ đa nghĩa, đa chức năng, vừa góp phần thể
hiện thế giới nhân vật, vừa góp phần làm tăng tính triết lí, tính trữ tình cho tác
phẩm, vừa tạo nên những nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật.
Tìm hiểu biểu tượng trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu từ góc độ
nghệ thuật kết cấu, trong một khuôn khổ có hạn của luận văn chỉ đề cập đến
biểu tượng trong nghệ thuật tổ chức không gian và nghệ thuật tổ chức nhân
vật, bởi mối quan hệ chặt chẽ của nó với hai phương diện trong nghệ thuật kết
cấu. Trong phần nghệ thuật tổ chức không gian, phần lớn đi vào tìm hiểu cách
thức tổ chức những không gian có chứa đựng biểu tượng để tăng hiệu quả
nghệ thật kết cấu tác phẩm.

100
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, ta nhận
thấy cách tổ chức không gian với những biểu tượng được nhà văn sử dụng
nhiều một cách đa dạng và linh hoạt. Với Cơn giông, Bến Quê, Sống mãi với
cây xanh, Cỏ lau... là những truyện ngắn thể hiện một cách rõ nét cách tổ
chức này.Trong các truyện ngắn tác giả đã tổ chức không gian thiên nhiên,
không gian sinh hoạt chứa đựng các hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa: cơn
giông, bến sông quê, đất, cỏ lau, vọng phu...Những biểu tượng này đem đến
cho hình ảnh không gian một sự đa nghĩa: vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa
mang những ý ngiã tư tưởng, triết lí, nhân văn sâu sắc. Đồng thời, nó thể hiện
được dấu ấn phong cách cá nhân nhà văn và thời đại.
Đọc Cỏ lau ta thấy rõ cách thức tổ chức không gian độc đáo của
Nguyễn Minh Châu, không gian được tổ chức thành một khung cảnh làm nổi
bật số phận con người sau chiến tranh, mà trong đó biểu tượng " cỏ lau " và "
vọng phu " là hai mảng màu đậm nhất trong toàn cảnh. Không gian ấy hiện
lên qua từng quãng hồi ức của Lực - nhân vật chính - và xen kẽ trong những
dòng miêu tả hiện tại. Đó là một vùng núi hoang vu với cỏ lau ngút ngàn, trải
dài vô tận và dãy đá vọng phu " đứng nhan nhản " theo " đủ hình dáng, đủ
mọi tư thế, quay mặt về đủ các hướng các ngả chân trời có lửa cháy ". Không
gian với những hình ảnh biểu tượng này gắn liền với cuộc đời, số phận, với
những vui buồn, hạnh phúc, bất hạnh trong quá khứ và hiện tại của nhân vật.
Với Thai và Lực, vùng núi Đợi đầy cỏ lau và đá vọng phu vừa là nơi ghi dấu
tình vợ chồng mặn nồng của họ sau ngày cưới, vừa như điềm dự báo cho nỗi
bất hạnh, cô đơn sau này của mỗi người. Bị chiến tranh làm cho mất nhau
trong suốt hai mươi bốn năm trời - suốt một thời tuổi trẻ, khi gặp lại thì cuộc
sống, số phận đã an bài. Họ gặp lại nhau cũng ở vùng núi ngút ngàn cỏ lau và
nhan nhản tượng đá ấy, họ hiểu rằng dù còn yêu thương nhau da diết, muốn
làm dịu cho nhau những vết thương lòng nhưng bao mối ràng buộc lương
tâm, đạo đức với gia đình, người thân, với quá khứ, hiện tại...đã khiến họ
không về dược với nhau. Thai phải tiếp tục sống trong sự phân thân đau đớn,

101
trở thành một " vọng phu " bằng xương bằng thịt giữa cuộc đời. Còn Lực sống
quãng đời còn lại trong tuổi già cô đơn, với những hoài niệm day dứt, đắng
cay, ở chính cái nơi lưu giữ kỉ niệm và tình yêu hạnh phúc thời trai trẻ: " giữa
những hình người bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh..., có một người lính già
sống suốt đời ở đấy với một ông bố...". Có thể nói, những biểu tượng của
không gian nghệ thuật đã hoá thân vào nhân vật, sống cùng cuộc đời số phận
của nhân vật trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ.
Trong một số truyện ngắn khác của Nguyễn Minh Châu viết sau năm
1975 như Bến quê, Sống mãi với cây xanh...cũng sử dụng cách tổ chức
không gian với những hình ảnh biểu tượng. Bến quê trong truyện ngắn cùng
tên là một không gian hiện thực, không gian tư tưởng, tâm lí vừa là một biểu
tượng có ý nghĩa tượng trung cho những gì gần gũi, thân thiết nhất của con
người, đặc biệt trong những thời điểm bất hạnh nhất. Riêng truyện ngắn Sống
mãi với cây xanh, biểu tượng " mẹ Đất " của thế giới thiên nhiên được đặt
trong quan hệ bình đẳng với con người. Điều đó cho thấy quan niệm, thái độ
của nhà văn đối với môi trường thiên nhiên và cũng là môi trường sống của
con người. Đó là sự trân trọng, hàm ơn sâu sắc. Bức thông điệp gửi đến người
đọc ở đây là con người cần phải sống hoà hợp với thiên nhiên và hãy bảo vệ
thiên nhiên ...Trong mỗi truyện cụ thể là một cách tổ chức không gian riêng,
song đều hướng tới mục tiêu bộc lộ nhân vật và thể hiện chủ đề tư tưởng tác
phẩm.
3.2. Tổ chức thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù tương ứng với không gian nghệ
thuật, hai phạm trù này có mối quan hệ thống nhất chặt chẽ trong một chỉnh
thể nghệ thuật.
Giống như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong các truyện
ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu có những vận động đổi mới và
sáng tạo rõ rệt so với giai đoạn trước năm 1975.

102
Trong những sáng tác trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu thường
miêu tả thời gian lịch sử. Đó là thời gian của những biến cố lớn lao trong xã
hội. Cửa sông, Dấu chân người lính, Những vùng trời khác nhau đều miêu
tả thời gian hiện tại một cách trực tiếp, theo thứ tự từ trước đến sau. Thời gian
lịch sử, thời gian trần thuật thường trùng nhau ít có sự sai lệch.
Với những truyện ngắn viết sau năm 75, nhân vật được Nguyễn Minh
Châu khắc hoạ trong những khoảng cách lịch sử. Một kiểu thời gian nghệ
thuật mới xuất hiện, phân biệt hẳn với thời gian lịch sử, không- thời gian sử
thi, anh hùng ca trước đó. Thời gian thành thời gian của những số phận cá
nhân, thời gian của sự chiêm nghiệm, suy tư, tự ý thức…Thời gian trong các
tác phẩm được mở rộng phạm vi hơn, theo nhiều chiều hơn. Không chỉ là thời
gian lịch sử, hiện tại theo thứ tự từ trước đến sau, mà còn là thời gian của của
quá khứ, tương lai, thời gian tâm lí, thời gian ảo, thời gian viễn tưởng...Gắn
với những điểm nhìn khác nhau, thời gian lịch sử, thời gian trần thuật, thời
gian của nhân vật, sự kiện nhiều khi không hề trùng nhau. Theo đó, cách tổ
chức thời gian nghệ thuật cũng được vận dụng linh hoạt, theo nhiều cách thức
mới mẻ, tạo ra hiệu quả nghệ thuật đáng kể.
3.2.1. Tổ chức theo trình tự thời gian
3.2.1.1.Thời gian theo trật tự tuyến tính
Tổ chức thời gian theo trật tự tuyến tính là cách tổ chức thời gian
truyền thống trong văn học. Thời gian được trần thuật trong tác phẩm đi theo
trật tự của thời gian khách quan. Điểm nhìn thường đặt vào người kể chuyện
ở ngôi thứ ba. Thời gian sự kiện và thời gian trần thuật thống nhất, không có
độ chênh lệch lớn.
Cách tổ chức này đã được Nguyễn Minh Châu sử dụng trong các sáng
tác
trước năm 1975 như : Cửa sông, Dấu chân người lính, một số truyện trong
tập : Những vùng trời khác nhau ( Nhành mai; Lá thư vui; Chuyện đại đội,
Người mẹ xóm nhà thờ...

103
Sau 1975 cách tổ chức thời gian này vẫn được Nguyễn Minh Châu sử
dụng trong các truyện ngắn: Bến quê, Người đàn bà tốt bụng, Sắm vai,
Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối chứng, song có những sắc thái mới mẻ
hơn.
Thời gian vần được miêu tả theo trật tự của thời gian khách quan, trần
thuật từ điểm nhìn của của người kể chuyện ở ngôi thứ ba (Bến quê, Người
đàn bà tốt bụng ) hoặc ngôi thứ nhất (Sắm vai, Chiếc thuyền ngoài xa, Một
lần đối chứng) với nhân vật " tôi " đóng vai trò người dẫn chuyện, song thời
gian lịch sử - hiện tại được dùng để " chứa đựng " diễn biến sự việc, sự việc
đời thường dung dị gắn với số phận, cuộc sống con người một cách cụ thể
hơn; do vậy nó có những điểm " nhấn " thời gian đậm nét hơn, và ở những nét
ấy thường in đậm dấu ấn tâm lí chủ quan của người kể chuyện hơn. Chính vì
điều đó quan niệm về hiện thực, con người của tác giả cũng được thể hiện rõ
hơn. Tiêu biểu cho cách thức tổ chức thời gian này là truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa. Trong mạch thời gian tuyến tính của sự việc người phóng
viên nhiếp ảnh ( nhân vật " tôi ") đi chụp ảnh làm lịch ở một vùng biển cách
Hà Nội 600km, nhà văn đã chọn thời điểm làm điểm nhấn thời gian đầy ý
nghĩa: một buổi sáng. Đây là thời điểm bắt đầu một ngày mới, đồng thời cũng
là thời điểm kết thúc một ngày làm việc của những ngư dân trên biển. Trong
khoảnh khắc rất đẹp của không gian buổi sáng (sao lặn, mây hồng dần lên,
biển như một con sứa khổng lồ), người phóng viên đã bắt gặp một vẻ đẹp toàn
bích "như trong một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ " in vào
trong không gian của một con thuyền đang bơi vào bờ. Nó đẹp và hoàn mĩ
đến mức khiến anh bối rối, tưởng như vừa khám phá thấy "cái chân lí của sự
hoàn thiện ", " cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn ". Nhưng cũng chính
trong buổi sáng ấy, sau khoảnh khắc gặp được cảm hứng nghệ thuật hiếm hoi
trời cho ấy, anh lại được chứng kiến một khung cảnh hoàn toàn đối lập với cái
đẹp, cái hoàn mỹ: một người chồng đánh đập, hành hạ vợ như một hung thần,
còn người vợ hoàn toàn im lặng chịu đựng một cách nhẫn nhục. Cảnh nghịch

104
lí ấy lặp đi lặp lại trong sự lặp lại của thời điểm không gian: buổi sáng, sau ba
ngày, năm ngày. Sự lặp lại không dứt của thời điểm và sự việc ấy xâu thành
một chuỗi khổ nhục, vẽ nên số phận đau khổ của người đàn bà thuyền chài, đè
lên suốt cuộc đời chị như một cái ách không thể gỡ bỏ, chỉ vì những lí do hết
sức đơn giản, thực tế: sự tồn tại trong mưu sinh khó nhọc của một gia đình.
Còn với người phóng viên, thời điểm thời gian buổi sáng ấy trở thành mốc
quan trọng đánh dấu một quá trình nhận thức con người và nhìn nhận về cuộc
đời. Đó là quá trình đi từ ngộ nhận ( về sự nhẫn nhục khó hiểu của người đàn
bà, về vai trò " người bảo vệ " sẵn sàng can thiệp vào số phận người khác của
mình, của vị quan toà là người bạn cũ) đến tỉnh ngộ (nhận ra nghịch lí mà con
người phải đầu hàng qua lời giải thích giản dị mà đầy từng trải của người đàn
bà thuyền chài), cuối cùng là chiêm nghiệm về cách nhìn cuộc đời nhiều phía,
khám phá con người, cuộc đời ở tầng sâu, ở nhiều mặt mới thấy rõ số phận,
bản chất con người cũng như cuộc đời. Đúng là một khoảnh khắc mà giá trị
hơn cả đời người. Chính vì thế cùng với quan niệm về cách nhìn nhận, đánh
giá con người, cuộc đời, người đọc có thể thấy rõ quan niệm về thời gian - coi
trọng khoảnh khắc nhiều hơn cả quá trình - của Nguyễn Minh Châu. Đây
cũng chính là một đặc điểm mới của truyện ngắn Việt Nam hiện đại sau năm
1975.
3.2.1.2. Đảo trật tự thời gian
Song song với cách trần thuật thời gian theo kiểu truyền thống trong
văn học, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã tìm đến cách tổ chức
thời gian mới như một sự khắc phục hạn chế của cách thức tổ chức thời gian
theo kiểu truyền thống. Nhà văn đã chú ý miêu tả thời gian lịch sử thông qua
nhận thức, tâm lí...của nhân vật, không mô tả thời gian lịch sử bên ngoài
nhiều mà đưa thời gian lịch sử vào nội tâm nhân vật. Các sự kiện được miêu
tả theo dòng hồi ức của nhân vật, vì thế thời gian được tổ chức theo cách đảo
trật tự thông thường, không theo trình tự từ trước đến sau. Cách thức này
được sử dụng trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: Bức tranh,

105
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Dấu vết nghề nghiệp, Khách ở quê
ra, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát …
Thời gian trong truyện được Nguyễn Minh Châu mở đầu bằng hiện tại.
Các nhân vật hoặc xuất hiện được nói đến cùng các sự kiện, sự việc, câu
chuyện bắt nguồn từ thời điểm hiện tại. Nhân vật lão Khúng từ quê ra chơi
nhà Định (Khách ở quê ra), lão Khúng dậy chuẩn bị việc đi bán bò (Phiên
chợ Giát), Lực trở về tình cờ đến chụp ảnh ở hiệu ảnh của chồng Thai (Cỏ
lau)...thời gian đều được miêu tả từ hiện tại. Nhưng những hiện tại này lại
như những tác nhân gọi quá khứ quay về trong kí ức các nhân vật. Nối tiếp
hiện tại, những quá khứ trong các truyện được sắp xếp dưới hai dạng: hoặc
được kể lại liên tục theo lời kể của nhân vật ở ngôi thứ nhất hay của người kể
chuyện ở ngôi thứ ba cho đến khi trở về hiện tại, kết thúc truyện. ( Mảnh
trăng, Dấu vết nghề nghiệp, Mùa trái cóc ở miền Nam ), hoặc đan xen nhiều
lần với những khoảng thời gian hiện tại tạo ra những lớp thời gian xen kẽ
trùng điệp với hiện tại - quá khứ ( Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát ). Trong những đảo lộn trật tự thời
gian đó, nhà văn đã để cho nhân vật tự bọc lộ tất cả ý nghĩ, hành động, cảm
xúc tâm trạng, diễn biến tâm lí... của mình. Có nhân vật kể chuyện quá khứ để
tự nhận thức thức lại những việc mình đã làm trong quá khứ mà lúc đó họ cho
là đúng đắn (Quì trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ), có nhân vật
lại nhớ lại những gì đã qua để nhìn nhận bản chất con người của mình hay
người khách hay tự thú, sám hối, vì lỗi lầm sai sót của mình trong quá khứ (
người hoạ sĩ trong Bức tranh , người thủ thành già trong Dấu vết nghề
nghiệp, Lực trong Cỏ lau), với lão Khúng ( Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát
), sư bà Thiện Linh ( Mùa trái cóc ở miền Nam ), hồi tưởng quá khứ lại là tái
hiện toàn bộ chiều dài của cuộc đời... Xen lẫn với quá khứ đó là hiện tại, có
khi nó làm nhiệm vụ cân bằng lại nhịp độ cho hồi ức (Cơn giông, Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành), có khi tiếp tục khơi gọi quá khứ (Cỏ lau) và
làm nhiệm vụ kết thúc truyện.

106
Có thể thấy cách đảo trật tự thời gian trong truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu không phải là mới. Ta đã từng bắt gặp trong các sáng tác trước kia
của Nam Cao, Tô Hoài...với thời gian hiện tại là thời gian chính của của câu
chuyện, là thời gian đựoc chú ý miêu tả để làm nổi bật tính cách, số phận của
nhân vật trong hiện tại. Xong trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau
năm 1975, sự kiện, sự việc trong thời gian hiện tại chỉ là cái cớ để dẫn người
đọc trở về với quá khứ của nhân vật. Quá khứ đó mới là thời gian chính mà
tác giả muốn xây dựng để khám phá, bộc lộ thế giới nội tâm sâu kín của nhân
vật. Vì thế, với cách đảo trật tự, chiều vận động của thời gian trong truyện
không phù hợp với quy luật khách quan, nhưng lại góp phần thể hiện con
người tâm linh, thể hiện thế giới nội tâm phong phú của con người và mở
rộng phạm vi phản ánh hiện thực. Đây chính là hiệu quả nghệ thuật mới của
cách tổ chức thời gian trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975
nói riêng và truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói chung.
3.2.2. Tổ chức các lớp thời gian
Có thể thấy, một trong những xu hướng tổ chức thời gian của truyện
ngắn Việt Nam sau năm 1975 là xây dựng nhiều lớp thời gian. Trong xu
hướng chung đó, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, với những đổi mới, sáng
tạo trong cách xây dựng các lớp thời gian, đã được nhiều nhà nghiên cứu văn
học đánh giá cao, xem đó là sự góp phần quan trọng tạo ra hướng đi mới mẻ
cho truyện ngắn sau năm 1975 về cách thể hiện con người gắn với tổ chức
thời gian nghệ thuật.
3.2.2.1. Tổ chức thời gian đồng hiện
Một trong những thành công của Nguyễn Minh Châu khi tổ chức lớp
thời gian trong các truyện ngắn là tổ chức thời gian đồng hiện. Trong các
truyện ngắn, nhà văn đã tạo ra sự xuất hiện đồng thời nhiều lớp thời gian khác
nhau, xen kẽ lẫn lộn cùng một lúc có sự xuất hiện của thời gian quá khứ và
thời gian hiện tại để tạo thành cơ sở cấu trúc tác phẩm. Trong các truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu, đồng hiện quá khứ - hiện tại có thể xem là một

107
phương thức nhận thức của các nhân vật. Trong Bức tranh, nhân vật suy nghĩ
đủ mọi chiều. Nhà văn đã xây dựng thành công hai lớp thời gian đồng hiện
(quá khứ và hiện tại), đặt cuộc sống tinh thần của nhân vật vào nơi đó, khiến
nhân vật như bị phân thành hai con người. Một con nguời của quá khứ với
những suy nghĩ, tâm trạng của quá khứ; một con người của hiện tại với những
dằn vặt vốn có. Cùng với hai lớp thời gian ấy là hai lớp khoảng không gian
gần như đối lập: không gian tồn tại thực của nhân vật để xoáy sâu vào bên
trong không gian tâm tưởng bên trong. Nhà văn đã tổ chức đồng hiện không
gian - thời gian như một phép so sánh, đối chiếu giữa hai con người: con
người của quá khứ - con người của hiện tại, con người bên ngoài - con người
bên trong, từ dó làm nổi bật lên tâm trạng day dứt, giằng xé và sự tự phê
phán, tự phản tỉnh của chính nhân vật.
Vẫn là cách tổ chức thời gian đồng hiện như phương thức nhận thức
hiện tại của các nhân vật, nhưng khác với Bức tranh, ở Người đàn bà trên
chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra, Cỏ lau lại có sự xuất hiện của ba lớp
thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai. Trong Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành, ba bình diện thời gian được chia cắt, lồng ghép vào nhau trên nền
chung là lời kể của nhân vật " tôi ". Toàn bộ tác phẩm được đẩy vào quá khứ,
xuất hiện ba lớp thời gian và được sắp xếp xen kẽ. Ba mốc thời gian trong tác
phẩm được tổ chức cân xứng như những mốc níu giữ nhân vật " tôi " và Quì
đi giữa hai chiều thời gian: từ hiện tại trở về quá khứ rồi quay về hiện tại.
Trong câu chuyện về quá khứ mà nhân vật " tôi " kể lại, quá khứ của
Quì mang một sắc thái dị biệt: vừa hư vừa thực, đầy sức ám ảnh và có đôi
chút xa vời. Hiện tại trong suốt chiều dài câu chuyện chỉ là những khoảnh
khắc rất nhỏ ở bệnh viện. Chính điều đó giúp cho sự cân bằng nhịp độ cho
toàn bộ kí ức chiến tranh của Quì và mang tính chiêm nghiệm, đối sánh để
nhân vật cùng suy nghĩ về những giá trị đã qua với những gì đang hiện hữu,
có thực trong ngày tháng của ngày hôm nay. Còn thời gian tương lai lại nằm
trong quá khứ của Quì với những lời kể mang tính suy ngẫm "Những năm về

108
sau này..., tôi mới thấy rằng...". Bên cạnh đó, trong truyện còn xuất hiện một
một chiều hiện tại được lồng ghép là chiều " hiện tại của tương lai " được
nhắc đến ở cuối tác phẩm trong lời chúc đầu năm của nhân vật " tôi " với Quì:
" Tốt nhất, sang năm mới chị nên có một đứa con đi! ". Chiều thời gian này
cũng tương tự như trong phần kết của truyện Cỏ lau ( và rồi cuối cùng, giữa
những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh, nhìn xuống
vùng thung lũng...có một người lính già sống suốt đời ở đấy...) hay cái nhìn
về thời gian hình thành đô thị mới qua con mắt của lão Khúng trong truyện
ngắn Khách ở quê ra...Có thể thấy rõ, việc nhà văn xây dựng truyện đi theo
logic nội tại khách quan bên cạnh logic tâm lí chặt chẽ: hướng tới tương lai là
một giải pháp cho hiện tại. Quá khứ dù đầy ám ảnh, day dứt xong nó đã đi
qua. Hiện tại thì đầy những khúc mắc, xáo trộn, không bình lặng, thậm chí có
cả những cay đắng. Chính vì thế, cái nhìn vào tương lai trở thành giải pháp tất
yếu, một gợi ý chân thành mang nhiều ý nghĩa để con người có dịp suy ngẫm
và hướng tới, tìm kiếm cho mình một tương lai tươi sáng hơn.
Đọc Phiên chợ Giát, ta cũng gặp cách tổ chức thời gian đồng hiện. Có
thể thấy ở mỗi truyện Nguyễn Minh Châu lại lựa chọn một cách biểu hiện
riêng, xong thủ pháp đồng hiện đã khiến cho cốt truyện vừa diễn ra liền mạch
vừa giải quyết được một khối lượng thông tin nhiều lần hơn giới hạn thời gian
thực tế cho phép. Thủ pháp này cũng giúp nhà văn có thể vượt ra khỏi sự trói
buộc của thời gian biên niên lịch sử, để tự do xáo trộn thời gian tuỳ theo ý
muốn chủ quan, miễn sao câu chuyện phát triển và bộc lộ hết những ý đồ sáng
tạo của tác giả. Để tạo hiệu quả sáng tạo và độc đáo, cách tổ chức thời gian
đồng hiện thường được tổ chức đi liền với việc sử dụng các thủ pháp độc
thoại nội tâm, dòng ý thức, giấc mơ...nhằm khám phá chiều sâu thế giới bên
trong và thế giới tâm linh con người.
3.2.2.2.Tổ chức các mối liên kết thời gian
Trong các truyện ngắn sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng
thành công nhiều lớp thời gian một cách sáng tạo và hiệu quả thực hiện đúng

109
dụng ý phản ánh của mình. Thời gian không chỉ đồng hiện quá khứ, hiện tại,
tương lai mà còn tồn tại lớp thời gian của người kể chuyện, thời gian sự kiện
của tác phẩm và cả lớp thời gian của nhân vật với nhiều dạng biểu hiện như
thời gian tâm trạng, thời gian tâm linh...Những lớp thời gian này có lúc tách
biệt, có khi chuyển hoá đồng nhất và chúng liên kết lại với nhau để tạo nên
thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Cách tổ chức nhiều lớp trong tác phẩm chủ
yếu xuất hiện trong một số truyện có cấu trúc thời gian phức tạp, nhiều tầng,
nhiều lớp, nhiều chiều như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách
ở quê ra, Cỏ lau, Phiên chợ Giát... Trong các truyện, nhà văn đã tổ chức mối
liên kết giữa các lớp thời gian theo các cách thức hoặc đan xen, kết nối, hoặc
đảo lộn trình tự thời gian để làm rõ mọi khía cạnh con người của nhân vật và
bộc lộ chủ đề tác phẩm. Có thể thấy cách thức tổ chức thời gian thể hiện
tương đối rõ nét và có tác dụng sâu sắc trong truyện ngắn Phiên chợ Giát.
Truyện được tổ chức bởi nhiều lớp thời gian, có thể thấy rõ hai lớp thời
gian chính: lớp thời gian của người kể chuyện và lớp thời gian gắn với nhân
vật, trong mỗi lớp lại chứa đựng những thời gian khác nhau. Lớp thời gian
của người kể chuyện gắn với điểm nhìn đặt xa nhân vật, chiếu rọi hành động
của nhân vật. " Lão Khúng thức giấc ", " Sáng nay lão Khúng phải đi xuống
chợ bán con bò ", " Gần sáng lão Khúng ngủ quên mất ", " Khoảng bảy giờ
lão mới lôi được chiếc xe xuống phố "...Đó là thời gian làm nền cho để kết
cấu toàn bộ tác phẩm. Lớp thời gian của người kể chuyện chủ yếu là thời gian
hiện tại, là thời gian sự kiện của tác phẩm. Có thể thấy lớp thời gian này rất
ngắn chỉ gồm mấy tiếng đồng hồ kể từ khi lão Khúng thức giấc, đưa bò đi đến
lúc gặp con bò. Không gian của thời gian hiện tại cũng tương ứng: chỉ có một
con đường gập ghềnh, tối om từ nhà lão Khúng đến chợ Giát.
Lớp thời gian thứ hai trong truyện ngắn Phiên chợ Giát gắn liền với
nhân vật, với điểm nhìn đã di chuyển vào trong nhân vật. Đó là lớp thời gian
gắn với những ký ức, những kỷ niệm, giấc mơ của nhân vật. Lớp thời gian
này gắn liền với bốn mạch truyện khác nhau trong tác phẩm. ( Đỗ Đức Hiểu

110
đã chia và đạt tiêu đề cho từng mạch truyện: 1. Chiều dài lịch sử của con
người, 2. Cái chết oan khuất của Dũng, 3. Hồi ức về lịch sử ông Bí thư huyện,
4. Giấc mơ khủng khiếp) [ 2,225 ]. Bốn mạch truyện có sự hoà hợp rất tự
nhiên nhờ độ " nhoè " thời gian. Các sự kiện dẫn dắt nhau xuất hiện liên tiếp,
nhân vật đang suy nghĩ điều này lại nghĩ ngay đến chuyện khác. Từ một
khoảnh khắc thời gian hiện tại, theo dòng hồi ức của nhân vật mà không gian,
thời gian bị trải rộng kéo dài. Trong những đoạn hồi ức, dường như các mối
quan hệ với hiện tại bị cắt đứt để tái hiện quá khứ. Rồi bằng các giấc mơ, thời
gian hiện tại được phục hồi ở từng đoạn. Chính ở đây có sự " thẩm thấu giữa
hiện tại và quá khứ, giữa giấc mơ và sự thực " [2,257 ].
Trong một hệ thống logic của truyện, hai lớp thời gian này liên kết với
nhau bằng sự đan xen. Thời gian hiện tại (lớp thứ nhất) đóng vai trò là lớp kết
nối, nối các mạch kể, mạch tả, nối những hồi ức, sự kiện lộn xộn trong thời
gian quá khứ (lớp thứ hai) thành một dòng chảy nhất quán. Vì thế, từ chuyện
đứa con trai lão Khúng ở tận Đắc Lắc, từ chuyện mụ Huệ, con Nghiên,
chuyện sợi dây chảo ở cổ bò đến chuyện chợ búa, ông bí thư huyện... những
sự kiện hỗn độn ấy được kết dính một cách logic qua cuộc hành trình của lão
Khúng và con bò Khoang ở thời gian hiện tại, trong vòng mấy tiếng đồng hồ.
Trong khi đó lớp thời gian thứ hai là lớp thời gian của nội tại tác phẩm, là thời
gian của tâm trạng nhân vật. Chính nó làm cho thời gian nghệ thuật trong
truyện được chia một cách độc đáo: thời gian quá khứ dài hơn thời gian hiện
tại. Một thực tế cho thấy, không phải ngẫu nhiên Nguyễn Minh Châu dừng lại
rất lâu ở những mảng quá khứ. Nếu tuân theo quy luật phát triển của thời gian
khách quan thì quá khứ sẽ không tồn tại và dừng lại lâu. Xong tác giả đã làm
ngược lại để thực hiện dụng ý đảo lộn trình tự và dung lượng thời gian nhằm
thể hiện và khắc sâu, rõ nét tâm trạng của nhân vật.
Nhờ sự xen kẽ giữa hai lớp thời gian trong phạm vi nhỏ hẹp của khung
cốt truyện, Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một cái nhìn khái quát về số phận
con người, đồng thời mở rộng phạm vi phản ánh của một số truyện ngắn.

111
Thay vì câu chuyện bán bò, tác giả đã làm nổi bật lên cuộc đời nhọc nhằn của
người nông dân. Chính thủ pháp kết cấu này đã giúp tác giả tái hiện cả một
chuỗi đời thăng trầm trong một không gian hữu hạn, chốc lát. Từ hiện tại
quay về quá khứ (đó là quá khứ lẫn trong quá khứ, tương lai của quá khứ,
hiện tại của quá khứ) trong thực tế, chiều vận động của các lớp thời gian đi
ngược lại với quy luật khách quan, nhưng lại phù hợp với nhu cầu thể hiện
con người tâm trạng, tâm linh. Với nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian
để phản ánh đời sống bên trong của con người một cách tài tình như vậy
Nguyễn Minh Châu đã góp phần mang lại cho truyện ngắn sau năm 1975 một
hướng phản ánh mới mẻ trong cách thể hiện con người.
3.2.3 Tổ chức thời gian ảo, thời gian viễn tưởng
Có thể nói cách thể hiện thời gian ảo, thời gian ảo tưởng rất ít gặp trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Thời gian ảo chỉ xuất hiện
rõ trong truyện ngắn Phiên chợ Giát qua hình thức giấc mơ, còn thời gian
viễn tưởng là thời gian được xây dựng trong một truyện ngắn duy nhất Sống
mãi với cây xanh. Chỉ chừng hai truyện ngắn, song có thể nói đó là một phần
trong sự "mở đường" của Nguyễn Minh Châu mà sau nay các tác giả văn học
hiện đại Việt Nam tiếp nối và phát huy như Nguyễn Huy Thiệp hay Bảo
Ninh...
Trong Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu đã tổ chức thời gian, không
gian ảo thông qua việc miêu tả giấc mơ của lão Khúng. Đó là những giấc mơ:
lão Khúng thấy mình giết con bò, mơ thấy ông Bời bí thư huyện uỷ, mơ thấy
mình biến thành bò. Thời gian diễn ra những giấc mơ này không gần nhau,
xong được đặt trong lớp thời gian hiện tại của nhân vật. Hai giấc mơ đầu (
Lão Khúng thấy mình giết con bò và mơ thấy ông Bời - bí thư huyện uỷ), diễn
ra nối tiếp nhau khi lão Khúng còn đang ngủ, chưa đưa con bò ra khỏi nhà,
còn giấc mơ sau (mơ thấy mình biến thành bò) diễn ra khi ngủ quên trên
đường đưa con bò xuống chợ Giát vào lúc gần sáng. Xen kẽ giữa hai giấc mơ
- hai thời gian ảo là các lớp thời gian hiện tại, quá khứ được đan xen và luân

112
chuyển một cách nhịp nhàng. Hiện tại lão Khúng đưa con bò đi, người và vật
thập thõm trong đêm tối, còn quá khứ là chiều dài của cuộc đời lão gắn với
con bò Khoang, là hồi ức về cái chết của con trai, hồi ức về ông bí thư huyện.
Tỉnh dậy sau lần mơ thứ hai, lão Khúng trở về với hiện tại, giải thoát cho con
bò, nhưng không thành - người và vật nhìn nhau bằng con mắt sầu muộn.
Điều đáng lưu ý là các sự việc xảy ra trong thời gian giấc mơ của lão Khúng
đã góp phần thúc đẩy sự vận động của tâm trạng, hành động của chính lão sau
đó. Chính vì mơ thấy mình giết con bò mà lão đã nhớ lại toàn bộ cuộc đời
mình và những người thân đều gắn bó với con bò, vì mơ thấy mình hoá thành
bò, con vật hoang dã đã tìm trở lại được cuộc sống tự do muôn thuở nên lão
quyết định thả con bò. Có thể thấy, thời gian giấc mơ - thời gian ảo đã được
xây dựng để thể hiện một phần tâm linh con người, bởi giấc mơ chính là sự
giải toả những ẩn ức mà ban ngày nhân vật trăn trở, băn khoăn. Chính nó giúp
nhà văn mở ra một hướng khám phá mới về bình diện con người trong văn
học - bình diện con người của tâm linh.
Sống mãi với cây xanh là truyện ngắn duy nhất của Nguyễn Minh
Châu có cách tổ chức thời gian viễn tưởng. Đây là một truyện ngắn viễn
tưởng, dưới dạng thiên hồi ký của hai nhân vật đặc biệt: cây sấu và cây cột
điện, và tác giả là người dịch lại. Thười gian viễn tưởng trong truyện được tác
giả miêu tả đến những năm đầu của thế kỉ XXI và tổ chức theo trật tự từ trước
đến sau theo chiều dài của cuộc đời nhân vật. Thời gian kéo dài không chỉ ở
một đời nhân vật mà cả ba thế hệ nối tiếp nhau: bác Thông - bà Ngan, Huân -
Loan, Tham. Thời gian kể về câu chuyện của ba thế hệ ấy kéo dài tới 60 năm
với nhiều sự kiện, biến cố xảy ra, từ quá khứ (thời chiến đấu chống thực dân
Pháp ) đến hiện tại và cả tương lai (20 năm sau). Những sự kiện này mang
nhiều yếu tố hiện thực nên câu chuyện vẫn đem lại cho người đọc ấn tượng
đấy là thời gian thực. Chính cách kết cấu thời gian thực - thời gian viễn tưởng
của truyện đã tạo nên cảm giác thú vị cho người đọc, dù vấn đề tác giả đề cập
tới trong truyện là một vấn đề tư tưởng, nhân sinh: trong cuộc sống đang hàng

113
ngày hiện đại hoá, con người không bao giờ được phép lãng quên quá khứ và
sống cách biệt với thiên nhiên, trái lại trong tâm hồn mỗi con người vẫn luôn
luôn khao khát, hoà mình và sống mãi cùng với thiên nhiên.
3.2.4 Mở rộng thời gian nghệ thuật
Mở rộng thời gian nghệ thuật là cách tổ chức nhiều lớp, nhiều khoảng
thời gian khác nhau trong thời gian hiện thực của câu chuyện, từ đó mở rộng
thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu viết sau năm 1975, thời gian thực là thời gian của hiện thực ngắn ngủi.
Có khi chỉ vài ba giờ đồng hồ (Phiên chợ Giát), có khi là cả một khoảng thời
gian các nhân vật gặp gỡ rồi chia tay (Khách ở quê ra, Mùa trái cóc ở miền
Nam) hay là một khoảng thời gian ở cuối đời (Dấu vết nghề nghiệp)... Trong
truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam, thời gian thực chỉ gói gọn trong một
quãng thời gian ngắn từ lúc nhà báo gặp đến khi chia tay vị sư già Thiện Linh,
hay trong truyện ngắn Khách ở quê ra, đó là mấy ngày lão Khúng ra Hà Nội.
Thời gian thực đôi khi còn ngắn hơn ( Phiên chợ Giát ), chỉ kéo dài trong
khoảng 3 - 4 tiếng đồng hồ từ nửa đêm đến 7 giờ sáng, trên đường từ nhà lão
Khúng đến chợ Giát. Xong nhà văn đã đưa thêm các lớp thời gian quá khứ,
thời gian tâm trạng, thời gian tâm linh vào trong thời gian hiện thực khiến cho
thời gian hiện thực tuy ngắn nhưng lại có thể chứa cả thời gian của một đời
người. Một câu chuyện trong quá khứ được sư bà Thiện Linh kể lại trong thời
gian gặp gỡ với nhà báo trong Mùa trái cóc ở miền Nam đã cho người đọc
thấy rõ cả một đời người từ kiếp ăn mày để duy trì sự tồn tại, trải qua bao
trăng trầm của cuộc đời, cuối cùng bị phán xét và trở về với kiếp ăn mày
thống khổ hơn là ăn mày tình thương của thiên hạ.
Những hồi ức xuất hiện trong tâm trí của nhân vật Định, Khúng (
Khách ở quê ra ) chỉ diễn ra trong thời gian một bữa cơ ở nhà Định như lại
làm hiện lên cả cuộc đời dài của Khúng từ khi lão còn ở làng quê cho đến khi
tiễn con trai đi bộ đội. Với mấy tiếng đồng hồ trong truyện ngắn Phiên chợ
Giát lại xâu chuỗi được trong nó các vòng quay vần vũ của các sự kiện thuộc

114
về hiện tại và các sự kiện của quá khứ: vợ lão Khúng và con Nghiên từ biệt
con bò, lão Khúng đưa con bò xuống chợ Giát, lão Khúng thả con bò, con bò
trở lại (hiện tại), lão Khúng nhớ lại cuộc sống của gia đình lão, cái chết của
con trai, nhớ đến ông bí thư huyện quá khứ)...Gần như toàn bộ cuộc đời lão,
số kiếp người - bò của lão đều hiện lên rõ nét trong mấy giờ đồng hồ ấy. Có
thể thấy Nguyễn Minh Châu đã tạo nên sức nén của tác phẩm một cách tài
tinh bằng việc tổ chức kiểu thời gian ôm chứa mở rộng, tạo nên một nét mới
trong cây bút tinh anh mà tài hoa.
3.3.Giọng điệu trần thuật
Có thể thấy giọng điệu trần thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu viết sau năm 1975 xuất phát và bao hàm từ chính thái độ của tác
giả với đối tượng mô tả, đồng thời giọng điệu bị quy định , xuất phát từ một
thái độ nhất định đối với nhân vật, từ đó tác giả chọn lựa những điểm nhìn để
soi sáng, mô tả - từ bên ngoài, qua người khác, từ bên trong, bằng tiếng nói
nội tâm, hay bằng sự phán quyết khách quan từ bên ngoài...
3.3.1. Tổ chức điểm nhìn trần thuật
Theo Dẫn luận thi pháp học, " điểm nhìn văn bản là phương thức phát
ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp với cái nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác
giả. Khái niệm " điểm nhìn " mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức , đánh
giá , cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm
nhận, đánh giá, bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả
phương diện vật lí, tâm lí, văn hoá " [ 47, 148 ].
Hệ thống các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau năm 1975 ta
thấy điểm nhìn trần thuật được tổ chức theo các hình thức trần thuật và cách
thức trần thuật chủ yếu sau.
3.3.1.1.Các hình thức trần thuật
3.3.1.1.1. Trần thuật từ ngôi thứ ba
Có thể thấy điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba là điểm nhìn trần thuật
đặc biệt phổ biến trong văn học, nó xuất hiện khá sớm từ trong sử thi cổ đại
đến những sáng tác hiện đại. Với cách thức này, chủ thể trần thuật là người "
115
biết hết "mọi người, mọi việc, giữ vai trò chính trong miêu tả, kể chuyện, dẫn
chuyện...Đây là kiểu trần thuật có những biểu hiện rất đa dạng ở nhiều cấp độ
khác nhau, phụ thuộc vào quan niệm và trình độ sáng tác của từng giai đoạn
văn học, của từng tác giả, ở từng tác phẩm cụ thể.
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau năm 1975, tác
giả đã có ý thức cao trong việc xác định điểm nhìn trần thuật. Ngay trong một
hình thức trần thuật ở ngôi thứ ba, ông cũng đã lựa chọn điểm nhìn trần thuật
rất tinh tế, phù hợp với ý đồ sáng tác, với mỗi kiểu loại nhân vật và với loại đề
tài. Nhà văn đã tổ chức điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba trong truyện ngắn
của mình dưới hai dạng cụ thể: trần thuật từ ngôi thứ ba có khoảng cách và
trần thuật từ ngôi thứ ba với sự hoà nhập song trùng chủ thể.
Dạng trần thuật từ ngôi thứ ba có khoảng cách được sử dụng trong hầu
hết những truyện ngắn thế sự và truyện ngắn luận đề của Nguyễn Minh Châu.
Ở các truyện ngắn này, các nhân vật được trần thuật từ ngôi thứ ba, đằng sau
họ là tác giả. Giữa tác giả và nhân vật luôn có một khoảng cách để câu chuyện
mang tính khách quan." Bằng sự điềm nhiên của lối kể, người kể chuyện
thường xuyên tách mình ra khỏi sự đồng cảm rất lớn đối với nhân vật, và chỉ
hướng sự chú ý của người nghe vào những kết quả thuần tuý " ( F.Shlling ) [
58,24 ].Từ một điểm nhìn bên ngoài tương đối khách quan, Nguyễn Minh
Châu đã quan sát một cách tỉnh táo những cảnh đời, những tình trạng vốn có
của môi trường xã hội trong mối quan hệ với công đồng, gia đình, bè bạn...để
qua những câu chuyện thế sự để rút ra bài học về xử thế hoặc qua những
truyện ngắn luận đề mà khái quát những triết lí vĩnh hằng về nhân sinh xã
hội...Trong những truyện ngắn thế sự như Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp,
Người đàn bà tốt bụng..., chủ thể trần thuật luôn giấu mình dằng sau nhân
vật, để nhân vật tự bộc lộ cách sống trong môi trường quen của mình. Rất
hiếm khi tác giả mới nhỏ nhẹ nhận xét một cách kín đáo, sắc sảo, và phần lớn
là để người đọc tự rút ra bài học về cách sống, cách xử thế, tự rút ra kết luận
về vấn đề đời sống mà nhà văn đã trần thuật trong tác phẩm.

116
Trong một số truyện ngắn luận đề như: Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp,
Nguyễn Minh Châu đã thành công khi tiến hành trần thuật theo ngôi thứ ba,
xong khoảng cách trần thuật đã được rút ngắn lại.Không chỉ tả, kể nhà văn
còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong của nhân vật với những độc thoại,
những hồi tưởng, nhận thức và suy nghiệm, chiêm nghiệm...Bằng cách trần
thuật ấy nhà văn đã đi đến khái quát những vấn đề triết lí vĩnh hằng về nhân
sinh, thế sự.
Đối với những truyện ngắn trần thuật từ ngôi thứ ba với sự song trùng
chủ thể, chủ thể trần thuật xâm nhập vào trong các nhân vật của mình, và "
khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật trên thực tế bị thủ tiêu, điểm
nhìn của cả hai phía đều hoà nhập làm một ..." [58,31]. Nguyễn Minh Châu
đã sử dụng thành công dạng trần thuật này trong các truyện ngắn Hạng, Giao
thừa, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát...Trong các truyện ngắn ấy, nhà văn từ
chỗ chọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài, đã chuyển vào bên
trong nhân vật, từ đó có cái nhìn xuyên qua nội tâm nhân vật với tính chất hoà
nhập đậm nét, đến mức tạo cho người đọc cảm giác tác giả đã hoá thân trong
các nhân vật của mình. Chính sự hoà nhập ấy đã giúp cho nhà văn đi sâu
khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của nhân vật trong mối quan
hệ với thế giới đa dạng nhiều chiều.
3.3.1.1.2.Trần thuật từ ngôi thứ nhất
Có thể thấy, cách trần thuật từ ngôi thứ nhất mới chỉ xuất hiện trong
văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX. Ở hình thức này, người trần thuật được "
nhân vật hoá " (chữ của G.N. Pospelop) dưới hình thức một cái " tôi " nào
đó, hoặc tự kể chuyện của mình theo ngôi một, hoặc thực hiện vai trò của một
người dẫn chuyện hướng điểm nhìn trần thuật tới nhân vật khác ở ngôi thứ ba.
Hình thức nghệ thuật này đã được Nguyễn Minh Châu sử dụng thành công
trong những truyện ngắn của mình kể cả trước và sau năm 1975, dưới hai
dạng cụ thể: trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò " người dẫn chuyện " và
trần thuật từ ngôi thứ nhất với những nhân vật hướng nội.

117
Ở dạng thứ nhất, với việc trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò " người
dẫn chuyện " có thể thấy thực chất vẫn là kể chuyện từ ngôi thứ ba mà người
kể chuyện được " nhân vật hoá " để thực hiện vai trò dẫn chuyện. Trong kiểu
trần thuật này, tác giả đã khéo léo thiết kế một khung cốt truyện để tạo lập
mối quan hệ giữa đối tượng trần thuật với người kể chuyện. Người kể chuyện
có khi đóng vai trò là một nhân vật phụ trong truyện và nhân vật đó được sắp
xếp ở một vị trí thuận lợi để có thể giao tiếp, quan sát rõ nét nhân vật chính.
Trong các truyện ngắn viết sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã sử
dụng nhân vật người kể chuyện như sự hoá thân của chính tác giả, ít nhiều thể
hiện rõ bóng dáng tư tưởng, tinh thần, sự chiêm nghiệm và nhận thức của ông
trước con người và cuộc đời. Đó là trường hợp nhân vật " tôi " trong Mùa trái
cóc ở miền Nam, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền
ngoài xa, hay " tôi" nhà văn trẻ trong Sắm vai. Trong vai trò là chủ thể trần
thuật, những nhân vật "tôi " này đã quan sát tỉ mỉ, tinh tế từ ngoại hình, nét
mặt, cử chỉ bên ngoài của những đối tượng trần thuật như nhân vật Toàn
(Mùa trái cóc ở miền nam), Quì (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành),
người đàn bà thuyền chài trong (Chiếc thuyền ngoài xa), nhà văn T. (Sắm
vai)..., hoặc đi sâu lột tả trạng thái tâm lí bên trong của nhân vật (Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành). Chính qua các nhân vật người kể chuyện, tác
giả đã thể hiện những nhận xét, những lời bình trực tiếp, bọc lộ cảm xúc của
mình với nhân vật, khi kính phục, yêu mến (Người đàn bà trên chuyến tàu
tốc hành), khi ghê tởm, căm phẫn (Mùa trái cóc ở miền Nam), khi sửng sốt,
hoang mang có chút hài hước kín đáo (Sắm vai)...
Với kiểu trần thuật từ ngôi thứ nhất thông qua người kể chuyện,
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được tư tưởng, tình cảm, quan điểm, của mình
một cách tự nhiên trong các phong cách ngôn ngữ khác nhau. Đó không chỉ là
những tư tưởng, tình cảm, quan niệm đại diện cho cả một cộng đồng (trước
năm 1975) mà còn là những kinh nghiệm, trải nghiệm cá nhân trên phong
cách mang đậm dấu ấn tinh thần mới và sáng tạo. Đó là chủ thể của nhà văn -

118
chủ thể trần thuật đích thực trong quan điểm của Nguyễn Minh Châu ở thời
kỳ mới.
Bên cạnh đó, kiểu trần thuật từ ngôi thứ nhất với những nhân vật hướng
nội không được Nguyễn Minh Châu sử dụng nhiều trong các truyện ngắn của
mình, trước năm 1975 hầu như không có, sau năm 1975 nó xuất hiện trong
một số truyện ngắn Bức tranh, Một lần đối chứng, Cỏ lau. Trong những
truyện nêu trên, chủ thể trần thuật được "nhân vật hoá" làm người kể chuyện
của chính mình với ý thức hướng nội, tự vấn hoặc chiêm nghiệm. Hình tượng
của tác giả hiện lên qua các nhân vật này tương đối phức tạp. Nhân vật "tôi"
có khi in đậm dấu ấn của tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc
cuộc đời, số phận, cũng có khi nhân vật chỉ là một khách thể độc lập được tác
giả quan sát và thể hiện ở ngôi thứ nhất để tăng thêm tính thuyết phục bởi
màu sắc chủ quan của nhân vật. Khác với điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ ba
là hướng tới sự kiện, tâm trạng của một khách thể bên ngoài, ở kiểu trần thuật
này, điểm nhìn hướng vào những diễn biến tâm lí bên trong của nhân vật
"tôi" chủ thể đang ở vai trò người kể chuyện. Chính bằng hình thức trần thuật
này, nhân vật hiện lên là những con người hướng nội, có đời sống nội tâm
phong phú, có những quá trình diễn biến tâm lí tinh tế, phức tạp và mới lạ.
Các nhân vật: hoạ sĩ (Bức tranh), Lực (Cỏ lau), nhà văn (Một lần đối
chứng) đều là những nhân vật xuất hiện ở ngôi thứ nhất để kể lại câu chuyện
và bộc lộ con người mình. Hoạ sĩ (Bức tranh) tự đối diện với lương tâm
mình, tự ý thức về lỗi lầm của mình, tự soi rọi những mảng tối trong con
người mình qua một cuộc đấu tranh nội tâm đầy căng thẳng, đau đớn và ân
hận, day dứt, tự vấn lương tâm, tự buộc tội và tự bào chữa cho mình...Lực (Cỏ
lau) trở về từ chiến tranh, luôn sống với những hoài niệm day dứt, nhìn thấu
số phận cay đắng cũng như phần chưa hoàn thiện của con người mình. Còn
nhân vật nhà văn (Một lần đối chứng), từ sự quan sát và thuật lại một cách tỉ
mỉ, tinh tế cuộc sống của hai con mèo, đã có những suy ngẫm, chiêm nghiệm
sâu sắc về bản năng, ý thức con người và đề nghị người đọc làm một cuộc đối

119
chứng...Chính những nhân vật hướng nội này đã thể hiện rõ bản ngã của cái
tôi đích thực, tự soi sáng mình trong cái thẳm sâu của chủ nghĩa nhân văn
chân chính, khác với cái " tôi " đại diện cho cộng đồng ở giai đoạn trước năm
1975. Đây là một hiệu quả nghệ thuật mới mà Nguyễn Minh Châu đã thành
công trong hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất, trên cơ sở, quan điểm trần
thuật hướng về đời tư - thế sự.
3.3.1.2. Cách tổ chức điểm nhìn trần thuật
Qua hai hình thức trần thuật đã nghiên cứu, có thể nói điểm nhìn trần
thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu được tổ chức khá đa dạng, linh
hoạt. Có một số truyện ngắn chỉ sử dụng một điểm nhìn, còn lại phần lớn -
đặc biệt là những sáng tác cuối đời của Nguyễn Minh Châu đều được sử dụng
nhiều diểm nhìn và di chuyển điểm nhìn. Đáng chú ý nhất, dù sử dụng một
điểm nhìn hay đa điểm nhìn , cách tổ chức điểm nhìn của tác giả cũng thể
hiện những đặc sắc, độc đáo riêng. Chính điều đó đã góp phần làm nên tính
chất đa thanh, phức điệu trong sáng tác của cây bút được xem là mở đường
tinh anh và tài hoa.
3.3.1.2.1. Sử dụng một điểm nhìn trần thuật
Cách sử dụng một điểm nhìn trần thuật ở những truyện ngắn viết sau
năm 1975 của Nguyễn Minh Châu chủ yếu được thể hiện trong các truyện
ngắn thế sự, luận đề như: Bức tranh, Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Người
đàn bà tốt bụng...Hầu hết trong các truyện ngắn đó, điểm nhìn bên ngoài
được sử dụng triệt để, chỉ có Bức tranh là sử dụng điểm nhìn bên trong.
Nếu như điểm nhìn của người kể chuyện trong các truyện ngắn của
Nguyễn Minh Châu là điểm nhìn của người kể chuyện có khoảng cách để rồi
từ đó ghi lại những hình ảnh tiêu biểu cho cộng đồng, dân tộc trong hoàn cảnh
của kháng chiến nhiều thử thách thì trong các truyện ngắn viết sau năm 1975
nhà văn vẫn sử dụng một điểm nhìn song nó được tổ chức trong những cách
thức mới. Đó là cách dùng một điểm nhìn không biến đổi vị trí (bên trong
hoặc bên ngoài), nhưng trong đó lại chứa đựng những điểm nhìn về mặt tư

120
tưởng, hoặc có nhiều góc nhìn hay có sự phân hoá góc nhìn, và điều đặc biệt
nhất là người trần thuật không áp đặt cách nhìn của mình cho người đọc. Có
thể thấy rõ điều đó qua truyện ngắn Bức tranh và các truyện ngắn thế sự
khác.
Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Bức tranh là điểm nhìn bên
trong của chính nhân vật về mình. Qua điểm nhìn này, nhân vật tự thấy ở bản
thân con người mình một sự phan hoá: vừa là con người có lương tâm, có
lòng tự trọng, biết suy nghĩ vừa là kẻ đạo đức giả khi tự nguỵ biện cho hành
động từ chối hẹp hòi cũng như sự lãng quên cố ý của mình sau này bằng
những lí lẽ, vai trò, nhân cách nghệ thuật của người nghệ sĩ. Từ một điểm
nhìn, xong nhà văn không hề đưa ra một cách nhìn nhận, đánh giá duy nhất.
Với điểm nhìn bên trong đó, người trần thuật tỏ ra khách quan, xong đôi khi
cũng xen vào những lời bình luận ngoại đề (dù rất ít) để mở rộng thêm tầm
nhìn và soi chiếu rõ hơn thế giới bên trong của mình trước mắt người đọc.
Cách nhìn nhận, đánh giá của chủ thể trần thuật, không hề mang tính áp đạt.
Không giống như truyện ngắn Bức tranh được sử dụng điểm nhìn bên
trong ở một số truyện ngắn tự sự như: Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Người
đàn bà tốt bụng...Nguyễn Minh Châu đã sử dụng thành công điểm nhìn bên
ngoài, đó là cách người kể chuyện giấu mình sau nhân vật. Từ điểm nhìn bên
ngoài đó, người kể chuyện quan sát và thuật lại tỉ mỉ những câu chuyện
thường ngày của nhân vật, để nhân vật bộc lộ mình một cách tự nhiên. Trong
Mẹ con chị Hằng, điểm nhìn của người kể chuyện được tạo nên bởi hai góc
nhìn chủ quan và khách quan. Điểm nhìn khách quan thể hiện ở chỗ người kể
chuyện dường như chỉ ghi lại một cách trung thực, không thêm bớt cách cư
xử của chị Hằng với những cáu gắt, nũng nịu, bực bội, ân hận thoáng
qua...Còn góc nhìn chủ quan thể hiện qua những lời nhận xét, bình luận ngoại
đề, đôi khi nhẹ nhàng như tiện thể nói qua " Sự hối hận như cái bong bóng
trời mưa, lập tức vỡ tan đi ngay...", lúc nghiêm nghị đau xót: " Cái vạch ngăn
cách giữa tính nhõng nhẽo, làm nũng và hay bắt nạt mẹ của một đứa con gái

121
và thói quen tỏ ra uy quyền của một người đàn bà chủ nhà thật là mơ hồ, rất
khó nhận thấy, đến nỗi người ta thường dễ lẫn lộn, thường dễ bị lừa dối và tự
lừa phỉnh mình ". Thêm vào hai góc nhìn này của người kể chuyện, lời của
người hàng xóm, lời chiêm nghiệm của bà mẹ: " Đời con người ta vay của
cha mẹ rồi trả lại cho con cái..." được đưa vào như là một sự mở rộng thêm
những góc nhìn trần thuật trong truyện. Có thể thấy cách nhìn của tác giả vừa
mang tính phê phán đạo đức vừa là một sự chiêm nghiệm lẽ đời. Người mẹ
không oán trách gì con cái vì bà đã được trải nghiệm những điều đó trong
cuộc đời. Cách nhìn của tác giả cho thấy sự cao thượng nhân văn của một con
người từng trải, độ lượng giàu cảm thông và thấu lẽ đời. Chính cách nhìn như
thế đã giúp tác giả trần thuật từ một điểm nhìn nhưng sự việc lại hiện lên ở
nhiều góc độ khác nhau, và hơn hết là không đưa ra một quan niệm duy nhất
có tính tuyệt đối, không áp đặt cách nhìn nhận, đánh giá của mình mà để
người đọc tự rút ra những bài học xử thế, tự khái quát, chiêm nghiệm những
quy luật của đời thường thông qua câu chuyện nhân sinh thế sự một cách tinh
tế, sâu sắc.
Cách sử dụng một điểm nhìn trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu thực ra không phải là mới, song ở mỗi truyện ông lại có cách tổ chức
điểm nhìn khác nhau và chính điều đó ông đã tạo được cho truyện ngắn của
mình sức hấp dẫn riêng.
3.3.1.2.2. Phối hợp các điểm nhìn
Ngoài những truyện ngắn viết sau năm 1975 sử dụng một điểm nhìn,
càng về sau này các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu càng có những đổi
mới về cách tổ chức điểm nhìn trần thuật, các truyện ngắn được chuyển sang
cách tổ chức phối hợp nhiều điểm nhìn và di chuyển điểm nhìn. Với việc kết
hợp nhiều điểm nhìn Nguyễn Minh Châu đã tạo ra điểm nhìn nghệ thuật nghệ
thuật phong phú và đa dạng. Có điểm nhìn của người trần thuật, của tác giả,
của nhân vật, có điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngoài, có điểm nhìn

122
không gian - thời gian, có điểm nhìn ngôn từ, điểm nhìn đánh giá tư tưởng,
cảm xúc...
Các điểm nhìn này tập trung xoay quanh hệ thống nhân vật, nhất là
nhân vật chính trong mỗi truyện ngắn. Tác giả đã để cho các điểm nhìn đối
thoại với nhau, soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ, từ đó khắc hoạ toàn vẹn
chân dung, tính cách, số phận nhân vật và khái quát thành vấn đề nhân sinh có
tính phổ quát. Cách tổ chức điểm nhìn đấy đã thể hiện được quan điểm nghệ
thuật về con người của Nguyễn Minh Châu: con người là thế giới phức tạp, bí
ẩn, cần được nhìn nhận, soi chiếu, đánh giá từ nhiều góc độ, từ đó có thể
khám phá những " hạt ngọc giấu trong bề sâu tâm hồn con người ", cũng như
thấy được bóng tối, phần chưa hoàn thiện để con người phấn đấu vươn tới cái
Chân, Thiện, Mĩ. Đồng thời cách tổ chức điểm nhìn như vậy cũng giúp cho
quá trình trần thuật trở nên khách quan hơn.
Chính việc kết hợp nhiều điểm nhìn xoay quanh hệ thống nhân vật sẽ
tạo ra trường nhìn bao quanh nhân vật. Nguyễn Minh Châu đã thực sự tạo nên
những trường nhìn đôi khi là sự hoà điệu, bổ sung, khi thì đối lập, xung khắc,
từ đó tạo ra sự đối thoại dân chủ giữa các nhân vật, hay giữa các nhân vật với
đọc giả, tác giả và nhân vật... Đặc biệt, điểm nhìn của tác giả trong tất cả mối
quan hệ với các điểm nhìn khác không phải và không tạo nên lời phán quyết
duy nhất cuối cùng cho nhân vật. Mạng lưới các điểm nhìn được đặt trong sự
vận động - khám phá dần bản chất con người trong quá trình biến đổi theo
quy luật nhưng có đầy ngẫu nhiên của cuộc sống. Mặt khác, việc kết hợp
nhiều điểm nhìn của tác giả, của nhiều nhân vật trong tác phẩm đã tạo nên
bức tranh đa màu, đa bình diện, đan xen vào nhau, vừa phân biệt và vừa bổ
sung cho nhau.
Có một điều thích thú là trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
điểm nhìn không phải luôn cố định, không có sự thay đổi. Nhà văn đã di
chuyển điểm nhìn một cách linh hoạt, chủ yếu là chuyển từ điểm nhìn bên
ngoài vào điểm nhìn bên trong, chuyển điểm nhìn từ nhân vật này sang nhân

123
vật khác. Sự di chuyển này có khi đan xen lồng vào nhau, có khi luân chuyển
nhịp nhàng tạo nên mạch trần thuật đa dạng, phong phú, có chiều sâu, góp
phần thể hiện đầy dủ tư tưởng nghệ thuật của tác giả.
Đọc truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ta thấy điểm
nhìn trần thuật được tổ chức từ hai nhân vật người kể chuyện: nhân vật " tôi "
- nhân chứng và Quì - nhân vật đóng vai trò chủ thể. Góc đôi trần thuật của
truyện vừa được soi chiếu từ góc độ của Quì, lại vừa được soi chiếu từ những
quan sát của người được nghe kể. Với hai điểm nhìn khác nhau, mỗi nhân vật
đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm, những suy nghĩ của mình
thông qua những câu chuyện được kể xen lồng vào nhau từ đầu đến cuối tác
phẩm. Ngay từ điểm nhìn của nhân vật Quì cũng có sự đan xen của điểm nhìn
bên ngoài và điểm nhìn bên trong. Quì quan sát, nhìn nhận, đánh giá về những
người xung quanh, những người đã gặp và yêu chị trong những năm chiến
trường từ điểm nhìn bên ngoài. Còn từ điểm nhìn bên trong, chị tự nhìn nhận,
đánh giá về mình một cách trung thực với tất cả những phẩm chất, những khát
khao và cả những mâu thuẫn, những quan niệm cho là sâi lầm ... Chính vì từ
cả hai điểm nhìn ấy mà Quì đã chiêm nghiệm sau khi trãi qua bao mất mát
đau đớn: " Cuộc đời không có thánh nhân, cũng như không có một người nào
mà tâm hồn hoàn toàn không thể cứu chữa được nữa ". Đối với người kể
chuyện, - nhân chứng thì suy nghĩ về việc làm và những hành động của chị: "
Bao giờ cũng muốn sống vượt lên mình một chút ", " Rồi thì chả ai là thần
thánh cả, nhưng những con người sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn, cuộc sống sẽ
mỗi ngày một tốt đẹp hơn "...Những suy nghĩ, chiêm nghiệm này được xuất
phát từ và đặt xen kẽ trong những câu chuyện của Quì và trong cả những lần
lắng nghe của nhân vật " tôi ". Điểm nhìn trần thuật cứ thế luân chuyển nhịp
nhàng giữa hai nhân vật, tạo nên mạch trần thuật không dứt trong câu chuyện
về nhân vật chính. Từ những điểm nhìn ấy, Nguyễn Minh Châu đã tập trung
soi chiếu và phần lặng lẽ, khuất lấp trong ý nghĩ và tâm linh của nhân vật để
làm sáng lên các phẩm chất mà những cảm nhận bình thường khó có thể thấy

124
và nói lên được thành lời. Đó là khát khao mãnh liệt vươn tới những toàn
thiện hoàn mĩ của một tâm hồn sôi nổi, nhạy cảm và tràn đầy sức sống. Có thể
nói, chính kiểu trần thuật hai điểm nhìn đã tạo nên bức tranh đa diện về nhận
thức hiện thực, những bình diện này đan xen vào nhau, vừa phân biệt lại vừa
bổ sung cho nhau. Đây cũng chính là một trong những thành công về nghệ
thuật sáng tạo của Nguyễn Minh Châu trên con đường đổi mới nghệ thuật trần
thuật truyện ngắn của mình.
Không giống điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất với nhiều điểm nhìn
và các điểm nhìn di chuyển một cách linh hoạt, truyện ngắn Phiên chợ Giát
lại được trần thuật từ ngôi thứ ba, đây là truyện ngắn được tổ chức điểm nhìn
khá tiêu biểu cho cách tổ chức nhiều điểm nhìn và di chuyển điểm nhìn từ bên
ngoài vào bên trong.
Các điểm nhìn trong truyện ngắn Phiên chợ Giát được tổ chức xoay
quanh nhân vật trung tâm lão Khúng, lão được soi chiếu từ nhiều điểm nhìn,
và ở mỗi điểm nhìn lại sáng rõ lên những hình ảnh, khía cạnh về con người
lão. Từ điểm nhìn của người hàng xóm, lão là người trái khoáy, như " không
phải là con người lèo lá, nhớp bụng, tham vặt hoặc độc địa, độc ác". Từ điểm
nhìn của người lãnh đạo huyện lão là " dinh luỹ cuối cùng của một sự làm ăn
cá thể ". Còn trong điểm nhìn con bò, lão giống như " cái cây dại tự nhiên từ
đất mọc lên". Trong điểm nhìn theo chiều dài của một đời người lão là " anh
nông dân suốt đời đi sau con bò vạch những luống cày trong đêm tối ". Từ
điểm nhìn của lịch sử tiến hoá nhân loại, lão là chứng nhân của thời đại từ lúc
người ít đến lúc người đông...Có thể thấy, không có điểm nhìn nào bao quát
hết cả con người lão Khúng và lão là tổng hoà của tất cả các phẩm chất được
nhìn từ các điểm. Trường nhìn của Nguyễn Minh Châu đã thực sự bao quanh
nhân vật với sự hoà điệu bổ sung thống nhất. Đặt nhân vật vào trong trường
nhìn ấy, tác giả đã đặt ra một cuộc đối thoại giữa các điểm nhìn. Nó thể hiện
rõ quan niệm về bản chất con người đó là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội

125
phức tạp: vừa mang đặc tính giai cấp, vừa mang tính phổ quát cho những
nhân vật trong cõi đời con người.
Trong truyện ngắn Phiên chợ Giát, mạch trần thuật luân phiên trong sự
nhịp nhàng giữa điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Điểm nhìn bên
trong là điểm nhìn khách quan từ phía người trần thuật. Điểm nhìn bên trong
ở đây là điểm nhìn của nhân vật lão Khúng. Sự di chuyển điểm nhìn trong
truyện luôn chuyển từ bên ngoài vào điểm nhìn bên trong. Điều này được thể
hiện khá rõ qua việc sắp xếp các sự kiện, hình ảnh và ở một loạt các động từ
chỉ hoạt động của các cơ quan cảm giác gắn với nhân vật lão Khúng.
Trong truyện, thế giới hàng ngày được hiện lên qua giấc mơ của lão
Khúng và những hình ảnh về không gian - cảnh vật xung quang: đứa con nhỏ
ngủ trên đất ôm con chó, bầu trời đầy sao, những giọt sương khuya, ở hướng
làng Khơi, hướng biển chân trời thấp hẳn xuống, dội vào tai lão Khúng những
tiếng rì rào rì rầm của sóng biển, của đất đai và mồ mả cha ông, với gian nhà
bếp có mùi cám lợn chen lẫn mùi phân dê quen thuộc, con bò hom hem...,
giấc mơ được người trần thuật kể lại từ điểm nhìn khách quan bên ngoài với
cái nhìn có vẻ kinh hoàng của nhân vật, còn những hình ảnh, sự vật mà lão
nhìn thấy, cảm nhận sau đó đều được nhìn qua điểm nhìn đầy tâm trạng của
lão Khúng - tâm trạng lưu luyến của một kẻ sắp đi xa. Trong thực tế, kẻ đi xa
là con bò chứ đâu phải lão Khúng, xong điểm nhìn lại hoàn toàn thuộc về lão
Khúng. Chính sự di chuyển điểm nhìn đó đã nói lên phần nào sự chuyển hoá
của hai thân phận người - bò trong số phận lão Khúng. Trong phần đầu của
truyện, vị trí điểm nhìn bên trong chuyển vào nhân vật lão Khúng được
Nguyễn Minh Châu thể hiện rõ qua một loạt các động từ chỉ hoạt động của
các cơ quan cảm giác - những động từ có tính chất dẫn xuất cho sự xuất hiện
của các sự vật, hiện tượng. Các động từ này xuất hiện với một mật độ dày đặc
trong những dòng miêu tả hoạt động của các giác quan: " Trong cơn mê lão
Khúng trông thấy... lão Khúng chẳng thấy con bò"," lão Khúng cứ trương
mắt đứng ngó trân trân...", " đêm lão nằm mơ thấy", " lão nghe được... lão

126
vẫn nghe tiếng chân chúng (con chó) đi tuần ngoài sân... Lắng nghe tiếng
chó sủa..., lão đoán biết ít nhất cũng hai, ba giờ sáng... lão Khúng lại mới
cảm thấy một vẻ im ắng...", " lão rọi cặp mắt vào bóng tối. Lão trông thấy
một tấm lưng trẻ con ", " trong bóng đêm tối thui...lão đứng nhìn sợi dây
chão...". Sự sắp xếp dày đặc các động từ chỉ hoạt động của các giác quan là
dấu hiệu của việc tổ chức trần thuật theo điểm nhìn bên trong. Điểm nhìn ấy
còn được tiếp tục luân chuyển với điểm nhìn bên ngoài của người trần thuật
trong cả truyện.
Có thể thấy, Truyện ngắn: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Phiên chợ Giát là những truyện ngắn tiêu biểu cho cách thức tổ chức nhiều
điểm nhìn và di chuyển điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Minh Châu. Ngoài
ra với cách tổ chức điểm nhìn trần thuật này còn được sử dụng khá nhiều
truyện ngắn khác như: Cỏ lau, Mùa trái cóc ở Miền nam, Khách ở quê
ra...Tất cả được lựa chọn một cách tinh tế, tổ chức phù hợp với mỗi kiểu loại
nhân vật và đề tài. Chính những diểm nhìn trần thuật ấy đã giúp cho mỗi hình
thức trần thuật phát huy cao nhất tác dụng nghệ thuật của nó trong việc truyền
tải và phản ánh thông tin.
3.3.2 Tổ chức giọng điệu trần thuật
Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là những sáng tác đa thanh, phức
điệu. Với quan điểm trần thuật chuyển từ sử thi sang góc độ đời tư - thế sự,
trần thuật từ nhiều điểm nhìn, giọng điệu trần thuật của Nguyễn Minh Châu
cũng chuyển từ đơn giọng sang đa thanh giọng, điều đó thể hiện rõ trong các
truyện ngắn viết sau năm 1975.
Sự thay đổi về giọng điệu trần thuật trong các truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu sau năm 1975 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm
nghệ thuật về con người và hiện thực. Cuộc sống đời thường sau chiến tranh
diễn ra vô cùng phức tạp với nhiều vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ, đòi hỏi
nhà văn phải có cái nhìn mới, những quan niệm mới, những cách giải quyết
khác với thời chiến. Trở về với đời thường, tác giả buộc phải dẫn người đọc

127
khám phá vào cái bên trong đầy bí ẩn chứa đựng bản ngã của mỗi con người
với những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó Nguyễn Minh Châu
đã nhanh chóng thay đổi giọng điệu trần thuật và có những bước tiến mới
trong tổ chức giọng điệu trần thuật.
Theo Tôn Phương Lan, giọng chủ âm trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu là giọng thâm trầm. Cùng với giọng chủ âm ấy, truyện ngắn của Nguyễn
Minh Châu còn là sự tập trung của nhiều giọng điệu trần thuật: giọng ngợi ca
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Sống mãi với cây xanh), giọng
trầm tĩnh day dứt (Hạng, Bức tranh), Giọng hài hước kín đáo (Người đàn bà
tốt bụng, Sắm vai), giọng nghiêm nghị đau sót ( Đứa ăn cắp, Mẹ con chị
Hằng ), giọng điệu vừa chân tình, bồ bã gần gũi với đời thường vừa da diết,
nâng niu và cả ngậm ngùi xót xa (Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát), giọng
khắc khoải trầm buồn (Cỏ lau, Bến quê), giọng giận giữ, đau đớn ( Mùa trái
cóc ở miền nam ), giọng triết lí rải rác ở nhiều truyện (Mẹ con chị Hằng,
Đứa ăn cắp, Người đàn bà tốt bụng, Hương và Phai, Bức tranh, Dấu vết
nghề nghiệp, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Một lần đối chứng...)
Sự đa thanh giọng có khi còn nằm ngay trong một truyện ngắn như truyện
ngắn Phiên chợ Giát.
Điểm nổi bật nhất trong tổ chức giọng điệu của Nguyễn Minh Châu
trong các truyện ngắn là cách đan xen nhiều giọng điệu. Hầu như tất cả các
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau năm 1975 đều được tổ chức
giọng điệu trần thuật theo cách đan xen.
Với cách tổ chức đan xen nhiều giọng điệu, nổi lên và rõ nhất là giọng
chủ âm thâm trầm. Giọng chủ âm này được thể hiện trong mỗi truyện ngắn
qua các sắc thái, giọng điệu cụ thể, có khi gắn với hình tượng trung tâm trong
tác phẩm, hoặc gắn với tổ chức các sự kiện, sự vận động của các hình ảnh,
miêu tả thiên nhiên... bằng cách miêu tả giọng điệu trong mối quan hệ với
điểm nhìn, việc tổ chức không gian - thời gian và tổ chức nhân vật. Đôi lúc,
sự đan xen các giọng khác nhau làm sáng tỏ một giọng chủ đạo trong tác

128
phẩm, cũng có khi các giọng điệu vang lên làm cân bằng hoá nhau, hoặc các
giọng điệu được tổ chức song song nhằm làm rõ tư tưởng của tác giả. Trong
nhiều trường hợp, giọng điệu của tác giả hoà và giọng điệu của nhân vật...
Trong các truyện ngắn những giọng điệu khác nhau được thể hiện thông qua
những lời độc thoại nội tâm, qua lối kể chuyện, cách xưng hô, gọi tên, cách
dùng hình ảnh biểu tượng, dùng từ ngữ, sắc điệu tình cảm...và chính nó đã
góp phần thể hiện thái độ thẩm mĩ và năng lực nghệ thuật của tác giả đối với
những vấn đề trong tác phẩm.
Truyện ngắn Bức tranh là một minh chứng thể hiện sự thay đổi sớm
nhất và rõ nhất về giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Từ việc
coi "con người không bao giờ trùng khít với bản thân mình " (Bakhtin),
Nguyễn Minh Châu đã chọn chỗ đứng một cách bình đẳng với nhân vật, tổ
chức cho nhân vật nói thật tiếng nói của mình. Trong truyện, giọng tác giả,
giọng nhân vật dường như hoà vào nhau, khó phân biệt. Sự hoà quện ấy vang
lên trong suốt cuộc đầu tranh nội tâm của nhân vật biểu hiện qua cuộc độc
thoại nội tâm và ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Đặc
biệt cuộc độc thoại nội tâm được tác giả tổ chức như một cuộc đối thoại đa
giọng điệu: khi thì mỉa mai, giễu cợt thói đạo đức giả của chính bản thân
nhân vật, khi thì tư biện (đổ lỗi cho hoàn cảnh, dùng lí lẽ về vai trò, nhân cách
nghệ thuật của người nghệ sĩ để bào chữa cho việc làm của mình), khi đanh
thép tự kết tội mình là "đồ dối trá! "...nhưng nổi bật nhất vẫn là giọng khắc
khoải, thâm trầm của một nỗi đau bị giằng xé. Các giọng điệu ấy có lúc đan
xen, lúc luân chuyển nhẹ nhàng theo dòng suy nghĩ, theo những biến đổi tâm
trạng của người hoạ sĩ. Qua đó Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một cách nhìn
mới về con người: trong mỗi con người " lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng
phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ " chính vì thế mà trong mỗi con
người luôn xảy ra những nghịch lí khi vừa phạm phải sai lầm lại vừa biết ăn
năn, đau khổ trước những sai lầm đó. Có thể thấy Bức tranh chính là tác

129
phẩm mở ra một thời kỳ mới trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu từ sau
năm 1975.
Trong một truyện ngắn khác: Sắm vai, Nguyễn Minh Châu đã lựa chọn
cho truyện giọng hài hước mang tính kịch làm giọng chủ đạo để không đi sâu
vào phân tích diễn biến nội tâm. Với giọng chủ đạo này, cùng các giọng khác
trong truyện được tổ chức theo sự chuyển hướng: từ giọng điệu hài hước đôi
khi có pha giọng giọng điệu chua chát chuyển sang giọng kể chuyện nghiêm
chỉnh. Dưới con mắt của nhân vật " tôi " - một người viết báo, viết văn trẻ,
không khí trong khu dân cư đã thể hiện rõ tính chất của một sàn diễn. Khi
nhân vật " sắm vai " xuất hiện và trong suốt vai diễn, giọng điệu hài hước
hoàn toàn chiếm lĩnh truyện. Giọng điệu này được thể hiện qua cách kể như
đang tường thuật trực tiếp một cách đầy đủ, tỉ mỉ cuộc sắm vai của nhân vật
từ khi bắt đầu (thay đổi thời gian biểu, sinh hoạt giống như mọi người, lắp
răng giả, may quần áo kiểu thanh niên...), tiếp diễn khi vợ anh ta về (sinh hoạt
nhàn rỗi theo phong cách trẻ trung, lịch lãm quý phái: học nhảy đầm, luyện
cách đi đứng, cười nói, bắt tay theo " đạo diễn " của vợ, chơi trò vợ chồng dỗi
nhau như cặp vợ chồng còn trẻ...) Trong khi tường thuật, ta thấy xuất hiện
nhiều từ ngữ, câu cảm đượm ý vị trào lộng " Kìa, anh T. đang học nhảy. Anh
ấy đang học nhảy đầm với vợ!". Xen vào mạch truyện là những lời bình luận,
những câu hỏi thể hiện sự sửng sốt, hoang mang của " tôi " một cách hài
hước." Tôi bắt đầu ngạc nhiên quá. Anh là một con người khác kia chứ đâu
thế này?"," Thế này thì hết nước, tôi chỉ muốn giơ cả hai tay lên trời mà kêu
lên, nhưng thế này là thế nào, hả trời? "," Khuôn mặt anh T. bây giờ cũng y
như vừa bị chia đôi ra: một bên đầy suy nghĩ và lơ đễnh của người nghệ sĩ
sáng tạo, một phía bên kia lại hết sức vui vẻ, trẻ trung, như một người đang
còn hoá trang dở dang chưa xong..." Giọng điệu hài hước đó đôi khi được
pha trộn giọng điệu chua chát để diễn tả sự cố gắng của nhân vật, khi chơi trò
chơi vợ chồng dỗi nhau: " anh vẫn phải chơi cái trò này với chị, chơi thật hết
sức mình ", rồi phải " vội vã cười phá lên, cười mãi, cười hoài. Như một cái

130
máy. Anh cười ngặt nghẽo như một cái máy, đến chảy nước mắt ". Không chỉ
là nước mắt trong cái cười của trò chơi mà còn cả nước mắt của một bi kịch.
Chính vì thế, theo diễn biến của mạch truyện, giọng diệu kể chyện cũng thay
đổi. Tự thấy không thể tiếp tục " sắm vai " được nữa, anh T. đã trở lại con
người thật của chính mình. Truyện kết lại bằng một kết thúc nghiêm túc.
Giọng điệu của truyện cũng chuyển từ hài hước pha trộn chua chát sang giọng
điệu kể chyện nghiêm chỉnh. Nguyễn Minh Châu đã đưa người đọc trở về với
tính chất nghiêm trang của vấn đề mà ông đặt ra: Con người phải lựa chọn
cách sống sao cho đúng với bản ngã của mình.
Khác với truyện ngắn Sắm vai, truyện ngắn Phiên chợ Giát lại có cách
tổ chức giọng điệu thể hiện sự đa thanh rõ nét. Đây là truyện ngắn có sự đan
xen nhiều giọng điệu khác nhau. Có giọng điệu lên án trói buộc (đoạn miêu tả
lão Khúng sau giấc mơ đang tra vấn ai giết con bò), có giọng nâng niu trân
trọng những vẻ đẹp tinh khôi của sự sống (đoạn miêu tả cảnh mặt đất buổi
sáng sớm), có giọng ngậm ngùi xót xa (đoạn miêu tả tâm trạng lão Khúng khi
bán con bò, những đoạn miêu tả hồi ức của lão Khúng), giọng ra lệnh một
cách hài hước (đoạn miêu tả cảnh lão Bời bị bò đá ). Nhưng trội hơn cả là
giọng nâng niu và ngậm ngùi xót xa.
Giọng ngậm ngùi xót xa gắn với hình tượng nhân vật trung tâm lủi thủi
đi trong đêm tối, gắn với sự chồng chất liên tục của các sự kiện bất hạnh. Các
đoạn triết lí là sự hiện hình rõ nhất của giọng xót xa ngậm ngùi. Sự vận động
của các giọng điệu khác nhau đều nhằm làm sáng tỏ giọng triết lí ngậm ngùi.
Phần lớn các đoạn trong truyện đều được kết thúc bằng câu triết lí về đời
người, về đồng loại, về nhân thế sau khi đã kinh qua một loạt các giọng khác
có tính chất thử nghiệm. Ở phần III của truyện, rất nhiều giọng điệu đã xuất
hiện khi người kể chuyện di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật để
thuật lại những ý nghĩ và hồi ức của lão Khúng. Đó là giọng hoài nghi khi lão
Khúng nhìn thấy một ngôi sao vừa tắt, đó là giọng bất cần “ Cái lão Khúng
này thiết đếch gì! Sao với lại chả trăng! Cho cái mặt trời, ông cũng đếch thiết

131
nữa là! ”, rồi giọng chế nhạo hài hước: “ Vua chúa hoặc đại thần danh tiếng
của thời nay cả đấy! Họ đang sống cả đấy! Ngôi sao nào cũng ngỡ mình đang
soi sáng mặt đất, không có mình thì mặt đất biến thành hũ nút, hàng nghìn
hàng triệu người mở mắt cũng không nhìn thấy lối mà đi! ”…, cùng giọng suy
tư khi lão ngẫm nghĩ về người có chức có quyền và ngôi sao chiếu mệnh của
họ, giọng giận dữ khi nói về “ quân ăn cắp” ở công trường…Rất nhiều giọng
được tung ra, chỉ để dẫn đến một kết luận mang tính triết lí của lão Khúng: “
Sự đời đôi khi có nhiều cái lạ lắm! ”. Một “phát kiến ” tưởng không có gì lạ,
xong lại đầy thấm thía vì nó được rút ra từ sự chiêm nghiệm, trải nghiệm
trong cả một đời người.
Cùng với giọng triết lí ngậm ngùi là giọng nâng niu chăm chút. Giọng
điệu này được thể hiện qua việc tổ chức song hành các đoạn tả cảnh thiên
nhiên đồng nội trong vô vàn các sự kiện khác của truyện. Thiên nhiên gắn với
hành trình sống của nhân vật. Đó là hình ảnh bầu trời đầy sao, là “ mùi đất ẩm
sương đêm lẫn mùi ngai ngái hăng hắc xông lên từ một cái quang cỏ còn
nguyên vẹn ”, là thói quen hứng phân trâu với một khoái cảm mê say của lão
Khúng, thấy cái mùi phân trâu vừa trút ra khỏi cơ thể con vật còn “ nóng ấm
và đầy nồng nàn ”, là sự kiện cả gia đình lão Khúng lưu luyến con bò: vợ lão
lặng lẽ nấu cháo cho bò ăn, con Nghiên vuốt mãi cái đầu của con vật trong
nước mắt giàn giụa, là cái hơi hướng vừa hoang dại vừa dịu mát của một đứa
con gái nông thôn “ phả ra mùi các loài cỏ ” của đồng nội vừa đắng vừa ngọt,
về cái tình quấn quýt như bản năng giữa vật nuôi và người chủ, về tình làng
nghĩa xóm…Những đoạn miêu tả như thế cho thấy bên cạnh nỗi xót xa cho
thân phận người là niềm thương với thế giới thuộc về sự sống của tác giả.
Cùng với nó là giọng yêu thương chăm chút vang lên làm cân bằng hoá giọng
xót xa ngậm ngùi. Nó trở thành niềm hi vọng âm thầm vào những giá trị hồn
nhiên của sự sống, là sự gìn giữ cho con người lẽ sống nhân ái, nhân tình
đang lặng lẽ tỏa hương nơi góc khuất nào đó của cuộc đời con người.

132
Không chỉ có truyện ngắn Bức tranh được xem là sự mở đầu và kết
thúc ở Phiên chợ Giát truyện ngắn mà Nguyễn Minh Châu viết lúc cuối đời
giọng điệu trần thuật thể hiện rõ những độc đáo, đặc sắc, các truyện ngắn
khác như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Khách ở quê
ra, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam…giọng điệu trần thuật cũng được tổ
chức theo những cách thức đa dạng phong phú, linh hoạt, thể hiện phong cách
tài hoa có chiều sâu của cây bút truyện ngắn mở đường tinh anh và tài hoa.
Trên hành trình đi tới cái đích của nghệ thuật, cùng với việc thể hiện
thành công tư tưởng nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra được nhiều
giọng điệu trần thuật khác nhau, tổ chức chúng một cách sáng tạo, linh hoạt
để đạt tới hiệu quả nghệ thuật cao. Cách tổ chức giọng điệu ấy đã góp phần
tạo nên thành công trong nghệ thuật và thi pháp truyện ngắn của ông, từ đó
thể hiện thái độ thẫm mĩ và năng lực nghệ thuật của ông đối với những vấn đề
nhân sinh mà cuộc sống đặt ra, đồng thời khẳng định Nguyễn Minh Châu là
một tài năng thực sự, thực sự vì con người.

133
KẾT LUẬN
Đất nước bước ra khỏi cuộc chiến tranh, truyện ngắn Việt Nam đã có
một quá trình tự vận động, đổi mới đáng kể. Bên cạnh những trang viết về
những vấn đề lớn lao của đất nước có mhiều truyện ngắn đã hướng vào thể
hiện con người của đời tư và những vấn đề thế sự.
Trong suốt hành trình tìm kiếm, khám phá và thể hiện cuộc sống, con
người của một đời văn, Nguyễn Minh Châu đã vẽ vào lịch sử văn học hiện đại
Việt Nam bức chân dung độc đáo của mình, một “nguyên cảo” (chữ của
Nguyễn Tuân ) để rồi khi ra đi không thể có một “ bản sao ” thứ hai trên đời.
Cái làm nên bức chân dung độc đáo ấy là những trang văn đậm dấu ấn phong
cách nghệ thuật của một nhà văn mà sự kết tinh tài năng - phẩm chất - tấm
lòng đã được khẳng định trong các sáng tác truyện ngắn từ đầu tay cho đến
cuối đời. Trãi qua bao gian nan đau xót, nhất là trên chặng đường đổi mới,
Nguyễn Minh Châu đã hết mình trong lao động nghệ thuật, từng bước hoàn
thiện nghệ thuật sáng tác trên cơ sở kế thừa và đổi mới thi pháp truyền thống.
Truyện ngắn của ông, đặc biệt là những truyện ngắn viết sau năm 1975 thực
sự là sự đơm hoa kết trái ngọt lành nhất của quá trình lao động miệt mài hết
mình vì con người và cuộc sống.
Nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 nhìn từ
góc độ thi pháp có thể khẳng định ông đã có nhiều đóng góp quý giá cho nghệ
thuật truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong nhiều phương diện.
1.Nghệ thật tổ chức hình tuợng có nhiều đặc sắc, cách tân
Các yếu tố không gian, thời gian nghệ thuật trong các truyện ngắn được
tổ chức gắn liền với các yếu tố nghệ thuật khác như nhân vật, cốt truyện, trần
thuật…với nhiều cách thức sáng tạo. Việc chuyển đổi từ không gian sử thi
hào hùng, hoành tráng trong những truyện ngắn trước năm 1975 sang không
gian sinh hoạt thế sự sau năm 1975 là một sự bứt phá mạnh dạn của một tâm

134
bút luôn day dứt và hướng về con người. Nhà văn đã tổ chức không gian
trong sự đối lập, xây dựng nên những không gian mới mẻ như không gian tâm
lí, tư tưởng, văn hoá, thẫm mĩ và cả không gian đời thường để thể hiện những
ý nghĩa triết lí nhân sinh, sáng tạo nhiều biểu tượng gắn với không gian thiên
nhiên, sinh hoạt có tác dụng tô đậm thêm hình ảnh nhân vật. Cách tổ chức
thời gian nghệ thuật vừa theo trật tự tuyến tính thời gian khách quan, vừa đảo
trật tự thời gian cùng sự mở rộng thời gian nghệ thuật, khám phá thời gian
tâm linh của con nguời trong sự tương ứng với không gian, mở rộng nhiều
chiều không gian - thời gian, chính sự phối hợp ấy đã tạo ra những nền cảnh,
khung cảnh độc đáo để nhân vật hiện lên một cách rõ nét và sinh động nhất.
Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được tổ
chức đa dạng, phong phú trong nhiều mối quan hệ: quan hệ đối chiếu tương
phản, bổ sung, quan hệ với nghịch lí, biểu tượng…Chính việc tổ chức hệ
thống nhân vật như vậy cho thấy sự phong phú, phức tạp của cuộc sống với
những quan hệ ràng buộc phức tạp của con người. Trong các mối quan hệ ấy,
con người được khám phá ở nhiều bình diện, nhiều chiều, từ bên ngoài đến
thế giới tâm hồn, tâm linh vô thức bên trong. Nhiều nhân vật để lại ám ảnh
mạnh mẽ cho người đọc. Đây chính là bước vận động đổi mới căn bản trong
quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975.
2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và những cách tân so với truyền thống
Đa phần các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết sau năm 1975
được tổ chức kết cấu cốt truyện theo kiểu kết cấu tâm lí, khung cốt truyện
được nới lỏng, sự kiện và những biến cố không còn quan trọng, thiết yếu bên
các yếu tố suy tư, triết lí, những xung đột tâm lí, hồi ức, giấc mơ…Các sự
kiện trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được tổ chức trong nhiều mối
tương quan khác nhau: tăng cấp, tương đồng, nhân quả - phản nhân quả, lắp
ghép…Nguyễn Minh Châu đã sắp sếp các thành phần cốt truyện vừa theo
kiểu truyền thống vừa có sự cách tân sâu sắc, tạo sự biến hoá linh hoạt cho
mỗi truyện, cuốn hút người đọc một cách đặc biệt. Đồng thời với việc tạo nên

135
các tình huống có vấn đề khi là tình huống nghịch lí, tình huống ngẫu nhiên,
lúc lại là tình huống tâm lí… để triển khai cốt truyện một cách đa dạng linh
hoạt giúp cho tác phẩm trở nên gần gũi với đời sống con người và phát huy
được những chức năng vốn có của nó.
3. Nghệ thuật trần thuật có bước vận động mới với những cách tân cụ thể
Bằng việc chuyển đổi từ quan điểm trần thuật sử thi sang góc độ đời tư
- thế sự, xuất phát từ điểm nhìn cá nhân để đánh giá và tái hiện đời sống,
phong cách trần thuật của Nguyễn Minh Châu trong các truyện ngắn viết sau
những năm 1975 đã thay đổi về căn bản. Nhà văn đã sử dụng đa điểm nhìn,
chuyển dịch chúng một cách linh hoạt, từ đó cho thấy cách nhìn, cách đánh
giá từ nhiều góc độ. Chính vì thế, hiện thực và con người hiện ra một cách đa
chiều với những màu sắc, góc cạnh, nhiều cấp độ, tầng bậc, không thuần nhất,
đúng với bản chất vốn có của chúng. Giọng điệu trần thuật có sự chuyển đổi
từ giọng điệu sử thi ngợi ca sang đa giọng, cùng với cách sử dụng nhiều điểm
nhìn, việc tổ chức nhiều giọng điệu đan xen trong tác phẩm xung quanh giọng
chủ âm thâm trầm đã góp phần tạo nên tính chất đa thanh giọng, phức điệu
của truyện ngắn rất Nguyễn Minh Châu.
Có thể thấy, là một người đi đầu trong việc đổi mới văn học kể từ sau
1975 chính vì thế trong sáng tác của mình đâu đó không thể không còn những
hạn chế có khi chưa thật chín. Nhưng càng về sau, các truyện ngắn của ông
ngày càng được hoàn thiện, nhiều truyện được xem là những “ hạt ngọc ”
không chỉ của riêng Nguyễn Minh Châu mà còn của cả nền văn học Việt
Nam. Những thành tựu trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đã cho
thấy những cách tân nghệ thuật sáng tạo, đồng thời thể hiện những đổi mới
trong quan niệm về nghệ thuật về con người, trong tư tưởng về nghệ thuật của
nhà văn. Các thành tựu ấy không đơn thuần chỉ là kĩ thuật trong sáng tác, mà
nền tảng sâu xa của nó là tính nhân bản sâu sắc đã trở thành “ mối quan hoài
thường trực ” và da diết về số phận, hạnh phúc con người của nhà văn. Sự
nghiệp của Nguyễn Minh Châu không phải là một con đường dễ dãi mà là

136
một con đường đầy những nỗ lực vất vả, thậm chí có cả những nguy hiểm
tưởng như không thể nào bước tiếp được. Mặt khác, với những tìm tòi và cách
tân trong truyện ngắn từ sau 1975 đã phù hợp với xu thế đổi mới của văn học,
không hề nằm ngoài tiến trình đổi mới của văn xuôi đương đại. Những thành
công đó đã mở ra một giai đoạn mới cho văn học tạo nên sự bứt phá của nhiều
nhà văn sau này tạo nên những tiếng nói mạnh mẽ, sắc sảo, táo bạo…như
Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài…song không ai có thể phủ
nhận được vai trò mở đường “ tinh anh và tài năng ” của Nguyễn Minh Châu
trên con đường đổi mới văn học. Những trang sách của ông để lại sẽ mãi mãi
được lịch sử văn học nhắc tới như những trang sách vừa tài hoa vừa thấm đẫm
tình yêu thương vô hạn của nhà văn với con người với cuộc đời. Với những
cống hiến xuất sắc trong hoạt động văn học nghệ thuật ông mãi mãi được
người đương thời, ngưỡng mộ. Ông hoàn toàn xứng đáng với những lời khen
ngợi nhiệt thành mà các nhà nghiên cứu đã viết về ông và những giải thưởng
cao quý mà ông đã được nhận. Những gì ông đã thể hiện, đã gửi gắm, hẳn
cũng nhận được sự tri ân từ phía người đọc, những nhà nghiên cứu và đồng
nghiệp. Như một điều giản đơn mà nhà văn đã từng mong mỏi: “ Nhân cách
con người và phong hoá xã hội nếu giữ được như ngày nay là nhờ đa số
những con người bình thường xung quanh ta đã chiến thắng được cái xấu
trong con người họ và tôi muốn những trang viết của mình phải tham gia trợ
lực vào những cuộc giao tranh thầm lặng và thường xuyên đó.
Sau nữa, tôi muốn những trang viết của mình giúp cho những người
chung quanh ý thức được về mình hơn, biết và dám tự mổ sẻ mình. Tự nhìn
mình, cũng phải can đảm lắm đấy!
Và sau cùng, tôi cũng ước ao người ta sống đôn hậu hơn, hồn nhiên
hơn ” [ 10 ].
Có thể khẳng định, trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn
của ông đã bộc lộ rõ những đặc tính của một thể loại ưu việt, mở ra cho văn
học những đề tài và vấn đề mới của đời sống nhân dân, những hình tượng

137
nhân vật mới. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đào sâu thêm ý niệm
của chúng ta về nước Việt Nam hiện nay, về tiềm năng tinh thần của những
con người xây dựng Xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.

138
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân - 150 thuật ngữ văn học - Nxb ĐHQG Hà Nội, 2003.
2. Lại Nguyên Ân, Tôn Phương Lan - Nguyễn Minh Châu, con người
và tác phẩm - Nxb Khoa học xã hội, 1999.
3. Lại Nguyên Ân - Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh
Châu - Tạp chí văn học, số 3/1987.
4. M.Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết ( Phạm Vĩnh Cư dịch ) -
Trường viết văn Nguyễn Du, 1992.
5. Nguyễn Thị Bình - Những đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975 -
Luận án TS.ĐHSP Hà Nội, 1999.
6. Nguyễn Văn Bính - Vẻ đẹp nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựng
nhân vật của Nguyễn Minh Châu - Tập san Văn học và tuổi trẻ, số 32.
7.Nguyễn Minh Châu toàn tập ( tập 1 ) - Nxb Văn Học, 2001.
8. Nguyễn Minh Châu toàn tập ( tập 2 ) - Nxb Văn Học, 2001.
9. Nguyễn Minh Châu toàn tập ( tập 3 ) - Nxb Văn Học, 2001.
10. Nguyễn Minh Châu toàn tập ( tập 5 ) - Nxb Văn Học, 2001.
11. Phạm Vĩnh Cư - Về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu - Báo Văn nghệ số tháng 7/1990.
12. Thành Duy - Kết cấu tác phẩm văn học - Tạp chí Nghiên cứu văn
học tháng 02/1961.
13. Lê Bá Hán ( Chủ biên ) - Từ điển thuật ngữ văn học - Nxb ĐHQG
Hà Nội, 2000.
14. Nguyễn Văn Hạnh - Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi
mới cách nhìn về con người - Tạp chí Văn học, số 3/1993.
15. Dương Thị Thanh Hiên - Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tạp chí
Nhà văn, số 7/2001.
16. Hoàng Ngọc Hiến - Năm bài giảng về thể loại - Trường viết văn
Nguyễn Du, H, 2003.
17. Hoàng Ngọc Hiến - Đọc truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ( từ Bức
tranh đến Phiên chợ Giát ) - Văn học và học văn, 1997.
18. Đỗ Đức Hiểu - Đọc Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu - Đổi
mới đọc và bình văn - Nxb Hội nhà văn, H, 1999.
19. Đỗ Đức Hiểu - Thi pháp hiện đại - Nxb Hội nhà văn, 2000.
20.Nguyễn Thái Hoà - Những vấn đề thi pháp của truyện - Nxb Giáo
dục, 2000.
21. Nguyễn Trọng Hoàn ( giới thiệu, tuyển chọn ) - Nguyễn Minh Châu
về tác gia và tác phẩm - Nxb Giáo dục, 2002.
22. Nguyễn Trọng Hoàn - Truyện ngắn Bức tranh - sự đối diện và thức
tỉnh lương tâm, sự khám phá " khuôn mắt bên trong " của con người - In
trong Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm - Nxb Giáo dục, H, 2002.
23. Nguyễn Thanh Hùng - Cái đẹp và cái hay của Mảnh trưng cuối
rừng - Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 1/1994.
24. Lê Quang Hưng - Một hình tượng nông dân điển hình trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu - In trong Kỷ yếu hội thảo 5 năm ngày mất của
Nguyễn Minh Châu - Hội văn nghệ Nghệ An, 1995.
25.Lê Thị Hường - Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975 - 1995 - Luận án TS. Trường ĐHKHXH&NV, 1995.
26. Nguyễn Khải - Thời gian của người - Nxb Tác phẩm mới, 1985.
27.M.B.Khravchenko - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học ( Bản dịch Lê Sơn, Nguyễn Minh ) - Nxb Tác phẩm mới, H,
1978.
28. Tôn Phương Lan - Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội,
2002.
29. Tôn Phương Lan - Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người - Tạp chí Văn học, số 4/1996.
30. Tôn Phương Lan - Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu -
Nxb Khoa học xã hội, 1999.
31. Nguyễn Văn Long - Văn học Việt Nam trong thời đại mới - Nxb
Giáo dục, H, 2003.
32. Nguyễn Văn Long - Vẻ đẹp Mảnh trăng cuối rừng - Báo văn nghệ
số 46/1992.
33. Phương Lựu ( Chủ biên ) - Lý luận văn học tập 2 - Nxb Giáo dục ,
H, 1987.
34. Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
các nhà văn - Nxb Giáo dục, 2002.
35. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và
phong cách - Nxb Văn học, 2003.
36. Nguyên Ngọc - Văn xuôi sau năm 1975 thăm dò đôi nét về quy luật
phát triển - Tạp chí Văn học số 4/1991.
37. Lã Nguyên - Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư
duy nghệ thuật - Tạp chí Văn học số 02/1989.
38. Nguyễn Tri Nguyên - Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu sau 1975 - In trong 50 năm văn học Việt Nam sau
cách mạng tháng Tám - Nxb ĐHQG Hà Nội, 1999.
39. Vương Trí Nhàn - Sổ tay truyện ngắn - Nxb Tác phẩm mới, Hội
nhà văn Việt Nam, H, 1980.
40. Trần Thị Mai Nhi - Văn học hiện đại, Văn học Việt Nam giao lưu
gặp gỡ - Nxb Văn học, H, 1994.
41. Nhiều tác giả - 50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng tám
- Nxb ĐHQG Hà Nội, 1999.
42. Nhiều tác giả - Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của
Nguyễn Minh Châu - Báo văn nghệ, số 27,28/1985.
43. Hoàng Phê ( Chủ biên ) - Từ điển tiếng Việt - Nxb Đà Nẵng, Trung
tâm từ điển học, 1997.
44. G.N.Pospelop ( Chủ biên ) Dẫn luận nghiên cứu học - Nxb Giáo
dục , H, 1988.
45. Chu Văn Sơn - Đường tới Cỏ lau - Báo Văn nghệ, số 42/1993.
46. Trần Đình Sử - Bến Quê, một phong cách trần thuật giàu chất triết
lí - Báo Văn nghệ, số 8/ 1987.
47. Trần Đình Sử - Dẫn luận thi pháp học - Nxb Giáo dục, 1999.
48. Trần Đình Sử, Trần Đăng Suyền, Lê Lưu Oanh - Tự sự học - Nxb
ĐHSP Hà Nội, H, 2002.
49. Trần Đăng Suyền - Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao - Nxb Khoa học
xã hội, H, 2002.
50. Nguyễn Thị Minh Thái - Ấn tượng về nhân vật nữ của Nguyễn
Minh Châu - Tạp chí Văn học, số 3/1985.
51. Ngô Thảo - Đọc những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu - Báo
văn nghệ, số 32/1983.
52. Bùi Việt Thắng - Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn
thể loại - Nxb ĐHQG Hà Nội, 2000.
53. Bùi Việt Thắng - Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu - In trong Kỷ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu -
Hội văn nghệ Nghệ An, 1995.
54. Bích Thu - Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 - Tạp chí
Văn học, số 9/1996.
55. Ngọc Trai - Sự khám phá con người Việt nam qua truyện ngắn -
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 10/1987.
56. Nguyễn Thanh Tú - Nghệ thuật kể chuyện trong Mảnh trăng cuối
rừng - In trong Phân tích bình giảng văn học chọn lọc - Nxb Văn học, H,
2000.
57. Lê Văn Tùng - Không gian Bến quê và một sự thức nhận đau đớn
sáng ngời của con người - In trong Kỷ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn
Minh Châu - Hội văn nghệ Nghệ An, 1995.
58. Trịnh Thu Tuyết - Nghẹ thuật truyện ngắn sau năm 1975 của
Nguyễn Minh Châu - Luận văn ThS. ĐHSP Hà Nội, 1995.
59. Trịnh Thu Tuyết - Sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sự vận
động của văn xuôi đương đại - Luận án TS. ĐHSP Hà Nội, 2001.
60. Từ điển Văn học - Nxb Khoa học xã hội, H, 1982.

You might also like