Professional Documents
Culture Documents
Màu sắc là con đẻ của ánh sáng. Màu sắc là ánh sáng.
Màu sắc mà chúng ta phân biệt từ ánh sáng là những cảm giác.
Sự phản chiếu của ánh sáng trên những vật thể màu sắc ánh sáng.
Màu của vật thể mà ta cảm nhận được là sự cộng hưởng của màu ánh sáng với màu của
bản thân vật thể đó, màu của các sự vật lân cận tác động vào, màu của bầu khí quyển
đang bao bọc chung quanh đó nữa.
- Theo quang học: Khi luồng áng sáng trắng đi qua lăng kính mặt trời thì tách ra 7 sắc gồm:
Vàng, cam, đỏ, lục, lam, chàm, tím.
- Trong hội hoạ thì màu là những chất liệu cụ thể do những sắc tố được chiết ra từ khoáng chất,
hoá chất, thảo mộc --> màu sắc tố
1. Sắc ( Ton ).
Độ đậm hoặc nhạt của một màu nào đó khi pha trắng hoặc pha đen.
2. Quang độ: (Valuer).
Độ sáng hoặc tối của một màu, là tác dụng liên kết giữa các độ đậm nhạt này với độ đậm
nhạt kia. Ví dụ: trong vòng thuần sắc, vàng là màu có đỉnh quang độ sáng nhất, tím là
màu có đỉnh quang độ tối nhất do Sự đập mắt.
3. Cường độ: (Intensity).
Là mức độ mạnh hay yếu của một màu nào đó (thị giác cảm nhận được độ tươi thắm) do
Sự kích thích thị giác. Ví dụ: Vàng: Quang độ sáng hơn. Cam: Cường độ mạnh hơn do độ
tươi thắm của nó.
Màu càng pha trắng thì quang độ càng sáng nhưng cường độ càng yếu.
Định nghĩa: Vòng tròn khép kín cho thấy tác dụng của các loại màu sắc.
Mục đích yêu cầu: Nắm được tính chất, chức năng, tác dụng của màu sắc để nhận diện
với tên gọi cụ thể, ứng dụng nhuần nhuyễn, thích hợp.
Một phần là khoa học, một phần là nghệ thuật. Vòng thuần sắc là công cụ giúp ta hiểu được màu
nào đi với cái gì.
Bất cứ nơi nào có ánh sáng, nơi đó có màu sắc. Chúng ta thường nghĩ rằng, màu sắc đứng độc
lập với nhau. Màu chúng ta thường nhìn thấy một mình luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những màu
xung quanh. Nó giống như nốt nhạc, không có màu “xấu” hay màu ”tốt”. Đúng hơn là nó chính
là sự kết hợp của những yếu tố xung quanh.
Vòng thuần sắc bao gồm 3 màu chính,mỗi màu có 1 màu bậc nhất và 2 màu bậc 2. Ánh sáng
trắng chứa tất cả màu chúng ta nhìn thấy được, tạo thành một quang phổ vô hạn mà luôn luôn
xuất hiện trong chuỗi từ tím-tới-đỏ, bạn nhìn thấy được trong cầu vồng (bên phải, ở trên). Để làm
cho nó thực tế hơn, vòng thuần sắc miêu tả tính vô hạn với 12 màu cơ bản xinh xinh giống như
hộp bút chì màu đầu tiên của bạn.
Màu đối kháng nhau, khi đứng cạnh nhau màu này làm nổi bật màu kia hay ngược lại.
Có 3 cặp màu tương phản:
Vàng – Tím
Đỏ – Lục
Lam – Cam
Màu nóng: Gây cảm giác ấm áp, gần, kích thích thị giác –> Màu ngả đỏ: Vàng, cam
vàng, cam, cam đỏ, đỏ
Màu lạnh: Gây cảm giác mát mẻ, dễ chịu hoặc lạnh lẽo, xa –> Màu ngả xanh: Lục vàng,
lục, lục lam, lam, tím lam, tím, tím đỏ
Màu trung tính do sự kết hợp giữa trắng và đen tạo ra. Màu không thuộc nóng, không
thuộc lạnh: Màu xám
Có nhiều gốc xám:
+ Xám do đen pha trắng
+ Xám do pha 2 màu tương phản với nhau
+ Xám do pha 3 màu chính với nhau
7. Màu trung gian:
- Màu điều giải sự mâu thuẫn đối kháng về sắc độ, cường độ, quang độ, được pha từ hai
màu đang có sự tương phản với nhau.
- Hai màu tương phản về nóng lạnh, tìm màu trung gian trên vòng thuần sắc.
Màu tương đồng là những màu thoạt nhìn qua trông chúng có vẻ giống nhau, nhóm màu
đứng cạnh nhau trong vòng thuần sắc. Một dãy màu nối tiếp nhau, liên kết nhau chặt chẽ,
không phân biệt nóng lạnh (mở rộng cả khi pha với trắng hoặc đen).
- Màu chiếm diện tích trội nhất trong toàn bộ không gian, chi phối toàn bộ hoà sắc của
không gian
- Một không gian trang trí có màu chủ đạo như một bản nhạc có chủ âm.
- Màu chủ đạo còn tuỳ thuộc vào đề tài, không gian, thời gian, vị trí sử dụng, tâm sinh lý
người sử dụng, ý đồ, tình cảm.
Nói đến màu chủ đạo là nói đến màu nhấn để tạo sự cân đối, hài hoà, là màu tô điểm có
tác dụng dẫn mắt, tạo chính phụ. Màu nhấn là màu tương phản với màu nền (màu chủ
đạo) về tính chất nóng, lạnh, sắc độ, quang độ, cường độ. Sử dụng màu nhấn phải tế nhị
không lộ liễu.
Quy luật hỗ trợ cộng hưởng của các màu sắc, ánh sáng, môi trường, không khí, vật thể. Sử
dụng màu là để diễn tả sự cộng hưởng ấy (không sử dụng màu riêng của từng vật thể mà
không hiểu quy luật cộng hưởng).
Là tên gọi của loại không gian chỉ sử dụng một màu pha với trắng và đen tạo sự liên kết
các sắc độ một cách tinh tế.
Trong bài viết ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cơ bản về những đặc tính quan trọng của
màu sắc. Kiến thức cơ bản này đặc biệt rất hữu ích dành cho những bạn mới học thiết kế.
Màu sắc có thêm bốn thuộc tính liên quan đến màu sắc, cường độ và giá trị của nó. Nguyên lý
màu sắc dạy chúng ta rằng vì màu sắc là phân đoạn của một họ màu cụ thể trên bánh xe, nó cũng
là trạng thái tinh khiết nhất của màu sắc. Từ đó, bằng cách thay đổi cường độ và giá trị, bạn có
thể tạo tông màu (tones), tints và shades.
Tints: Thường được tạo ra bằng cách hoà trộn Hue với màu trắng
Shades: Thường được tạo ra bằng cách hoà trộn Hue với màu đen
Tones: Quá trình hình thành Tone thì tinh tế hơn một chút, bởi vì nó đòi hỏi sự kết hợp
của cả đen và trắng, đây cũng là lý do tại sao Tone trông có vẻ tự nhiên hơn so với Shade
và Tint.
Bánh xe màu
Nếu bạn có bất kỳ bài học nào liên quan đến tranh vẽ, bạn phải nhìn thấy vòng tròn bao gồm các
màu khác nhau. Nó được gọi là bánh xe màu giúp hiểu các màu khác nhau có liên quan lẫn nhau
như thế nào và chúng có thể kết hợp như thế nào. Vòng tròn màu thường được xây dựng bằng
màu cơ bản, màu thứ cấp và màu tam cấp. Chính là ba sắc tố không thể được hình thành bởi bất
kỳ sự kết hợp nào của các màu khác.
Theo lý thuyết về màu sắc, sự kết hợp màu sắc hài hòa sử dụng hai màu đối diện nhau trên bánh
xe màu, 3 màu bất kỳ tương đương chạy xung quanh bảng màu tạo thành một hình tam giác hoặc
4 màu bất kỳ cùng hình thành nên một hình chữ nhật (trong đó, hai cặp màu sẽ đối diện nhau).
Sự kết hợp hài hòa này được gọi là phối màu (color scheme) – đôi khi, thuật ngữ “sự hài hòa về
màu sắc" (Color hamorny) cũng được sử dụng.
Trên bánh xe màu sắc, vẫn còn một sự tách biệt khác mà bạn cần nhận ra để có thể hiểu chính
xác hơn về phối màu: đó là những màu ấm (warm colors) và màu lạnh (cool colors). Mỗi loại
này đều có mục đích riêng của nó nhằm kích thích cảm xúc của người nhìn. Màu nóng tượng
trưng cho năng lượng và sự vui sướng (lý tưởng nhất để truyền tải các thông điệp cá nhân) trong
khi màu lạnh khơi dậy sự điềm tĩnh và yên bình (lý tưởng nhất để sử dụng cho các đồ dùng hoặc
vật liệu trong văn phòng).
Vòng tròn màu được tạo ra vào năm 1666 bởi Isaac Newton theo cách sơ đồ và kể từ đó nó đã
trải qua nhiều phép biến đổi nhưng vẫn là công cụ chính để phối màu. Ý tưởng chính là bánh xe
màu phải được tạo theo cách đó nên màu sắc sẽ là trộn một cách thích hợp.
Vòng tròn màu căn bản có 12 cung chia đều theo hình nan quạt trên diện tích hình tròn, mỗi cung
có 8 cấp độ màu đi dần vào tâm vòng tròn từ đậm đến nhạt. 12 cung x 8 cấp độ sẽ tạo ra 106 màu
căn bản và được đánh số từ 1 đến 106 đó cũng là kí hiệu khi ta chọn màu.
Nhiệt độ màu
Trong nguyên lý màu sắc, màu sắc cũng có nhiệt độ. Đó là một đặc điểm đề cập đến độ mát hoặc
ấm tương đối của mỗi màu. Khi bạn chia bánh xe màu thành hai nửa, những màu lạnh bắt đầu
bằng màu tím và kết thúc bằng màu vàng-xanh lục, trong khi màu ấm bắt đầu bằng màu vàng và
kết thúc bằng màu tím đỏ.
Màu lạnh:
Màu xanh lam và bất kỳ màu nào bao gồm màu xanh lam là thành phần chủ yếu. Màu
càng gần với màu xanh lam trên bánh xe màu (càng có màu xanh lam) thì màu càng lạnh.
Màu ấm:
Màu vàng và bất kỳ màu nào bao gồm màu vàng là thành phần chính. Màu càng gần với
màu vàng trên bánh xe màu (càng có nhiều màu vàng) thì màu càng ấm.
Các kiểu kết hợp màu sắc trong nguyên lý màu sắc
Khi nói đến việc kết hợp các màu bằng cách sử dụng bánh xe màu, có năm cách để kết hợp. Sự
thật là, bạn có thể tạo ra nhiều lược đồ và bảng màu hài hòa như bạn có thể tưởng tượng, nhưng
kết quả sẽ luôn rơi vào một trong các loại đó. Vì vậy, hãy xem chúng hoạt động như thế nào.
Điều tuyệt nhất khi dùng cách này là nó đảm bảo sự hài hòa về màu sắc. Các màu ăn rơ với nhau
một cách hoàn hảo vì chúng có cùng một nguồn gốc.
Trong ví dụ đầu tiên, chúng ta có một bảng phối màu đơn sắc với hai tông màu khác nhau của
màu xanh lam trông phong phú và đa dạng, do các sắc thái và sắc thái khác nhau được tạo ra bởi
gradient. Tương tự với ví dụ thứ hai, cũng sử dụng gradient để làm phong phú thêm tông màu
cam.
Đừng ngại sử dụng bảng màu và tạo ra bộ màu độc đáo của riêng bạn. Các công thức chỉ là điểm
bắt đầu để định hướng và truyền cảm hứng cho bạn.
BỔ TÚC (COMPLEMENTARY)
Màu bổ túc là những màu đối diện nhau trên bánh xe màu sắc, ví dụ xanh lam và cam, hoặc đỏ
tươi và xanh lá.
Để tránh kết hợp màu tương phản trông quá đơn điệu, hãy thêm vài biến thể bằng cách dùng
những tông màu tối hơn, sáng hơn hay độ bão hòa thấp.
Trong ví dụ đầu tiên, các màu bổ sung chính là tím và vàng. Chúng tôi cũng thấy một sự bổ sung
đáng yêu của màu xanh lam-xanh lá cây và màu vôi, tuy nhiên, không có màu xanh lá cây nào
trong số đó bổ sung cho màu tím hoặc màu vàng. Trong thứ hai, các sắc thái màu xanh lam-xanh
lá cây và đỏ-cam pastel tạo ra sự kết hợp bổ sung. Ngoài ra còn có màu nhấn thứ ba là màu vàng,
nhưng tương tự như ví dụ đầu tiên, nó không phải là màu bổ sung cho bất kỳ màu nào trong hai
màu chủ đạo.
TAM GIÁC CÂN (SPLIT-COMPLEMENTARY)
Kết hợp màu kiểu tam giác cân là sử dụng 2 màu kế bên của màu tương phản.
Kiểu kết hợp này cũng tạo hiệu ứng như sự tương phản, nhưng có nhiều màu hơn để sử dụng (và
có tiềm năng kết quả cũng thú vị hơn).
KIỂU BỘ BA (TRIADIC)
Kết hợp bộ ba sử dụng ba màu cách đều nhau, tạo thành 1 tam giác đều trên bánh xe màu sắc.
Kiểu kết hợp này thường khá chói mắt – đặc biệt là khi sử dụng 3 màu sơ cấp hoặc thứ cấp. Vì
thế, bạn nên cẩn thận khi ứng dụng chúng trong công việc.
Trung lập
Màu đen:
Vì nó là một màu phổ quát, nó trông rất tuyệt với bất kỳ màu nào khác. Nó kết hợp đặc
biệt tốt với màu cam, xanh lá cây, trắng, đỏ và vàng.
Màu trắng:
Một màu phổ quát khác, kết hợp hoàn hảo với xanh lam, đỏ và đen.
Màu be :
Xanh lam, nâu, xanh lá cây và đỏ.
Màu nâu: Màu lục lam sáng, màu kem, màu hồng và màu be.
Xám:
Fuchsia, tím, hồng và xanh lam.
Kim loại
Vàng:
Đen, đỏ tía, hồng và xanh quân đội.
Vàng hồng:
Đỏ tím, hồng hạc và hồng đào.
Bạc:
Xanh lam, nâu và vàng cổ.
Đồng:
Trắng, xanh lá cây trung tính và xanh nước biển.
Violet:
Vàng nâu, vàng nhạt và bạc hà.
Blue-Violet:
Cam, hồng, vàng và trắng.
Xanh lam:
Tử đinh hương, lục lam, vàng lục, nâu và xám.
Blue-Green :
Nâu, cam, hồng, đỏ anh đào và màu be.
Xanh lá cây :
Cam, vàng, nâu và trắng kem.
Vàng-Xanh:
Đỏ anh đào, xanh lam và xám.
Màu vàng:
Xám, xanh lam, hoa cà và đen.
Vàng-Cam:
Xám, nâu và ô liu.
Cam:
Lục lam, xanh lam và hoa cà.
Đỏ-cam:
Lục lam, bạc hà và trắng kem.
Đỏ:
Vàng, xanh lá cây, xanh dương và đen.
Đỏ-Tím:
Xám, vôi, bạc hà, xanh, xám và be.
Bạn cũng có thể quan tâm tìm hiểu thêm về màu của năm 2020: Xanh cổ điển .
Màu Gradient:
Vậy gradient là gì? Nói tóm lại, đây là những sự chuyển đổi màu sắc pha trộn từ màu này sang
màu khác và không giới hạn ở chỉ hai màu. Không có quy tắc cho loại màu bạn pha trộn, vì bạn
có thể tạo ra sự chuyển đổi giữa các màu tương tự hoặc các màu tương phản hoàn toàn. Trong
hình bên dưới, có mười ví dụ khác nhau về gradient. Một số bao gồm sự chuyển đổi giữa hai
màu ấm, khác giữa các tông màu lạnh, trong khi trong các trường hợp khác, chúng được trộn lẫn.
Các phương pháp kết hợp màu sắc theo lý thuyết màu sắc giống nhau đối với gradient cũng như
đối với thiết kế phẳng. Tuy nhiên, những gì gradient làm tốt hơn phẳng là chúng tạo ra nhiều
chiều sâu hơn và tạo ra kết cấu. Các kết hợp màu Gradient rất phong phú và thu hút sự chú ý và
kể từ khi chúng trở lại vào năm 2018, chúng cảm thấy rực rỡ, tươi sáng và hiện đại hơn.
Màu sắc gợi lên cảm xúc và không khí của một thiết kế. Mặt khác, tâm lý và ý nghĩa đằng sau
mỗi giai điệu của một màu sắc khác nhau trong các nền văn hóa, trường hợp và sự kết hợp khác
nhau.
Chúng ta thường được nghe nói là màu ấm vốn có tính tích cực trong khi màu lạnh mang lại cảm
giác tiêu cực. Điều này có phần đúng, nhưng nó không phải là một quy luật. Ví dụ, màu đỏ là
một màu ấm nhưng trong hầu hết các tông màu của nó, đặc biệt với cường độ cao hơn và độ tinh
khiết, gợi lên cảm giác giận dữ hoặc nguy hiểm. Màu vàng, màu ấm là chính, có thể gợi lên sự lo
lắng và cảm giác cấp bách. Vì vậy, hãy thử nghiệm các màu sắc và xem mỗi màu có thể ảnh
hưởng như thế nào đến hành vi của đối tượng mục tiêu của bạn.
Mặc dù mọi người thường phản ứng theo một cách nhất định đối với các màu sắc riêng lẻ, nhưng
điều quan trọng cần lưu ý là ảnh hưởng của mỗi màu sắc phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sự kết hợp,
bối cảnh, kinh nghiệm, sở thích cá nhân, tuổi tác, giới tính và sự khác biệt về văn hóa. Nghiên
cứu bổ sung luôn là điều cần thiết khi bạn chọn màu sắc của mình cho một đối tượng mục tiêu cụ
thể.
Màu vàng: Màu sắc tươi sáng và mạnh mẽ, thu hút sự chú ý, ấm áp và sống động. Đồng
thời, nó khó đọc và choáng ngợp đối với mắt của chúng ta và cũng có thể tạo ra cảm giác
thất vọng và lo lắng. Nó thường phổ biến trong bán hàng và tiếp thị.
Màu cam: Rất hấp dẫn và phổ biến cho nút CTA (nút kêu gọi hành động), biểu trưng và
màu nhấn nhờ khả năng thu hút sự chú ý. Nó hiếm khi được sử dụng các điểm nhấn bên
ngoài, vì đây là một màu sắc năng lượng rất mạnh mang lại cảm giác phấn khích và nhiệt
tình. Quá nhiều cam có thể khiến khách của bạn khó chịu.
Màu đỏ: Thường được sử dụng để bán hàng, một màu mạnh gây phản ứng nhanh hơn.
Màu đỏ làm tăng huyết áp và cũng rất tốt để sử dụng để tham gia và giao lưu. Do đó, nếu
nó được sử dụng nhiều, nó có thể có tác động tiêu cực đến khán giả và khiến khách truy
cập của bạn quay lưng.
Màu hồng: Màu nữ tính và lãng mạn nhất, rất lý tưởng cho đồ chơi trẻ em, vườn ươm,
sản phẩm sức khỏe phụ nữ. So với màu cơ bản là đỏ, bạn tiếp xúc với màu hồng càng lâu
thì bạn càng trở nên bình tĩnh hơn.
Màu tím: Màu hoàng gia, gắn liền với sự giàu có, gợi cảm và trí tuệ. Đây là lý do tại sao
nó được sử dụng nhiều với các mặt hàng sang trọng, cũng như các sản phẩm làm đẹp cao
cấp. Do tính chất kịch tính, nó cũng mang lại những rung cảm lãng mạn và bí ẩn.
Màu xanh lá cây: Màu dễ nhìn và thư giãn. Nó liên kết chặt chẽ với thiên nhiên, sản
phẩm sinh học, sự may mắn, sức khỏe và sự giàu có. Mặt khác, màu xanh lá cây cũng là
màu của sự đố kỵ hoặc độc hại, vì vậy tông màu và sắc thái phù hợp của màu này là cực
kỳ quan trọng.
Màu xanh:
Theo một cuộc khảo sát trên toàn thế giới, màu xanh lam là màu phổ biến và được yêu
thích nhất không chỉ ở nam giới mà còn cả phụ nữ. Nó được sử dụng mạnh mẽ trong
truyền thông, ngân hàng và bảo hiểm vì nó gợi lên cảm giác an toàn, trung thành, trung
thực, quyền lực và đáng tin cậy. Tùy thuộc vào bóng râm, màu xanh lam cũng có thể gợi
lên nỗi buồn và sự cô đơn.
Màu đen:
Màu sắc trang nhã và tinh tế thường được sử dụng ở các thương hiệu cao cấp. Nó gắn liền
với đẳng cấp và sức mạnh, và thường được sử dụng trong truyền thông.
Màu trắng:
Màu có độ tương phản cao phổ quát giúp tăng thêm không gian và truyền tải sự tinh
khiết, sạch sẽ, tươi mới và đơn giản nhưng cũng có thể tạo cảm giác vô trùng và lạnh lẽo.
Nó được sử dụng nhiều trong chăm sóc sức khỏe và ngành công nghiệp công nghệ.
Màu xám:
Màu tinh tế dành cho những người tinh tế, không thích nổi bật. Do sự đơn giản của nó, nó
được sử dụng để làm dịu du khách và khiến họ cảm thấy thoải mái. Nó cũng là một màu
phổ biến trong ngành công nghệ.
Màu dịu: Đó thường là những màu nhạt hơn của xanh lam và xanh lục. Các cách phối
màu nhẹ nhàng nhất là bảng màu pastel. Hãy nghĩ đến xanh dương nhạt, bạc hà, tử đinh
hương, hồng phấn, vàng nhạt, đặc biệt khi kết hợp với các màu trung tính như màu be,
trắng và xám nhạt.
Màu năng lượng: Các sắc thái rực rỡ nhất của các màu như đỏ tươi, xanh neon, đỏ tươi,
lục lam, vàng tươi, xanh dương rực rỡ. Đó là những màu sắc kích thích và tiếp thêm sinh
lực nhưng cũng có thể gây khó chịu và kiệt sức.
Màu sắc vui vẻ: Đây là những màu hồng ấm, cam và đỏ. Chúng có thể là màu pastel,
candy, cũng như rực rỡ và hấp dẫn. Điều quan trọng là những màu này phải ở cường độ
cao, nghĩa là bạn có thể thử nghiệm với các value khác nhau, nhưng tránh thêm màu xám.
Màu buồn: Các tông màu xám, không bão hòa và tối của màu lạnh. Khi màu sắc không
có sự sống động và ấm áp, họ có thể cảm thấy trống rỗng, cô đơn và buồn bã.
Hãy cùng xem một số ví dụ trực quan về bản chất linh hoạt của bảng màu lạnh.
Buồn bã và u sầu
Bình tĩnh và thư giãn
Tươi trẻ và nâng cao tinh thần
Bình yên và thanh thản
Lạnh
Trung thành và độ tin cậy
Niềm vui
Ấm cúng và vui vẻ
Bảng màu ấm
Cũng như màu lạnh, màu ấm cũng là một con dao có 2 lưỡi. Một mặt, chúng truyền đạt sự lạc
quan, hạnh phúc, năng lượng, nhiệt huyết và đam mê. Mặt khác, chúng cũng có thể truyền tải sự
lo lắng, khẩn cấp, báo hiệu nguy hiểm và phẫn nộ. Màu đỏ và vàng kích thích phản ứng nhanh và
tăng nhịp tim, cũng như cảm giác thèm ăn. Vì vậy, hãy xem những công dụng khác nhau của
chúng trong cách phối màu và chúng gợi lên tâm trạng nào.
Năng lượng
Hạnh phúc
Lãng mạn và gợi cảm
Ấm áp
Yêu và quý
Niềm đam mê
Sự lo ngại
Hoang mang và sợ hãi
Màu sắc – yếu tố thị giác căn bản
Màu sắc là yếu tố thị giác tạo ra hiệu ứng mạnh nhất tới cảm xúc của chúng ta. Chúng ta sử dụng màu sắc để tạo
ra tâm trạng hay bầu không khí cho một tác phẩm nghệ thuật hay sản phẩm thiết kế. Có rất nhiều cách tiếp cận
đối với việc sử dụng màu sắc, hữu dụng cho nghệ sĩ và đặc biệt cần thiết với nhà thiết kế.
Đèn đường (Street Light) (1909) của Giacomo Balla, sơn dầu trên toan
Màu sắc là thứ cảm nhận được các bước sóng ánh sáng khác nhau kích thích trong não của chúng ta. Một bước
sóng sẽ kích thích nhận thức của ta về màu đỏ, sóng khác thì màu cam, màu vàng, v.v. qua tất cả các màu của
quang phổ.
Đèn đường của Giacomo Balla là một ấn tượng đầy chất thơ tái hiện những thuộc tính vật lý của ánh sáng. Ở
tâm của tác phẩm là một bóng đèn cháy với một luồng nhiệt trắng trong bóng tối của buổi đêm. Sự phát sáng
bức xạ của nó hoà tan vào các sóng đồng tâm, mỗi sóng giảm dần cường độ và thay đổi màu sắc gợi ra các bước
sóng khác nhau của quang phổ.
Balla là một nhà Vị lai Ý, người tôn vinh sự hiện đại của cuộc sống thành thị. Ông vẽ bức Đèn đường vào thời
điểm đèn điện lần đầu xuất hiện trên đường phố của Rome. Đây là một sự ăn mừng Vị lai với sức mạnh của công
nghệ như là một biểu tượng của thời đại mới. Ánh sáng thậm chí còn sáng hơn chính tự nhiên khi vầng hào
quang của mặt trăng lưỡi liềm chật vật cạnh tranh với sự chói sáng của đèn điện. Kỹ thuật vẽ mà Balla sử dụng
có nguồn gốc từ Điểm chấm, một cách tiếp cận khoa học hơn trong phân tích màu sắc, và như vậy tạo nên một
cuộc hôn nhân hoàn hảo giữa chủ thể và cách thực hiện nó.
Vương quốc ánh sáng (Empire of Light) (1954) của René Magritte, sơn dầu trên toan
Vương quốc ánh sáng của René Magritte là một hình ảnh thơ ngây về sự tĩnh lặng ở vùng ngoại ô với một chút
rẽ ngã về hướng siêu thực: khung cảnh được đặt vào lúc nửa đêm nhưng bầu trời rõ ràng là đứng lại vào giữa
trưa. Hình ảnh mang tính lật đổ này kết hợp một mâu thuẫn giữa các thế đối lập vào cấu trúc thống nhất của nó:
ngày gặp đêm, tối gặp sáng, và thực tại gặp trí tưởng tượng. Kỹ thuật đầy thuyết phục mà người nghệ sĩ sử dụng
để vẽ bức tranh đưa người xem tham gia vào việc tìm kiếm bất khả thi cho một ý nghĩa hợp lý, từ đó lôi kéo họ
vào địa hạt phi lý của chủ nghĩa Siêu thực.
Màu sắc như sắc độ:
Hồ Lucerne (Lake Lucerne) (1930) của Emile Nolde, màu nước trên giấy da bê
Màu sắc kịch tính kết hợp với kỹ thuật vẽ đầy sức sống là những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Biểu hiện
trong nghệ thuật. Hội hoạ Biểu hiện thiên về việc sử dụng màu sắc và các phẩm chất vật lý của phương tiện nghệ
thuật để thể hiện cảm xúc của tác giả về chủ đề hơn là đơn thuần mô tả nó theo kiểu tự nhiên.
Hồ Lucerne của Emil Nolde là một ví dụ cổ điển về kỹ thuật vẽ tranh theo chủ nghĩa Biểu hiện. Nó được vẽ từ
trí nhớ nhiều hơn là từ quan sát thực tế, sử dụng tính linh hoạt tự nhiên của màu nước để phản ánh tâm trạng
thay đổi của phong cảnh. Đầu tiên Nolde ngâm giấy của mình, trong trường hợp này là giấy da bê, trong nước.
Sau đó, ông dựng nên hình dạng của những ngọn núi bằng các lớp màu xanh với sắc độ khác nhau, cường độ
cao hơn ở tiền cảnh và nhạt dần về phía hậu cảnh. Điều này tạo ra một ấn tượng về phối cảnh trên không khi các
sắc độ màu đều có vẻ như mờ dần vào cảnh vật ở xa. Ông tiếp tục sử dụng kỹ thuật ‘ướt trên ướt’ để tạo dựng
nên các lớp phù du của mây và những hình phản chiếu dạng nước trên mặt hồ. Cuối cùng, ông đưa một đốm
vàng loang vào bề mặt ẩm để tạo ra vầng sáng của mặt trời mà rồi ông lặp lại trên mặt hồ ở dạng phản chiếu của
nó.
Emil Nolde nhận xét về chính kỹ thuật màu nước của mình “Tôi luôn muốn vẽ để tôi, người hoạ sĩ, trở thành
một phương tiện mà qua đó màu sắc tự tạo ra sự phát triển lý lẽ của riêng chúng theo cùng một cách thiên nhiên
tạo ra tác phẩm của mình… Đôi khi, tôi cảm thấy như thể bản thân tôi không thể làm gì, mà thiên nhiên đi vào
trong và qua tôi mà có thể làm được rất nhiều điều.”
Những vũ công xanh (Blue Dancers) (1899) của Edgar Degas, phấn màu
Sự hài hòa là sự tương thích, cân bằng, hoặc tăng tiến của các yếu tố tương tự nhau. Những vũ công xanh của
Edgar Degas là một bức tranh màu phấn được bố cục cẩn thận, minh hoạ cho sự hài hoà của màu sắc cũng như
của một số yếu tố thị giác khác:
Hình dạng của toan vẽ là hình vuông trong khi chuyển động quay của các nhân vật được cấu thành trong một
dạng hình thoi tạo ra một sự hài hoà của các hình dạng vuông vắn.
Các đường diềm trang trí quanh thân váy tạo ra một sự hài hoà tinh tế của các đường cong.
Các góc nhọn của cánh tay, khuỷu tay, cổ tay tạo ra một sự hài hoà nhịp nhàng.
Màu đất son ấm của phần hậu cảnh đáng phải xung đột với những chiếc váy màu xanh lam ở tiền cảnh bởi vì
chúng là màu đối lập. Tuy nhiên, Degas đã hoà giải sự đối lập này bằng một sự hài hoà thông minh. Ông quét
những vệt xanh lên trên màu đất son để tạo ra cân bằng đối kháng với lớp màu son lấp ló dưới những chiếc váy
màu xanh. Điều này làm hài hòa tiền và hậu cảnh nhưng vẫn giữ được đủ mức độ tương phản để kích thích sự
quan tâm của người xem.
Các hình vuông lùi lại trong hình ảnh này tạo thành hình dạng của chuyển động trong khi sự tiến triển của màu
sắc quyết định tốc độ của nó. Trong hình minh hoạ này, các chuỗi màu thay thế đã được tách ra để bạn nhìn thấy
mối quan hệ của chúng một cách rõ ràng hơn. Giờ bạn có thể phân biệt thang sắc độ của chúng khi một chuỗi
chuyển từ tối qua sáng và về tối, trong khi chuỗi còn lại đi từ sáng qua tối và về sáng. Những sự tương phản thay
đổi của những chuỗi này tạo ra một sự thay đổi đối kháng (counterchange) của sắc độ và màu sắc tạo ra chuyến
tàu lượn võng mạc tên là Vonal KSZ.
Màu sắc như biểu tượng:
Những người ăn khoai tây (The Potato Eaters) (1885) của Vincent van Gogh, sơn dầu trên toan
Những người ăn khoai tây của Vincent Van Gogh là kiệt tác từ thời kỳ đầu sự nghiệp trước khi ông chuyển tới
sống ở Paris vào năm 1886. Nó khắc hoạ một gia đình nông dân Hà Lan nghèo khổ đang ngồi quanh bàn chia sẻ
bữa ăn tối đạm bạc của họ. Họ là những người lao động nông nghiệp và những màu xanh và nâu đất mà Van
Gogh dùng là biểu tượng cho sự gần gũi và phụ thuộc vào đất đai để sinh tồn của họ. Có một sự thống nhất về
màu sắc và kết cấu giữa những bàn tay, khuôn mặt của những người nông dân và khoai tây cùng cà phê mà họ
đang chia nhau. Sắc độ u tối của tác phẩm phản ánh một cách đồng cảm về sự tồn tại khiêm nhường của các đối
tượng và sự tôn trọng của người nghệ sĩ đối với phẩm giá thầm lặng trong lao động của họ.
Hình 6.10: Sơ đồ vòng tròn màu của Johann Wolfgang Von-Goethe (1793)
Ba đỉnh tam giác thuận biểu thị ba màu gốc. Ba đỉnh tam giác ngược biểu thị ba màu bậc hai.
Hình 6.11: Khối màu của Philip Otto Runge
Lý thuyết về màu sắc đầu tiên được thể hiện dưới dạng ba chiều.
Hình 6.12: Vòng tròn màu và khối màu của Michel - Eugene Chevreul James Clerk Maxwell
James Cleck Maxwell nhà vật lí, nhà toán học người Scotland nối tiếp với nghiên cứu màu sắc. Ông đã phát triển
lí thuyết hệ thống ánh sáng màu. Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng thí nghiệm của mình ông đã chứng tỏ ba màu
sắc sơ cấp là: đỏ - xanh lục - xanh lam đã tạo ra được màu bất kì bằng cách thay đổi tỷ lệ phối kết giữa chúng
(dùng con quay màu)
James Cleck Maxwell đã đưa ra hệ thống cộng màu (additive mixing) hình tam giác. Sơ đồ này có ba đỉnh gốc
là: đỏ - xanh lá cây - xanh lam. Bất kỳ màu nào trong tam giác cũng có thể được tạo ra bởi sự pha trộn theo tỷ lệ
cố định của ba màu sơ cấp.
Hình 6.13 là tam giác cộng màu của Maxwell. Sơ đồ cho thấy:
- Đỏ hòa với lục với tỷ lệ bằng nhau cho vàng (điểm giữa của cạnh z)
- Lục hòa với đỏ cho Cyan (điểm giữa cạnh x)
- Lam hòa với đỏ cho Magenta (điểm giữa cạnh y)
- Hòa cả ba màu sơ cấp theo tỷ lệ bằng nhau được màu trắng (ở trung tâm tam giác)
- Hai màu đối nhau qua đường cao tam giác gọi là màu bổ túc (Complementary) hòa với nhau cho trắng: đỏ +
cyan = lục + magenta = lam + vàng = trắng
Lý thuyết màu của Maxwell được coi là bước ngoặt trong lí thuyết về màu sắc, cụ thể là ánh sáng màu. Lý thuyết
của ông mở đầu cho RGB (red, green, blue); nó làm nền tảng cho màu TVPC, digital camera sau này.
Hình 6.13: Tam giác màu Maxwell
* Willhelm Von Bezold: Vòng tròn màu được phát hiện bởi Willhelm Von-Bezold - nhà khoa học người Đức
(hình 6.14) cũng dựa trên ba màu của lí thuyết màu RGB (đỏ, xanh lam, xanh lục). Sơ đồ chia làm hai phần, bên
ngoài là hình vành khăn, bên trong là hình tam giác. Hình vành khăn được chia thành mười hai đoạn, mỗi đoạn
là một màu gồm: trên đỉnh cao là đỏ tía (purple), tiếp đến là đỏ son (Carmine) - đỏ cam (Vermillion) - Cam
(Orange) - Vàng (Yellow) - Vàng xanh (Yellowish-green) - Xanh lục (Green) - Xanh lục lam (Bluish-green) -
Xanh ngọc (Turquoise Blue) - Xanh biển đậm (Ultra Marine) - Tím tía (Purpis Violet).
Các màu đối nhau (tương phản) hay còn gọi là các màu bổ túc (Complementary colors) gồm:
- Đỏ cam và xanh lục
- Cam và xanh lục
- Vàng và xanh biển đậm
- Vàng xanh và tím tía
- Xanh lục và đỏ tía
* Ewalld Hering: Nhà tâm lí học nhận thức người Đức tạo ra vòng tròn màu dựa trên nhận thức thị giác của con
người. Lí thuyết màu của ông được xây dựng trên cơ sở đồ phẳng. Các màu cơ bản trong hệ thống của ông là:
đỏ - vàng - xanh lục - xanh lam. Ông cho rằng bốn màu sắc này cùng với đen và trắng là đơn nhất, nó hoàn toàn
không giống nhau về cảm giác thị giác. Trên vòng tròn màu Hering cài lồng bốn màu vào nhau, bên trong là
bánh xe màu, kết quả của sự cài lồng vành ngoài. Xem hình 6.15.
* Ogden Rood: Vào cuối những năm 1870, nhà vật lí người Mỹ Ogden Rood đã phát triển vòng tròn màu và
khối màu dựa trên ánh sáng màu gốc (light primaries) là: đỏ - xanh lục - xanh lam giống như Maxwell trước đó.
Ở hình tròn, tâm là màu trắng và các màu nguyên chất (pure hues) như vòng thuần sắc được đặt ở vòng ngoài
đường tròn. Hình nón kép đối xứng có hai đỉnh, đỉnh trên là màu trắng, đỉnh dưới là màu đen. Như vậy, ở trên
đĩa tròn các màu bên ngoài tươi hơn, càng vào trong càng sáng nhạt dần.
Sơ đồ của Ogden Rood có phần nào giống Philip Otto Runge. Xem hình 6.16.
Hình 6.14: Bánh xe màu và khối màu của Willhelm Von-Bezold
Hình 6.15: Vòng tròn màu của Ewalld Hering (1878)
Hình 6.16: Vòng tròn màu và khối màu của Ogden Rood (1879),
lấy ánh sáng màu: đỏ - xanh lục - xanh lam làm gốc
* Alois Hofler: Alois Hofler - nhà khoa học người Austria phát triển lí thuyết màu ba chiều dựa trên thị lực của
người. Khối màu là khối tháp tứ giác đối xứng qua mặt đáy. Mỗi góc của tứ giác là các màu cơ bản: đỏ - vàng -
xanh lá - xanh lam. Các màu này pha trộn với nhau để thành màu xám ở tâm. Tất cả các màu pha trắng có sắc
sáng (tin = colors + white) chuyển dần lên phía trên có màu trắng. Tất cả các màu pha đen có sắc sẫm (shade=
color + black) chuyển dần về màu đen phía dưới (hình 6.17a).
* Albert H. Munsell: Họa sĩ - nhà sư phạm nghệ thuật người Mỹ Albert H. Munsell dựa trên cảm nhận của mắt
người thay vì dựa trên thước đo vật lí hay thành phần hóa học của màu sắc đã dựng lên vòng tròn màu và khối
màu. Hệ thống này được tạo nên bởi năm màu cơ bản (primary colors). Ba tính chất hay phẩm chất căn bản của
màu sắc: sắc tố - sắc độ - cường độ và hiện tượng dư ảnh của giác quan (perceptual afterimage phenomeno) được
dùng để xác định một màu cụ thể. Hiện tượng dư ảnh diễn ra như sau: Ví dụ khi nhìn chằm chằm vào một vùng
màu vàng có sắc tố mạnh trong vài phút rồi nhìn vào một bề mặt xám nhạt ta sẽ nhìn thấy dư ảnh màu tím xanh
(purple-blue). Màu tím xanh chính là màu bổ túc (complementary color) hay màu đối nghịch về thị giác của màu
vàng.
Năm màu cơ bản của vòng tròn
- Đỏ (Red) :R
- Vàng (Yellow) :Y
- Xanh lá (Green) :G
- Xanh lam (Blue) :B
- Đỏ tía (Purple) :P
Năm màu trung gian kẹp giũa các màu trên có được bằng cách pha trộn hai màu liền kề:
Đỏ + Vàng = Vàng cam : YR
Vàng + Xanh lá = Vàng xanh : GY
Xanh lục + Xanh lam =Lam lục : BG
Xanh lam + Đỏ tía =Tím xanh : PB
Đỏ tía + Đỏ = Tím đỏ : RP
Xem hình 6.17b.
Để thực tế những quan hệ ba chiều của màu sắc, phù hợp với tính chất biến thiên của màu sắc với đặc tính: sắc
tố, sắc độ, cường độ, Munsell đã nghĩ ra hệ khối màu ba chiều có hình dạng của một cây xanh. Cột trụ thân cây
với màu đen ở đáy và dâng lên đến màu trắng ở đỉnh. Ở các nhánh, cường độ màu của nhánh phía ngoài là màu
có sắc mãnh liệt nhất, các tầng sắc độ, cường độ giảm dần vào trong.
Hình 6.17a: Sơ đồ kim tự tháp đối xứng và phần trung tâm với các màu cơ bản: đỏ - vàng - xanh lá - xanh
lam của Hofler
Hình 6.17b: Vòng tròn màu của Munsell
Hình 6.17c: Cây màu ba chiều của Munsell
Phần quan trọng của hệ màu Munsell là tạo ra kí hiệu màu, mô tả một màu bằng chữ cái và số: 5 là màu chính,
10 là màu trung. Ví dụ 5Y là vàng; 2,5Y có một lượng nhỏ da cam; 7,5Y có một lượng nhỏ xanh lá. Việc ghi kí
hiệu này là cần thiết trong công nghiệp bởi hệ thống màu sắc phải được sử dụng chính xác từ lúc thiết kế tới sản
xuất. Sau khi Albert Munsell qua đời vào năm 1918, một số đồng nghiệp của ông đã thành lập công ty màu
Munsell và công bố nghiên cứu của ông. Năm 1943, ngành công nghiệp Hoa Kỳ đã đưa ra hệ màu Munsell làm
tiêu chuẩn để dặt tên cho các màu khác nhau.
* Wilhelm o stwald và hệ màu o stwald: Wilhelm Ostwald là nhà hóa học, nhà vật lí học được giải Nobel.
Năm 1916 ông phát triển lý thuyết màu sắc dựa trên sự cảm nhận con người về mặt thị giác và tâm lí thụ cảm.
Hệ màu của Wilhelm Oswald gồm vòng tròn màu và khối màu cùng các sơ đồ diễn giải. Vòng tròn màu được tổ
chức như sau:
- Bốn màu cơ bản gồm: Vàng - đỏ - xanh biển sẫm (ultra-marine blue) và xanh lục biển (see green).
- Bốn màu trung gian được tạo ra từ bốn màu cơ bản là: cam - đỏ tía (purple) - ngọc lam (turquoise) và xanh lá
(leaf green).
- Vòng tròn màu này được phát triển dựa trên nguyên tắc mỗi cặp màu trộn lẫn nhau với hàm lượng tương đương
sẽ tạo ra một màu giữa hai màu đó.
- Vòng tròn màu gồm 24 màu khác nhau phát triển từ tám màu cơ bản và màu trung gian. Xem hình 6.18.
Hình 6.18: Vòng tròn màu với 24 màu của Wilhelm Ostwald (1916)
- Các màu số 2, 8, 14, 20 là các màu căn bản.
- Các màu số 5, 11, 17, 23 là các màu trung gian.
Khối màu của Ostwald là hai hình nón úp vào nhau (hình 6.19), đỉnh nón trên là màu trắng, đỉnh nón dưới là
màu đen. Vành đáy nón là các vòng thuần sức 24 màu. Các múi màu trên khối nón thu dần về đỉnh trắng và đen,
các màu thuần sắc pha dần với hai màu này. Nhờ khối nón có thể tìm được ra những màu có cùng cường độ,
cùng lượng trắng và đen.
Hệ thống lí luận của Ostwald dựa trên hai phạm trù của màu sắc là: màu vô sắc (Archromatic color - trắng, xám,
đen) và màu có sắc (Chromatic color - vàng, đỏ, xanh lam, xanh lục) và các màu giữa chúng và cận kề chúng,
cụ thể:
Hình 6.19: khối màu Ostwald
a. Sơ đồ khối nón cho phép ta nhìn thấy rõ vòng thuần 24 màu.
b. Hình vẽ khối màu mô tả sự biến chuyển về sắc độ màu.
c. Sơ đồ không gian khối nón với ví dụ về sự biến đổi sắc đỏ theo dải đen trắng.
Màu vô sắc: Màu vô sắc có thể hình thành một dải vô tận từ trắng qua ghi, xám tới đen. Theo Ostwald, sự cảm
nhận màu vô sắc là mức độ sáng của mỗi màu. Độ sáng đậm hay nhạt phụ thuộc vào lượng ánh sáng chiếu xuống
bề mặt và phản chiếu lại. Nếu tất cả ánh sáng bị phản chiếu lại được nó coi là trắng hoàn toàn; nếu ánh sáng bị
hấp thụ hết nó được gọi là đen hoàn toàn.
Thước đo màu xám của Ostwald là một thang gồm 8 nấc (hình 6.20) tương ứng với độ giãn cách trên bảng chữ
cái là: a, c, e, g, i, l, n, p. (Lúc đầu thang gồm 26 bước nhưng trên thực tế mắt người khó cảm nhận được sự
chênh lệch ít giữa các thang). Kèm theo mỗi nấc là tỷ lệ phần trăm, số phần trăm biểu thị lượng trắng, đen là số
100 trừ đi lượng trắng.
Màu có sắc: Sự biến đổi màu sắc được Ostwald thể hiện dưới dạng sơ đồ tam giác, gọi là tam giác màu. Hình
6.21 là sơ đồ tam giác màu mô tả màu thuần sắc biến đổi khi pha dần với màu trắng, đen và ghi (đen + trắng).
Hình 6.22 là các bước biến đổi khi phối kết các nấc thang màu vô sắc (các chữ cái chỉ cấp độ đậm nhạt ở hình
6.20).
Hình 6.20: Thang đo màu xám của Wilhelm Ostwald
TRANG TRÍ MÀU
Trang Trí Màu là phương thức vẽ phối hợp dãy màu sắc theo quy luật từng màu và đặt chúng cạnh
nhau trong trường hợp cụ thể để thể hiện những chủ đề khác nhau, cho bức tranh trở nên hài hòa
và cân đối.
Khi dùng các màu cơ bản này pha với nhau, ta lại có được 3 màu khác, gọi là màu bậc 2. Nếu màu
bậc 2 mà pha thêm màu khác vào thì thành màu bậc 3, tương tự cho bậc 4, bậc 5.
Tuy nhiên, hầu hết các màu lên tới bậc 5 sẽ ngả sang màu xám chết. Lí do là vì bản chất của màu
mà ta dùng đều là sản phẩm hoá học, tác dụng với nhau quá nhiều sẽ khiến màu trơ ra và trở về
nguyên liệu lúc đầu, và nó là màu chết.
Các màu bậc 2 (có từ các cặp màu chính)
Các màu bậc 3 (nếu như pha tiếp màu bậc 2 với 1 màu bậc 1 “sinh” ra nó)
Thực ra các công thức trên chỉ đúng khi pha với tỉ lệ 5 – 5. Nếu thay đổi tỉ lệ 1 chút, ta sẽ thu được
thêm nhiều màu khác nữa. Điển hình là cặp Đỏ – Xanh lam, nếu cho tỉ lệ Đỏ nhiều hơn sẽ ngả ra
sang các màu như Tím Bordeux, Tím huyết – nếu cho Xanh lam nhiều hơn thì ngã sang Tím than,
Tím xanh.
Trắng và Đen
Về lý thuyết, Trắng và Đen cũng không thể dùng màu nào khác mà pha ra được. Trắng và Đen
không gọi là màu, mà gọi là sắc độ của màu, nên chúng không được gọi là màu cơ bản. Thêm
Trắng thì màu sẽ sáng ra, thêm Đen thì tối lại. Nếu biết sử dụng 2 màu này một cách khéo léo để
pha với các màu khác thì sẽ thu được hiệu ứng chuyển màu rất tuyệt.
Một bài tập thường thấy của các giáo viên dạy môn Màu đó là Vòng thuần sắc, chủ yếu để dạy các
bạn cách pha màu và cách nhận biết các sắc độ của màu.
Chú ý: Khi rảnh rỗi, các bạn nên tập pha các màu bậc 3 – 4. Pha một cách tuỳ hứng, ngẫu nhiên.
Nếu cảm thấy màu nào vừa ý mình thì hãy ghi nhớ tỉ lệ và công thức. Sử dụng các màu bậc cao để
tạo ra phong cách riêng của mình, màu càng lạ càng gây ấn tượng với Ban giám khảo chấm thi.
Những cặp màu này khi nằm cạnh nhau sẽ tạo hiệu ứng nổi bật, tôn nhau lên tùy theo độ sáng tối
phụ trợ mà bạn sử dụng.
Ngoài ra thì các bạn có thể sử dụng màu magenta và cyan để cho bài của mình thêm tươi tắn và
nổi bật hơn.
Mỗi người có một cá tính riêng, một sở thích riêng, do đó dẫn tới sẽ có gam màu riêng đặc thù của
mình.
Không nên bắt chước gam màu của người khác, việc sử dụng gam màu không phải của mình sẽ
rất gượng ép, khó phối hợp với nhau.
Trong quá trình luyện vẽ Màu, bạn nên tìm cho riêng mình 1 – 2 gam màu, bảo đảm sẽ tốt hơn khi
phát triển các bài về sau và không còn lúng túng khi tìm màu nữa.
\Màu sắc (tên Ai Cập cổ đại "iwen") được coi là một phần không thể thiếu trong bản chất của
một vật phẩm hoặc con người ở Ai Cập cổ đại, và thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau có
nghĩa là màu sắc, hình dáng, đặc điểm, bản thể hoặc bản chất. Các vật phẩm có màu tương tự
được cho là có tính chất tương tự.
Màu vàng (tên Ai Cập cổ đại "khenet") là màu da của phụ nữ, cũng như da của những người sống
gần Địa Trung Hải - người Libya, người Bedouin, người Syria và người Hittite. Màu vàng cũng là
màu của mặt trời và cùng với vàng, có thể tượng trưng cho sự hoàn hảo. Cũng như màu xanh lam
và xanh lá cây, người Ai Cập cổ đại đã sản xuất ra chất antimonit chì tổng hợp màu vàng - tuy
nhiên, tên gọi của nó là Ai Cập Cổ đại vẫn chưa được biết đến.
Khi nhìn vào nghệ thuật Ai Cập cổ đại ngày nay, có thể khó phân biệt giữa chì antimonit, (có màu
vàng nhạt), chì trắng (có màu vàng rất nhẹ nhưng có thể sẫm lại theo thời gian) và orpiment (màu
vàng tương đối đậm nhạt dần trực tiếp. ánh sáng mặt trời). Điều này khiến một số nhà sử học nghệ
thuật tin rằng màu trắng và màu vàng có thể hoán đổi cho nhau.
Realgar, mà chúng ta coi là một màu cam ngày nay, sẽ được phân loại là màu vàng. (Thuật ngữ
cam đã không được sử dụng cho đến khi trái cây đến châu Âu từ Trung Quốc vào thời trung cổ -
ngay cả văn bản Cennini vào thế kỷ 15 cũng mô tả nó là màu vàng!)
Vàng (tên Ai Cập cổ đại "newb") tượng trưng cho xác thịt của các vị thần và được sử dụng cho bất
cứ thứ gì được coi là vĩnh cửu hoặc không thể phá hủy. (Ví dụ, vàng được sử dụng trên quan tài
vì pharaoh đã trở thành một vị thần.) Trong khi vàng lá có thể được sử dụng trong điêu khắc, vàng
hoặc vàng đỏ được sử dụng trong các bức tranh về da của các vị thần. (Lưu ý rằng một số vị thần
cũng được vẽ với màu da xanh lam, xanh lục hoặc đen.)
Màu đỏ (tên Ai Cập cổ đại "deshr") chủ yếu là màu của hỗn loạn và rối loạn - màu của sa mạc (tên
Ai Cập cổ đại "deshret", vùng đất đỏ) được coi là đối lập với vùng đất đen phì nhiêu ("kemet"). Một
trong những sắc tố đỏ chính, màu đỏ son, được lấy từ sa mạc. (Chữ tượng hình cho màu đỏ là ibis
ẩn sĩ, một loài chim, không giống như các ibis khác của Ai Cập, sống ở các khu vực khô hạn và
ăn côn trùng và các sinh vật nhỏ.)
Màu đỏ cũng là màu của lửa hủy diệt và cuồng nộ và được dùng để đại diện cho một thứ gì đó
nguy hiểm.
Thông qua mối quan hệ của nó với sa mạc, màu đỏ trở thành màu của thần Seth, vị thần truyền
thống của sự hỗn loạn, và gắn liền với cái chết - sa mạc là nơi mà con người bị đày ải hoặc bị đưa
đến làm việc trong hầm mỏ. Sa mạc cũng được coi là lối vào thế giới ngầm, nơi mặt trời biến mất
mỗi đêm.
Khi hỗn loạn, màu đỏ được coi là đối lập với màu trắng. Về sự chết chóc, nó đối lập với màu xanh
lá cây và màu đen.
Trong khi màu đỏ là màu mạnh nhất trong tất cả các màu ở Ai Cập cổ đại, nó cũng là màu của sự
sống và sự bảo vệ - bắt nguồn từ màu máu và sức mạnh hỗ trợ sự sống của lửa. Do đó nó thường
được sử dụng để làm bùa hộ mệnh.
7. Lựa chọn thay thế hiện đại cho màu sắc Ai Cập cổ đại:
1. Màu sắc trong tranh Phục Hưng – hội họa truyền thống tả thực:
Trong suốt hơn một nghìn năm chìm trong đêm trường Trung cổ (khoảng năm 350 cho tới năm
1453), toàn bộ châu Âu như bị bao trùm bởi một bóng đen kìm hãm sự phát triển về nhiều mặt,
trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ hoàn toán phục vụ Nhà thờ. Với văn học, hết thảy những
trường ca kể lại cuộc chiến đấu chống lại quỷ cám dỗ hoặc chiến đấu vì nhà vua. Kiến trúc tôn
giáo phát triển mang phong cách Roman nặng nền biểu hiện uy quyền to lớn của Chúa, sau đó là
phong cách Gothic nhẹ nhàng hơn với xu thế vươn lên cao hướng tới Thiên đường. Hội họa không
có giá trị riêng, nó phụ thuộc hoàn toàn vào kiến trúc vì chỉ được sử dụng với mục đích trang trí
nhà thờ và minh họa các tích trong Thánh Kinh… Chỉ tới khi người Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện cuộc
tấn công (1453), Constantinople thất thủ, các học giả Hy Lạp từ Byzantine chạy nạn sang Tây Âu
đã mang theo các tác phẩm nghệ thuật và triết học Hy Lạp cổ đại khiến châu Âu hết sức kinh ngạc.
Từ đó dấy trong tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Châu Âu khát khao tìm kiếm các giá trị cũ rực rỡ, sáng
tạo những giá trị mới. Một thời kỳ mới của nghệ thuật được mở ra. Người ta gọi đó là thời kỳ văn
nghệ Phục Hưng Châu Âu.
Thời kỳ này, hội họa thu nhận bộ khung khoa học thấu thị và giải phẫu làm cho trình độ tả thực tái
hiện khách quan chưa từng có. Từ thế kỷ XV người ta đã phát hiện ra sơn dầu. Để vẽ những vật
có sự chuyển biến về khối các tác giả thường lấy màu pha với màu đen để tạo ra bóng tối. Sự
chuyển biến đậm nhạt bằng cách pha các màu với màu đen làm cho các họa sỹ diễn tả rất tinh tế
trong phong cảnh cũng như khi vẽ người. Bản chất của sơn dầu là đục nên khi pha với màu đen nó
thường tạo nên hòa sắc trầm ấm. Vì vậy trong các tác phẩm hội họa cổ điển ánh sáng rất sâu, hình
ảnh của mọi vật có khối tích được nghiên cứu rất kỹ. Tác phẩm của họa sĩ Hà Lan Rembrandt
(1606-1669) vẽ nàng Daniel nằm trên giường có trải ga trắng, xung quanh căn phòng và giường
được chạm nổi rất tinh tế và sâu sắc. Họa sỹ đã diễn đạt rất thành công và sống động cái ánh sắc
của vàng tràn ngập trong căn phòng. Cách thức pha trộn màu với màu đen đã tạo ra hòa sắc ở trong
tranh tuy tinh tế nhưng làm cho người xem vẫn có cảm giác khô chặt. Họa sỹ Paul Rubens ngày
đó được coi là người thiên về lối vẽ mạnh, dùng màu tương phản rực rỡ.
Trong lĩnh vực nghệ thuật thiết kế người ta chia ra: thiết kế 2 chiều, thiết kế 3 chiều, thiết kế môi
trường, thiết kế đa phương tiện.
Thiết kế 2 chiều bao gồm: thiết kế logo, biểu tượng (Symbol), nhãn sản phẩm (Label), thiết kế bộ
giấy văn phòng (Stationary) trong đó bao gồm: danh thiếp (Name card), giấy viết thư (Letterheard),
bao thư (Envelop)… Thiết kế 2 chiều còn có: Thiết kế Poster (Poster chính trị xã hội và poster
quảng cáo…), thiết kế Banner, Backdrop, Folder, thiết kế lịch treo tường, thiết kế Tem Bưu
chính…
Trong lĩnh vực thiết kế nói chung và thiết kế đồ họa nói riêng có rất nhiều chuyên ngành. Mỗi
chuyên ngành lại có loại ngôn ngữ, phương pháp thiết kế và khả năng truyền thông không giống
nhau.
Tuy nhiên xét về hiệu quả truyền thông có ba yêu cầu lớn:
- Thứ nhất: ý tưởng có khả năng truyền thông, làm cho người xem hiểu đúng về nội dung, ý tưởng,
tinh thần của đề tài, của sản phẩm. Ý tưởng càng độc đáo càng tốt, nhưng không khó hiểu.
- Thứ hai: Hiệu quả truyền thông chủ yếu dựa vào giá trị của sự dễ hiểu, hiểu nhanh, hiểu chính
xác không hiểu nhầm.
- Thứ ba: Giá trị thẩm mỹ của sản phẩm truyền thông, đẹp, lôi cuốn, hấp dẫn trên cơ sở ngôn ngữ
đồ họa…
Trong ba yêu cầu về hiệu quả nói trên thì các khả năng thể hiện “tinh thần của đề tài”, “tinh thần
của sản phẩm”, “hiệu quả thẩm mỹ”, “sự hấp dẫn thị giác” là do hiệu quả rất lớn của việc sử dụng,
phối hợp, sáng tạo màu sắc.
Người ta đã từng nói rằng “màu sắc có thể nói được tất cả các ngôn ngữ”. Đấy là khả năng kỳ diệu
của nó. Ý của câu này tương tự như câu: “Nghệ thuật không có biên giới”. Nghĩa là mọi người dù
khác màu da, tôn giáo, chủng tộc, quốc tịch, nhưng khi thưởng thức tác phẩm nghệ thuật từ hội
họa, âm nhạc thì người ta có thể “cảm” và “hiểu” được tác phẩm ấy. Bởi vì ngôn ngữ hình ảnh là
loại ngôn ngữ phổ quát (Universal language) chứ không phải ngôn ngữ mang tính quy ước
(Convention) như chữ viết. Do đó nó không có rào cản.
Vậy, trở về lĩnh vực thiết kế đồ họa thì màu sắc là yếu tố thị giác cực kỳ quan trọng… nó đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu, sáng tạo để tìm ra giải pháp sử dụng thích hợp nhất.
Trong lĩnh vực thiết kế đồ họa, việc xây dựng thương hiệu thông qua giải pháp thiết kế đồ họa thì
mỗi công ty, đơn vị đều cố chọn cho mình có một màu sắc riêng (Corporate Color).
Thí dụ: “Màu vàng của phim Kodax, màu Đỏ của Cocacola, màu Xanh lá mạ của Fuji phim, màu
Xanh lam của Tiger Beer, màu Lá cây của Heineken Beer, màu Hồng của sản pẩm nữ trang bạc
của PNJ…
Thông thường thì sinh viên Thiết kế đồ họa khi làm đồ án Tiền tốt nghiệp, đồ án Tốt nghiệp hay
các nhà thiết kế phải sáng tạo một đồ án cho một đơn vị đều băn khoăn về việc chọn lựa màu cho
hệ thống thiết kế của mình.
Thông thường thì để thực hiện một đồ án thi tốt nghiệp, sinh viên có thể chọn lựa đề tài xoay quanh
các hướng như sau:
- Thiết kế hệ thống đồ họa cho một sản phẩm cụ thể: giày thể thao, máy ảnh, thú nhồi bông, đồ lót
Triumph, nữ trang, bánh kẹo, nhạc cụ…
- Thiết kế hệ thống đồ họa cho một công ty, đơn vị cụ thể: Công ty gốm sứ, công ty quảng cáo in
ấn, công ty may mặc, công ty dệt vải, thảo cầm viên, khu vui chơi Đầm Sen…
- Thiết kế hệ thống đồ họa cho một sự kiện cụ thể: Sea Games, Giải bóng chuyền toàn quốc, Hội
thảo về “Bạo hành trong gia đình”, Hội thảo về “Bảo vệ môi trường, hội thảo về an toàn giao thông,
cuộc thi đấu cờ vua, giải bóng bàn quốc tế Cây vợt vàng…”
- Thiết kế cho một yếu tố có thể nêu lên tinh thần văn hóa, cái riêng của mỗi dân tộc: Cây tre Việt
Nam, Hệ thống cầu của nông thôn Nam Bộ, ghe thuyền Việt Nam.
- Cũng có khi sinh viên đưa ra một sự kiện giả định để làm bài.
Vậy thì dựa vào những cơ sở nào để nhà thiết kế chọn lựa giải pháp sử dụng màu sắc cho mỗi loại
đề tài nói trên?
Sau đây là những tiêu chí cơ bản cho việc chọn giải pháp màu sắc:
- 1. Dựa vào tinh thần, tính chất, đặc điểm của lĩnh vực, của đề tài, của đặc điểm về phái tính, đặc
điểm về lứa tuổi: Tinh thần của sản phẩm, đơn vị công nghiệp chắc không thể giống với sản phẩm
đồ lót, mang nữ tính nhẹ nhàng; tinh thần của dược phẩm chắc không thể giống với nước giải khát;
giầy thể thao nam không thể giống với giày của nhi đồng; thời trang người cao tuổi không thể
giống với thời trang của tuổi teen… Màu sắc được cho sử dụng phải “toát lên” các yêu cầu ấy ngay
từ cái nhìn thoáng qua, nhìn từ xa.
- 2. Dựa vào màu sắc của sản phẩm: Nước cam, nước chanh, nước dâu, cà phê…
- 3. Dựa vào tính chất riêng của mỗi loại sản phẩm: đồ chơi trẻ con, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ đất
nung, tơ lụa, đồ thủy tinh, pha lê…
- 4. Dựa vào đặc trưng của loại màu riêng (Corporate Color) vốn có sẵn cho mỗi công ty. Thí dụ
khi thiết kế quảng cáo cho các công ty Cocacola, Pepsi, Heineken, Tiger thì nhà thiết kế bị bắt
buộc phải dựa vào màu sắc riêng của công ty ấy.
Trong suốt quá trình nghiên cứu chọn lựa, thể hiện, thiết kế thì đòi hỏi phải quan tâm đến sự thống
nhất trong phong cách thiết kế. Và điểm mấu chốt của sự thống nhất trong phong cách thiết kế thì
trước tiên phải có sự thống nhất về màu sắc.
Sự thống nhất trong hệ thống màu sắc là yếu tố cực kỳ quan trọng thường đồng hành với: sự thống
nhất về đặc điểm bố cục, sự thống nhất về kiểu chữ, sự thống nhất về cách xử lý nền, sự thống nhất
về sự sử dụng yếu tố nhận biết.
Phong cách thiết kế màu phải có sự thống nhất từ cách thiết kế ở các sản phẩm chính cho đến phụ
(áo, nón, bao bì, thẻ vào cổng…).
Tóm lại, trong lĩnh vực thiết kế đồ họa, thiết kế quảng cáo thì màu sắc là yếu tố cực kỳ quan trọng.
Nó vừa là khoa học tâm sinh lý, khí hậu, khoa học về nhận dạng thương hiệu, khoa học về thị giác,
khoa học về ánh sáng (ánh sáng màu), khoa học cạnh tranh thương mại, nghệ thuật thị giác, khoa
học về thẩm mỹ…