You are on page 1of 10

TÌM HIỂU “THẬP TAM PHƯƠNG GIA GIẢM”

L.Y PHAN CÔNG TUẤN

Trong bài viết trên CTQ số 31 (tr.19), tôi có ghi nhận rằng mình rất tâm
đắc với phần Thập tam phương gia giảm (TTPGG), đánh giá đây một tuyển
tập phương thang không tiền khoáng hậu trong Đông y cổ kim, bởi tính chất
cực kỳ tinh giản trong việc dùng 13 phương thang với phép gia giảm linh hoạt
có thể đối trị hầu hết các loại tạp bệnh nội thương ngoại cảm thường gặp của
dân ta.
Trong lúc cao đàm khoát luận, tôi đã hạ bút viết tiếp một câu: “Hẹn có
dịp sẽ đi sâu phân tích tìm hiểu tác phẩm này”. Đến khi báo in ra, đọc lại mới
giật mình thấy mình hớ hênh liều lĩnh quá. Thú thật, vì câu đó mà nửa năm
nay tôi luôn cảm thấy ray rứt không yên. Không viết thì lỗi hẹn với bạn đọc,
mà viết ra thì với một chút sở đắc ít ỏi của mình chẳng thể gọi là đi sâu phân
tích tìm hiểu tác phẩm được.
Thôi thì, theo lời các cụ ngày xưa “biết đủ là đủ, đợi đủ đến bao giờ cho
đủ”, đành cố gắng biết đến đâu nói đến đó, còn những chỗ thiếu sót và không
hiểu xin nhờ quý bạn đọc cao minh chỉ chính thêm cho.
Điều đầu tiên chúng ta có thể khẳng định TTPGG là một tác phẩm y học
rất độc đáo. Tính độc đáo trước hết thể hiện ở hình thức. Toàn văn tác phẩm là
một bản thơ Nôm lục bát dài 1190 câu. (Xin mở ngoặc nói thêm ở bản in
Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư của Nxb Yhọc, Hà Nội, 1978 đã bỏ sót một câu
lục thứ 745, không rõ do lỗi nhà in hay lỗi phiên âm, biên tập, vì chúng tôi chỉ
có duy nhất bản sách này có in toàn văn tác phẩm, nên chưa tìm đâu bổ sung
cho đủ, mong quý bạn đọc nào có bản văn khác có câu đó, xin chia xẻ cho
chúng tôi cùng biết với).
Ngoài phần mở đầu (42 câu) và kết luận (30 câu), còn lại 1112 câu tập
trung giới thiệu 13 phương thuốc với toàn bộ nội dung chủ trị, thành phần, liều
lượng, bào chế và đặc biệt trình bày rất kỹ lưỡng cách gia giảm linh hoạt tuỳ
theo triệu chứng bệnh lý. Bài viết này không đi vào chi tiết, xin chỉ lướt qua
trong một cái nhìn bao quát và dừng lại ở một vài điểm nhấn quan trọng theo
nhãn quan tác giả.

TẠI SAO LẠI LÀ 13 PHƯƠNG ?


Câu hỏi trên như một công án thiền đeo bám ám ảnh tôi hơn mười năm
trời mà chưa tìm ra lời giải đáp. Đọc sách phương thang đông y cổ kim, ngoài
các tác phẩm đồ sộ như Thái Bình Thánh Huệ Phương của Vương Hoài Ẩn
(năm 922, đời Tống, TQ) thu thập 16.834 bài thuốc; hay Phổ Tế Phương của
bộ ba tác giả Chu Tiêu, Đằng Thạc, Lưu Thuần ra đời năm 1406 đời Minh sưu
tập trên 60.000 bài thuốc; còn có một số tác phẩm có khuynh hướng chọn lọc
như Tế Sinh Phương của Nghiêm Dụng Hoà đời Tống tinh tuyển hơn 500 bài
thuốc, hay như Uông Ngang vào đời cuối Minh đầu Thanh soạn Y Phương
Tập Giải chọn chép hơn 800 bài thuốc thường dùng trong lâm sàng, sau đó
tuyển chọn lấy 290 bài soạn theo lối văn vần cho dễ nhớ dễ thuộc thành sách
Thang Đầu Ca Quát.
Hải Thượng Lãn Ông cũng đã góp nhặt 234 bài thuốc thường dùng biên
soạn thành tập Y Phương Hải Hội trong bộ sách Lãn Ông Tâm Lĩnh. Hầu hết
các sách phương tể học ngày nay đều tuyển chọn số lượng bài thuốc thường
dùng cũng ở mức trên dưới 300 bài.
Có lẽ chưa có tác phẩm nào tinh tuyển cô đọng tới mức kỷ lục còn 13 bài
thuốc như TTPGG. “Thấy trong tiên giác y gia / Quốc âm đằng thảo mười ba
phương này”. Đó là câu 17-18 trong phần mở đầu TTPGG.
Tác giả cho chúng ta biết 13 bài thuốc này được chép lại rõ ràng (đằng
thảo) bằng quốc âm vốn có xuất xứ từ trong các tác phẩm của tiên hiền đời
trước, cụ thể gồm 3 bài thuốc trong Thương Hàn Tạp Bệnh Luận của Trương
Trọng Cảnh đời Hán và 9 bài trong sách Cục Phương (Thái Bình Huệ Dân
Hoà Tể Cục Phương) và 1 bài trong sách Dị Giản Phương đều thuộc đời
Tống.
Nhưng tại sao lại là 13, chứ không phải 10, 12 hay 15, 16 …? Con số 13
có ý nghĩa gì ? Đây quả là một vấn đề hóc búa !
Loay hoay mò mẫm mãi trong đường hầm tối hun hút đó, cuối cùng tôi
cũng đã thấy le lói một vài tia sáng.
Một là, trong kho tàng văn hoá Đông phương chúng ta thường nghe nói
đến “thập tam kinh”, tức là 13 kinh sách (Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Lễ
Ký, Chu Lễ, Nghi Lễ, Xuân Thu, Công Dương, Cốc Lương, Luận Ngữ, Mạnh
Tử, Hiếu Kinh, Nhĩ Nhã) vốn được các nhà Nho cho là nền tảng cơ bản và
hàm chứa đầy đủ các ngành học thuật cổ đại.
Hai là, trong một số tác phẩm y sử có đưa ra thuật ngữ “thập tam khoa”,
đó là cách chia Đông y cổ đại ra làm 13 khoa cơ bản. Theo Tống Sử thì 13
khoa là: Phong, Thương hàn, Đại phương mạch (người lớn), Tiểu phương
mạch (trẻ em), Phụ nhân thai sản, Châm cứu, Yết hầu khẩu xỉ (hầu họng răng
miệng), Sang dương (nhọt lở), Chính cốt (sửa xương), Kim thốc (trị thương do
gươm đao kim khí), Dưỡng sinh, Chúc do (bùa chú, tâm lý trị liệu), Nhãn
(mắt). Theo sách Loại Kinh thì 13 khoa là: Đại phương, Tiểu phương, Phụ
nhân, Thương hàn, Sang dương, Châm cứu, Nhãn, Khẩu xỉ, Hầu lung (họng),
Án cốt (nắn xương), Kim thốc, Án ma (xoa bóp) và Chúc do.
Phải chăng từ “thập tam kinh”, “thập tam khoa” đến “thập tam phương”
có một sự liên hệ tương đương nào đó? Và phải chăng con số 13 là con số đại
diện cho tất cả và toàn bộ ?
Đọc lại phần kết luận trong TTPGG, câu 1161-1162 viết: “Xem cho biết
phép bổ công / Mười ba phương ấy no trong đủ ngoài”, tôi chợt ngộ ra một
điều là tác giả TTPGG có ý thức rất rõ ràng khi chỉ chọn 13 bài thuốc cơ bản
để đối trị đầy đủ tất cả các loại bệnh nội thương ngoại cảm thường gặp.
Đã có một sự gặp gỡ lý thú giữa trường phái y học Tuệ Tĩnh Việt Nam
với trường phái Hán phương Nhật Bản. Một danh y Nhật bản là Đông Động
tiên sinh cũng từng chủ trương: “Dùng phương thuốc càng đơn giản, y thuật
ngày càng tinh tế; dùng phương thuốc càng phức tạp, y thuật ngày càng thô
thiển” (Dụng phương giản giả, kỳ thuật nhật tinh; dụng phương phồn giả, kỳ
thuật nhật thô).
Đây phải chăng là một đặc trưng của trường phái Tuệ Tĩnh mà chúng ta
cần nghiên cứu phát huy? Bởi lẽ thầy thuốc ngày nay có không ít người vẫn
quan niệm sai lầm rằng đơn giản là biểu hiện của sự thô thiển và phức tạp mới
là biểu hiện của sự tinh vi.
Mong bạn đọc tiếp sức cùng tôi suy nghĩ thêm về vấn đề này!

THỨ TỰ VÀ CHỦ TRỊ 13 PHƯƠNG :


Thứ tự, xuất xứ, và tóm tắt chủ trị của 13 phương trong TTPGG như sau:
1.Bất hoán kim chính khí tán (Cục phương): Chủ trị các chứng thương
hàn ôn dịch, tứ thời cảm mạo, sốt rét, ho đàm, tỳ vị bất hoà, thực tích, hoắc
loạn thổ tả, sơn lam chướng khí…
2.Nhị trần thang (Cục phương): Chủ trị các chứng đàm ẩm, đầy trướng,
ho đàm, nôn nửa, lợm giọng, chóng mặt, tim hồi hộp…
3.Sâm tô ẩm (Dị giản phương): Chủ trị các chứng ngoại cảm phong hàn,
phát sốt, ớn lạnh, đau đầu, ngạt mủi, đàm ẩm, ngực đầy tức…
4.Tứ vật thang (Cục phương): Chủ trị các chứng huyết hư, thất huyết,
phụ nữ kinh nguyệt không đều, súc huyết, băng trung đới hạ…
5. Ngũ linh tán (Trọng Cảnh): Chủ trị các chứng thấp, thuỷ ẩm, thuỷ
thũng, bụng đầy, mình nặng mà đau, hoắc loạn thổ tả, phiền khát, tiểu tiện
không thông…
6.Huyền vũ thang (Trọng Cảnh): Chủ trị các chứng thiếu âm thương hàn,
bụng đau, tiểu tiện không lợi, chân tay nặng nề đau nhức, hạ lợi do có thuỷ khí
gây nên…
7.Hương tô tán (Cục phương): Chủ trị các chứng ngoại cảm phong hàn,
nhức đầu, phát sốt mà sợ lạnh, không mồ hôi, và trong có khí trệ, ngực đầy
tức, ợ hơi, không muốn ăn, phụ nữ có thai mà phù thũng, nhức đầu, ớn lạnh

8.Tiểu sài hồ thang (Trọng Cảnh): Chủ trị chứng thiếu dương thương
hàn, nóng rét qua lại, ngực sườn đầy tức, miệng đắng, họng khô, tâm phiền,
hay ụa, không muốn ăn uống, chứng ôn ngược mùa xuân, phụ nữ thương hàn
nhiệt nhập huyết thất …
9.Đối kim ẩm tử tức Bình vị tán (Cục phương): Chủ trị chứng tỳ vị thấp
trệ, đàm ẩm, bụng trướng đầy, hay nôn ợ, không muốn ăn uống, sơn lam
chướng khí, sốt rét ngã nước, bụng tích báng…
10.Thập thần phương (Cục phương): Chủ trị các chứng thời khí ôn dịch,
phong hàn lưỡng cảm, nhức đầu phát sốt, ớn lạnh, không mồ hôi, ho, ngạt
mủi, nặng tiếng…
11.Ô dược thuận khí thang (Cục phương): Chủ trị chứng trúng phong,
kinh lạc bế tắc, xương cốt đau nhức, khắp mình tê dại, đi lại khó khăn, thở
gấp, có đàm…
12.Ngũ tích tán (Cục phương): Chủ trị các chứng ngoại cảm thương hàn,
nội thương ẩm thực, đau đầu mình nhức, gáy lưng co cứng, phát sốt, ớn lạnh,
không có mồ hôi, bụng đau, nôn thổ, cùng hàn thấp lưu trệ trong kinh lạc,
lưng chân đau buốt, phụ nữ kinh nguyệt không đều, đẻ khó …
13.Tứ quân tử thang (Cục phương): Chủ trị các chứng tỳ vị hư nhược,
ăn kém, ỉa lỏng, hơi thở ngắn, mặt trắng bợt hoặc vàng bủng, người béo bệu
hoặc gầy còm, chân tay yếu ớt. Theo Y Phương Tập Giải, bài này chữa cả tỳ
hư (biểu hiện người gầy, mặt vàng) và phế hư (biểu hiện da nhăn, lông rụng) .
Trên đây là thứ tự và tóm tắt chủ trị 13 phương trong TTPGG . Về thứ tự
của 13 phương, thú thật là tôi chưa phát hiện ra 13 phương đã được sắp xếp
theo quy luật hay thứ tự ưu tiên nào . Chỉ xin soạn thành bài ca về thứ tự các
phương (Phương tự) giúp cho mọi người dễ ghi nhớ theo truyền thống ca quát
đông y.

Mười ba phương Tuệ sư truyền


Bất hoán kim chính khí (1) biên hàng đầu.
Nhị trần thang (2) xếp đứng sau
Sâm tô(3) - Tứ vật (4) tiếp nhau trận đồ
Ngũ linh(5) - Huyền vũ (6)- Hương tô (7)-
Tiểu sài (8) – Bình vị (9) nối vô Thập thần (10)
Ô dược thuận khí (11) rất cần
Cuối cùng Ngũ tích (12)– Tứ quân (13) thêm vào
Gia giảm linh hoạt sát sao
Mười ba phương ấy bệnh nào cũng thuyên .

Dưới đây là chú thích thành phần của 13 phương thuốc của chúng tôi,
cũng viết theo thể văn vần giúp dễ nhớ:
(1)Bất hoán…chính Bình vị phương
Gia thêm Bán hạ, Hoắc hương mà thành.
(2)Nhị trần táo thấp hoá đàm
Phục linh, Bán hạ, Trần (bì), Cam (thảo) hợp cùng.
(3)Sâm tô (Cát) Căn, (Kiết) Cánh, Tiền hồ,
Mộc hương, Chỉ xác thêm vô Nhị trần.
(4)(13) Tứ vật: Địa, Thược, Quy, Khung;
Sâm, Linh, Truật, Thảo tương phùng Tứ quân.
(5)Ngũ linh Trư - Xích lưỡng Linh,
Bạch truật, Trạch tả lại trình Quế tâm.
(6)Huyền vũ lợi thấp ôn dương
Tam Bạch (B.Truật, B.Linh, B.Thược), Phụ tử, Can khương phối cùng.
(7)Hương tô Hương phụ, Tử tô,
Trần bì, Cam thảo gia vô ít Gừng.
(8)Tiểu sài… hoà giải chủ phương
Sài, Cầm, Sâm, Hạ, Táo, Khương, Thảo hoà.
(Sài hồ, Hoàng cầm, Nhân sâm, Bán hạ, Đại táo, Cam thảo)
(9)Bình vị ôn thấp vận tỳ
Thương truật, Hậu phác, Trần bì, (Cam)Thảo chung.
(10)Thập thần Xích thược, Xuyên khung,
Ma (hoàng), Thăng(ma), (Cát) Căn, (Bạch) Chỉ hợp cùng Hương tô.
(11)Ô dược thuận khí Ma (hoàng), (Xuyên)Khung,
(Chỉ)Xác, (Cương)Tàm, (Kiết)Cánh, (Bạch)Chỉ, Can khương,
(Cam)Thảo, Trần (bì).
(12)Ngũ tích = Bình vị + Nhị trần +
Khung, Quy, Thược, K.Cánh, Chỉ (Bạch chỉ, Chỉ xác), Càn(khương),
Quế(chi) , Ma(hoàng).
Cần lưu ý bài Ngũ tích tán theo sách TTPGG có thêm 2 vị Nhân sâm và
Bạch truật, đây là điều khác biệt so với các sách phương thang cổ điển khác
mà chúng tôi đã tham khảo viết thành câu ca trên. Thú thật chúng tôi chưa lý
giải được điều khác biệt này, mong được lắng nghe ý kiến của quý bạn đọc
khác.
Cũng xin nói thêm trong 13 phương thuốc chính trên đây, chúng tôi thống
kê thành phần chỉ gồm 35 vị thuốc. Một con số hết sức khiêm tốn!
Đó là: Thương truật, Hậu phác, Trần bì, Cam thảo, Bán hạ, Hoắc hương,
Bạch linh, Nhân sâm, Cát căn, Kiết cánh, Tiền hồ, Mộc hương, Chỉ xác, Thục
địa, Đương quy, Xuyên khung, Bạch thược, Bạch truật, Trư linh, Xích linh,
Trạch tả, Quế, Phụ tử, Can khương, Hương phụ, Tử tô, sàI hồ, Hoàng cầm,
ĐạI táo, Sinh khương, Xích thược, Ma hoàng, Thăng ma, Bạch chỉ và Cương
tàm.
Trừ một vài vị như Nhân sâm, Thục địa, còn đa số đều là thuốc nam
thuốc bắc rẻ tiền và thông dụng. Phải chăng đây là một chủ trương của trường
phái Tuệ Tĩnh trong việc tinh tuyển các phương thang kinh điển vẫn ưu tiên
trọng dụng các nguồn thuốc thông dụng rẻ tiền để ứng cứu mọi lúc mọi nơi,
ngay người nghèo vẫn có khả năng sử dụng?

PHÂN LOẠI 13 PHƯƠNG


Bệnh tật thiên hình vạn trạng, tuy nhiên theo cách phân loại đơn giản nhất
của Đông y gồm các nhóm chính như sau:
-Bệnh ngoại cảm: Do các nhân tố môi trường (đông y gọi là lục dâm:
phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả) tác động gây nên như cảm lạnh, phong thấp…
-Bệnh nội thương: Chủ yếu do nhân tố tình chí (đông y gọi là thất tình:
mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, kinh hãi) kết hợp với các yếu tố ăn uống, sinh
hoạt gây nên.
-Bệnh ngoại cảm nội thương kết hợp: Bệnh không chỉ đơn thuần là ngoại
cảm hay nội thương, mà phần lớn kết hợp cả hai.
-Bệnh hư nhược: Do suy giảm chức năng của âm dương khí huyết, do lão
suy…
Căn cứ vào cách phân loại bệnh trên đây cũng như công năng chủ trị của
13 phương đã nêu ở phần trước, theo tôi có thể phân thành các nhóm bài thuốc
trong TTPGG như sau:
1.Nhóm bài thuốc trị ngoại cảm và trúng phong kinh lạc:
-Hương tô tán: chủ về phát tán phong hàn, kèm khí trệ.
-Tiểu sài hồ thang: chủ về hoà giải thiếu dương (trong thương hàn chứng)
-Thập thần thang: chủ chứng thời khí ôn dịch, phong hàn lưỡng cảm.
-Ô dược thuận khí thang: chủ chứng trúng phong kinh lạc.
2.Nhóm bài thuốc chữa nội thương:
-Nhị trần thang: chủ trị đàm ẩm
-Ngũ linh tán: chủ trị thuỷ thũng, thấp nhiệt
-Bình vị tán : chủ trị thấp trệ tỳ vị
-Huyền vũ thang: chủ trị hàn thấp .
3.Nhóm bài thuốc chữa ngoại cảm kiêm nội thương:
-Bất hoán kim chính khí tán: chủ trị tứ thời cảm mạo kiêm tỳ vị bất hoà.
-Sâm tô ẩm: trị ngoại cảm phong hàn kiêm khí hư .
-Ngũ tích tán: trị ngoại cảm phong hàn kiêm nội thương ẩm thực .
4.Nhóm bài thuốc bổ dưỡng:
-Tứ vật thang: chủ bổ huyết.
-Tứ quân thang: chủ bổ khí.

Dưới đây là bài ca toát yếu về cách phân loại của chúng tôi (Phương
loại):

Mười ba phương Tuệ sư truyền


Tạm chia làm mấy loại riêng dễ dò .
Trúng phong, ngoại cảm nhớ cho
Tiểu sài…, Ô dược…, Hương tô, Thập thần.
Nội thương thuỷ - thấp - đàm phân
Huyền vũ, Bình vị, Nhị trần, Ngũ linh .
Nội thương ngoại cảm song hành
Bất hoán…, Ngũ tích lại dành Sâm tô.
Bổ khí bổ huyết thêm vô
Tứ quân, Tứ vật bệnh mô chẳng lành.

Cần lưu ý sự phân loại trên đây có tính tương đối theo chủ quan của
chúng tôi. Một phương thuốc cũng như một vị thuốc thường có nhiều công
năng tác dụng, nếu căn cứ từng công năng khác nhau thì có thể xếp vào các
nhóm bài thuốc khác.
Bước đầu tìm hiểu TTPGG, chúng tôi thấy số lượng bài thuốc, vị thuốc,
cũng như cách phân nhóm bệnh, nhóm bài thuốc mà trường phái Tuệ Tĩnh sử
dụng có thể nói là cực kỳ tinh giản. Tất nhiên, để đối phó với hàng trăm bệnh
chứng khác nhau, người thầy thuốc cần nắm vững phép gia giảm thêm bớt số
vị thuốc, liều lượng thuốc một cách linh hoạt khi sử dụng 13 phương này. Đó
cũng là một nội dung độc đáo mà loạt bài tìm hiểu TTPGG đầu tiên này đành
gác lại, hẹn sẽ bàn tiếp trong một dịp khác. Để kết thúc loạt bài này, xin cống
hiến quý bạn đọc một bản sơ đồ có thể giúp nắm được toát yếu của 13 phương
trong lòng bàn tay như sau: (xem file 13PHUONG_LUOCDO.DOC)

(CTQ số 46-47-48)

THẬP TAM PHƯƠNG GIA GIẢM LƯỢC BIÊN

Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư là một bộ sách y học cổ truyền của Việt
Nam, hiện còn lưu giữ được các bản khắc in vào các năm 1717, 1723. Năm
1978, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội đã xuất bản lần đầu bộ sách này theo bản
dịch của Phòng Tu thư Huấn luyện Viện Đông y. TTPGG là một phần của bộ
sách vốn viết bằng thơ Nôm lục bát, đã được phiên âm sang chữ quốc ngữ.
Như lời nhà xuất bản đã viết: “Văn từ sách này là loại văn từ cổ. Văn
thường dùng chữ Hán như ôn ôn nhi phục (đợi nước thuốc âm ấm mà uống);
tịnh khử bất nghi (đều bỏ đi không nên dùng); mạt, cai (gốc, ngọn); giai tô
(đều tỉnh, đều khỏi). Từ thì cũng nhiều từ cổ như mựa (chớ), xưng (khỏi), miễn
(với, và), úi (sốt rét cơn)”.
Vì vậy ngoài phần phiên dịch nguyên văn, nhà xuất bản và các dịch giả
đã phải đưa vào rất nhiều chú thích. Như phần TTPGG có 1190 câu thơ mà có
đến 321 chú thích. Phải nói rằng đây là một việc làm thận trọng, tỉ mỉ, công
kỹ, khoa học và đầy tinh thần trách nhiệm của ban biên dịch, hiệu đính và nhà
xuất bản, giúp người đọc ngày nay tiếp cận với nguyên bản nội dung sách cổ .
Tuy nhiên do văn từ cổ rườm rà khó đọc, lại phải xem quá nhiều chú
thích mới hiểu được, nên có nơi in lại sách thuốc TTPGG của Tuệ Tĩnh đã chủ
trương gạt bỏ nguyên phần văn vần cũ kỹ, thay vào đó là những tóm lược
ngắn gọn bằng văn xuôi hiện đại. Chủ trương này thoạt nhìn có vẻ thực dụng,
nhưng thật ra có nhiều bất tiện. Truyền thống đông y thường bắt buộc người
học phải thuộc lòng các kiến thức y học, nên cần giữ lại hình thức văn thể lục
bát.
Vì vậy chúng tôi đề xuất nên biên soạn THẬP TAM PHƯƠNG GIA
GIẢM LƯỢC BIÊN trên mấy nguyên tắc căn bản là cố gắng giữ lại
những câu văn trong sáng của nguyên bản, tóm lược những đoạn rườm rà
nhưng vẫn trung thành với nội dung chính xác (nhất là phần gia giảm theo
chứng bệnh) và hình thức thể văn lục bát uyển chuyển, khiến người đọc
ngày nay dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc. Bài thuốc đầu tiên (BẤT HOÁN KIM
CHÍNH KHÍ TÁN) nguyên văn 98 câu, được biên soạn rút gọn lại còn 42 câu
ở dưới đây là một ví dụ.
L.Y PHAN CÔNG TUẤN

THẬP TAM PHƯƠNG GIA GIẢM LƯỢC BIÊN

BẤT HOÁN KIM CHÍNH KHÍ TÁN


(Cục phương)

BẤT HOÁN KIM CHÍNH KHÍ phương


Hay chữa nam nữ âm dương chẳng điều
Mình đau, đầu nhức, nhiệt triều,
Cơn sốt cơn rét, nôn nao mửa đàm...
Hoặc là chướng khí sơn lam,
Chẳng tiêu, lạ nước, chứng làm chẳng thông,
Hoặc là ỉa mửa ròng ròng,
Xích – bạch hạ lỵ, đi đồng thảm thương...
Thương truật, Hậu phác, Hoắc hương,
Bán hạ, Cam thảo phối phương Trần bì.
Xem cho biết chứng mà suy
Khéo mà gia giảm dùng thì được yên.

Như người miệng ráo tâm phiền


Mạch môn, Càn cát, Sài, Tiền (hồ) liệu gia.
Nặng đầu - mặt có Cúc hoa,
Tế tân, Cảo bản, Bạc hà, B.Chỉ, X.Khung.
Nhức tai – óc Thạch cao nung
Tán mịn hai chỉ hoà chung uống liền.
Bụng đầy trướng mãn gia thêm
Sa nhân, Chỉ xác bụng êm nhẹ nhàng.
Thịt xương đau nhức râm ran
Khương hoạt, Xích thược, Ma hoàng, Quế chi.
Lãnh tả ỉa rót chứng nguy
Kha tử, Đậu khấu gia thì cầm tuôn.
Đau bụng Quan quế, Can khương.
Xích-bạch hạ lỵ thêm phương nhuận tràng:
Đương quy, Chỉ xác, Tân lang,
Hoàng liên, Bạch thược, Đại hoàng, Mộc hương.
Sốt rét về sáng phát cơn
Tân lang, Thảo quả, Thường sơn trị tài;
Về chiều Đ.Quy, B.Thược, H.Cầm, Sài (hồ),
Xuyên khung, Bán hạ, Ô mai, Thanh bì.
Khí thô suyễn cấp gia gì?
Ma hoàng, Tô tử, Tang bì sẽ an.
Bụng tích khối khí muốn tan
Bồng nga, Chỉ xác, Tân lang, Hương(phụ), Hồi.
Nấc cụt liên tục không thôi
Đinh hương, Thị đế uống rồi sẽ qua.
Tay chân sưng thũng nên gia
Mộc qua, Hậu phác, Ngũ gia, Phúc bì.

Phương danh Bất hoán... đem suy


Vàng còn không đổi huống chi bạc tiền.
PHAN LANG lược biên
(CTQ số 49)

You might also like