You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

KHOA NGỮ VĂN

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT


TRONG THƠ ĐƯỜNG

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1


Học phần: Văn học Châu Á
Lớp: 22SNV2
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Trần Ái Vân

Đà Nẵng, 1/2024
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM

STT Họ và tên Lớp


1 Trương Thị Phương Hiền 22SNV2
2 Nguyễn Hải Hậu 22SNV2
3 Nguyễn Thị Thu Hoài 22SNV2
4 Phan Thị Trà Ly 22SNV2
5 Trương Thị Anh Thư 22SNV2
6 Nguyễn Thị Kim Phượng 22SNV2
7 Trần Thị Thơ 22SNV2

BẢNG ĐÁNH GIÁ HIỆU SUẤT THÀNH VIÊN NHÓM 1


STT Họ và tên Nhiệm vụ Hiệu suất
Soạn nội dung (2.2.1.1, 2.2.1.2);
1 Trương Thị Phương Hiền 100%
làm PPTX
Soạn nội dung (1.2.2.2, 1.2.2.3);
2 Nguyễn Hải Hậu 100%
làm PPTX
Soạn nội dung (2.1, 2.2.1); sửa
3 Nguyễn Thị Thu Hoài 100%
hình thức
Soạn nội dung (1.2.2, 1.2.2.1); làm
4 Phan Thị Trà Ly 100%
PPTX
Soạn nội dung (1.1, 1.2.1); sửa
5 Trương Thị Anh Thư 100%
hình thức
Soạn nội dung (2.2.2, 2.3, Kết
6 Nguyễn Thị Kim Phượng 100%
luận)
Soạn nội dung (Mở đầu,1.2.1.1,
7 Trần Thị Thơ 100%
1.2.1.2)

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................3
Chương 1: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG.................3
1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật.....................................................................3
1.2. Các kiểu không gian nghệ thuật trong thơ Đường..........................................4
1.2.1. Không gian vũ trụ.............................................................................................4
1.2.1.1. Không gian mênh mông, rộng lớn..................................................................4
1.2.1.2. Không gian hoang dại, biến dịch...................................................................7
1.2.1.3. Không gian lữ thứ.........................................................................................10
1.2.2. Không gian đời thường..................................................................................13
Chương 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG....................18
2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật......................................................................18
2.2. Các kiểu thời gian nghệ thuật trong thơ Đường...........................................19
2.2.1. Thời gian vũ trụ..............................................................................................19
2.2.1.1. Thời gian hoài niệm.....................................................................................19
2.2.1.2. Thời gian vô hạn...........................................................................................22
2.2.2. Thời gian đời thường.....................................................................................24
2.2.2.1. Thời gian sinh hoạt.......................................................................................24
2.2.2.2. Thời gian sinh mệnh - cá thể........................................................................25
2.3. Mối liên hệ giữa thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Đường......28
KẾT LUẬN..............................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................32
MỞ ĐẦU

Từ xa xưa, Trung Quốc vẫn luôn là một quốc gia có tiềm lực trên thế giới với
sự phát triển phồn vinh ở mọi phương diện. Trải qua bao thăng trầm biến động, không
thể phủ nhận rằng triều đại nhà Đường được xem là thời kì thịnh vượng của phong
kiến Trung Quốc lúc bấy giờ nhờ những thành tựu trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hóa, nghệ thuật. Triều đại nhà Đường kéo dài ngót 300 năm (618-907), đời sống
vật chất và tinh thần vẫn được quan tâm. Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, hàng
hải, thương nghiệp mở mang, phát triển. Về nghệ thuật như kiến trúc, hội họa, âm
nhạc đạt đến trình độ cao. Chế độ thi cử chọn người làm quan, kẻ sĩ được đề cao, các
tao nhân mặc khách được trọng vọng. Đó đều là những bước tiến thuận lợi cho việc
hình thành và phát triển rực rỡ của một thời đại văn học, thi ca. Thơ Đường là một
trong những đỉnh cao chói lọi về nghệ thuật của Trung Quốc nói riêng và nền văn
minh nhân loại nói chung.
Trong thời kì này, thơ Đường có những đặc trưng riêng để phân biệt với các thể
loại thơ khác vì được xây dựng trên cơ sở các luật thơ với quy tắc rõ ràng, hơn nữa thơ
Đường là một thể loại thơ phức tạp yêu cầu tác giả phải am hiểu về ngôn ngữ thật tinh
túy và phải tuân thủ về mặt thi pháp. Người ta thường ví mỗi chữ trong câu thơ Đường
như một viên ngọc, không thể bớt. Và dù tả cảnh, tả tình hay tả sự việc, họ luôn lấy
hai tiêu chuẩn “hàm súc” và “giàu chất thơ” làm trọng. Chủ đề trong thơ Đường đa
dạng, phong phú từ đề tài về an nhàn ẩn dật, tả cảnh thiên nhiên, đến những bài thơ
nói về cung đình, liên quan đến xã hội, cảnh nghèo đói áp bức, đến tình yêu nam nữ
hoặc những bài thơ mang hương vị Thiền, Đạo giáo với sự xuất hiện của các nhà thơ
lớn như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên… trong đó thơ Đường quan
tâm nhất vẫn là hai đề tài thiên nhiên và thế sự, qua đó bộc lộ tư tưởng nhân đạo, sự
ưu thời mẫn thế, tư tưởng trung quân ái quốc. Nội dung trong thơ Đường mang đậm tư
tưởng Nho gia, Đạo gia trong đó trung tâm của tư tưởng nhập thế gắn liền với “tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”; tiêu chuẩn của quan niệm đạo đức là “nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín”; thứ tự của quan niệm về luân thường đạo lý lần lượt là “thiên, địa,
quân, thân, sư”.
Và để thể hiện được những đặc trưng nổi bật trên, yếu tố không gian và thời
gian nghệ thuật trong thơ Đường đóng vai trò vô cùng quan trọng, làm nên nét nổi bật
đặc trưng cho Đường thi. Hai yếu tố này có những phạm trù riêng nhưng đồng thời

1
cũng đối chiếu, tương phản và bổ sung cho nhau, tương ứng với hai “kiểu” con người
cơ bản cũng có hệ thống không - thời gian tương ứng như vậy, không thể có cái này
mà thiếu cái kia, cả hai đều thể hiện những ý đồ nghệ thuật, tư tưởng và quan điểm
của tác giả tạo nên cái hay, cái độc đáo cho “tập đại thành” của thơ cổ điển Trung
Quốc.

2
NỘI DUNG

Chương 1: KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG

1.1. Khái niệm không gian nghệ thuật

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê lý giải về không gian như sau:
“Không gian là khoảng không bao la bao trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh
đời sống con người” [Dẫn theo 3]. Như vậy, không gian chính là môi trường chúng ta
đang sống với sự tồn tại của các sự vật. Không gian chính là hình thức tồn tại của vật
chất với những thuộc tính như cùng tồn tại và tách biệt, có chiều kích và kết cấu.
Không gian này là cơ sở để con người sáng tạo không gian nghệ thuật.
Theo cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học: “Không
gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh
thể của nó.” [14, tr 57]
Trong Thi pháp học hiện đại của Trần Đình Sử: “Không gian nghệ thuật là một
phạm trù của hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới
nghệ thuật”. [10, tr 94]
“Không gian nghệ thuật Nho giáo là những cảnh đời thế tục, có bóng dáng con
người và ước vọng sống mang tính nhân văn – xã hội… Không gian nghệ thuật Đạo
giáo là những cảnh vật biệt xa khỏi cuộc sống xã hội, phiêu diêu hướng về thiên nhiên
hoang sơ, hy vọng đến cõi Bồng Lai, Thiên Thai, nhà thơ trải lòng với thiên nhiên, tìm
niềm vui thoát tục…. Không gian nghệ thuật Phật giáo hướng về cảnh khói nhang,
tiếng chuông chùa Đạo Phật, cảnh chùa miếu u trầm lặng lẽ.” [Dẫn theo 2]
Không gian nghệ thuật được tác giả xây dựng dựa vào không gian có thật và
những quan niệm về không gian sinh hoạt trong cuộc sống. Tuy nhiên, không được
đồng nhất không gian nghệ thuật với không gian khách thể bởi không gian nghệ thuật
là sản phẩm sáng tạo của tác giả nhằm biểu hiện cách nghĩ về thời gian, quan niệm
nhân sinh, thái độ sống trong cuộc đời. Mỗi nhà văn sẽ thể hiện không gian khác nhau
tùy theo điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thông qua ngôn từ để thể hiện được lập
trường của họ. Trong thơ Đường, không gian nghệ thuật làm thành hình thức tồn tại
của thế giới, vật chất và trong đó cũng bao gồm cả con người.

3
1.2. Các kiểu không gian nghệ thuật trong thơ Đường

1.2.1. Không gian vũ trụ

Không gian vũ trụ là môi trường tồn tại của con người vũ trụ, nó bao bọc con
người trong vòng “trời che đất chở” và con người vũ trụ là trung tâm của không gian
ấy. Con người ở trong không gian ấy đưa lại cho người đọc cảm giác bước vào thế
giới thơ Đường là bước vào thế giới của sự hòa điệu của không gian nội tâm với
không gian ngoại cảnh. Con người xem vũ trụ là căn bản tồn tại của thế giới khách
quan, không gian vũ trụ có một ý nghĩa bao quát tuyệt đối, dù đi đâu ở đâu họ cũng
thấy mình trong vũ trụ, nên khi bất đắc chí họ tìm về với thiên nhiên, tìm về vũ trụ
như tìm về cội nguồn, khi ngắm cảnh trời mây, giang sơn họ cũng như mơ màng về
nguồn cội.
“Trong tư tưởng của người phương Đông xưa đã quan niệm cấu trúc không
gian vũ trụ với mô hình tam tài và ngũ hành: “Tam tài” là một khái niệm bộ ba, “ba
phép”: Thiên – Địa – Nhân. Nó thể hiện quan niệm của người xưa về cấu trúc không
gian dưới dạng mô hình ba yếu tố. Còn “Ngũ hành” là khái niệm dùng để mô phỏng
cấu trúc không gian vũ trụ bởi năm yếu tố (năm hành) theo thứ tự: Kim – Mộc – Thủy
– Hỏa – Thổ.” [Dẫn theo 3]
Không gian vũ trụ được tính bằng khoảng cách lớn: đất trời, nhật nguyệt, nghìn
mẫu, vạn dặm, nam bắc, đông tây. Không gian trời cao vời vợi, thi nhân muốn chiếm
lĩnh khoảng không này thì họ bắt buộc phải tự đồng nhất mình với không gian vũ trụ,
từ đó có thể phóng tầm mắt lên vạn dặm. Không gian vũ trụ trong thơ Đường có nhiều
tính chất riêng, tiêu biểu là không gian mênh mông, rộng lớn; không gian hoang dại,
biến dịch; không gian lữ thứ.

1.2.1.1. Không gian mênh mông, rộng lớn

Không gian nghệ thuật trong các bài thơ Đường, cụ thể là trong các bài thơ
“cảm hứng xuất thế” có một giá trị riêng biệt và bộc lộ chí hướng là một không gian
vũ trụ khoáng đạt, rộng lớn và vô cùng hoành tráng. “Trong bộ phận thơ thể hiện tâm
tình của chủ thể thẩm mỹ hoặc của nhân vật trữ tình, con người chủ yếu được thể hiện
trong mối quan hệ tương thông với vũ trụ, thế giới… Con người xuất hiện với tư thế
vũ trụ, đội trời đạp đất trong vùng trời che đất chở. Chí khí của con người thường
được thể hiện bằng tầm vóc vĩ mô của vũ trụ. Con người ấy luôn khát vọng hòa hợp
với thế giới, với thiên nhiên và với các tiểu thiên địa khác. Sự cảm thông giữa con

4
người với vũ trụ, với thiên nhiên tạo vật và với người khác là đặc trưng của thơ
Đường” [6, tr.6]. Không gian vũ trụ là thứ không gian làm thành môi trường của con
người vũ trụ, mang tính cao viễn vô hạn. Ở đó, tâm hồn con người được giao hòa và
tương thông cùng thế giới. Con người trong thời đại này dù nhỏ bé, song vẫn có
những khao khát, ước muốn được vươn mình vào với thiên nhiên, khung cảnh thần
tiên mênh mông, bao la rộng lớn để được thoát khỏi cái cảnh cô độc, lẻ loi. Đó chính
là thứ không gian vũ trụ bao la mà con người ai ai cũng muốn được hòa vào, hay nói
cách khác chính là ước muốn được vươn lên ngang tầm với vũ trụ và được làm chủ
trời đất, chinh phục thiên nhiên. Như vậy, mọi cảm thức về nhân sinh của con người
đều gắn liền với không gian vũ trụ.
Bắt nguồn từ sự trải nghiệm của cuộc đời, Lý Bạch đã trở nên chán ngán đối
với cuộc sống thực tại. Ông đã đi ngao du sơn thủy khắp nơi và thường đi đến những
nơi mà kẻ sĩ thường đến chỉ với mục đích cũng muốn được hòa mình vào thiên nhiên
vũ trụ:
Kim nhân bất biến cổ thì nguyệt
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân
Cổ nhân, kim nhân nhược như thủy
Cộng khan minh nguyệt giai như thử
Duy nguyện đương ca đổi tửu thì
Nguyệt quang trường chiếu kim tôn lý.
(Bả tửu vấn nguyệt)
Dịch:

Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa


Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như dòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
Lý Bạch vốn là minh chủ của thi đàn lãng mạn Trung Quốc, đặc biệt là trong
thời đại nhà Đường. Ông ưa ca xướng, rượu chè, không để ý đến công danh, thích làm
bạn với trăng, để cả tâm hồn được hòa mình vào sông núi, đất trời. Bản thân trăng vốn
dĩ là một khách thể, nó biến đổi theo quy luật chung của vũ trụ. Qua hình ảnh ánh
trăng, ông đã nêu lên triết lý công nhận sự tồn tại khách quan của trăng, nhưng trăng

5
lại là cầu nối giữa người xưa với người nay. Trong không gian cao vời vợi, Lý Bạch
đã tìm đến với trăng, trăng và người đều quên rằng bản chất bên trong mình là gì, cả
hai hòa mình, trở thành đôi bạn thân thiết, tương kì. Tất cả vẻ bề ngoài được thể hiện
trong bài thơ hầu như đều náo động rộn ràng, nhưng thực chất, đó chính là một tâm
hồn hết sức cô quạnh. Bài thơ như còn là triết lí người với vạn vật hợp nhất, vũ trụ
cùng sống, cùng chung chia sẻ vui buồn với con người khi chính họ không vừa ý với
thực tại. Trong bài Tống hữu nhân tiễn bạn của Lý Bạch, lại có non xanh đất trời:
Thanh Sơn hoành bắc quách,
Bạch thủy nhiễu đông thành.
Thử địa nhất vi biệt,
Cô bồng vạn lý chinh.
Phù vân du tử ý,
Lạc nhật cố nhân tình.
Huy thủ tự tư khứ,
Tiêu tiêu ban mã minh.
Dịch:
Núi xanh nằm chắn ngang vòng thành ngoài ở phía bắc,
Nước trắng lượn quanh khu thành trong ở phía đông.
Nơi đây một khi đã chia tay nhau,
Thì như cỏ bồng lẻ loi trôi xa muôn dặm.
Ý nghĩ của khách đi buồn như áng mây nổi,
Tình bạn cũ sầu như bóng chiều tà.
Vẫy tay tiễn, thôi từ nay bạn lên đường,
Tiếng ngựa xa bầy kêu rền rĩ nghe càng thêm xót xa.
Trong bài thơ này của Lý Bạch, ông như dành hết tình cảm của mình để bày tỏ
sự lang bạt không định hướng của người du tử và tình cảm quyến luyến của cố nhân.
Nó được thể hiện như ánh nắng chiều tà còn lưu luyến mãi với vẻ đẹp buổi hoàng hôn.
Ở đây có non xanh chắn ngang thành núi phía Bắc, có nước bạc lượn lờ ở thành phía
Đông. Khi những người bạn giã từ thì không gian trước mặt liền hiện lên ngọn cỏ
bồng cô đơn bay vạn dặm. Giờ đây, trong lòng du tử ngập đầy mây nổi, lòng người
tiễn đầy bóng chiều tà và vũ trụ bây giờ trở thành biểu trưng của tâm hồn. Không gian
vũ trụ được đo bằng một khoảng cách rất lớn. Nó có thể là trời đất, nhật nguyệt, cũng
có thể thiên về mặt địa lý như là đông, tây, nam, bắc,… Đó cũng chính là không gian

6
nghệ thuật bị ảnh hưởng, chi phối bởi Phật giáo và Đạo giáo - con người giờ đây như
đang bồng bềnh trôi nổi theo quy luật của tạo hóa.
Cũng không khác với suy nghĩ, lý tưởng của Lý Bạch là mấy, Liễu Tông
Nguyên cũng có những tiến bộ nhuốm màu hư vô, yếm thế, thiên về miêu tả cảnh sắc
thiên nhiên, ông muốn trở thành một người bình thường, sống một cuộc sống bình dị.
Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tung diệt.
Cô chu thoa lạp ông,
Độc điếu hàn giang tuyết.
(Giang Tuyết)
Dịch:
Giữa ngàn non, chim bay tắt bóng
Trên đường muôn ngả, dấu người vắng tanh
Thuyền trơ trọi, ông già nón lá áo tơi
Một mình ngồi thả câu trong tuyết trên sông lạnh
Các từ ngữ thể hiện số đo của không gian như “thiên sơn”, “vạn kính”,.. được
sử dụng nằm miêu tả rõ về kích thước vô tận của cảnh sông tuyết. Không gian thiên
nhiên hiện lên nhuốm màu tuyết trắng vây kín ngàn núi, không bóng người qua lại,
không dấu chim bay. Không gian vũ trụ vừa mênh mông, rộng lớn, vừa hiu hắt, lạnh
lẽo. Giữa cảnh tượng khắc nghiệt ấy, nét bút chợt bừng lên khi có sự xuất hiện của
ngư ông kiên nhẫn đội gió tuyết buông câu. Để ta thấy được sự to lớn của không gian
thiên nhiên, vũ trụ có khả năng khỏa lấp, bao trùm lên con người nhỏ bé. Qua bài thơ,
thi nhân đã có một cái nhìn không hài lòng với hiện tại, hầu hết, tâm thế và lý trí của
họ là đều muốn dựa thân mình vào những nơi thanh vắng. Thứ họ mưu cầu không
phải là cuộc sống phiền nhiễu mà là xa lánh đi cuộc sống xã hội chính trị, ẩn mình vào
cái vô tận, rộng lớn của vũ trụ, thiên nhiên. Không gian thiên nhiên, vũ trụ to lớn này
đã tạo cho họ một lối sống chan hòa, ung dung, hợp với quy luật của tự nhiên tạo hóa,
dựng lên cho họ một lối sống thanh bần trong chốn núi rừng, hay sông tuyết mênh
mông bát ngát.

1.2.1.2. Không gian hoang dại, biến dịch

Trong thơ Đường, mô hình không gian nghệ thuật cơ bản là không gian vũ trụ,
các loại không gian xuất hiện lần lượt với những yếu tố đặc trưng riêng biệt khác
nhau, bộc lộ từng mảng cảm thức của con người về không gian nghệ thuật chung của

7
thơ Đường. Sự biến đổi và xuất hiện các loại không gian gắn bó, đi liền với sự thay
đổi của xã hội, sự tự ý thức của con người và tư duy trong văn học. Trong đó, không
gian hoang dại, biến dịch chính là một trong những loại không gian xuất hiện và góp
phần lớn vào những thay đổi đó của con người và xã hội. Trong bài Thu hứng kỳ 1 của
Đỗ Phủ, ông đã đưa cái cảnh ngộ cá biệt của riêng một con người vào miền thơ, gợi ra
vô vàn suy nghĩ về tình người, tình quê có tính chất phổ quát.
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáo khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Dịch:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Thu hứng kỳ 1 dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã
được thể hiện đầy đủ qua ngòi bút của Đỗ Phủ. Bài thơ vẽ nên bức tranh mùa thu hiu
hắt, mang đặc trưng của núi rừng, sông nước Quỳ Châu. Đồng thời, đây còn là bức
tranh tâm trạng buồn lo của nhà thơ trong khung cảnh loạn ly, nỗi lo cho đất nước, nỗi
buồn nhớ quê hương và sự ngậm ngùi xót xa cho thân phận mình. Tác giả nói lên
những nỗi lòng riêng tư, chan chứa, tâm sự yêu nước, thương đời của bản thân. Không
gian, màu sắc thiên nhiên dễ lay động nỗi buồn của người tha hương. Phong cảnh
dường như đã nhuốm vẻ bi thương. Những hạt móc trắng ngọc lộ hiền lành cũng có
thể trở nên tàn nhẫn, đau thương. Dưới ngòi bút của Đỗ Phủ, những không gian thiên

8
nhiên chứa đầy tình cảm hiện thực với vô vàn những nỗi hận sầu li biệt, chứa chan
hàng ngàn những giọt lệ bất bình xen lẫn tâm trạng u uất, buồn vắng.
Trong Dã vọng, Đỗ Phủ viết:
Thanh thu vọng bất cực
Thiều đệ khởi tằng âm
Viễn thủy kiêm thiên tĩnh
Cô thành ẩn vụ thâm
Diệp hi phong cánh lạc
Sơn quýnh nhật sơ trầm
Hôn nha dĩ mãn lâm.
Dịch:
Bầu thu trong vắt khôn cùng
Xa xôi bao lớp bóng râm nổi lên
Nước xa lẫn vòm trời quang đãng
Thành cô quạnh nấp trong sương dày
Lá thưa thớt gió thổi cứ rụng dần
Núi tít mù mặt trời vừa lặn
Hạc lẻ bầy buổi chiều bay về đâu?
Quạ hoàng hôn xao xác khắp rừng.
Thiên nhiên trong Dã vọng tuy có cảnh trời thu mây nước, nhưng lại có nét đặc
biệt, nhuốm màu thê lương. Bài thơ hiện lên với một bức tranh thiên nhiên đầy rẫy
những âm thanh khói lửa loạn li, bức tranh ấy thấm đẫm màu sắc hiện thực. Nếu với
Lý Bạch, thiên nhiên vũ trụ như vút lên những tiếng tuyệt vời, núi sông hùng vĩ như
muốn chọc thủng trời xanh và tỏa ra tận đỉnh trời mênh mông, thì trong thơ Đỗ Phủ,
tiếng sóng gào thét cũng chính là tiếng gầm căm hờn. Và đến khi trời đất đã nhuốm
màu ảm đạm của chiến tranh, thì đó cũng chính là lúc núi sông tê tái. Thiên nhiên, vũ
trụ trong thơ của Đỗ Phủ là một cái gì đó rất chân thực. Ông tìm đến mùa thu như tìm
đến với thế giới tâm hồn chính mình. Chỉ có ở đó, ông mới có thể mở lòng, hòa mình
san sẻ, chỉ có ở đó mà hồn thơ trầm uất, bi tráng của ông thực sự thăng hoa để tạo nên
những kiệt tác. Có thể thấy, sự sa sút của xã hội phong kiến đã dẫn đến cảm xúc
không gian của các nhà thơ thay đổi.

Không gian u uất, trầm buồn của những cảnh chạy ly tán, không gian sầu tư, u
uất trước hình ảnh thiên nhiên, con người trong các tác phẩm thơ của Đỗ Phủ đã phần
nào củng cố cho thứ không gian hoang dại, biến dịch trong thơ Đường nói chung.

9
1.2.1.3. Không gian lữ thứ

Theo Từ điển Hán Việt – Thiều Chửu thì “lữ vừa có nghĩa là khách trọ vừa có
nghĩa là ở trọ, còn thứ có nghĩa là trọ, đi đến nơi đâu mà phải ở lại đến đêm thứ hai.
Lữ thứ có nghĩa là đi đường ngủ trọ.” Trong văn học trung đại người đọc bắt gặp hình
ảnh này khá nhiều, nó thường được dùng để chỉ những người tha hương, sống trọ ở
nơi đất khách, là chỗ ở tạm thời không ổn định và thường xuyên phải di chuyển,
không gian lữ thứ trái ngược với không gian làng quê, họ hàng. [Dẫn theo 8, tr.73]

Không gian lữ thứ là không gian đặc trưng trong thơ của giới nho sĩ – tri thức,
quan liêu. Đây là một không gian đẹp, đẹp bởi những sắc độ mờ ảo về mặt ngữ nghĩa,
đẹp bởi cả một nỗi buồn vương vấn nhẹ nhàng mà kẻ tha nhân, người lữ thứ chất chứa
trong lòng. Chỉ khi ở vào trong không gian lữ thứ, những thuộc tính cố hữu của nhà
thơ mới bộc lộ một cách sắc nét, rõ ràng nhưng hữu tình và thấm đẫm tâm trạng.
Trong không gian hoàn toàn mới, khác xa với không gian quen thuộc cũ, những cảm
thức của một con người trí quân trạch dân, những khắc khoải mong muốn dân được
sống “khoan, giản, an, lạc” mới có dịp bộc lộ. Và chỉ khi rời làng quê thì hàng loạt
cảm xúc mới lạ mới chợt ùa về trong lòng thi nhân như lòng tư hương, cảm thức ly
biệt, sự bình an khi trở về với nguồn cội của mình. Qua những bài thơ Đường được
sáng tác trong không gian lữ thứ, người đọc còn cảm nhận được phong cách độc đáo
không lặp lại của từng nhà thơ, sự tài tình trong cách xử lý các chi tiết, cách chọn đề
tài, những bức tranh thiên nhiên trong thơ Đường không còn là thực tại khách quan
nữa mà là thực tại tâm lý, thực tại ý niệm. Trong không gian xung quanh con người
như gia đình, làng quê,... thơ Đường trong hoàn cảnh đó không thể hiện nỗi cô đơn
của thi nhân, không bày tỏ được nỗi ca thán chính sự, sự đau khổ cùng cực của dân
chúng, không thể hiện một cách ấn tượng, hòa hợp của con người với trời đất, vũ trụ.
Chính vì vậy, sự xuất hiện và tồn tại của không gian lữ thứ đã mang lại những sắc thái
mới cho thơ Đường.

Dưới góc độ là những số phận người đã phải trải qua cảm giác chia ly, phải đi
đến một nơi đất khách quê người, nơi miền quan ải mà gió xuân không bao giờ thổi
tới, không gian lữ thứ đã được các nhà thơ cảm nhận tất cả độ nét của nó. Vì thế trong
thơ của các thi nhân, không gian lữ thứ luôn xuất hiện ở một trong hai dạng thức:
không gian lữ thứ thực và không gian lữ thứ ảo. “Không gian lữ thứ thực là không
gian mà tác giả trực tiếp thuộc về nó, tác giả sống và đắm chìm trong không gian đó,
phát sinh trực tiếp những tình cảm sâu sắc”. Với vai trò là một người lữ khách, tác giả
10
đã bộc lộ những cảm xúc mà trong môi trường yên ổn của không gian gia đình, làng
họ khó có thể bộc lộ. Chính vì vậy không gian lữ thứ là chất xúc tác cho những cung
bậc cảm xúc trong tâm hồn của thi nhân được gửi gắm vào thơ. “Ở không gian lữ thứ
ảo, thi nhân cũng nhìn mình như một con người khác – người khách trên con đường lữ
thứ. Với tư cách đó, nhà thơ không chỉ hướng người vào một miền lý tưởng, hoài bão
trong tâm tư mà còn hướng người đọc vào vị thế, cảnh ngộ của mình trong thế giới
ấy”. [Dẫn theo 1, tr.17-18] Cảm hứng trước dạng thức ấy, không gian lữ thứ ảo trong
thơ Vương Duy gắn liền với cảm hứng về quê hương, đây là cảm hứng chủ đạo trong
văn học cổ trung đại, trong bài thơ Tạp thi nhà thơ viết:
Quân tự cố hương lai,
Ưng tri cố hương sự.
Lai nhật ỷ song tiền,
Hàn mai trước hoa vị?
Dịch:
Anh từ quê nhà tới,
Chắc biết rõ chuyện xưa.
Cây mai trước cửa sổ
Đông lạnh nở hoa chưa?

Cố hương ở đây vừa là quê cũ của nhà thơ đồng thời nó cũng là sự khẳng định
không gian hiện tại không phải là quê nhà mà là đất khách. Không gian ở cố hương
được gợi lên với hình ảnh thiên nhiên. Hàn mai, tức là mai lạnh, hoa mai vào mùa
đông chứ không phải mùa xuân. Ông không hỏi nhiều chỉ hỏi cây mai lạnh nơi cửa sổ
đã nở hoa chưa, có thể thấy rằng tình quê càng đậm bao nhiêu thì khi lữ thứ càng
thương nhớ bấy nhiêu.
Ngoài ra ta bắt gặp nỗi nhớ quê nhà của Lý Bạch trong Tĩnh Dạ Tứ trong dạng
thức lữ thứ thực:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.

11
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.

Trước vẻ đẹp của đêm trăng, nhà thơ nhớ về cố hương – quê cũ, “vọng” ở đây
là hành động ngắm trăng của nhà thơ cũng có thể là hành động ngóng trông về quê
hương ở phía xa. Hành động “ngẩng đầu” như một lẽ tự nhiên, để thấy xem ngoài kia
là sương hay trăng, ánh trăng kia là thật hay là ảo. Dường như, ở đây ánh mắt của nhà
thơ đã có sự thay đổi, chuyển động từ trong ra ngoài, từ gần ra xa, từ chỗ chỉ nhìn thấy
được ánh trăng đến chỗ có thể cảm nhận được cả vầng trăng ở xa trên bầu trời ngoài
kia. Khi nhận thấy ánh trăng cũng cô đơn, lạc lõng như chính mình thì nhà thơ lại “cúi
đầu”. Hành động “cúi đầu” của nhà thơ là cái cúi đầu khi nghĩ về quê xa với biết bao
nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương tha thiết và sâu sắc.

Nhà thơ Đỗ Phủ cũng là một trong những nhà thơ đề cập nhiều đến không gian
gian lữ thứ trong thơ của mình và không gian lữ thứ thực trong thơ ông cũng mang
nhiều sức gợi giúp diễn tả, bộc lộ một cách đầy đủ nhất về những dụng ý mà ông thể
hiện trong thơ, không gian nghệ thuật trong bài Nguyệt dạ mang nỗi nhớ da diết của
tác giả với vợ con khi phải chịu cảnh chia lìa:

Kim dạ Phu Châu nguyệt,


Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Dịch:
Đêm nay Phu Châu sáng,
Mình em ngắm trăng khuya.
Nỗi nhớ Trường An ấy,
Thương con chửa biết gì.

Từ Phu Châu đến Trường An là một khoảng cách xa xôi trên phương diện địa
lý nhưng tình cảm nỗi nhớ của ông có thể vượt qua sự cách trở ngàn dặm ấy để có thể
gửi gắm nỗi nhớ nhung về vợ con. Lựa chọn thể hiện nỗi nhớ thông qua sự ngăn cách
của không gian đã làm bài thơ Nguyệt dạ của Đỗ Phủ thành công trong việc thúc đẩy
mạch cảm xúc của bài thơ.

12
Thơ Đường quả thật đã cất cánh trong không gian lữ thứ và ngược lại không
gian lữ thứ là một không gian mang tính nghệ thuật thẩm mỹ đặc biệt trong rất nhiều
các kiểu dạng không gian nghệ thuật đặc biệt trong thơ Đường. Sáng tác trong không
gian lữ thứ, phong cách riêng, độc đáo của từng nhà thơ đã thực sự tỏa sáng.

1.2.2. Không gian đời thường

Không gian đời thường là địa bàn cư trú của con người xã hội, là nơi diễn ra
các hoạt động thường ngày. Sự hòa điệu của thế giới nghệ thuật Đường thi bị phá vỡ
khi con người xã hội, với tư cách thần dân, tức là “dân đen” xuất hiện. Con người
được phản ánh trong quan hệ đối lập, mâu thuẫn với những thế lực áp bức, không gian
vũ trụ cũng nhường chỗ cho không gian sinh hoạt. Không gian sinh hoạt được “tả
chân”, gần gũi với những số đo thực rất bình thường, có tính chất hỗn tạp “tầm
thường”. Nỗi khổ truy bức con người khắp mọi nơi, và khi không gian nghệ thuật thay
đổi thì những hình tượng, sự vật, màu sắc được dung chứa trong đó cũng thay đổi
theo. Dòng thơ hiện thực đã phản ánh đời sống đau khổ, bị áp bức bóc lột và phải
gánh chịu muôn vàn tai họa của dân lành trong không gian sinh hoạt đời thường.
Trong khi không gian vũ trụ tương thông với con người thì không gian đời
thường lại trói buộc con người:
Mộ đầu Thạch hào thôn
Hữu lại dạ tróc nhân
Lão ông du tường tẩu
Lão phụ xuất môn khan
(Đỗ Phủ - Thạch Hào lại)
Dịch:
Chiều chiều chạy đến thôn Thạch Hào
Có lại đến bắt người ban đêm
Ông lão vượt tường trốn
Bà lão ra coi cửa.
Nếu như không gian vũ trụ là một khoảng không rộng lớn, mênh mông mở ra
nhiều chiều kích thì không gian sinh hoạt có xu hướng bị thu hẹp, dồn nén con người
vào những địa dư chật chội, những xó xỉnh của đời thường:
Nhiệm thi thâm sơn cách thâm sứ
Dã ứng vô kế tỵ chinh diêu
(Sơn Trung quả phụ - Đỗ Tuân Hạc)

13
Dịch:
Ở tận hang cùng trong hóc núi
Cũng không thoát khỏi kế xâu đòi
Con người giờ đây không được tự do “bay lượn” trên bầu trời mênh mông nữa mà
“rơi” xuống “đất bằng” với đời thường vất vả nhọc nhằn:
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu áo giậm chân chặn đường khóc
(Binh xa hành - Đỗ Phủ)
Hay
Phía Tây mây đỏ ngùn ngụt
Tia mặt trời xuống tận đất bằng
(Khương thôn - Đỗ Phủ )
Trong không gian đời thường đó, con người không còn mơ đến những danh
lam thắng cảnh tuyệt đẹp, được thưởng ngoạn sắc nước hữu tình nữa mà họ chỉ tìm
cách đi hoặc chạy trong các làng mạc, thôn xóm cụ thể của thời hiện tại như: Thạch
Hào, Đồng Quan, Hồ Thành huyện..Không gian đó gắn liền với những chiến trường,
trận mạc xảy ra những cuộc giao tranh:
Đêm khuya qua bãi chiến trường
Ánh trăng lạnh soi trên xương trắng
hoặc những thôn xóm tiêu điều trong thời loạn lạc:
Làng tôi hơn trăm nhà
Thời loạn tản đông tây
…Đi hoài thấy ngõ vắng
Buồn tênh bóng nắng gầy.
(Vô gia biệt - Đỗ Phủ)
Không gian vũ trụ được tính hoặc đo ở cấp độ vĩ mô thì không gian đời thường
rất gần gũi, với những số đo thực rất bình thường:
Thu thủy tài thâm tứ ngũ xích
Dã tràng cáp thụ lưỡng tam nhân
Bạch sa thúy trúc giang thôn mộ
Tương tống tài môn nguyệt sắc tân.
(Dưỡng Chu Sơn Nhân - Đỗ Phủ)
Dịch:
Nước thu mới sâu độ bốn năm thước

14
Đò đồng chở vừa hai, ba người
Cát trắng, tre xanh cảnh chiều hôm trên xóm bến
Tiễn nhau trước cổng gióng tre, ánh trăng mới mọc sáng ngời.
Như vậy, từ “nghìn thước” của không gian vũ trụ rút xuống còn bốn năm thước
của không gian đời thường, ta thấy được một khoảng cách nhất định giữa hai kiểu
không gian nghệ thuật nhằm thể hiện những dụng ý, ý đồ tư tưởng và quan điểm nghệ
thuật khác nhau, đồng thời nhấn mạnh tính phiếm định và tính cụ thể, xác thực của hai
loại không gian là rất rõ. Bởi không gian vũ trụ mang tính gợi nhiều hơn là tả, chỉ cần
một vài đường nét chấm phá, điểm xuyết đã khơi gợi trí liên tưởng, tưởng tượng đầy
thú vị của độc giả, quá trình này yêu cầu người tiếp nhận phải là một người có đầu óc
tinh anh, nhạy cảm trước những biến thiên của cuộc đời và có đôi mắt thật tinh tường
mới nhìn ra được thông điệp mà nhà thơ muốn chuyển tải trong tác phẩm của mình.
Còn với không gian đời thường, nó gần gũi, gắn liền với những thực tại đang diễn ra
hằng ngày xung quanh cuộc sống, vì vậy mà ngòi bút thi nhân phải miêu tả thật chi
tiết, cụ thể, càng chân thực càng tốt. Chính vì những đặc trưng này mà thi pháp không
gian có tính quy luật rất rõ ràng. [7, tr. 27]
Không gian đời thường cũng gắn liền với những vấn đề xoay quanh nền kinh tế
phồn vinh, dân an thịnh trị. Đó là cơ sở cho văn hóa và văn học nghệ thuật từng bước
cùng phát triển. Tiếp thu và sửa chữa những bài học của người đi trước, chính mắt
thấy được sức mạnh vĩ đại của nông dân nên Đường Thái tông Lý Thế Dân thường răn
đe con cháu rằng: “Thuyền có thể ví với vua, nước có thể ví với dân; nước có thể chở
thuyền và nước cũng có thể lật thuyền”. Vì vậy, từ khi giành được ngôi báu trở về sau,
nhà vua đã thi hành một số chính sách sáng suốt, giảm bớt sự nặng nề cho người dân,
khuyến nông, mở rộng sản xuất,… Đỗ Phủ đã tái hiện cảnh tượng an dân trong thơ ca
một cách sinh động, một thời đại thái bình thịnh trị trong bài Ức tích 2:
Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật,
Tiểu ấp do tàng vạn gia thất.
Đạo mễ lưu chỉ, túc mễ bạch,
Công tư thương lẫm câu phong thật.
Cửu châu đạo lộ vô sài hổ,
Viễn hành bất lao cát nhật xuất.
Tề hoàn, Lỗ cao xa ban ban,
Nam canh nữ tang bất tương thất.
Cung trung thánh nhân tấu vân môn,

15
Thiên hạ bằng hữu giai giao tất.
Bách dư niên gian vị tai biến,
Thúc Tôn lễ nhạc, Tiêu Hà luật.
Dưới ngòi bút của thi nhân, cuộc sống hiện thực xã hội về các mặt được phản
ánh đầy đủ bởi nhiều thể tài và phong cách. Con người khi đứng trước thiên nhiên chỉ
là những hạt cát nhỏ bé, những cánh bèo trôi lênh đênh. Đời người có lúc thăng lúc
trầm, này đây mai đó, cứ trôi vô định cùng với đất trời. Đỗ Phủ miêu tả gió, trời, chim,
bến nước, cát trắng,…cùng hình ảnh lá rụng không ngừng, nước thì cuồn cuộn chảy
không điểm dừng, nhà cửa khuất xa tầm mắt,… tất cả mọi thứ xung quanh sao cứ hiện
ra một vẻ hiu hắt, buồn tẻ. Tác giả dùng khung cảnh mùa thu để diễn tả tâm trạng của
mình:
Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai,
Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há,
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
Vạn lý bi thu thường tác khách,
Bách niên đa bệnh độc đăng đài.
Gian nan khổ hận phồn sương mấn,
Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
(Đăng cao - Đỗ Phủ)
Gió mạnh, trời cao, vượn rúc sầu
Bến trong, cát trắng, lượn đàn âu
Lào rào lá rụng, cây ai đếm,
Cuồn cuộn sông dài, nước đến đâu.
Muôn dặm quê người thu não cảnh,
Một thân già yếu bước lên lầu.
Gian nan, khổ hận, tóc mai dày nhuốm màu sương gió,
Thân già ốm yếu nên mới phải thôi cạn chén rượu đục.
Bản dịch của Tản Đà
Nếu như Đỗ Phủ với một mùa thu ảm đạm thì Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên
lại mang một nét tươi vui, đáng yêu. Đó là không gian sinh hoạt của một buổi sớm
mùa xuân. Sau một giấc xuân êm đềm, thi nhân chợt tỉnh. Không biết trời đã sáng.
Nhàn nhã và vô tư. Nhà thơ lắng nghe tiếng chim hót nơi gần nơi xa. Tiếng chim chào
bình minh. Tiếng chim mừng nắng hửng, ríu rít hót vang:

16
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu
Dịch:
Giấc xuân sáng chẳng biết,
Khắp nơi chim ríu rít.

17
Chương 2: THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ ĐƯỜNG

2.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật

Thời gian là một trong những yếu tố quan trọng để cấu tạo nên một tác phẩm
văn học, nó “gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật” và đồng thời
“phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kì lịch sử”.
Theo Phật giáo, “thời gian là sự vận động vô thủy, vô chung, tạo ra những vòng
luân hồi liên tục. Đời người được tính bằng một “kiếp” gồm: sinh, lão, bệnh, tử. Lấy
quy luật “nhân quả” làm trung tâm, có kiếp trước kiếp sau luôn tuần hoàn như thế.
Thời gian đời người chỉ là khoảnh khắc trong thời gian chung của vũ trụ.” [Dẫn theo
2]
Theo Đạo giáo, thời gian là trường cửu, vô thủy vô chung và gắn chặt với
không gian. Con người cứ thuận theo dòng sinh hóa mà sống theo lời “dạy bảo” của
thiên nhiên. Thời gian đời người luôn được ý thức và luôn khát khao hòa vào thời gian
trường cửu của vũ trụ, đồng thời cũng muốn kéo dài thời gian đời người ngang bằng
cùng thiên địa.” [Dẫn theo 2]
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của lí luận văn học, như khái niệm mà
Trần Đình Sử đưa ra có: “Thời gian nghệ thuật là thời gian do nhà văn sáng tạo ra,
vừa thể hiện trạng thái con người trong thời gian, sự cảm thụ thời gian, vừa mở ra lộ
trình để người đọc đi vào thế giới tác phẩm”.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì thời gian nghệ thuật là “Hình thức nội tại
của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó… Thời gian nghệ thuật có
thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén
một thời gian dài trong chốc lát thành vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng
nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý
thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác,…” [13, tr 14-15]
Theo Lại Nguyên Ân, thời gian nghệ thuật là “thời gian được tái tạo ở bình
diện tư tưởng thời gian điền viên, thời gian phiêu lưu, thời gian bí tính, thời gian sự
luận,… được thể hiện trong các thể loại văn học ở các giai đoạn khác nhau và có thể
thấy tiến trình không đồng đều của thời gian… khi thì đứng lại miêu tả, hoặc bị lạc
hướng về phía trước”. [Dẫn theo 9, tr 27]
Tác phẩm văn học phản ánh khách quan đời sống hiện thực vậy nên trong nó sẽ
có yếu tố thời gian và không gian. Tuy nhiên nó không phải là sao chép y nguyên hiện
thực mà qua lăng kính chủ quan của tác giả, hiện thức biến đổi trở thành một hình

18
tượng nghệ thuật mới và độc đáo. Thời gian nghệ thuật cũng vậy, nó không còn là một
dòng thời gian tuyến tính như ở hiện thực đời sống mà như có sinh mệnh riêng, nó có
thể là quá khứ, hiện tại, tương lai, hoặc đan xen vào nhau. Tùy thuộc vào nhịp độ của
tác phẩm, thời gian có thể diễn ra nhanh hay chậm, dồn ép hay nhẹ nhàng. Thời gian
sẽ đóng vai trò phản ánh đời sống, thể hiện cảm xúc và tư tưởng các người viết.
Trong tiến trình lịch sử văn học, thời gian nghệ thuật có nhiều sự thay đổi. Với
thơ Đường, theo thời gian trôi qua, có nhiều sự thay đổi về chủ đề, tư tưởng dẫn đến
thời gian nghệ thuật cũng theo đó mà thay đổi. Ta có thể thấy, thời gian nghệ thuật
trong thơ Đường bao gồm nhiều kiểu thời gian, tiêu biểu là thời gian vũ trụ và thời
gian đời thường.

2.2. Các kiểu thời gian nghệ thuật trong thơ Đường

2.2.1. Thời gian vũ trụ

Gắn liền với không gian vũ trụ, chúng ta có thời gian vũ trụ. Thời gian vũ trụ là
“thời gian vời vợi, vô hạn, vô kỳ, bất biến, nó sẽ khỏa lấp mọi cá thể, sự nghiệp.” [11,
tr 7]. Thời gian vũ trụ là phương tiện để thi nhân dẫn dắt độc giả đến với thiên nhiên,
trường cửu, mở rộng tâm tưởng, khơi gợi những kí ức, kỉ niệm và cảm hứng nhàn nhã,
khoan thai,... Chính nhờ thời gian vũ trụ, thi nhân đã giúp độc giả thấy được hình
tượng con người xuất thế: buồn, vui, trầm tư, thích ngao du muôn nơi, thích hòa mình
với thiên nhiên, sống một cuộc sống nhàn nhã, uống rượu, bầu bạn với ánh trăng, vượt
xa trần thế đến với chốn bồng lai tiên cảnh. Thời gian sinh mệnh của con người là hữu
hạn nhưng thời gian của vũ trụ lại vô hạn, vì vậy, ý niệm muốn chan hòa, khắc sâu đời
người vào thiên nhiên, vũ trụ xuất hiện. Trong thơ Đường, thời gian vũ trụ thường
xuất hiện ở thời gian hoài niệm và thời gian vĩnh viễn, vô hạn.

2.2.1.1. Thời gian hoài niệm

Đặc điểm của thời gian nghệ thuật là luôn luôn mang tính cảm xúc vì nó chất
chứa suy tư, tâm tưởng của tác giả. Thời gian hoài niệm cũng vậy, thời gian hoài niệm
xuất phát từ việc nhớ về quá khứ của mình. Quá khứ là một thứ mà không ai có thể
thay đổi được, nhưng con người hay hồi tưởng lại và suy tư về nó. Quá khứ là miền
thật. Mọi điều đã xảy ra đều có thật và nằm ở quá khứ, và hiện tại là một vùng đất mà
con người nhìn vào quá khứ để phóng tác, để kéo dài. Hay nói cách khác, đối với hiện
tại và tương lai thì quá khứ là miền nguyên liệu. Thơ Đường cũng vậy, thời gian trong

19
thơ Đường không bị trói buộc bởi hiện tại mà luôn có khả năng bẻ gãy trục hình tượng
thời gian, không tuân theo quy luật tự nhiên mà hướng về quá khứ, xuôi đến tương lai.
Những gì mà các nhà thơ hoài niệm hướng đến bao giờ cũng đẹp, cũng có giá trị.
Trong thơ Đường, nhiều bài thơ hoài cổ xuất hiện: Tây tái sơn hoài cổ, Kim Lăng hoài
cổ, Bạch Đế thành hoài cổ, Bạch Đằng giang hoài cổ,...Mỗi cái nhìn về quá khứ là
mỗi nỗi niềm khác nhau. Có thi sĩ hoài niệm về cố nhân, cố hương, có người hoài
niệm về triều đại trước đây.
Trong Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, ngoài bày tỏ nỗi niềm nhớ quê nhà của
một người con lữ thứ, thi sĩ còn hoài niệm về cố nhân
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Dịch:
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Để thể hiện nỗi niềm hoài cổ của mình, Thôi Hiệu đã sử dụng cụm từ “tích
nhân”. Nhắc đến “tích nhân” ở lầu Hoàng Hạc là nhắc đến tiên nhân Vương Tử An đã
cưỡi hạc đến Hoàng Hạc Lâu. Theo đó, hai câu thơ nhằm ngụ ý tiên nhân đã cưỡi hạc
đi rồi, năm tháng trôi qua cũng chẳng thể nào trở lại, người xưa cũng chẳng thấy nữa.
Câu thơ thể hiện cảm xúc hoài niệm, tiếc nuối của thi sĩ khi không thể gặp lại cố nhân.
Tương tự, nỗi niềm này cũng được bắt gặp trong bài thơ Đế đô thành Nam trang của
Thôi Hộ, nhưng cố nhân ở đây pha chút màu sắc của ái tình Khứ niên kim nhật thử
môn trung,/ Nhân diện đào hoa tương ánh hồng... Thời gian được nhắc đến ở đây là
thời gian trong quá khứ, hai từ “khứ niên” trong câu đầu gợi những ký ức về sự việc
đã xảy ra từ năm ngoái. Người cũ được Thôi Hộ nhớ đến là người thiếu nữ đứng dưới
hoa đào, cụm từ “tương ánh hồng” thể hiện nét đỏ thắm khuôn mặt người thiếu nữ.
Ngoài nỗi niềm hoài niệm đối với cố nhân, Thôi Hộ còn thể hiện phần nào tình cảm
nam nữ, nỗi luyến tiếc khi năm nay đã “bất tri” cố nhân. Nỗi lòng nhớ thương về cố
nhân xuất hiện nhiều trong các câu thơ như Phù vân du tử ý/ Lạc nhật cố nhân tình
của Lý Bạch, Tây xuất Dương quan vô cố nhân của Vương Duy,..
Quê hương cũng là đối tượng được hoài niệm như trong bài thơ Tĩnh dạ tứ của
Lý Bạch:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch:

20
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
Hay:
Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự.
(Tạp thi - Vương Duy)
Dịch:
Anh từ quê cũ đến đây,
Chắc biết tình hình quê nhà.
Tất cả đều thể hiện được nỗi lòng của những người con luôn hướng về quê
hương nơi sinh thành của mình. Đặc biệt, trong dòng thời gian hoài cổ, phải kể đến
tấm lòng nhớ mong những vương triều, triều đại, những bậc anh tài lẫy lừng trong quá
khứ,... Nhắc đến họ là nhắc đến những chuẩn mực, quy ước từ quá khứ đến cả hiện tại,
tương lai. Như trong bài thơ Cửu nhật đăng Vọng Tiên đài, trình Lưu Minh Phủ Dung
có viết:
Hán Văn hoàng đế hữu Cao Đài,
Thử nhật đăng lâm thự sắc khai...
Quan môn lệnh doãn thuỳ năng thức,
Hà thượng tiên ông khứ bất hồi.
Dịch:
Hán Văn hoàng đế dựng đài cao
Sáng sớm lên đây nắng chiếu vào…
Quan môn lệnh doãn đâu tìm nhỉ?
Hà thượng tiên ông chẳng thấy nào!
Bài thơ viết về cảnh sắc Cao Đài, đồng thời bày tỏ nỗi niềm của Hán Văn Đế
khi “Hà thượng tiên ông” đem Lão Tử hiến Văn Đế, rồi đi biệt tích khiến Hán Đế ở
Tây Sơn dựng đài trông ngóng, đặt tên là Vọng Tiên đài. Thôi Thự nhắc lại Hán Văn
đế chờ đợi ở Cao Đài nhằm gợi mở về quá khứ, dùng quá khứ để bày tỏ nỗi niềm ở
hiện tại, bày tỏ lòng khát khao người tài của vua đối với đất nước trong bối cảnh xã
hội thời Đường lúc bây giờ.
Thời gian hoài niệm không chỉ dùng để nhớ về quá khứ mà còn dùng để thể
hiện sự luyến tiếc ở hiện tại, hoài niệm về những giá trị hiện tồn có thể bị mai một bởi
thời gian. Trong bài thơ Tống Dương thị nữ của Vị Ứng Vật có viết:
Biệt ly tại kim thần,

21
Kiến nhĩ đương hà thu
Dịch:
Sáng nay ta xa nhau rồi,
Biết đến thu nào mới được gặp lại?
Thời gian chia tay là thời gian hiện tại nhưng đến vế sau, thời gian hiện tại
dường như đã bị đẩy lùi về quá khứ. Chưa chia tay nhưng đã hoài, đã mong, đã nhớ
hiện tại, không biết qua bao thu mới có thể tái ngộ. Tương tự, ta cũng bắt gặp thời
gian hoài niệm này trong các câu thơ của Lý Thương Ẩn:
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì.
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.
Dịch:
Người hỏi ngày về, chưa hẹn được ngày,
Mưa đêm núi Ba nước tràn đầy ao thu.
Bao giờ ở cửa sổ hướng tây, cùng nhau cắt ngọn hoa đèn,
Lại cùng kể nhau nghe chuyện về mưa đêm lạnh lẽo ở núi Ba.
Thời gian hoài niệm xuất hiện bởi tâm trạng nhớ mong, luyến tiếc của thi nhân.
Các thi nhân thời xưa cho rằng cái gì cổ thì đã trải qua khảo nghiệm của thời gian để
tồn tại đến hiện tại. Mặt khác, một số thi nhân muốn thoát khỏi “những hệ lụy của đời
thường”, hoài niệm quá khứ, nhớ về những điều tốt đẹp trước kia. [5, Tr 35]

2.2.1.2. Thời gian vô hạn

Thời gian vũ trụ trong thơ Đường vô hạn và bất biến. Tất cả những gì tồn tại
như mây, nước, trăng, gió, bốn mùa,... đều vô hạn tuần hoàn, trường cửu trái ngược
với khoảng thời gian hữu hạn của con người. Trong bài Tiễn biệt của Vương Duy có
viết:
Xuân thảo niên niên lục
Vương tôn quy bất quy
Dịch:
Năm năm tới lúc cỏ mùa xuân xanh lại
Vương tôn không biết có về lại đây không?
Cỏ héo rồi cỏ xanh, quy luật tự nhiên tuần hoàn, thời gian thì liên tục. Thời
gian năm năm trôi mãi không dừng lại, chờ đợi “vương tôn” biết khi nào mới tái ngộ.

22
Quy luật tự nhiên tuần hoàn càng nhiều, thời gian càng trôi qua mau:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu
Dịch:
Mây lơ lửng, đầm lồng lóng, chuỗi ngày dằng dặc trời
Vật đổi sao dời, thu qua bao độ
Mây càng trôi qua nhiều bao nhiêu thì ngày thu lại qua đi bấy nhiêu, chuỗi
ngày vô hạn tuần hoàn khiến cho vạn vật thay đổi. Thời gian qua đi vĩnh viễn không
bao giờ trở lại. Con người không thể nào nắm giữ, níu kéo được được thời gian cũng
như việc con người không thể nào không thay đổi.
Mối liên hệ giữa thời gian sống của con người và thời gian vô hạn vũ trụ được
thể hiện ở chỗ thời gian đời người chỉ là một khoảnh khắc trong thời gian vô hạn của
vũ trụ. Vì vậy, đương nhiên thời gian nghệ thuật trong thơ Đường cũng mang tính chất
vô hạn, bất biến của thời gian vũ trụ. Con người cảm nhận cuộc sống của họ chỉ là
một khoảnh khắc tạm thời, trong khi nỗi sợ hãi thường xuyên ám ảnh vì sự chia xa
hay chờ đợi. Đời sống con người được đóng khung trong thời gian, dù có kéo dài
“hàng trăm năm” cũng vẫn có giới hạn. Các thi sĩ buồn rầu, luyến tiếc về thời gian
hữu hạn của mình. Chính vì thế, thời gian vô hạn vũ trụ là phương tiện thể hiện mong
muốn này.
Trong dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, mọi sự vật, hiện tượng có thể lụi tàn
và tan biến vào hư không. Nhưng có những giá trị không thể mất mà tồn tại mãi mãi,
đó là những giá trị thuộc về nghệ thuật.
Thi thành thảo thu giai thiên cổ
Dịch:
Bài thơ làm xong thì sống ngàn năm

Hay:
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt
Dịch:
Từ phú của Khuất Nguyên vẫn sáng với mặt trời, mặt trăng.

Trong hành trình níu kéo sự vĩnh hằng, con người khám phá ra nghệ thuật để
vượt khỏi thời gian vô hạn của vũ trụ. Những tác phẩm nghệ thuật vượt qua lằn ranh
của thời gian, hòa mình vào những sự vật, hiện tượng bất biến, trường cửu như nhật,

23
nguyệt để chứng minh khát vọng trường tồn của cái đẹp, của nghệ thuật, của nhân loại
trong dòng thời gian vô hạn, vĩnh viễn, bất biến của vũ trụ.

2.2.2. Thời gian đời thường

Đường thi mở ra tuyến thời gian đời thường với hai khía cạnh mang hai sắc
thái đối lập nhau. Ta hối hả, vội vàng trước những biến chuyển của những sự kiện,
công việc hiện hữu nơi thời gian sinh hoạt. Con người ta thật khó để chìm đắm trong
những lãng mạn hiện lên trong tâm tưởng của bản thân mình khi vòng xoáy của cuộc
sống cứ cuốn con người ta vào vòng luẩn quẩn sinh hoạt chẳng có điểm dừng. Đến
cuối cùng chợt nhận ra thời gian sinh mệnh cá thể của mỗi bản thân lại trở nên nhỏ bé
hữu hạn vô cùng. Từ đó có lẽ con người ta nên trân trọng khoảng thời gian trước mắt,
trân trọng những gì đang hiện hữu trong cuộc đời của mỗi chúng ta ngay chính bây
giờ. Các thi nhân nhà Đường có lẽ thấu hiểu được những điều ấy, khắc lên trang
Đường thi những dấu ấn riêng biệt mang đậm cá tính bản thân mình, từ đó, đưa góc
nhìn nhận của bản thân về cuộc sống thế giới đến gần hơn với các thế hệ đọc.

2.2.2.1. Thời gian sinh hoạt

Trong bộ phận thơ phản ánh đời sống con người xã hội, thời gian nghệ thuật là
thời gian sinh hoạt. Thời gian sinh hoạt với những từ ngữ gợi tả như sáng, trưa, chiều,
tối, ngũ canh,...Trong đó diễn ra các hoạt động: chia tay, gặp gỡ, làm lụng, bắt
người.... Nhìn chung thời gian sinh hoạt hằn in dấu ấn của thời hiện tại, mang tính
chất cụ thể, trực cảm. Hiện hữu trong thời gian sinh hoạt chủ yếu là thời gian của sự
kiện của công việc, rất ít thời gian tâm tưởng. Chính vì lẽ đó, thời gian sinh hoạt
không được giãn nở một cách thoải mái, phiếm định nữa mà khắc khoải trườn qua
những nỗi khổ đau liên tiếp. Nếu thời gian vũ trụ được giãn nở với “thiên niên”, với
“vạn cổ”, với sự khoan thai nhàn nhã thì thời gian sinh hoạt đời thường lại thật gấp
gáp, cấp tập. Con người trong đó không những phải đi nhanh mà còn phải chạy, thậm
chí phải “quăng thân” vào cuộc tồn sinh.
Nếu trong thời gian vũ trụ thời tương lai thường được hư tả trong sự “đối xứng
ảo” với thời quá khứ thì trong thời gian sinh hoạt con người có những lúc ước mơ tới
một điều gì tốt đẹp hơn ở trong tương lai. Khát khao ấy được thể hiện ở những kết cấu
có các cụm từ hà thời (bao giờ), an đắc (sao được), hà dương (làm sao được).... Thời
tương lai - ước vọng đau đáu trong thời hiện tại là một nét đặc trưng của thời gian sinh
hoạt trong thơ Đường. Nó thể hiện một tinh thần nhân văn thiết thực và thâm trầm của

24
dòng thơ hiện thực, dòng thơ mang đậm tinh thần trách nhiệm với nhân sinh, tinh thần
nhân văn và thực tiễn của tư tưởng Nho gia.
Thời gian sinh hoạt đặc trưng bởi tính thực tại và sự kiện. Ta thường bắt gặp
thời gian thực tại trong đầu đề. Ví như Ngày trùng cửu ở hai nhà họ Thôi huyện Lam
Điền của Đỗ Phủ, hay trong câu đầu như: Hoàng đế lên ngôi năm thứ hai mùa thu
trong bài Bắc Chinh của Đỗ Phủ. Tính chất tức sự, tự tình thường đòi hỏi một điểm
thời gian thực tại. Tiêu biểu cho thời gian thực tại có lẽ là bài Thạch hào lại, mở đầu
bằng chiều tối và kết thúc bằng sớm mai, thời gian trôi qua cuộc đối thoại đầy kịch
tính, rồi im lặng, rồi tiếng khóc thút thít, rồi chia tay. Hoặc như bài Khương thôn, mở
đầu bằng buổi chiều, kết thúc bằng nửa đêm. Đó là thời gian thường gặp trong thơ Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị.

2.2.2.2. Thời gian sinh mệnh - cá thể

Thời gian sinh mệnh - cá thể là khoảng thời gian đời thường khi con người ta
cảm thấy đời người thật ngắn ngủi, tuổi xuân tựa như cái chớp mắt thoáng trôi nhanh
để rồi ta ngỡ ngàng nhận ra hiện thực chỉ là sự hoài niệm về một kí ức đẹp, dường như
trong chính bản thân mỗi người đều dễ dàng cảm nhận được từng bước chân dù nhỏ
nhất của thời gian qua sự thay đổi như sự chuyển bạc từng sợi tóc, cái hằn sâu thêm
bởi nếp nhăn in lên vẻ hồng nhan, những giọt nắng trong sương buổi sớm mai cứ theo
thời gian đọng trên tán lá, hay những cánh hoa rụng mỗi thời khắc chuyển giao mùa,...
Tất cả chảy dọc theo thời gian sinh mệnh trong cá thể cuộc đời của mỗi con người.
Thời gian con người gói ghém trong cái gọi là hữu hạn theo dòng chảy của cuộc sống.
Sự ngắn ngủi ấy của thời gian như nuốt chửng lấy bất cứ con người nào, để sau cùng,
“Sinh lão bệnh tử” là quy luật mà ta không thể nào chống lại.
Thời gian sinh mệnh con người nhìn chung được tính bằng sớm, chiều, hôm
nay, ngày mai, năm ngoái, năm nay, mùa xuân, mùa thu,...Thời gian sinh mệnh là quý
báu bởi nó là món quà của tạo hóa ban tặng cho mỗi sự sống. Thời gian ấy hữu hạn
trong dòng chảy mang tính vật lý nhất định trong một đời người nhưng lại vô hạn nếu
ta định lượng về giá trị cho thời gian sinh mệnh của con người bởi lẽ vì thời gian ấy là
vô giá, và sẽ chẳng có bất cứ điều gì có thể làm cân bằng thời gian sinh mệnh của một
cá thể con người nếu đặt chúng tương quan trong sự so sánh.
Trong bài thơ Đăng U châu đài ca của Trần Tử Ngang:
Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giã,

25
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi thế hạ.
Dịch:
Phía trước không thấy người xưa,
Phía sau không thấy người đời tiếp.
Ngẫm thấy rằng trời đất rộng lớn mênh mông,
Một mình lẻ loi thấy đau lòng chợt rơi lệ.
Giữa thiên địa mênh mông vô cùng, chợt cảm giác cô đơn và chới với đến tột
cùng. Chỉ có mình ta như hạt cát giữa sa mạc mênh mông rộng lớn. Ta lẻ loi với chính
mình trong chiếc áo thời gian sinh mệnh nhỏ bé được khoác lên trên cuộc đời bản
thân.
Trong Dắt kỹ nữ lên núi Thê Hà của Lương Vương trong vườn đào của Mạnh
thị, Lý Bạch đã viết:
Hôm nay không phải ngày hôm qua
Ngày mai rồi cũng qua
Người chẳng thấy trăng trên hồ của Lương Vương
Lương Vương mất rồi, trăng còn đó
Oanh vàng buồn rượu kêu gió xuân
Rõ ràng cảm kích chuyện trước mắt
Tiếc chi say nằm vườn đào phía đông!
Những câu Đường thi trên như đang ứ đọng những cung bậc cảm xúc dâng trào
đang cố kìm nén. Đời người xuất hiện để rồi tan biến như một thoáng chốc. Sau cùng,
khi con người ta đã chiêm nghiệm hết những nếm trải của thế giới này trong thời gian
sinh mệnh của chính mình thì quay trở về hư vô như một lẽ tất yếu mang tính dĩ nhiên.
Chỉ còn lại những kí ức của một hoài niệm đẹp ta đã khắc nên trong quán trọ cuộc đời
mà ta đã từng đặt chân đến.
Trong Ngày mồng chín tại trang Thôi thị ở Lam Điền, Đỗ Phủ đã viết:
Già rồi buồn thu gắng tự khuây
Hôm nay hứng tới thả sức vui...
Ngày này năm sau biết ai còn
Say cầm thù du xem tỉ mỉ.
Thi nhân ấy dường như hiểu ra cái tuổi già đến ắt rồi sẽ qua, thời gian sinh
mệnh ắt cũng sẽ đến lúc tận. Chi bằng ta hãy sống và hưởng trọn hết mình những
niềm vui hiện hữu trong cuộc đời của ta. Để cuối cùng, khi tan vào hư vô trước cái kết

26
của cuộc đời này, ta chẳng cần lưu luyến cố mang theo những dư âm tiếc nuối của sự
dằn vặt.
Đỗ Phủ và Lý Bạch hẳn là người hiểu sâu nhất giá trị của thời gian hiện tại mới
có thể viết ra những câu thơ Đường thi như vậy. Như sự bộc bạch đầy chân tình,
những câu thơ như chính nỗi nuối tiếc về sự hữu hạn ngắn ngủi mà thời gian sinh
mệnh mỗi con người có được để từ đó ta biết trân trọng và tận hưởng lấy những gì
đang diễn ra trong cuộc đời của ta trong thế giới sống này.
Vì quá yêu quý, trân trọng lấy những khoảnh khắc hiện tại này, thế nên dường
như các nhà thơ Đường phần nhiều để lộ thái độ hư vô và sợ hãi trước thời gian quá
khứ và tương lai. Thời gian hiện tại cứ thế trôi qua trong bồn chồn hoảng hốt. Ta dễ
dàng cảm nhận được cảm giác đó dưới sự thể hiện trong hình thức sóng đôi “triều”
(sớm), “tịch” (tối) hoặc “mộ” (chiều tối). Như:
Nhất phong triêu tấu cửu trùng thiên,
Tịch biếm Triều Châu lộ bát thiên
(Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương - Hàn Dũ)
Dịch:
Sáng dâng tờ tấu lên vua,
Chiều bị giáng chức đổi đi Trào Dương xa tám nghìn dặm.

Hay hình thức tương phản “kim niên” (năm nay), “minh niên” (năm sau):
Kim niên nhân nhật không tương ức,
Minh niên nhân nhật tri hà xứ ?
(Nhân nhật ký Đỗ nhị thập di - Cao Thích)
Dịch:
Năm nay mồng bảy nhớ suông nhau.
Mồng bảy năm sau biết ở đâu
Thời tương lai hóa mịt mờ, vô thường trong đôi mắt kẻ thi nhân:
Tức kim tương đối bất tận hoan,
Biệt hậu tương tư phục hà ích.
(Hồ thượng đối tửu hành - Trương Vị).
Dịch:
Bây giờ gặp mặt nhau mà không uống cho thật vui
Thì sau khi từ biệt, nhớ nhau cũng vô ích!
Nhưng lại hóa như mộng trước thời hiện tại hiện ra:

27
Nhân sinh bất tương kiến,
Động như Sâm dữ Thương
Kim tịch phục hà tịch,
Cộng thử đăng chúc quang.
(Tặng Vệ bát xử sĩ - Đỗ Phủ)
Dịch:
Đời người khó gặp nhau,
Như sao hôm và sao mai.
Đêm nay cũng trở lại như đêm nào
Cùng chung dưới một ánh đèn
Trong thơ Đường ta thường bắt gặp cụm từ “y cựu” nói về sự bất biến của thiên
nhiên để từ đó làm bật lên sự khả biến, vô thường của số phận con người. Như:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
(Đế đô thành nam trang – Thôi Hộ)
Hay:
Đình thụ bất tri nhân khứ tận.
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa
(Sơn không tức sự - Sầm Tham)
Chính ý thức về thời gian con người, nhân thế ngắn ngủi, vô thường, một lần
qua đi không trở lại đã làm nên mối sầu vạn cổ bàng bạc trong thơ Đường. Nó không
chỉ ám ảnh và chi phối sâu sắc đến thi nhân lúc bấy giờ mà còn đọng lại sâu trong sự
tiếp cận của độc giả.
Thời gian sinh mệnh cá thể con người là khoảng thời gian nghệ thuật xuất hiện
trong đại đa số các tác phẩm Đường thi mà ở đó dưới ngòi bút của thi nhân, ta thể
nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay
chậm, với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ hay tương lai mà nổi bật trong các thi
phẩm nhà Đường chính là thời gian mang độ dài hữu hạn trong sinh mệnh một đời
người, nó trôi nhanh như một thoáng gió để cuối cùng thi nhân gặm nhắm những trang
thơ dưới ngòi bút của mình trong nuối tiếc và hoài niệm.

2.3. Mối liên hệ giữa thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ Đường

Không gian và thời gian nghệ thuật luôn có mối quan hệ tương hỗ trong tác
phẩm nghệ thuật nói chung. Thời gian trôi chảy trong không gian, không gian biến đổi

28
theo thời gian. Chính bởi đó, những nét riêng rất đặc trưng của mỗi yếu tố có dịp hòa
quyện trong nhau, để tạo nên những nét độc đáo cho hình thức thời gian và không gian
nghệ thuật của tác phẩm.
Thế giới nghệ thuật hiện hữu trong mỗi bài thơ Đường với không gian và thời
gian nghệ thuật riêng biệt không chỉ làm nên nét đặc trưng cho tác phẩm, mà còn là
đặc trưng riêng biệt nhận diện lấy tác giả, giúp ta hiểu và tiếp cận gần hơn với quan
niệm của tác giả về thế giới, giúp hiểu phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Chính vì lẽ
đó, mỗi thi phẩm thơ Đường muốn đạt đến giá trị nhất định trong sự tiếp nhận của độc
giả thì đòi hỏi mỗi thi nhân phải thực sự làm chủ được thế giới nghệ thuật trên ngôn từ
của mình, sáng tạo nên thế giới nghệ thuật bằng không gian và thời gian nghệ thuật
phải mang mối liên hệ tương quan chặt chẽ với nhau.
Không gian và thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học có đặc tính chung đó
là tính tư tưởng. Tái hiện không gian không phải để dựng nên một khung cảnh đơn
thuần. Tái hiện thời gian không phải chỉ để nói về một diễn biến. Mà quan trọng hơn,
từ không gian ấy, từ thời gian ấy, tác phẩm phải bộc lộ được một thông điệp, một tư
tưởng, một tình cảm,... Với thơ ca, thông điệp toát lên từ thời gian và không gian nghệ
thuật không là gì khác hơn cảm xúc của thi nhân, nguồn cội của tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật liên kết với không gian nghệ thuật trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, liên kết chặt chẽ khăng khít và dường như ta có thể xóa nhòa ranh
giới hiện hữu chia cắt không gian nghệ thuật cũng như thời gian nghệ thuật một cách
rạch ròi. Thơ Đường đạt đến độ chín muồi đến mức ta hoàn toàn có thể dùng thời gian
để thể hiện không gian và ngược lại. Kể như những câu Đường thi sau:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
(Đằng Vương các - Vương Bột)
Dịch:
Mây lơ lửng, đầm lồng lóng, chuỗi ngày dằng dặc trôi
Vật đổi sao dời, thu qua bao độ

Cảm giác “nhật du du” là (cảm giác về thời gian) cơ hồ là do “nhàn vân đàm
ảnh” (không gian) đưa lại; và con người nhận biết được “kỷ độ thu” là do sự quan sát,
thể nghiệm về sự đổi thay trong không gian “vật đổi sao dời”.

29
Thế giới hiện hữu nên bởi sự thống nhất của thời gian và không gian. Không
xác lập sự đơn nhất của chỉ riêng không gian hay thời gian. Chính sự gắn bó mang
tính thống nhất ấy tạo nên thế giới, làm nên “vũ trụ” bao trùm “tiểu vũ trụ con người”.

Thời gian luôn luôn có mặt trong sự hiện hữu cùng với không gian, xác lập nên
mối liên hệ không thể chia tách, cách rời, và phần nhiều cũng được đặt luôn vào tiêu
đề của bài thơ. Chẳng hạn như: Thục trung cửu nhật, Bạch đế hoài cổ, Tự quân chi
xuất hỹ ( Từ thuở chàng đi), xuân hoa giang nguyệt dạ ( xuân, dạ là thời gian; giang,
hoa, nguyệt là những thực thể trong không gian), U châu tân tuế tác, Dạ bạc Ngưu
chử hoài cổ, Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn đông huynh đệ...

Ngay cả khi trong Đường thi chỉ có tín hiệu không gian thì đâu đó vẫn hàm ẩn,
thấp thoáng đằng sau những miền không gian ấy một thời gian khuất lấp. Kể như:
Dịch thủy tống biệt thì cái địa danh Dịch thủy đã gợi lên trong tâm trí khoảng thời
gian dằng dặc từ thời Yên Đan tiễn Kinh Kha đi vào đất Tần. Kinh Hạ bì Dĩ kiều hoài
Trương Tử Phòng, những cái tên Dĩ kiểu, Trương Tử Phòng đã thông tin cho người
đọc về thời gian hoài cổ của bài thơ, hơn nữa còn như gợi lên trong tâm trí người đọc
hình ảnh chú bé Trương Lương ba lần nâng giày cho Hoàng Thạch Công,...

Như vậy một đặc tính của thời gian trong thơ Đường là luôn luôn có mối liên
hệ tương thông với không gian, làm nên thế giới của con người, vũ trụ. Đường thi xác
lập nên thế giới mà ở đó không gian và thời gian hòa làm một. Đâu đó hiện lên trong
những câu thơ Đường của thi nhân là dáng dấp của thời gian và không gian đồng hiện,
đồng hiện trong mối tương quan chặt chẽ không tách rời được.

Ví mỗi thi phẩm Đường thi như một bức tranh đặc sắc với tính nhạc, tính họa
riêng biệt của một thời đại thì không gian và thời gian nghệ thuật chính là hai mảnh
ghép đặc biệt quan trọng mà chỉ khi nó có liên kết nhau trong sự chặt chẽ và tương hỗ
nhất định thì thi phẩm mới thật sự sống và đạt đến giá trị thẩm mỹ bất hủ trong sự tiếp
nhận của bạn đọc trong thời đại nhà Đường nói riêng và bạn đọc qua các thế hệ nói
chung.

30
KẾT LUẬN

Qua tìm hiểu trên, ta có thể thấy rằng: để thể hiện con người vũ trụ, một cách tự
nhiên, thi nhân đời Đường đã đặt nó trong không - thời gian vũ trụ; còn không - thời
gian đời thường lại là nơi hiện hữu sự tồn tại của con người như một lẽ thường tình
mang tính dĩ nhiên cùng những biến chuyển cuộc sống này. Thực tế cũng cho thấy
rằng trong hai hệ thống không - thời gian ấy, hệ thống không - thời gian vũ trụ vẫn
chiếm ưu thế, tương ứng với tỷ lệ cao hơn của con người vũ trụ so với con người xã
hội. Điều ấy khiến người đọc khi nghĩ đến thơ Đường thường hình dung tới một thế
giới rộng mở, thâm sâu, xa xăm, cao - viễn như vọng về từ vạn cổ hoặc lung linh
những sắc màu kỷ niệm - một thế giới diễm lệ, sang trọng và hướng buồn. Cả hai hệ
thống không - thời gian vũ trụ và không - thời gian đời thường trong thơ Đường đều
tiêu biểu cho không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ cổ điển Trung Quốc và nó
cũng ít nhiều ảnh hưởng đến thơ ca Việt Nam nói chung hay thơ cổ dân tộc nói riêng.

Hai chương trên chính là hệ thống những không gian nghệ thuật và thời gian
nghệ thuật đặc trưng mang nét tiêu biểu hiện hữu trong thơ ca nhà Đường lúc bấy giờ.
Văn học Trung Quốc nói chung hay thơ Đường nói riêng mang những nét đặc sắc
riêng biệt đầy cuốn hút, và ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam cũng như sự nghiệp
văn chương dân tộc ta. Thi ca nhà Đường hay Đường thi là một khía cạnh nghệ thuật
đầy cá tính đòi hỏi cái tài của mỗi thi nhân trong việc phác bút ra đời những tác phẩm
có giá trị. Đường thi như một bức phác họa đầy tinh tế, cầu kì và chứa đựng sức hấp
dẫn đầy lôi cuốn. Để bức phác họa ấy lung linh huyền ảo động lòng phải nhờ vào
những yếu tố sắc màu cộng hưởng đầy riêng biệt. Và không gian nghệ thuật cũng như
thời gian nghệ thuật chính là hai sắc màu điểm tô nên giá trị của Đường thi trở nên rực
rỡ. Việc ta cùng nhau tìm hiểu về hai yếu tố không gian, thời gian ấy góp phần không
nhỏ vào việc đưa Đường thi đến gần hơn với sự tiếp cận của bạn đọc cảm thụ nghệ
thuật, giúp ta thấu hiểu về những giá trị làm nên sức quyến rũ của Đường thi và giúp
ta trân trọng hơn cái tài, cái hay của các bậc thi nhân với những tác phẩm thơ ca được
sáng tác trong thời đại nhà Đường lúc bấy giờ.

31
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Vũ Lan Anh (2009), Không gian lữ thứ trong thơ Đường, Luận văn thạc sĩ
văn học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
2. Trần Văn Cẩm (2011), Tìm hiểu cảm hứng xuất thế trong thơ Đường, nguồn: “Tìm
hiểu cảm hứng xuất thế trong thơ Đường” | nguvandhag (wordpress.com), ngày truy
cập: 12/1/2024.
3. Vũ Minh Đức (2016), Lý luận chung về không gian nghệ thuật trong văn học,
nguồn: Lý luận chung về không gian nghệ thuật trong văn học (Vũ Minh Đức) –
Vietnamese Literature Club (wordpress.com), ngày truy cập: 11/1/2024.
4. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa.
5. Nguyễn Thị Bích Hải (1996), Thi pháp thơ Đường - một số phương diện chủ yếu,
Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Bích Hải (1996), Thi pháp thơ Đường - một số tóm tắt chủ yếu, Tóm
tắt luận án, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Bích Hải (2007), Thi pháp thơ Đường, Đại học Huế.
8. Bùi Thị Hồng (2014), Thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy dưới góc nhìn so
sánh, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Trương Thị Liên (2013), Không – thời gian nghệ thuật trong trong tiểu thuyết Nghệ
nhân và Margarita của Mikhail Bulgacov, Trường ĐHSP – ĐHĐN.
10. Phạm Phi Na (2018), Không gian nghệ thuật trong Hồng Đức quốc âm thi tập,
Tạp chí khoa học Trường Đại học Đồng Tháp, số 34.
11. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nhà xuất bản Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
12. Nguyễn Khắc Phi (1999), Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ, Nxb Giáo
dục.
13. Nguyễn Ngọc Minh Trúc (2015), Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện
cổ tích thần kì,Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN.
14. Bùi Thanh Truyền (2012), Giáo trình Văn học 2, Nxb Đại học Huế.

32
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

33

You might also like