You are on page 1of 104

Màu sắc là gì?

 Màu sắc là con đẻ của ánh sáng. Màu sắc là ánh sáng.
 Màu sắc mà chúng ta phân biệt từ ánh sáng là những cảm giác.
 Sự phản chiếu của ánh sáng trên những vật thể màu sắc ánh sáng.
 Màu của vật thể mà ta cảm nhận được là sự cộng hưởng của màu ánh sáng với màu của
bản thân vật thể đó, màu của các sự vật lân cận tác động vào, màu của bầu khí quyển
đang bao bọc chung quanh đó nữa.

- Theo quang học: Khi luồng áng sáng trắng đi qua lăng kính mặt trời thì tách ra 7 sắc gồm:
Vàng, cam, đỏ, lục, lam, chàm, tím.
- Trong hội hoạ thì màu là những chất liệu cụ thể do những sắc tố được chiết ra từ khoáng chất,
hoá chất, thảo mộc --> màu sắc tố

 Đen trắng: Màu vô sắc

Ba yếu tố cơ bản của màu sắc:

1. Sắc ( Ton ).
Độ đậm hoặc nhạt của một màu nào đó khi pha trắng hoặc pha đen.
2. Quang độ: (Valuer).
Độ sáng hoặc tối của một màu, là tác dụng liên kết giữa các độ đậm nhạt này với độ đậm
nhạt kia. Ví dụ: trong vòng thuần sắc, vàng là màu có đỉnh quang độ sáng nhất, tím là
màu có đỉnh quang độ tối nhất do Sự đập mắt.
3. Cường độ: (Intensity).
Là mức độ mạnh hay yếu của một màu nào đó (thị giác cảm nhận được độ tươi thắm) do
Sự kích thích thị giác. Ví dụ: Vàng: Quang độ sáng hơn. Cam: Cường độ mạnh hơn do độ
tươi thắm của nó.
Màu càng pha trắng thì quang độ càng sáng nhưng cường độ càng yếu.

Vòng thuần sắc:

 Định nghĩa: Vòng tròn khép kín cho thấy tác dụng của các loại màu sắc.
 Mục đích yêu cầu: Nắm được tính chất, chức năng, tác dụng của màu sắc để nhận diện
với tên gọi cụ thể, ứng dụng nhuần nhuyễn, thích hợp.
Một phần là khoa học, một phần là nghệ thuật. Vòng thuần sắc là công cụ giúp ta hiểu được màu
nào đi với cái gì.

Bất cứ nơi nào có ánh sáng, nơi đó có màu sắc. Chúng ta thường nghĩ rằng, màu sắc đứng độc
lập với nhau. Màu chúng ta thường nhìn thấy một mình luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những màu
xung quanh. Nó giống như nốt nhạc, không có màu “xấu” hay màu ”tốt”. Đúng hơn là nó chính
là sự kết hợp của những yếu tố xung quanh.

Vòng thuần sắc bao gồm 3 màu chính,mỗi màu có 1 màu bậc nhất và 2 màu bậc 2. Ánh sáng
trắng chứa tất cả màu chúng ta nhìn thấy được, tạo thành một quang phổ vô hạn mà luôn luôn
xuất hiện trong chuỗi từ tím-tới-đỏ, bạn nhìn thấy được trong cầu vồng (bên phải, ở trên). Để làm
cho nó thực tế hơn, vòng thuần sắc miêu tả tính vô hạn với 12 màu cơ bản xinh xinh giống như
hộp bút chì màu đầu tiên của bạn.

Các loại màu:

1. Màu bậc nhất:


Còn gọi là màu chính, màu cơ bản, màu bậc nhất. Từ đó có thể pha ra các màu khác (trừ đen
và trắng – không màu nào pha trộn ra nó).

Gồm 3 màu: Vàng, đỏ, lam.

2. Màu bậc hai (màu bổ túc):

Còn gọi là màu phụ, màu bậc hai

Gồm 3 màu: Tím, lục, cam


Tím: Lam + Đỏ
Lục: Lam + Vàng
Cam: Vàng + Đỏ
(pha với phân lượng bằng nhau)

3. Màu bậc ba:


Gồm các màu:
Cam vàng, Cam đỏ, Tím lam, Tím đỏ, Lục lam, Lục vàng.
Được pha với phân lượng bằng nhau từ màu bậc 1 với màu bậc 2 đứng cạnh nhau trên
vòng thuần sắc.

Tương tự ta có Màu bậc 4,5,6,7 ….


Bằng cách pha với phân lượng bằng nhau giữa các màu đứng cạnh nhau trong vòng thuận
sắc ta tiếp tục có các màu bậc cao hơn.

4. Màu tương phản:

Màu đối kháng nhau, khi đứng cạnh nhau màu này làm nổi bật màu kia hay ngược lại.
Có 3 cặp màu tương phản:
Vàng – Tím
Đỏ – Lục
Lam – Cam

5. Màu nóng, màu lạnh:

Màu nóng: Gây cảm giác ấm áp, gần, kích thích thị giác –> Màu ngả đỏ: Vàng, cam
vàng, cam, cam đỏ, đỏ
Màu lạnh: Gây cảm giác mát mẻ, dễ chịu hoặc lạnh lẽo, xa –> Màu ngả xanh: Lục vàng,
lục, lục lam, lam, tím lam, tím, tím đỏ

6. Màu trung tính:

Màu trung tính do sự kết hợp giữa trắng và đen tạo ra. Màu không thuộc nóng, không
thuộc lạnh: Màu xám
Có nhiều gốc xám:
+ Xám do đen pha trắng
+ Xám do pha 2 màu tương phản với nhau
+ Xám do pha 3 màu chính với nhau
7. Màu trung gian:
- Màu điều giải sự mâu thuẫn đối kháng về sắc độ, cường độ, quang độ, được pha từ hai
màu đang có sự tương phản với nhau.
- Hai màu tương phản về nóng lạnh, tìm màu trung gian trên vòng thuần sắc.

8. Màu tương đồng:

Màu tương đồng là những màu thoạt nhìn qua trông chúng có vẻ giống nhau, nhóm màu
đứng cạnh nhau trong vòng thuần sắc. Một dãy màu nối tiếp nhau, liên kết nhau chặt chẽ,
không phân biệt nóng lạnh (mở rộng cả khi pha với trắng hoặc đen).

9. Màu bổ túc xen kẻ:


- Vàng và tím: cặp màu tương phản ( Tím đỏ, tím lam: 2 màu tương đồng với tím, là một
cặp bổ sung xen kẽ của vàng).
- Đỏ và Lục: cặp màu tương phản. (Lục vàng, lục lam: 2 màu tương đồng với lục, là một
cặp bổ sung xen kẽ của đỏ).
- Lam và Cam: cặp màu tương phản. (Cam vàng, Cam đỏ: 2 màu tương đồng với cam, là
một cặp bổ sung xen kẽ của lam).
Áp dụng để trang trí: Màu tương đồng nhau làm phông (fond) là chủ toàn bộ không gian,
màu còn lại (cũng là màu gốc trong nhóm 3 màu bổ sung xen kẽ) làm màu nhấn, màu
trọng điểm.
o Bổ túc trực tiếp: Các màu nằm đối diện nhau trong bản màu bổ sung trực tiếp
cho nhau.
o Bổ túc kép: Hai màu nằm hai bên bổ sung kép cho màu đối diện trên bản màu
(Tạo thành hình tam giác cân).
o Bổ túc bộ ba, bổ túc bộ bốn

10. Màu chủ đạo:

- Màu chiếm diện tích trội nhất trong toàn bộ không gian, chi phối toàn bộ hoà sắc của
không gian
- Một không gian trang trí có màu chủ đạo như một bản nhạc có chủ âm.
- Màu chủ đạo còn tuỳ thuộc vào đề tài, không gian, thời gian, vị trí sử dụng, tâm sinh lý
người sử dụng, ý đồ, tình cảm.

Nói đến màu chủ đạo là nói đến màu nhấn để tạo sự cân đối, hài hoà, là màu tô điểm có
tác dụng dẫn mắt, tạo chính phụ. Màu nhấn là màu tương phản với màu nền (màu chủ
đạo) về tính chất nóng, lạnh, sắc độ, quang độ, cường độ. Sử dụng màu nhấn phải tế nhị
không lộ liễu.

11. Màu sắc riêng:

Quy luật hỗ trợ cộng hưởng của các màu sắc, ánh sáng, môi trường, không khí, vật thể. Sử
dụng màu là để diễn tả sự cộng hưởng ấy (không sử dụng màu riêng của từng vật thể mà
không hiểu quy luật cộng hưởng).

12. Màu độc sắc:

Là tên gọi của loại không gian chỉ sử dụng một màu pha với trắng và đen tạo sự liên kết
các sắc độ một cách tinh tế.
Trong bài viết ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cơ bản về những đặc tính quan trọng của
màu sắc. Kiến thức cơ bản này đặc biệt rất hữu ích dành cho những bạn mới học thiết kế.

Màu sắc là gì?

Thuộc tính màu


Chúng ta sẽ bắt đầu lý thuyết màu sắc ngắn gọn của mình bằng cách xác định màu sắc thực sự là
gì. Nghe có vẻ trừu tượng, định nghĩa gần nhất là màu sắc được xác định theo những cách khác
nhau mà mắt chúng ta cảm nhận được ánh sáng khi nó chiếu vào một vật thể. Như đã nói, mỗi
màu được xác định bởi ba thuộc tính chính tạo nên sự đa dạng rộng lớn của hiệu ứng màu đó.
 Hue - Tông màu: Thuật ngữ Hue thường bị nhầm có ý nghĩa là Màu sắc. Chúng ta cần
phải hiểu rõ rằng “Color - Màu Sắc nói chung” nó bao gồm các thuật ngữ con như Hue,
Tint và Tone. Hue chính là thuộc tính giúp ta trả lời được câu hỏi ”Màu đó là màu gì
vậy?”. Về cơ bản Hue là tổ hợp 12 màu đậm nhạt khác nhau trên bánh xe màu sắc (color
wheel).
 Intensity - Cường độ: Nó phản ánh độ bão hòa của màu sắc. Thông số này giúp xác định
màu sắc sống động hay lợt màu.
 Value - Giá trị: Thuộc tính thứ ba tạo thành các sắc thái và độ đậm nhạt của mỗi màu.
Nó đề cập đến độ sáng hay tối của màu đó. Bạn tạo màu tints bằng cách thêm màu trắng
vào màu gốc và bạn tạo màu shades khi thêm màu đen.

Màu sắc có thêm bốn thuộc tính liên quan đến màu sắc, cường độ và giá trị của nó. Nguyên lý
màu sắc dạy chúng ta rằng vì màu sắc là phân đoạn của một họ màu cụ thể trên bánh xe, nó cũng
là trạng thái tinh khiết nhất của màu sắc. Từ đó, bằng cách thay đổi cường độ và giá trị, bạn có
thể tạo tông màu (tones), tints và shades.
 Tints: Thường được tạo ra bằng cách hoà trộn Hue với màu trắng
 Shades: Thường được tạo ra bằng cách hoà trộn Hue với màu đen
 Tones: Quá trình hình thành Tone thì tinh tế hơn một chút, bởi vì nó đòi hỏi sự kết hợp
của cả đen và trắng, đây cũng là lý do tại sao Tone trông có vẻ tự nhiên hơn so với Shade
và Tint.

Bánh xe màu
Nếu bạn có bất kỳ bài học nào liên quan đến tranh vẽ, bạn phải nhìn thấy vòng tròn bao gồm các
màu khác nhau. Nó được gọi là bánh xe màu giúp hiểu các màu khác nhau có liên quan lẫn nhau
như thế nào và chúng có thể kết hợp như thế nào. Vòng tròn màu thường được xây dựng bằng
màu cơ bản, màu thứ cấp và màu tam cấp. Chính là ba sắc tố không thể được hình thành bởi bất
kỳ sự kết hợp nào của các màu khác.

Theo lý thuyết về màu sắc, sự kết hợp màu sắc hài hòa sử dụng hai màu đối diện nhau trên bánh
xe màu, 3 màu bất kỳ tương đương chạy xung quanh bảng màu tạo thành một hình tam giác hoặc
4 màu bất kỳ cùng hình thành nên một hình chữ nhật (trong đó, hai cặp màu sẽ đối diện nhau).
Sự kết hợp hài hòa này được gọi là phối màu (color scheme) – đôi khi, thuật ngữ “sự hài hòa về
màu sắc" (Color hamorny) cũng được sử dụng.

Trên bánh xe màu sắc, vẫn còn một sự tách biệt khác mà bạn cần nhận ra để có thể hiểu chính
xác hơn về phối màu: đó là những màu ấm (warm colors) và màu lạnh (cool colors). Mỗi loại
này đều có mục đích riêng của nó nhằm kích thích cảm xúc của người nhìn. Màu nóng tượng
trưng cho năng lượng và sự vui sướng (lý tưởng nhất để truyền tải các thông điệp cá nhân) trong
khi màu lạnh khơi dậy sự điềm tĩnh và yên bình (lý tưởng nhất để sử dụng cho các đồ dùng hoặc
vật liệu trong văn phòng).
Vòng tròn màu được tạo ra vào năm 1666 bởi Isaac Newton theo cách sơ đồ và kể từ đó nó đã
trải qua nhiều phép biến đổi nhưng vẫn là công cụ chính để phối màu. Ý tưởng chính là bánh xe
màu phải được tạo theo cách đó nên màu sắc sẽ là trộn một cách thích hợp.

Vòng tròn màu căn bản có 12 cung chia đều theo hình nan quạt trên diện tích hình tròn, mỗi cung
có 8 cấp độ màu đi dần vào tâm vòng tròn từ đậm đến nhạt. 12 cung x 8 cấp độ sẽ tạo ra 106 màu
căn bản và được đánh số từ 1 đến 106 đó cũng là kí hiệu khi ta chọn màu.

Các loại màu sắc trong nguyên lý màu sắc


Khi nói về những điều cơ bản về màu sắc, mọi thứ đều bắt đầu với bánh xe màu hiển thị mối
quan hệ giữa tất cả các loại màu sắc.
 Màu cơ bản (Ps): Đỏ, vàng và xanh dương .
Trong lý thuyết màu truyền thống (được sử dụng trong sơn và bột màu), màu cơ bản là 3
sắc tố màu không thể trộn lẫn hoặc hình thành bởi bất kỳ sự kết hợp nào của các màu
khác. Hãy nhớ rằng tất cả các màu khác đều có nguồn gốc từ 3 màu cơ bản này.
 Màu thứ cấp (S): Xanh lá, cam và tím .
Đây là những màu được hình thành bằng cách trộn các màu cơ bản.
 Màu bậc ba (Ts): Màu vàng cam, đỏ cam, đỏ-tím, xanh-tím, xanh lục và vàng xanh lục .
Đây là những màu được hình thành bằng cách trộn một màu cơ bản và màu bậc hai. Đó là
lý do tại sao màu sắc là một tên hai từ, chẳng hạn như xanh-xanh, đỏ-tím và vàng cam.

Nhiệt độ màu
Trong nguyên lý màu sắc, màu sắc cũng có nhiệt độ. Đó là một đặc điểm đề cập đến độ mát hoặc
ấm tương đối của mỗi màu. Khi bạn chia bánh xe màu thành hai nửa, những màu lạnh bắt đầu
bằng màu tím và kết thúc bằng màu vàng-xanh lục, trong khi màu ấm bắt đầu bằng màu vàng và
kết thúc bằng màu tím đỏ.
 Màu lạnh:
Màu xanh lam và bất kỳ màu nào bao gồm màu xanh lam là thành phần chủ yếu. Màu
càng gần với màu xanh lam trên bánh xe màu (càng có màu xanh lam) thì màu càng lạnh.
 Màu ấm:
Màu vàng và bất kỳ màu nào bao gồm màu vàng là thành phần chính. Màu càng gần với
màu vàng trên bánh xe màu (càng có nhiều màu vàng) thì màu càng ấm.

Màu trung tính


Ngoài ra, cũng có những màu gặp khó khăn trong việc tìm ra màu gốc. Chúng được gọi là trung
tính, vì chúng hầu như không thuộc nhóm ấm hoặc mát. Trên thực tế, những màu trung tính, đặc
biệt là đen và trắng, thực sự có khả năng tự tạo ra những thiết kế tuyệt vời mà không cần sử dụng
màu sắc rực rỡ.

Các kiểu kết hợp màu sắc trong nguyên lý màu sắc
Khi nói đến việc kết hợp các màu bằng cách sử dụng bánh xe màu, có năm cách để kết hợp. Sự
thật là, bạn có thể tạo ra nhiều lược đồ và bảng màu hài hòa như bạn có thể tưởng tượng, nhưng
kết quả sẽ luôn rơi vào một trong các loại đó. Vì vậy, hãy xem chúng hoạt động như thế nào.

MÀU ĐƠN SẮC (MONOCHROMATIC)


Công thức đơn giản nhất là dùng màu đơn sắc bởi vì chỉ cần sử dụng 1 màu (1 hue). Để tạo ra
phối màu đơn sắc, chọn 1 điểm trên bánh xe màu sắc rồi thay đổi saturation và value để tạo ra
các biến thể.

Điều tuyệt nhất khi dùng cách này là nó đảm bảo sự hài hòa về màu sắc. Các màu ăn rơ với nhau
một cách hoàn hảo vì chúng có cùng một nguồn gốc.
Trong ví dụ đầu tiên, chúng ta có một bảng phối màu đơn sắc với hai tông màu khác nhau của
màu xanh lam trông phong phú và đa dạng, do các sắc thái và sắc thái khác nhau được tạo ra bởi
gradient. Tương tự với ví dụ thứ hai, cũng sử dụng gradient để làm phong phú thêm tông màu
cam.

TƯƠNG ĐỒNG (ANALOGOUS)


Kết hợp màu kiểu tương tự là sử dụng những màu cạnh nhau trên bánh xe màu sắc, như đỏ và
cam; xanh lam và xanh lá.

Đừng ngại sử dụng bảng màu và tạo ra bộ màu độc đáo của riêng bạn. Các công thức chỉ là điểm
bắt đầu để định hướng và truyền cảm hứng cho bạn.

BỔ TÚC (COMPLEMENTARY)
Màu bổ túc là những màu đối diện nhau trên bánh xe màu sắc, ví dụ xanh lam và cam, hoặc đỏ
tươi và xanh lá.

Để tránh kết hợp màu tương phản trông quá đơn điệu, hãy thêm vài biến thể bằng cách dùng
những tông màu tối hơn, sáng hơn hay độ bão hòa thấp.

Trong ví dụ đầu tiên, các màu bổ sung chính là tím và vàng. Chúng tôi cũng thấy một sự bổ sung
đáng yêu của màu xanh lam-xanh lá cây và màu vôi, tuy nhiên, không có màu xanh lá cây nào
trong số đó bổ sung cho màu tím hoặc màu vàng. Trong thứ hai, các sắc thái màu xanh lam-xanh
lá cây và đỏ-cam pastel tạo ra sự kết hợp bổ sung. Ngoài ra còn có màu nhấn thứ ba là màu vàng,
nhưng tương tự như ví dụ đầu tiên, nó không phải là màu bổ sung cho bất kỳ màu nào trong hai
màu chủ đạo.
TAM GIÁC CÂN (SPLIT-COMPLEMENTARY)

Kết hợp màu kiểu tam giác cân là sử dụng 2 màu kế bên của màu tương phản.

Kiểu kết hợp này cũng tạo hiệu ứng như sự tương phản, nhưng có nhiều màu hơn để sử dụng (và
có tiềm năng kết quả cũng thú vị hơn).

KIỂU BỘ BA (TRIADIC)
Kết hợp bộ ba sử dụng ba màu cách đều nhau, tạo thành 1 tam giác đều trên bánh xe màu sắc.

Kiểu kết hợp này thường khá chói mắt – đặc biệt là khi sử dụng 3 màu sơ cấp hoặc thứ cấp. Vì
thế, bạn nên cẩn thận khi ứng dụng chúng trong công việc.

HÌNH CHỮ NHẬT (TETRADIC)


Kiểu kết hợp này tạo thành hình chữ nhật trên bánh xe màu sắc, dùng không chỉ 1 mà là 2 cặp
màu tương phản. Công thức này hiệu quả nhất khi bạn chọn 1 màu chủ đạo trong khi các màu
khác đóng vai trò phụ trợ.
Kết hợp Màu riêng lẻ:
Màu sắc nào kết hợp tốt với nhau?
Điều này thường mang tính chủ quan vì mọi cặp màu có thể được kết hợp với nhau theo đúng
tones, tint hoặc shades. Tuy nhiên, có một số sự kết hợp cổ điển mà bạn sẽ tìm thấy trong nhiều
thiết kế từ thời trang, thiết kế nội thất, đến đồ họa và thiết kế web. Vì vậy, chúng ta hãy xem xét
một số cặp đó.

Trung lập
 Màu đen:
Vì nó là một màu phổ quát, nó trông rất tuyệt với bất kỳ màu nào khác. Nó kết hợp đặc
biệt tốt với màu cam, xanh lá cây, trắng, đỏ và vàng.
 Màu trắng:
Một màu phổ quát khác, kết hợp hoàn hảo với xanh lam, đỏ và đen.
 Màu be :
Xanh lam, nâu, xanh lá cây và đỏ.
 Màu nâu: Màu lục lam sáng, màu kem, màu hồng và màu be.
 Xám:
Fuchsia, tím, hồng và xanh lam.

Kim loại

 Vàng:
Đen, đỏ tía, hồng và xanh quân đội.
 Vàng hồng:
Đỏ tím, hồng hạc và hồng đào.
 Bạc:
Xanh lam, nâu và vàng cổ.
 Đồng:
Trắng, xanh lá cây trung tính và xanh nước biển.

Màu sắc mát mẻ

 Violet:
Vàng nâu, vàng nhạt và bạc hà.
 Blue-Violet:
Cam, hồng, vàng và trắng.
 Xanh lam:
Tử đinh hương, lục lam, vàng lục, nâu và xám.
 Blue-Green :
Nâu, cam, hồng, đỏ anh đào và màu be.
 Xanh lá cây :
Cam, vàng, nâu và trắng kem.
 Vàng-Xanh:
Đỏ anh đào, xanh lam và xám.

Màu sắc ấm áp:

 Màu vàng:
Xám, xanh lam, hoa cà và đen.
 Vàng-Cam:
Xám, nâu và ô liu.
 Cam:
Lục lam, xanh lam và hoa cà.
 Đỏ-cam:
Lục lam, bạc hà và trắng kem.
 Đỏ:
Vàng, xanh lá cây, xanh dương và đen.
 Đỏ-Tím:
Xám, vôi, bạc hà, xanh, xám và be.

Bạn cũng có thể quan tâm tìm hiểu thêm về màu của năm 2020: Xanh cổ điển .

Màu Gradient:

Mở rộng về màu sắc


Trong một thời gian, gradient đã bị gạt sang một bên trong thiết kế đồ họa và web để ủng hộ
phong cách phẳng, nhưng kể từ năm 2018, chúng một lần nữa nó đã trở lại. Xu hướng không
ngừng phát triển khi các nhà thiết kế liên tục nắm vững kỹ năng của họ để tạo ra các chuyển đổi
màu sắc đẹp mắt và sử dụng chúng tốt hơn so với các thiết kế gradient áp đảo trong những năm
90.

Vậy gradient là gì? Nói tóm lại, đây là những sự chuyển đổi màu sắc pha trộn từ màu này sang
màu khác và không giới hạn ở chỉ hai màu. Không có quy tắc cho loại màu bạn pha trộn, vì bạn
có thể tạo ra sự chuyển đổi giữa các màu tương tự hoặc các màu tương phản hoàn toàn. Trong
hình bên dưới, có mười ví dụ khác nhau về gradient. Một số bao gồm sự chuyển đổi giữa hai
màu ấm, khác giữa các tông màu lạnh, trong khi trong các trường hợp khác, chúng được trộn lẫn.

Các phương pháp kết hợp màu sắc theo lý thuyết màu sắc giống nhau đối với gradient cũng như
đối với thiết kế phẳng. Tuy nhiên, những gì gradient làm tốt hơn phẳng là chúng tạo ra nhiều
chiều sâu hơn và tạo ra kết cấu. Các kết hợp màu Gradient rất phong phú và thu hút sự chú ý và
kể từ khi chúng trở lại vào năm 2018, chúng cảm thấy rực rỡ, tươi sáng và hiện đại hơn.

Sự kết hợp màu sắc trong tâm lý học:


Màu sắc ảnh hưởng như thế nào đến tâm trạng và cảm xúc
Kết hợp màu sắc không chỉ là về thẩm mỹ, tối ưu hóa và làm cho thiết kế của bạn đẹp và bắt mắt.
Do đó, nguyên lý màu sắc có thể không đủ cho thiết kế hiện đại. Một nửa công việc để tạo bảng
màu là lựa chọn một cách chiến lược các màu cụ thể sẽ truyền tải thành công thông điệp của bạn
và tác động đến khán giả để đưa ra phản ứng mà bạn mong muốn.

Màu sắc gợi lên cảm xúc và không khí của một thiết kế. Mặt khác, tâm lý và ý nghĩa đằng sau
mỗi giai điệu của một màu sắc khác nhau trong các nền văn hóa, trường hợp và sự kết hợp khác
nhau.
Chúng ta thường được nghe nói là màu ấm vốn có tính tích cực trong khi màu lạnh mang lại cảm
giác tiêu cực. Điều này có phần đúng, nhưng nó không phải là một quy luật. Ví dụ, màu đỏ là
một màu ấm nhưng trong hầu hết các tông màu của nó, đặc biệt với cường độ cao hơn và độ tinh
khiết, gợi lên cảm giác giận dữ hoặc nguy hiểm. Màu vàng, màu ấm là chính, có thể gợi lên sự lo
lắng và cảm giác cấp bách. Vì vậy, hãy thử nghiệm các màu sắc và xem mỗi màu có thể ảnh
hưởng như thế nào đến hành vi của đối tượng mục tiêu của bạn.

Màu sắc cá nhân trong tiếp thị

Mặc dù mọi người thường phản ứng theo một cách nhất định đối với các màu sắc riêng lẻ, nhưng
điều quan trọng cần lưu ý là ảnh hưởng của mỗi màu sắc phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sự kết hợp,
bối cảnh, kinh nghiệm, sở thích cá nhân, tuổi tác, giới tính và sự khác biệt về văn hóa. Nghiên
cứu bổ sung luôn là điều cần thiết khi bạn chọn màu sắc của mình cho một đối tượng mục tiêu cụ
thể.

Màu sắc ấm áp:

 Màu vàng: Màu sắc tươi sáng và mạnh mẽ, thu hút sự chú ý, ấm áp và sống động. Đồng
thời, nó khó đọc và choáng ngợp đối với mắt của chúng ta và cũng có thể tạo ra cảm giác
thất vọng và lo lắng. Nó thường phổ biến trong bán hàng và tiếp thị.
 Màu cam: Rất hấp dẫn và phổ biến cho nút CTA (nút kêu gọi hành động), biểu trưng và
màu nhấn nhờ khả năng thu hút sự chú ý. Nó hiếm khi được sử dụng các điểm nhấn bên
ngoài, vì đây là một màu sắc năng lượng rất mạnh mang lại cảm giác phấn khích và nhiệt
tình. Quá nhiều cam có thể khiến khách của bạn khó chịu.
 Màu đỏ: Thường được sử dụng để bán hàng, một màu mạnh gây phản ứng nhanh hơn.
Màu đỏ làm tăng huyết áp và cũng rất tốt để sử dụng để tham gia và giao lưu. Do đó, nếu
nó được sử dụng nhiều, nó có thể có tác động tiêu cực đến khán giả và khiến khách truy
cập của bạn quay lưng.
 Màu hồng: Màu nữ tính và lãng mạn nhất, rất lý tưởng cho đồ chơi trẻ em, vườn ươm,
sản phẩm sức khỏe phụ nữ. So với màu cơ bản là đỏ, bạn tiếp xúc với màu hồng càng lâu
thì bạn càng trở nên bình tĩnh hơn.
 Màu tím: Màu hoàng gia, gắn liền với sự giàu có, gợi cảm và trí tuệ. Đây là lý do tại sao
nó được sử dụng nhiều với các mặt hàng sang trọng, cũng như các sản phẩm làm đẹp cao
cấp. Do tính chất kịch tính, nó cũng mang lại những rung cảm lãng mạn và bí ẩn.

Màu lạnh và trung tính:

 Màu xanh lá cây: Màu dễ nhìn và thư giãn. Nó liên kết chặt chẽ với thiên nhiên, sản
phẩm sinh học, sự may mắn, sức khỏe và sự giàu có. Mặt khác, màu xanh lá cây cũng là
màu của sự đố kỵ hoặc độc hại, vì vậy tông màu và sắc thái phù hợp của màu này là cực
kỳ quan trọng.
 Màu xanh:
Theo một cuộc khảo sát trên toàn thế giới, màu xanh lam là màu phổ biến và được yêu
thích nhất không chỉ ở nam giới mà còn cả phụ nữ. Nó được sử dụng mạnh mẽ trong
truyền thông, ngân hàng và bảo hiểm vì nó gợi lên cảm giác an toàn, trung thành, trung
thực, quyền lực và đáng tin cậy. Tùy thuộc vào bóng râm, màu xanh lam cũng có thể gợi
lên nỗi buồn và sự cô đơn.
 Màu đen:
Màu sắc trang nhã và tinh tế thường được sử dụng ở các thương hiệu cao cấp. Nó gắn liền
với đẳng cấp và sức mạnh, và thường được sử dụng trong truyền thông.
 Màu trắng:
Màu có độ tương phản cao phổ quát giúp tăng thêm không gian và truyền tải sự tinh
khiết, sạch sẽ, tươi mới và đơn giản nhưng cũng có thể tạo cảm giác vô trùng và lạnh lẽo.
Nó được sử dụng nhiều trong chăm sóc sức khỏe và ngành công nghiệp công nghệ.
 Màu xám:
Màu tinh tế dành cho những người tinh tế, không thích nổi bật. Do sự đơn giản của nó, nó
được sử dụng để làm dịu du khách và khiến họ cảm thấy thoải mái. Nó cũng là một màu
phổ biến trong ngành công nghệ.

Tâm trạng và cảm xúc qua bảng màu


Đó là những tác động chính của trạng thái tinh khiết nhất của màu sắc, theo lý thuyết màu sắc.
Khi chúng ta xem xét tất cả các yếu tố và quyết định cảm xúc và cảm xúc mà chúng ta muốn
truyền tải, hiệu ứng này phụ thuộc nhiều vào độ sáng, tông màu, sắc thái của shades và nhiệt độ
của màu sắc của chúng. Màu cam của bạn quá nhiều năng lượng? Bạn có thể giảm cường độ và
thêm nhiều màu trắng để tạo ra một màu pastel. Bạn có quá nhiều màu xanh trong thiết kế của
mình và cảm thấy hơi buồn? Trộn với một giai điệu ấm áp để làm nó vui lên.

 Màu dịu: Đó thường là những màu nhạt hơn của xanh lam và xanh lục. Các cách phối
màu nhẹ nhàng nhất là bảng màu pastel. Hãy nghĩ đến xanh dương nhạt, bạc hà, tử đinh
hương, hồng phấn, vàng nhạt, đặc biệt khi kết hợp với các màu trung tính như màu be,
trắng và xám nhạt.
 Màu năng lượng: Các sắc thái rực rỡ nhất của các màu như đỏ tươi, xanh neon, đỏ tươi,
lục lam, vàng tươi, xanh dương rực rỡ. Đó là những màu sắc kích thích và tiếp thêm sinh
lực nhưng cũng có thể gây khó chịu và kiệt sức.

 Màu sắc vui vẻ: Đây là những màu hồng ấm, cam và đỏ. Chúng có thể là màu pastel,
candy, cũng như rực rỡ và hấp dẫn. Điều quan trọng là những màu này phải ở cường độ
cao, nghĩa là bạn có thể thử nghiệm với các value khác nhau, nhưng tránh thêm màu xám.
 Màu buồn: Các tông màu xám, không bão hòa và tối của màu lạnh. Khi màu sắc không
có sự sống động và ấm áp, họ có thể cảm thấy trống rỗng, cô đơn và buồn bã.

Bảng màu mát mẻ


Đây là những cách phối màu bao gồm các sắc thái của màu lạnh như xanh lam, xanh lá cây và
tím và thường được trộn với các màu trung tính để có độ tương phản tốt hơn. Nói chung, màu
lạnh có tác dụng làm dịu và thư giãn. Tuy nhiên, tùy thuộc vào các tông màu cụ thể, bảng màu
lạnh có thể truyền tải nỗi buồn và sự trầm cảm. Các chương trình cô đơn như vậy thường bao
gồm màu xám và màu xanh lam và xám không bão hòa. Với cường độ cao hơn, các màu tương
tự có thể mang lại cảm giác tích cực hơn và truyền đạt sức khỏe, vẻ đẹp, độ tin cậy và thậm chí
là sự tươi mới.

Hãy cùng xem một số ví dụ trực quan về bản chất linh hoạt của bảng màu lạnh.

Buồn bã và u sầu
Bình tĩnh và thư giãn
Tươi trẻ và nâng cao tinh thần
Bình yên và thanh thản
Lạnh
Trung thành và độ tin cậy
Niềm vui
Ấm cúng và vui vẻ
Bảng màu ấm
Cũng như màu lạnh, màu ấm cũng là một con dao có 2 lưỡi. Một mặt, chúng truyền đạt sự lạc
quan, hạnh phúc, năng lượng, nhiệt huyết và đam mê. Mặt khác, chúng cũng có thể truyền tải sự
lo lắng, khẩn cấp, báo hiệu nguy hiểm và phẫn nộ. Màu đỏ và vàng kích thích phản ứng nhanh và
tăng nhịp tim, cũng như cảm giác thèm ăn. Vì vậy, hãy xem những công dụng khác nhau của
chúng trong cách phối màu và chúng gợi lên tâm trạng nào.

Năng lượng
Hạnh phúc
Lãng mạn và gợi cảm
Ấm áp
Yêu và quý
Niềm đam mê
Sự lo ngại
Hoang mang và sợ hãi
Màu sắc – yếu tố thị giác căn bản
Màu sắc là yếu tố thị giác tạo ra hiệu ứng mạnh nhất tới cảm xúc của chúng ta. Chúng ta sử dụng màu sắc để tạo
ra tâm trạng hay bầu không khí cho một tác phẩm nghệ thuật hay sản phẩm thiết kế. Có rất nhiều cách tiếp cận
đối với việc sử dụng màu sắc, hữu dụng cho nghệ sĩ và đặc biệt cần thiết với nhà thiết kế.
Đèn đường (Street Light) (1909) của Giacomo Balla, sơn dầu trên toan
Màu sắc là thứ cảm nhận được các bước sóng ánh sáng khác nhau kích thích trong não của chúng ta. Một bước
sóng sẽ kích thích nhận thức của ta về màu đỏ, sóng khác thì màu cam, màu vàng, v.v. qua tất cả các màu của
quang phổ.
Đèn đường của Giacomo Balla là một ấn tượng đầy chất thơ tái hiện những thuộc tính vật lý của ánh sáng. Ở
tâm của tác phẩm là một bóng đèn cháy với một luồng nhiệt trắng trong bóng tối của buổi đêm. Sự phát sáng
bức xạ của nó hoà tan vào các sóng đồng tâm, mỗi sóng giảm dần cường độ và thay đổi màu sắc gợi ra các bước
sóng khác nhau của quang phổ.
Balla là một nhà Vị lai Ý, người tôn vinh sự hiện đại của cuộc sống thành thị. Ông vẽ bức Đèn đường vào thời
điểm đèn điện lần đầu xuất hiện trên đường phố của Rome. Đây là một sự ăn mừng Vị lai với sức mạnh của công
nghệ như là một biểu tượng của thời đại mới. Ánh sáng thậm chí còn sáng hơn chính tự nhiên khi vầng hào
quang của mặt trăng lưỡi liềm chật vật cạnh tranh với sự chói sáng của đèn điện. Kỹ thuật vẽ mà Balla sử dụng
có nguồn gốc từ Điểm chấm, một cách tiếp cận khoa học hơn trong phân tích màu sắc, và như vậy tạo nên một
cuộc hôn nhân hoàn hảo giữa chủ thể và cách thực hiện nó.

Vương quốc ánh sáng (Empire of Light) (1954) của René Magritte, sơn dầu trên toan
Vương quốc ánh sáng của René Magritte là một hình ảnh thơ ngây về sự tĩnh lặng ở vùng ngoại ô với một chút
rẽ ngã về hướng siêu thực: khung cảnh được đặt vào lúc nửa đêm nhưng bầu trời rõ ràng là đứng lại vào giữa
trưa. Hình ảnh mang tính lật đổ này kết hợp một mâu thuẫn giữa các thế đối lập vào cấu trúc thống nhất của nó:
ngày gặp đêm, tối gặp sáng, và thực tại gặp trí tưởng tượng. Kỹ thuật đầy thuyết phục mà người nghệ sĩ sử dụng
để vẽ bức tranh đưa người xem tham gia vào việc tìm kiếm bất khả thi cho một ý nghĩa hợp lý, từ đó lôi kéo họ
vào địa hạt phi lý của chủ nghĩa Siêu thực.
Màu sắc như sắc độ:

Hồ Lucerne (Lake Lucerne) (1930) của Emile Nolde, màu nước trên giấy da bê
Màu sắc kịch tính kết hợp với kỹ thuật vẽ đầy sức sống là những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Biểu hiện
trong nghệ thuật. Hội hoạ Biểu hiện thiên về việc sử dụng màu sắc và các phẩm chất vật lý của phương tiện nghệ
thuật để thể hiện cảm xúc của tác giả về chủ đề hơn là đơn thuần mô tả nó theo kiểu tự nhiên.
Hồ Lucerne của Emil Nolde là một ví dụ cổ điển về kỹ thuật vẽ tranh theo chủ nghĩa Biểu hiện. Nó được vẽ từ
trí nhớ nhiều hơn là từ quan sát thực tế, sử dụng tính linh hoạt tự nhiên của màu nước để phản ánh tâm trạng
thay đổi của phong cảnh. Đầu tiên Nolde ngâm giấy của mình, trong trường hợp này là giấy da bê, trong nước.
Sau đó, ông dựng nên hình dạng của những ngọn núi bằng các lớp màu xanh với sắc độ khác nhau, cường độ
cao hơn ở tiền cảnh và nhạt dần về phía hậu cảnh. Điều này tạo ra một ấn tượng về phối cảnh trên không khi các
sắc độ màu đều có vẻ như mờ dần vào cảnh vật ở xa. Ông tiếp tục sử dụng kỹ thuật ‘ướt trên ướt’ để tạo dựng
nên các lớp phù du của mây và những hình phản chiếu dạng nước trên mặt hồ. Cuối cùng, ông đưa một đốm
vàng loang vào bề mặt ẩm để tạo ra vầng sáng của mặt trời mà rồi ông lặp lại trên mặt hồ ở dạng phản chiếu của
nó.
Emil Nolde nhận xét về chính kỹ thuật màu nước của mình “Tôi luôn muốn vẽ để tôi, người hoạ sĩ, trở thành
một phương tiện mà qua đó màu sắc tự tạo ra sự phát triển lý lẽ của riêng chúng theo cùng một cách thiên nhiên
tạo ra tác phẩm của mình… Đôi khi, tôi cảm thấy như thể bản thân tôi không thể làm gì, mà thiên nhiên đi vào
trong và qua tôi mà có thể làm được rất nhiều điều.”

Màu sắc như họa tiết:


Đàn vĩ cầm và bàn cờ (Violin and Checkerboard) (1913) của Juan Gris, sơn dầu trên toan
Trong trường phái Lập thể, nghệ sĩ lựa chọn các đặc điểm thiết yếu từ các góc nhìn khác nhau của chủ thể và tái
tạo chúng như một bố cục trừu tượng. Ở giai đoạn phác thảo cho một bức hoạ Lập thể, người nghệ sĩ thường
phải đối mặt với một cấu trúc khó hiểu của các đường nét và hình dạng mà sau đó họ sẽ đưa vào các mô típ của
màu sắc, sắc độ, và cấu trúc như một nỗ lực để tổ chức sự sắp xếp không gian của bố cục.
Trong Violon và bàn cờ của Juan Gris, nghệ sĩ gán những màu sắc khác nhau cho các hình dạng cụ thể để tạo ra
một mô típ bất đối xứng của các hình khối sắp xếp quanh miếng vải trắng ở trung tâm của bức tranh. Mô típ của
màu sắc này dẫn dắt mắt người xem chuyển động theo chiều kim đồng hồ xung quanh hình ảnh. Màu sắc được
phân bố theo một mô típ bất thường, không đều, thường được sử dụng như một yếu tố thống nhất bố cục của
một tác phẩm.
Màu sắc như hình khối:
Chân dung Matisse (Portrait of Matisse) (1905) của André Derain, sơn dầu trên toan
Để tạo ra ảo giác về hình khối trong một tác phẩm hội hoạ, theo truyền thống, các nghệ sĩ thêm vào các sắc tố
sáng hơn hoặc tối hơn vào màu sắc chính của một vật thể để kết xuất những hiệu ứng tự nhiên của ánh sáng và
bóng đổ. Nhược điểm chính của kỹ thuật này là phần lớn cường độ của màu gốc đã bị hy sinh khi nó được pha
trộn với phần sáng và phần tối. Những nhà Ấn tượng đã đưa ra một cách tiếp cận khoa học hơn cho việc phân
tích màu sắc để cố gắng giải quyết vấn đề này. Trong khi đó, các nhà Hậu Ấn tượng bắt đầu sử dụng màu sắc
một cách có cấu trúc (Paul Cézanne và Georges Seurat) và biểu tượng (Gauguin và Van Gogh).
Một nhóm nghệ sĩ cảm thấy nhàm chán với tất cả các cách tiếp cận theo chủ nghĩa tự nhiên, cấu trúc, và biểu
tượng với việc sử dụng màu sắc trong hội hoạ là Les Fauves (Những con Dã thú). Họ đơn giản là muốn sử dụng
màu sắc mà nói lên cái tinh thần, tôn vinh sức sống và khía cạnh dễ chịu của màu sắc.
Dã thú là một phong cách hội hoạ được phát triển vào đầu thế kỷ 20 bởi Henri Matisse và André Derain. Nhóm
Dã thú đánh giá cao màu sắc mạnh mẽ bởi tác động cảm xúc hơn là khả năng kết xuất hình khối của nó. Họ sử
dụng màu sắc ở mức độ cao nhất với một lối vẽ đơn giản để biểu hiện cảm xúc của tác giả về đối tượng.
Trong bức tranh phía trên, Derain minh chứng cường độ của màu sắc Dã thú có thể được sử dụng như thế nào
để thay thế kỹ thuật kết xuất hình thức truyền thống bằng ánh sáng và bóng đổ. Đầu tiên, ông đơn giản hoá bức
vẽ phác chân dung Matisse thành các mặt phẳng góc cạnh. Sau đó, ông chọn các màu sắc mà cân bằng một cách
tinh vi, giữ lại sự tôn trọng với một số giá trị sắc độ của chúng nhưng tăng cường cao độ của chúng tới mức cao
nhất. Cuối cùng, màu sắc được đưa vào tranh bằng cọ pháp tạo ra các phiến màu và không có bất cứ sự pha trộn
màu tinh tế nào. Màu sắc và hình dạng giờ đây cùng tồn tại bình đẳng trong tranh, vừa mang tính biểu cảm và
mang tính miêu tả trong bức Chân dung Matisse đầy hứng khởi này.

Màu sắc như sự hài hòa:

Những vũ công xanh (Blue Dancers) (1899) của Edgar Degas, phấn màu
Sự hài hòa là sự tương thích, cân bằng, hoặc tăng tiến của các yếu tố tương tự nhau. Những vũ công xanh của
Edgar Degas là một bức tranh màu phấn được bố cục cẩn thận, minh hoạ cho sự hài hoà của màu sắc cũng như
của một số yếu tố thị giác khác:
 Hình dạng của toan vẽ là hình vuông trong khi chuyển động quay của các nhân vật được cấu thành trong một
dạng hình thoi tạo ra một sự hài hoà của các hình dạng vuông vắn.

 Các đường diềm trang trí quanh thân váy tạo ra một sự hài hoà tinh tế của các đường cong.
 Các góc nhọn của cánh tay, khuỷu tay, cổ tay tạo ra một sự hài hoà nhịp nhàng.
 Màu đất son ấm của phần hậu cảnh đáng phải xung đột với những chiếc váy màu xanh lam ở tiền cảnh bởi vì
chúng là màu đối lập. Tuy nhiên, Degas đã hoà giải sự đối lập này bằng một sự hài hoà thông minh. Ông quét
những vệt xanh lên trên màu đất son để tạo ra cân bằng đối kháng với lớp màu son lấp ló dưới những chiếc váy
màu xanh. Điều này làm hài hòa tiền và hậu cảnh nhưng vẫn giữ được đủ mức độ tương phản để kích thích sự
quan tâm của người xem.

Màu sắc như là sự tương phản:


Đám cháy những ngôi nhà của các lãnh chúa và thường dân (The Burning of the Houses of Lords and
Commons) (1835) của Joseph Mallord William Turner, sơn dầu trên toan
Chỉ rất ít họa sĩ trong lịch sử nghệ thuật nắm bắt được cường độ ánh sáng và năng lượng tốt hơn Joseph Mallord
William Turner. Trong phiên bản đầu tiên của hai phiên bản bức Đám cháy những ngôi nhà của các lãnh chúa
và thường dân (1835), các yếu tố thị giác của bức tranh được thúc đẩy bởi sự va chạm các yếu tố kinh điển là
đất, khí, lửa, và nước.
Nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến sự kiện này từ trong đám đông hàng nghìn người xếp hàng dọc bờ nam sông
Thames, cũng như từ một chiếc thuyền mà ông thuê để đến gần hiện trường hơn. Ông đã tạo ra một loạt các phác
thảo nhanh bằng màu nước về đám cháy nhưng có một số tranh cãi rằng liệu chúng có được vẽ ở địa điểm này
không.
Bố cục của tác phẩm được chia làm bốn phần, mỗi phần chứa đựng một trong bốn yếu tố kinh điển (theo chiều
kim đồng hồ, từ phía trên bên trái: lửa, khí, đất, nước).
9
Phía bên trái, màu cam và màu vàng rực của những tòa nhà đang cháy được thiết lập để đối lập với màu lam và
màu tím tử đinh hương lạnh của bầu trời. Những màu nóng của ngọn lửa và hình ảnh phản chiếu của chúng (lửa
và nước) được tăng cường bởi những màu lạnh của bầu trời và cây cầu (đất và khí). Một độ căng tương tự được
thiết lập bởi sự tương phản sắc độ của đám đông màu tối trước dòng sông màu sáng mà được cân bằng bằng đối
kháng bởi đá sa thạch sáng của cầu Westminster trước bầu trời ngả tối. Bức tranh này là một cách sắp xếp tương
phản khéo léo giữa các màu sắc, sắc độ, và các yếu tố cổ điển đối lập mà Turner tạo ra để nâng cao tác động của
từng yếu tố.

Màu sắc như là chuyển động:


Vonal KSZ (1968) của Victor Vasarely, bản in lưới
Khi bạn nhìn vào một tác phẩm trừu tượng, não của bạn theo bản năng sẽ tìm kiếm dấu hiệu của nhịp điệu và
trật tự trong nỗ lực tạo ra một cảm quan về không gian của hình ảnh. Victor Vasarely tận dụng xung lực này để
tạo ra ấn tượng về chuyển động bằng cách kết hợp các ô vuông chia độ và các màu liên tiếp. Chúng dẫn mắt đi
vào và xuyên qua hình ảnh với gia tốc khi tăng khi giảm. Những hình vuông, từ lớn đến nhỏ, được căn chỉnh
trên cùng một trục ngang nhưng lại so le theo trục dọc để tạo ra ảo giác về một đường hầm mà phối cảnh gây
chóng mặt mở ra khi chúng đi về điểm biến mất ở trung tâm.

Các hình vuông lùi lại trong hình ảnh này tạo thành hình dạng của chuyển động trong khi sự tiến triển của màu
sắc quyết định tốc độ của nó. Trong hình minh hoạ này, các chuỗi màu thay thế đã được tách ra để bạn nhìn thấy
mối quan hệ của chúng một cách rõ ràng hơn. Giờ bạn có thể phân biệt thang sắc độ của chúng khi một chuỗi
chuyển từ tối qua sáng và về tối, trong khi chuỗi còn lại đi từ sáng qua tối và về sáng. Những sự tương phản thay
đổi của những chuỗi này tạo ra một sự thay đổi đối kháng (counterchange) của sắc độ và màu sắc tạo ra chuyến
tàu lượn võng mạc tên là Vonal KSZ.
Màu sắc như biểu tượng:

Những người ăn khoai tây (The Potato Eaters) (1885) của Vincent van Gogh, sơn dầu trên toan
Những người ăn khoai tây của Vincent Van Gogh là kiệt tác từ thời kỳ đầu sự nghiệp trước khi ông chuyển tới
sống ở Paris vào năm 1886. Nó khắc hoạ một gia đình nông dân Hà Lan nghèo khổ đang ngồi quanh bàn chia sẻ
bữa ăn tối đạm bạc của họ. Họ là những người lao động nông nghiệp và những màu xanh và nâu đất mà Van
Gogh dùng là biểu tượng cho sự gần gũi và phụ thuộc vào đất đai để sinh tồn của họ. Có một sự thống nhất về
màu sắc và kết cấu giữa những bàn tay, khuôn mặt của những người nông dân và khoai tây cùng cà phê mà họ
đang chia nhau. Sắc độ u tối của tác phẩm phản ánh một cách đồng cảm về sự tồn tại khiêm nhường của các đối
tượng và sự tôn trọng của người nghệ sĩ đối với phẩm giá thầm lặng trong lao động của họ.

Màu sắc như tâm trạng – Niềm vui:


Hoa hướng dương (Sunflowers) (1888) của Vincent van Gogh, sơn dầu trên toan
Đối với Van Gogh, màu vàng là màu của niềm vui và tình bạn. Ông đã vẽ một sê-ri gồm ít nhất bảy bức tranh
về hoa hướng dương để trang trí những căn phòng trong ‘Ngôi nhà vàng’ của ông. Những bức tranh này được
hình thành như một lời chào mừng người bạn và đồng nghiệp hoạ sĩ của ông là Paul Gauguin mà ông đã mơ ước
cùng nhau dựng nên một ‘Xưởng vẽ phía Nam’ tại Arles ở miền Nam nước Pháp.
Trái ngược với tâm trạng u ám của Những người ăn khoai tây, Hoa hướng dương là một trong những bức tranh
vui tươi nhất trong lịch sử nghệ thuật. Mặc dù, thực tế, tác phẩm vọng lại những đối tượng Vanitas của tĩnh vật
thế kỷ 17 tại Hà Lan, vì một số bông hoa đã chuyển sang trạng thái héo úa, nhưng nó vẫn toả sáng với ánh hào
quang vượt lên bất kỳ dấu hiệu nào của sầu ai.
Bố cục của tác phẩm tự thân là đơn giản: mười lăm bông hoa hướng dương cắm trong một cái bình trên bàn;
chúng được sắp xếp đối xứng và lấp đầy tấm toan; lọ hoa, hoa, bàn, và hậu cảnh đều được chủ đạo bằng màu
vàng và không đổ bóng. Chính sự không phức tạp cả ở trong cách vẽ và cách bố cục của tác phẩm đã giải phóng
màu sắc để nó giao tiếp với khán giả ở một cường độ lớn hơn mong đợi. Những bông Hoa hướng dương thực
sự toả ra màu sắc thay vì sử dụng nó như một yếu tố miêu tả vật thể.
Đây là một hình ảnh then chốt trong sự phát triển của hội hoạ hiện đại và là nền tảng cho cả Dã thú và Biểu hiện
trong ý niệm cấp tiến của nó. Van Gogh đã có những lý thuyết cách mạng về màu sắc. Ông đã thả nó khỏi vai
trò miêu tả trong việc bắt chước thiên nhiên và cho phép nó thể hiện cảm xúc của mình: “Bởi vì thay bằng cố
gắng tái tạo chính xác những gì tôi nhìn thấy trước mắt, tôi sử dụng màu sắc một cách tuỳ tiện hơn để thể hiện
bản thân một cách mạnh mẽ.”

Màu sắc như tâm trạng – Nỗi buồn:


Người nhạc công ghi-ta già (The Old Guitarist) (1903-04) của Pablo Picasso, sơn dầu trên ván
Chúng ta thường sử dụng ngôn ngữ của màu sắc để miêu tả cảm xúc của mình. Chúng ta nói về ‘đỏ’ với cơn
thịnh nộ và ‘lục’ với sự ghen tuông. Nếu chúng ta cảm thấy dễ chịu, chúng ở trong màu ‘hồng’, và khi buồn là
chúng ta có màu ‘lam’ (got the blues). Khi Pablo Picasso vẽ Người nhạc công ghi-ta già, chắc chắn là ông đang
chịu đựng bởi nỗi buồn/màu lam. Trên thực tế, phần lớn tác phẩm trong khoảng 1901-04 giờ đây được gọi là
Thời kỳ lam của ông.
Vào năm 1901, Picasso rơi vào tình trạng trầm cảm nặng sau vụ tự tử của người bạn thân của ông là Carlos
Casagemas. Tác phẩm của ông sau đó phản ánh trạng thái tâm lý u uất trong cả chủ đề lẫn màu sắc ông dùng để
vẽ. Một triệu chứng trầm cảm mà có lẽ là ông đã bước vào giai đoạn sống xa lánh xã hội. Hậu quả của việc này
là ông đồng nhất mình với những người mà xã hội đày ải – người nghèo, người cô đơn, kẻ bệnh tật, kẻ lang
thang cơ nhỡ trên đường phố – và họ trở thành đối tượng cho tác phẩm của ông. Ông sẽ vẽ lên những hình tượng
nhân vật bi ai chủ yếu với tông màu xanh lam để làm tăng tâm trạng u sầu.
Người nhạc công ghi-ta già là một tác phẩm lớn minh hoạ những yếu tố chính trong Thời kỳ lam của Picasso.
Có một sự tập trung rõ nét vào tính người của ông lão có vóc dáng tiều tuỵ và vặn vẹo, không chỉ thể hiện nỗi
xót xa trước thân phận cơ cực mà còn là cảm xúc day dứt của chính người nghệ sĩ. Đây là một hình ảnh vượt
thời gian với phong cách kết hợp giữa quá khứ và hiện tại. Nó mang ơn chủ nghĩa Kiểu cách tra tấn của nghệ sĩ
thế kỷ 16 El Greco cũng như thẩm thấu nội tâm đương thời của chủ nghĩa Biểu hiện. Việc Picasso sử dụng màu
xanh lam làm màu tương ứng với nỗi buồn được đáp trả bằng sắc độ dễ chịu của cây ghi-ta màu nâu. Sắc độ có
hồn đó là nốt nhạc an ủi duy nhất trong hình ảnh bi thảm này.
Màu sắc như tâm trạng – Yên bình:
Đảo ở hồ Attersee (Isle on Lake Attersee) (1902) của Gustav Klimt, sơn dầu trên toan
Gustav Klimt được biết tới với những bức tranh mang những ngụ ngôn gợi cảm và chân dung xã hội của những
người phụ nữ đẹp, tất cả đều trang trí lộng lẫy với sự kết hợp giữa tượng hình và trừu tượng. Ông luôn luôn là
một người nghiện công việc và ý tưởng của ông về một kỳ nghỉ yên bình là việc ông vẽ một chủ đề khác bình
thường. Trong vòng 16 năm (1900-16), ông tham quan Salzkammergut, một vùng đẹp như tranh với rừng, núi,
và hồ trên núi – nơi ông vẽ tranh phong cảnh như một hình thức thư giãn. Những tác phẩm này hầu như luôn có
hình vuông vì ông sử dụng một kính ngắm nhỏ bằng ngà vui để đóng khung khung cảnh. Do đó, bố cục của
những bức tranh này phẳng và mang tính hoa văn bởi ông sẽ ‘cắt xén’ hình ảnh xung quanh hoặc ngay dưới
đường chân trời, do đó là mất đi tác dụng thông thường của phối cảnh. Điều này cho phép nghệ sĩ tập trung vào
mối quan hệ trừu tượng của màu sắc, hình dạng, mô típ lặp, và kết cấu bề mặt của những khu rừng và ven hồ.
Bức Đảo ở hồ Attersee có nhiều đặc điểm của phong cảnh mùa hè kiểu Klimt. Hòn đảo và chân trời của nó ở
trên cùng hoạt động như một bản lề hướng sự chú ý của người xem xuống bề mặt phản chiếu của hồ. Ít có sự
theo đuổi yên bình nào hơn là ngồi ven hồ ngắm nhìn những tia sáng và màu sắc lấp lánh trên mặt nước. Klimt
truyền tải cảm giác thư thái và mãn nguyện yên bình đó theo cách mà ông tập trung sự chú ý của mình vào quang
phổ Ấn tượng của màu xanh ngọc và xanh lam nhẹ nhàng hoà vào những làn sóng ánh nắng vàng dịu nhẹ.
Màu sắc như tâm trạng – Lo âu:
Tiếng thét (The Scream) (1893) của Edvard Munch; sơn dầu, màu keo và màu phấn trên bìa cứng
Tiếng thét của Edvard Munch đã đi vào tâm thức công chúng như một biểu tượng của sự lo âu. Tất cả các yếu
tố của nó kết hợp lại để tạo thành một hình ảnh của sự diệt vong sắp xảy ra, một cuộc tấn công hoảng loạn của
màu sắc và hình dạng. Hai màu sắc chính của bức tranh là cam và xanh lam, một sự tương phản mạnh mẽ giữa
các cực của quang phổ, đảm bảo tạo nên một mối quan hệ căng thẳng. Trạng thái lo âu của chứng sợ khoảng
trống (agoraphobia) được tạo ra bởi góc nhìn mở rộng của cây cầu và những làn sóng âm thanh ám ảnh vang
vọng xung quanh con vịnh hẹp. Một cái nhìn thoáng làm nhộn nhạo dạ dày qua mép lan can khởi động một cuộc
tấn công của cơn chóng mặt. Một cảm giác bị cô lập và bất lực sâu sắc được trải nghiệm bởi nhân vật đang ôm
lấy đầu của mình để hấp thu sự tấn công ám ảnh của môi trường này, trong khi đường thoát của anh ta bị chặn
bởi hai bóng ma ở đầu kia của cây cầu và đường biên bí ẩn dẫn đến màu cháy rực của bầu trời ở đầu bên này.
Nhân vật trong tranh chính là Munch. Trong nhật ký năm 1892, ông viết “Tôi đang đi dạo trên đường với hai
người bạn. Mặt trời dần buông xuống. Tôi cảm thấy mình nhuốm màu u uất. Bất chợt, bầu trời trở đỏ như máu.
Tôi ngừng lại, tựa vào lan can, mệt chết đi. Và rồi tôi nhìn vào những đám mây rực cháy treo lơ lửng như máu
và một thanh kiếm phía trên con vịnh hẹp màu xanh đen và thành phố. Những người bạn của tôi vẫn tiếp bước.
Còn tôi đứng đó, run rẩy vì sợ hãi. Và tôi cảm thấy một tiếng thét lớn, không dứt, đâm xuyên qua tự nhiên.”

Màu sắc như tâm trạng – Ồn ào:


Điệu nhảy Pan-Pan ở Monico (The Dance of the Pan-Pan at the Monico) (1909-1911/1959-1960) của Gino
Severini, sơn dầu trên toan
Phần phân tích màu sắc này đã bắt đầu với một bức hoạ Vị lai, và giờ sẽ kết thúc bằng một bức Vị lai khác. Điệu
nhảy Pan-Pan ở Monico của Gino Severini là tác phẩm lớn ở trung tâm của cuộc triển lãm Vị lai đầu tiên nằm
ngoài nước Ý, cụ thể ở Galerie Bernheim-Jeune ở Paris. Nó được vẽ vào khoảng 1909-11, nhưng phiên bản này
đã bị phá huỷ và Severini đã vẽ lại nó từ một tấm bưu thiếp vào khoảng 1959-60.
Những nhà Vị lai hoan nghênh sự ồn ào, năng lượng, và cường độ của cuộc sống đô thị hiện đại. Cuộc sống về
đêm náo nhiệt của quán rượu với cung cách sôi nổi và những điệu nhảy mạo hiểm theo nhịp điệu nhạc rag của
nó, tất cả đều được chiếu sáng bằng hệ thống đèn điện hiện đại, là một khung cảnh hoàn hảo cho tầm nhìn về
niềm vui Vị lai. Severini đã đập hình ảnh thành vô số mảnh mà ông ghép lại trong một bố cục động để nắm bắt
ý thức tập thể của chủ nghĩa Vị lai. Sự tương phản của những màu sắc đối lập va chạm vào vào nhau trong một
cấu trúc chống vỡ mà đóng khung niềm vui, sự nô đùa, tiếng ồn, và sự phấn khích của giải trí hiện đại.

Ánh sáng và màu sắc


Nhờ có ánh sáng, mắt người mới nhận thấy hình dạng và màu sắc của thế giới tự nhiên. Ở đâu dù ánh sáng mờ
nhạt thì ở đó có chút ít màu sắc. Ánh sáng mạnh thì màu sắc rõ ràng, rực rỡ. Khi ánh sáng yếu, ví như lúc chạng
vạng hay bình minh thì khó phân biệt màu này màu kia. Như vậy, về mặt quang học có thể nói màu sắc là sản
phẩm của ánh sáng.
Ánh sáng – nguồn gốc của màu sắc: Khoa học khẳng định, ánh sáng trắng tự nhiên hay ánh sáng mặt trời được
hình thành từ sự dao động điện tử với các bước sóng khác nhau, gọi là sóng điện từ. Mọi vật thể đều tiếp nhận,
hấp thụ và bức xạ sóng điện từ. Tuy bức xạ điện từ có nhiều loại: ánh sáng nhìn thấy, tia gamma, tia X-quang,
tia cực tím, tia hồng ngoại, ra đa, sóng truyền hình… nhưng nhận thức thị giác của con người chỉ giới hạn trong
phạm vi các bước sóng ánh sáng nhìn thấy (từ tím đến đỏ). Ánh sáng này ta gọi là ánh sáng khả biến (visible
light) – khái niệm được đưa ra vào những năm 1600 bởi nhà vật lý người Hà Lan Huggens.
Các sóng điện từ của ánh sáng khả biến tác động đến các vật thể được các vật thể hấp thụ, phản xạ lại rồi tác
động vào thị giác thành các tín hiệu truyền về bộ não. Tiếp theo, thần kinh thị giác của con người tạo nên cảm
giác ánh sáng. Bước sóng ánh sáng dài tương ứng với màu đỏ, da cam; bước sóng ngắn tương ứng với dải màu
tím. Như vậy, thực chất chúng ta chỉ nhìn thấy đối tượng phát sáng (phát màu) chứ không nhìn thấy “bản thân”
ánh sáng.
Màu quang phổ: Màu quang phổ còn gọi là phổ màu (color spectrum).
Theo thí nghiệm năm 1660 của nhà khoa học người Anh Isaac Newton, phổ màu thu được trên nền trắng khi tia
sáng mặt trời đi ngang qua một lăng kính. Dải quang phổ này là một dãy màu có sắc như sắc cầu vồng. Newton
phân biệt rành mạch bảy màu trên phổ này là: dỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm và tím. Phổ này là phổ ánh sáng
nhìn thấy (visible light spectrum).
Những sắc màu của phổ ánh sáng nhìn thấy là tinh khiết và tượng trưng cho cường độ màu (intensity) cao nhất.
Thực tê, giữa các màu trên không tách biệt rõ ràng. Màu trung gian làm nhòa ranh giới giữa chúng. Sắc màu của
7 mỗi màu trên phổ màu phụ thuộc vào bước sóng ánh sáng. Ví dụ: đỏ: 700nm, cam: 650 nm, vàng: 600nm,
xanh lục: 550nm, xanh lam: 450nm, tím: 400nm.
Hình 6.1 là các ví dụ minh họa về phổ màu của ánh sáng trắng, trong đó:
a. Sơ đồ minh họa thí nghiệm của Newton. Một lăng kính tách chùm sáng thành các bước sóng thành phần và
hiển thị chúng thành phổ màu.
b. Phổ ánh sáng nhìn thấy và độ dài bươc sóng.
c. Vị trí của ánh sáng nhìn thấy chỉ là một khoảng hẹp trong khổ bức xạ điện từ. Các con số biểu thị độ dài bước
sóng và sắc màu đơn vị tính bằng nanometer.
Hình 6.1: Phổ màu của ánh sáng trắng
a. Sơ đồ thí nghiệm của Newton.
b. Phổ màu theo dải ngang và bước sóng.
c. Vị trí của ánh sáng nhìn thấy trong khổ bức xạ điện tử.
Theo thí nghiệm khác, khi đặt bảy màu của quang phổ lên một đĩa tròn rồi quay thật nhanh, nhìn vào ta sẽ có
cảm giác về màu trắng. Đây là sự trộn màu của ánh sáng. Cũng những màu này nhưng khi trộn với nhau lại
không được màu trắng mà lại cho màu xám đen. Như vậy, để tìm hiểu các đặc tính, cách thức phối màu chúng
ta cần phân biệt có hai loại màu là:
a. Màu của ánh sáng màu (light colors):
b. Màu của chất màu (pigmentary colors) tức là các loại sơn, loại màu được chế tạo dùng để sơn, vẽ, ví như dùng
cho họa sỹ vẽ tranh.
Nguồn gốc và màu sắc: Có ba dạng nguồn sáng cơ bản thường gặp là ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn nung nóng
(incandescent light) và ánh sáng huỳnh quang. Nói vậy vì còn nhiều nguồn sáng khác như: ánh sáng mặt trăng,
cực quang phương bắc, chớp, núi lửa, ánh sáng của sinh vật: đom đóm, vi khuẩn, tảo… Đây là các nguồn sáng
tự nhiên, ngoài ra còn có các nguồn sáng nhân tạo khác như: laser, OLED… Ba nguồn sáng cơ bản trên có tính
chất và đặc trưng phổ khác nhau nhưng cường độ cực đại của chúng đều rơi vào vùng ánh sáng khả biến. Não
người sẽ tự điều chỉnh trước các dạng nguồn sáng và cảm nhận được màu sắc của vật thể dưới các nguồn sáng
này. Vật lý học giải thích, bản thân các hình thể không có màu riêng nhưng nó lại có khả năng hấp thụ, bức xạ
các bước sóng của ánh sáng vào bề mặt của nó. Vật màu xanh được thấy là xanh bởi chúng hấp thụ tất cả các tia
sáng nhìn thấy (visible light) ngoại trừ tia sáng xanh. Các vật màu trắng phản chiếu lại tất cả các bước sóng màu
sắc của môi trường nên có màu trắng. Còn các vật màu đen hấp thụ tất cả ánh sáng chiếu vào nó, không phản xạ
lại bất kỳ màu sắc nào nên nó có màu đen.
Khi điều kiện nguồn sáng thay đổi, các màu sắc của vật thể cũng thay đổi. Ánh sáng trắng hay ánh sáng mặt trời
có phổ màu đầy đủ và đều, trong khi đó các nguồn sáng nhân tạo có thể có phổ màu không đều. Màu sắc của
nguồn sáng ảnh hưởng đến màu sắc các bề mặt mà nó chiếu vào. Bức tranh để trong nhà dưới nguồn sáng nhân
tạo có thể bị khác đi về màu sắc so với khi để nó ở ngoài trời.
1. Màu cơ bản: Màu cơ bản hay còn gọi là màu chính, màu nguyên thủy, màu gốc, màu bậc 1 (fundamental
colors, primary colors, primary hues), đây là những màu được coi là hoàn toàn nguyên chất với nguyên vẹn độ
tười thắm, không thể tạo nên nhờ pha trộn.
Có một số hệ màu cơ bản. Cách phân chia hệ màu cơ bản tùy thuộc vào quy tắc và phạm vi nghiên cứu, ứng
dụng:
a. Màu ánh sáng và chất tạo màu cơ bản:
- Màu ánh sáng (light primaries) là môt màu với bước sóng ánh sáng duy nhất và sắc thuần khiết, nó không bị
biến đổi bởi các bước sóng khác. Đây chính là màu quang phổ của ánh sáng trắng. Các màu ánh sáng cơ bản
gồm có: đỏ - xanh lam – xanh lục.
- Các chất tạo màu cơ bản (pigment primaries) là các chất màu nhân tạo do con người chế tạo dùng cho sơn, màu
vẽ. Các màu cơ bản gồm có đỏ - xanh lam – vàng.
Từ các màu cơ bản của mỗi loại trên tạo ra được màu cơ bản cấp độ hai hay còn gọi là màu bậc hai (secondary
colors). Cụ thể:
+ Với màu ánh sáng, sự pha trộn gọi là màu cộng thêm (additive mixing). Ta có các cặp sau (hình 6.2):
Xanh lam + xanh lục = xanh ngọc hay gọi là xanh lam biển (cyan).
Đỏ + xanh lục = vàng
Xanh lam + đỏ = hồng đậm hay đỏ cánh sen (magenta).
Đỏ + xanh lam + xanh lục = trắng.
+ Với chất màu, sự pha trộn gọi là sự trừ đi (subtractive mixing). Ta có các cặp (hình 6.3):
Xanh lam + đỏ = tím
Xanh lam + vàng = xanh lục
Đỏ + vàng = tím
Đỏ + xanh lam + vàng = đen xám
b. Xét theo lĩnh vực nghiên cứu có thể phân loại màu cơ bản như sau:
- Về khía cạnh vật lý, các màu cơ bản tương ứng với ánh sáng màu là: đỏ - xanh lam – xanh lục.
- Với các vấn đề hóa học, các màu cơ bản tương ứng với chất tạo màu (pigment) là: đỏ - xanh lam – vàng.
- Với các vấn đề tâm thần học và sinh lý có liên hệ với các màu cơ bản: đỏ - xanh lam – xanh lá – vàng.
c. Xét theo lĩnh vực in ấn, thông tin, mỹ thuật có thể phân loại các màu cơ bản:
- Màu cơ bản trong hội họa: đỏ - vàng – xanh lam.
- Màu cơ bản trong in ấn: C = Xanh ngọc (Cyan); Y = Vàng (Yellow); K = Đen (Black, dùng K vì B = Blue đã
chỉ màu xanh lam); M = Đỏ cánh sen (Magenta). Hệ màu này gọi là màu CMYK.
- Màu cơ bản trong máy thu hình là: đỏ - xanh lam – xanh lục. Đây là màu cơ bản của ánh sáng màu.
Hình 6.2: Màu cơ bản ánh sáng
a. Các cặp kết hợp màu ánh sáng cơ bản.
b. Pha trộn ba màu cơ bản ánh sáng.
Hình 6.3: Chất màu cơ bản
a. Các cặp kết hợp chất màu cơ bản.
b. Pha trộn ba chất màu cơ bản.
Vòng tròn màu: Để phát triển các lý thuyết về màu sắc, các nhà khoa học và các nhà thiết kế đã tạo ra nhiều kiểu
loại sơ đồ hai chiều và ba chiều khác nhau để phản ánh mối quan hệ của màu sắc. Vòng tròn màu (color circle)
hay bánh xe màu (color wheel) là một phần việc như vậy. Sau thí nghiệm tách ánh sáng trắng thành phổ màu dải
ngang, Newton phát hiện ra rằng, bằng cách nối hai đầu của dải màu lại, một vòng tròn màu được tạo ra. Phần
nối là khoang màu tía có được từ sự pha trộn chất tạo màu đỏ và xanh kết hợp với nhau. Vòng tròn này phản ánh
mối quan hệ tương tác giữa các màu (xem hình 6.4). Sau này, để dễ ứng dụng vào thực tế và thấy được sự diễn
tiến của các sắc màu, phổ màu nằm ngang với vô vàn màu được sắp xếp lại có trật tự theo vòng tròn với 8 màu,
10 màu, 12 màu…
Hình 6.5 là vòng màu cơ bản với 12 màu, vòng tròn được cho là dễ dùng, dễ tìm hiểu.
Hình 6.4: Bánh xe màu của Newton
a. Dải băng màu của phổ ánh sáng nhìn thấy.
b. Nối hai đầu dải màu để hình thành bánh xe màu.
c. Bánh xe màu của Newton (Isaac Newton’s color wheel). Độ lớn các phần trên bánh xe tương đương với độ
rộng của dải màu trên phổ màu ngang.
Hình 6.5: Vòng tròn màu cơ bản với 12 màu.
Trong đó màu gốc là ba màu đỏ, vàng, lam. (Trong ngành in người ta dùng đỏ cánh sen làm gốc). Các màu còn
lại là màu tương sinh.
2. Tính chất ba chiều của màu sắc: Mỗi một sắc màu dù là sơn dầu, thuốc nhuộm, mực… đều có những đặc
điểm khác nhau. Có màu tươi, có màu xỉn, có màu tối, màu sáng, có màu mạnh, yếu nhưng đều phải mô tả theo
ba phẩm chất vật lý là: màu sắc (hue), sắc độ (value), cường độ (intensity). Để thể hiện ba phẩm chất căn bản
trên của màu sắc, các nhà lý luận đã chọn hai cách: bánh xe màu (hay biểu đồ màu hai chiều (2D) và khối hoặc
biểu đồ màu ba chiều (3D). Trong khi khối màu (color solid) được sử dụng để mô tả diễn tiến ba chiều của màu
sắc thì bánh xe màu thường biểu diễn hình cắt của một khối màu, nhờ đó các ký hiệu 2D và 3D được kết hợp lại
trong một hệ thống. Hình 6.6 là sơ đồ không gian về ba phẩm chất: màu sắc – cường độ - sắc độ của màu sắc.
a. Màu nguyên sắc: Mọi màu đều có sự biến đổi tinh tế. Ví như, thêm một lượng rất ít sắc màu khác hay thêm
một chút trắng hoặc đen vào màu đỏ để rồi hòa sắc vẫn gọi là màu đỏ. Nhưng khái niệm màu nguyên sắc (hue),
phẩm chất thứ nhất của màu để chỉ cụ thể màu đỏ, xanh, lục, vàng… ở trạng thái nguyên chất tuyệt đối không
pha trộn.
Màu nguyên sắc được định rõ vị trí trên quang phổ hay trên bảng màu. Nói đến màu nguyên sắc (hue) là nói đến
ba màu cơ bản và hệ thống màu bậc hai, màu bổ túc, màu bậc ba, bậc bốn… Tuy vậy, nhằm giữ tính rõ ràng,
đơn giản và dễ ứng dụng trong mỹ thuật thường hay xác nhận bảng màu nguyên sắc với 12 màu như hình 6.5.
Như vậy, chiều thứ nhất của màu sắc là các màu nguyên sắc, màu tươi (hue) biến đổi theo vòng tròn, vị trí trên
đường xích đạo nếu là cầu màu (sphere color) và là vành khăn màu nguyên chất cắt ngang khối cầu ở vị trí đường
xích đạo ngoài cùng. Còn chiều thứ hai của màu sắc là sắc độ (quang độ).
b. Quang độ (value) – phẩm chất thứ hai của màu sắc là độ sáng hay tối, đậm hay nhạt của từng loại màu.
Trong các màu, màu trắng có quang độ sáng nhất, màu đen có quang độ tối nhất. Nếu quan sát các màu, trên
vòng thuần sắc thì màu vàng có quang độ sáng nhất, kế đến là đỏ và làm, màu tím có quang độ tối nhất. Quang
độ của các sắc màu có thể nhận rõ nhất khi nó được dịch chuyển sang dạng đen, trắng (ví như chụp lại ảnh đen
trắng). Khi một sắc màu được pha trộn với màu trắng sẽ trở nên sáng hơn và trở nên tối hơn khi pha với màu
đen. Một màu đen có thể pha tăng dần màu trắng để được một dải màu xám. Hệ màu xám này cũng có thể làm
thay đổi quang độ của các màu. Có thể tạo ra sự thay đổi quang độ khi pha trộn sắc màu khác đậm hơn hoặc nhạt
hơn. Sự thay đổi quang độ này làm biến sắc của màu.
Hình 6.6: Sơ đồ minh họa tính ba chiều của màu sắc
a. Sơ đồ cho thấy ba phẩm chất vật lý của màu sắc. Khi màu chuyển động quanh, chúng chuyển đổi sắc màu
(hue), khi những màu này tiến lên trên gần với màu trắng hay xuống phía dưới gần với màu đen, chúng thay đổi
sắc độ (value). Khi các màu ở phía ngoài dịch về tâm chúng giảm dần về cường độ hay độ tươi của màu tiến tới
độ trung hòa (chroma).
b, c. Sơ đồ khối về tính diễn tiến ba phẩm chất vật lý của màu sắc thể hiện dưới dạng chóp nón và hình cầu.
Hình 6.7 là ví dụ về sự thay đổi quang độ của màu sắc khi pha thêm đen (trắng) và sự so sánh quang độ của sắc
màu với sắc độ thang ghi xám (đen + trắng). Như vậy, chiều thứ hai của màu sắc là chiều của kinh tuyến trên
khối cầu màu. Chiều đậm nhạt của một màu thay đổi từ bán cầu trên xuống bán cầu dưới. Cụ thể là một màu
thay đổi khi nó được pha với màu đen hoặc màu trắng.

Hình 6.7: Quang độ của màu sắc


a. Sự biến đổi từ sắc độ đậm tới sắc độ nhạt theo chiều từ trên xuống dưới. Chiều ngang là biến đổi về sắc màu.
b. Quang độ của ghi xám. So sánh với quang độ của các sắc màu.
3. Lịch sử lý thuyết màu sắc: Lý thuyết về màu sắc được các nhà khoa học, các nghệ sỹ xây dựng nên. Quá
trình này kéo dài nhiều trăm năm. Các lý thuyết màu sắc đều có điểm chung là lý giải ba phẩm chất cơ bản của
màu sắc là: sắc tố (hue), sắc độ (value), cường độ (intensity). Các nhà khoa học, các nghệ sỹ xây dựng các lý
thuyết về màu sắc, thiết kế ra các loại biểu đồ, hình vẽ và mô hình dưới dạng hai hay ba chiều để phản ánh mối
quan hệ giữa ba phẩm chất nói trên. Nội dung cụ thể thường là:
- Xác định và cách tạo ra các màu cơ bản, màu bậc hai, bậc ba, bậc bốn…
- Tìm ra mối quan hệ giữa các màu có sắc và không sắc.
- Định danh, định tính và điều chế các sắc màu trong thực tế.
Sự nghiên cứu này có thể dưới hai dạng ánh sáng màu (light colors) hoặc chất màu (pigmentary colors). Sau đây
là tóm tắt theo trình tự thời gian các lí thuyết chính về màu cơ bản.
* Franciscus Aguilonius: Franciscus Aguilonius - nhà khoa học người Bỉ được coi là nghiên cứu sớm nhất về
màu sắc. Xuất phát từ quan niệm của người Hy Lạp cổ coi ánh sáng là nguồn gốc của sắc màu, năm 1613
Aguilonius đưa ra sơ đồ màu trên cơ sở cảm nhận thị giác. Theo suy luận của Aguilonius, phổ màu biểu thị hiện
tượng của các thiên thể, đó là sự thay đổi từ ngày tới đêm. Ngày tượng trưng cho trắng, đen tượng trưng cho
đêm, màu đỏ giữ vị trí trung tâm, và 5 màu trên quang phổ sắp xếp theo thứ tự: trắng (albus), vàng (flavus), đỏ
(rubeus), xanh da trời, đen (niger). Trong đó màu vàng được coi là nguồn sáng, xanh lam mô tả thời điểm mặt
trời lặn.
Sơ đồ màu Aguilonius được coi là sơ đồ phối sắc đầu tiên, nó đã dặt ra nhiều câu hỏi cho các thế hệ sau này.
(Xem hình 6.8)

Hình 6.8: Vòng tròn màu của Aguilonius


Hệ thống màu của Aguilonius gồm 5 màu cơ bản: trắng - vàng - đỏ - xanh da trời (lam) - đen, biểu thị sự luân
chuyển của ngày và đêm.
* Isaac Newton:
Newton được coi là người đầu tiên xác định thực chất của màu sắc. Năm 1660, ông chiếu luồng ánh sáng trắng
(mặt trời) qua lăng kính tạo ra một phổ màu: đỏ - cam - vàng - lục - lam - chàm - tím. Ông thấy rằng có sự giống
nhau giữa màu đỏ - tím ở đầu phổ và màu xanh - tím ở cuối phổ và ông nối lại để tạo ra vòng tròn màu hay còn
gọi là bánh xe màu (Newton’s color circle/Newton’s color wheel). Vòng tròn này tạo ra sự liên kết, sự giải thích
về sự pha trộn các màu sắc (xem hình 6.4c).
* Moses Haris: Nhà khắc bản in và côn trùng học người Anh, người đầu tiên (1776) phát triển bánh xe màu hay
là vòng thuần sắc dựa trên các chất màu (pigment primaries). Trên vòng tròn màu ông bố trí ba màu nguyên thủy
là: đỏ - vàng - lam cùng các màu nhị nguyên là: đỏ tía (purple) - cam - lục.
Hình 6.9: Là vòng tròn màu của Moses Haris.
a. Bản vẽ tay dùng các chất màu
b. Sơ đồ vẽ lại dạng nét
* Johann Wolfgang VonGoethe: Johann Wolfgang Von-Goethe - nhà khoa học, nhà thơ người Đức tiếp theo
là lí luận của Aristotle đã bác bỏ lí thuyết màu của Newton. Ông cho rằng xanh lam và màu vàng là màu nguyên
thủy. Theo Aristotle, màu vàng có nguồn gốc từ ánh sáng, màu xanh lam có nguồn gốc từ bóng tối. Tất cả các
màu khác, gồm cả màu đỏ, là sự pha trộn của hai màu vàng và xanh.
Vòng tròn màu của Goethe dựa trên chất màu (pigment primaries), cấu trúc có hai tam giác đều xếp chồng lên
nhau. Các đỉnh của tam giác thuận chiều tạo thành bộ ba màu: đỏ - xanh lam - vàng; các đỉnh của tam giác ngược
chiều là: tím - xanh lục - da cam (hình 6.10).
* Philipp O tto Runge: Philipp o tto Runge - họa sĩ người Đức là người đầu tiên trình bày lí thuyết về màu sắc
bằng sơ đồ ba chiều, cụ thể là hình cầu màu (1810).
Trên hình cầu, các màu cơ bản, màu bậc hai được vẽ giống ngôi sao sáu cánh của Goethe và ngôi sao sáu cánh
này nằm trên đĩa chia đôi hình cầu. Như vậy, các màu nguyên chất tinh khiết nhất nằm quanh đường xích đạo
của khối cầu. Trắng và đen là màu vô sắc được đặt ở đỉnh và đáy hình cầu. (Tham khảo hình 6.6a).
Sự sắp xếp ba chiều này cho phép hiển thị các bước thay đổi phong phú của những sắc màu gồm sắc màu pha
đen, pha trắng, pha ghi ở các cấp độ khác nhau. Hình 6.11 là sơ đồ khối cầu màu F.O Runge.
* Michel - Eugene Chevreul: Michel - Eugene Chevreul, nhà hóa học nổi tiếng người Pháp. Ông đã có nghiên
cứu về các chất tạo màu. Ông cũng đặc biệt quan tâm tới các lĩnh vực Mĩ thuật và có viết hai cuốn sách tiêu biểu
về màu là: “Các nguyên lí của sự hài hòa và tương phản màu sắc và sự ứng dụng của nó đối với nghệ thuật” (The
principles of Harmony and Contrast of color their Application to the Art - 1885). “Các quy tắc về sự tương phản
của màu sắc” (The laws of Contrast of colour - 1861).
Trong hàng chục năm Chevreul có các nghiên cứu đa dạng về màu sắc như: tìm hiều về sự tương phản và hòa
hợp của các sắc màu, tìm ra các quy luật ảnh hưởng lẫn nhau của màu sắc khi đặt cạnh nhau. Ông được biết đến
với khái niệm tương phản đồng thời hay đối sánh đồng thời (Simultaneous Contrast); cách thức tạo ra những
màu tự nhiên nhất khi phối kết chúng với nhau; các hiện tượng ảo giác của màu sắc (illusion).
Các quan niệm về màu sắc của Chevreul đã ảnh hưởng tới nghệ thuật hiện đại châu Âu, đặc biệt với Mĩ thuật
của trào lưu ấn tượng (Impressionism) và Tân ấn tượng (Neo-Impressionism). Các họa sĩ của hai nhánh thường
đặt cận kề nhau những mảng bổ túc, các màu này tham gia tăng cường độ của nhau là sự đối sánh cùng lúc. Lý
thuyết của ông được làm nền tảng kiến thức về màu sắc và được giảng dạy trong nhiều trường nghệ thuật. Vòng
tròn màu của ông được công bố vào những năm 1860, dựa trên các chất màu cơ bản (pigment priaries). Xem
hình 6.12.

Hình 6.10: Sơ đồ vòng tròn màu của Johann Wolfgang Von-Goethe (1793)
Ba đỉnh tam giác thuận biểu thị ba màu gốc. Ba đỉnh tam giác ngược biểu thị ba màu bậc hai.
Hình 6.11: Khối màu của Philip Otto Runge
Lý thuyết về màu sắc đầu tiên được thể hiện dưới dạng ba chiều.
Hình 6.12: Vòng tròn màu và khối màu của Michel - Eugene Chevreul James Clerk Maxwell
James Cleck Maxwell nhà vật lí, nhà toán học người Scotland nối tiếp với nghiên cứu màu sắc. Ông đã phát triển
lí thuyết hệ thống ánh sáng màu. Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng thí nghiệm của mình ông đã chứng tỏ ba màu
sắc sơ cấp là: đỏ - xanh lục - xanh lam đã tạo ra được màu bất kì bằng cách thay đổi tỷ lệ phối kết giữa chúng
(dùng con quay màu)
James Cleck Maxwell đã đưa ra hệ thống cộng màu (additive mixing) hình tam giác. Sơ đồ này có ba đỉnh gốc
là: đỏ - xanh lá cây - xanh lam. Bất kỳ màu nào trong tam giác cũng có thể được tạo ra bởi sự pha trộn theo tỷ lệ
cố định của ba màu sơ cấp.
Hình 6.13 là tam giác cộng màu của Maxwell. Sơ đồ cho thấy:
- Đỏ hòa với lục với tỷ lệ bằng nhau cho vàng (điểm giữa của cạnh z)
- Lục hòa với đỏ cho Cyan (điểm giữa cạnh x)
- Lam hòa với đỏ cho Magenta (điểm giữa cạnh y)
- Hòa cả ba màu sơ cấp theo tỷ lệ bằng nhau được màu trắng (ở trung tâm tam giác)
- Hai màu đối nhau qua đường cao tam giác gọi là màu bổ túc (Complementary) hòa với nhau cho trắng: đỏ +
cyan = lục + magenta = lam + vàng = trắng
Lý thuyết màu của Maxwell được coi là bước ngoặt trong lí thuyết về màu sắc, cụ thể là ánh sáng màu. Lý thuyết
của ông mở đầu cho RGB (red, green, blue); nó làm nền tảng cho màu TVPC, digital camera sau này.
Hình 6.13: Tam giác màu Maxwell
* Willhelm Von Bezold: Vòng tròn màu được phát hiện bởi Willhelm Von-Bezold - nhà khoa học người Đức
(hình 6.14) cũng dựa trên ba màu của lí thuyết màu RGB (đỏ, xanh lam, xanh lục). Sơ đồ chia làm hai phần, bên
ngoài là hình vành khăn, bên trong là hình tam giác. Hình vành khăn được chia thành mười hai đoạn, mỗi đoạn
là một màu gồm: trên đỉnh cao là đỏ tía (purple), tiếp đến là đỏ son (Carmine) - đỏ cam (Vermillion) - Cam
(Orange) - Vàng (Yellow) - Vàng xanh (Yellowish-green) - Xanh lục (Green) - Xanh lục lam (Bluish-green) -
Xanh ngọc (Turquoise Blue) - Xanh biển đậm (Ultra Marine) - Tím tía (Purpis Violet).
Các màu đối nhau (tương phản) hay còn gọi là các màu bổ túc (Complementary colors) gồm:
- Đỏ cam và xanh lục
- Cam và xanh lục
- Vàng và xanh biển đậm
- Vàng xanh và tím tía
- Xanh lục và đỏ tía
* Ewalld Hering: Nhà tâm lí học nhận thức người Đức tạo ra vòng tròn màu dựa trên nhận thức thị giác của con
người. Lí thuyết màu của ông được xây dựng trên cơ sở đồ phẳng. Các màu cơ bản trong hệ thống của ông là:
đỏ - vàng - xanh lục - xanh lam. Ông cho rằng bốn màu sắc này cùng với đen và trắng là đơn nhất, nó hoàn toàn
không giống nhau về cảm giác thị giác. Trên vòng tròn màu Hering cài lồng bốn màu vào nhau, bên trong là
bánh xe màu, kết quả của sự cài lồng vành ngoài. Xem hình 6.15.
* Ogden Rood: Vào cuối những năm 1870, nhà vật lí người Mỹ Ogden Rood đã phát triển vòng tròn màu và
khối màu dựa trên ánh sáng màu gốc (light primaries) là: đỏ - xanh lục - xanh lam giống như Maxwell trước đó.
Ở hình tròn, tâm là màu trắng và các màu nguyên chất (pure hues) như vòng thuần sắc được đặt ở vòng ngoài
đường tròn. Hình nón kép đối xứng có hai đỉnh, đỉnh trên là màu trắng, đỉnh dưới là màu đen. Như vậy, ở trên
đĩa tròn các màu bên ngoài tươi hơn, càng vào trong càng sáng nhạt dần.
Sơ đồ của Ogden Rood có phần nào giống Philip Otto Runge. Xem hình 6.16.
Hình 6.14: Bánh xe màu và khối màu của Willhelm Von-Bezold
Hình 6.15: Vòng tròn màu của Ewalld Hering (1878)
Hình 6.16: Vòng tròn màu và khối màu của Ogden Rood (1879),
lấy ánh sáng màu: đỏ - xanh lục - xanh lam làm gốc
* Alois Hofler: Alois Hofler - nhà khoa học người Austria phát triển lí thuyết màu ba chiều dựa trên thị lực của
người. Khối màu là khối tháp tứ giác đối xứng qua mặt đáy. Mỗi góc của tứ giác là các màu cơ bản: đỏ - vàng -
xanh lá - xanh lam. Các màu này pha trộn với nhau để thành màu xám ở tâm. Tất cả các màu pha trắng có sắc
sáng (tin = colors + white) chuyển dần lên phía trên có màu trắng. Tất cả các màu pha đen có sắc sẫm (shade=
color + black) chuyển dần về màu đen phía dưới (hình 6.17a).
* Albert H. Munsell: Họa sĩ - nhà sư phạm nghệ thuật người Mỹ Albert H. Munsell dựa trên cảm nhận của mắt
người thay vì dựa trên thước đo vật lí hay thành phần hóa học của màu sắc đã dựng lên vòng tròn màu và khối
màu. Hệ thống này được tạo nên bởi năm màu cơ bản (primary colors). Ba tính chất hay phẩm chất căn bản của
màu sắc: sắc tố - sắc độ - cường độ và hiện tượng dư ảnh của giác quan (perceptual afterimage phenomeno) được
dùng để xác định một màu cụ thể. Hiện tượng dư ảnh diễn ra như sau: Ví dụ khi nhìn chằm chằm vào một vùng
màu vàng có sắc tố mạnh trong vài phút rồi nhìn vào một bề mặt xám nhạt ta sẽ nhìn thấy dư ảnh màu tím xanh
(purple-blue). Màu tím xanh chính là màu bổ túc (complementary color) hay màu đối nghịch về thị giác của màu
vàng.
Năm màu cơ bản của vòng tròn
- Đỏ (Red) :R
- Vàng (Yellow) :Y
- Xanh lá (Green) :G
- Xanh lam (Blue) :B
- Đỏ tía (Purple) :P
Năm màu trung gian kẹp giũa các màu trên có được bằng cách pha trộn hai màu liền kề:
Đỏ + Vàng = Vàng cam : YR
Vàng + Xanh lá = Vàng xanh : GY
Xanh lục + Xanh lam =Lam lục : BG
Xanh lam + Đỏ tía =Tím xanh : PB
Đỏ tía + Đỏ = Tím đỏ : RP
Xem hình 6.17b.
Để thực tế những quan hệ ba chiều của màu sắc, phù hợp với tính chất biến thiên của màu sắc với đặc tính: sắc
tố, sắc độ, cường độ, Munsell đã nghĩ ra hệ khối màu ba chiều có hình dạng của một cây xanh. Cột trụ thân cây
với màu đen ở đáy và dâng lên đến màu trắng ở đỉnh. Ở các nhánh, cường độ màu của nhánh phía ngoài là màu
có sắc mãnh liệt nhất, các tầng sắc độ, cường độ giảm dần vào trong.
Hình 6.17a: Sơ đồ kim tự tháp đối xứng và phần trung tâm với các màu cơ bản: đỏ - vàng - xanh lá - xanh
lam của Hofler
Hình 6.17b: Vòng tròn màu của Munsell
Hình 6.17c: Cây màu ba chiều của Munsell
Phần quan trọng của hệ màu Munsell là tạo ra kí hiệu màu, mô tả một màu bằng chữ cái và số: 5 là màu chính,
10 là màu trung. Ví dụ 5Y là vàng; 2,5Y có một lượng nhỏ da cam; 7,5Y có một lượng nhỏ xanh lá. Việc ghi kí
hiệu này là cần thiết trong công nghiệp bởi hệ thống màu sắc phải được sử dụng chính xác từ lúc thiết kế tới sản
xuất. Sau khi Albert Munsell qua đời vào năm 1918, một số đồng nghiệp của ông đã thành lập công ty màu
Munsell và công bố nghiên cứu của ông. Năm 1943, ngành công nghiệp Hoa Kỳ đã đưa ra hệ màu Munsell làm
tiêu chuẩn để dặt tên cho các màu khác nhau.
* Wilhelm o stwald và hệ màu o stwald: Wilhelm Ostwald là nhà hóa học, nhà vật lí học được giải Nobel.
Năm 1916 ông phát triển lý thuyết màu sắc dựa trên sự cảm nhận con người về mặt thị giác và tâm lí thụ cảm.
Hệ màu của Wilhelm Oswald gồm vòng tròn màu và khối màu cùng các sơ đồ diễn giải. Vòng tròn màu được tổ
chức như sau:
- Bốn màu cơ bản gồm: Vàng - đỏ - xanh biển sẫm (ultra-marine blue) và xanh lục biển (see green).
- Bốn màu trung gian được tạo ra từ bốn màu cơ bản là: cam - đỏ tía (purple) - ngọc lam (turquoise) và xanh lá
(leaf green).
- Vòng tròn màu này được phát triển dựa trên nguyên tắc mỗi cặp màu trộn lẫn nhau với hàm lượng tương đương
sẽ tạo ra một màu giữa hai màu đó.
- Vòng tròn màu gồm 24 màu khác nhau phát triển từ tám màu cơ bản và màu trung gian. Xem hình 6.18.
Hình 6.18: Vòng tròn màu với 24 màu của Wilhelm Ostwald (1916)
- Các màu số 2, 8, 14, 20 là các màu căn bản.
- Các màu số 5, 11, 17, 23 là các màu trung gian.
Khối màu của Ostwald là hai hình nón úp vào nhau (hình 6.19), đỉnh nón trên là màu trắng, đỉnh nón dưới là
màu đen. Vành đáy nón là các vòng thuần sức 24 màu. Các múi màu trên khối nón thu dần về đỉnh trắng và đen,
các màu thuần sắc pha dần với hai màu này. Nhờ khối nón có thể tìm được ra những màu có cùng cường độ,
cùng lượng trắng và đen.
Hệ thống lí luận của Ostwald dựa trên hai phạm trù của màu sắc là: màu vô sắc (Archromatic color - trắng, xám,
đen) và màu có sắc (Chromatic color - vàng, đỏ, xanh lam, xanh lục) và các màu giữa chúng và cận kề chúng,
cụ thể:
Hình 6.19: khối màu Ostwald
a. Sơ đồ khối nón cho phép ta nhìn thấy rõ vòng thuần 24 màu.
b. Hình vẽ khối màu mô tả sự biến chuyển về sắc độ màu.
c. Sơ đồ không gian khối nón với ví dụ về sự biến đổi sắc đỏ theo dải đen trắng.
Màu vô sắc: Màu vô sắc có thể hình thành một dải vô tận từ trắng qua ghi, xám tới đen. Theo Ostwald, sự cảm
nhận màu vô sắc là mức độ sáng của mỗi màu. Độ sáng đậm hay nhạt phụ thuộc vào lượng ánh sáng chiếu xuống
bề mặt và phản chiếu lại. Nếu tất cả ánh sáng bị phản chiếu lại được nó coi là trắng hoàn toàn; nếu ánh sáng bị
hấp thụ hết nó được gọi là đen hoàn toàn.
Thước đo màu xám của Ostwald là một thang gồm 8 nấc (hình 6.20) tương ứng với độ giãn cách trên bảng chữ
cái là: a, c, e, g, i, l, n, p. (Lúc đầu thang gồm 26 bước nhưng trên thực tế mắt người khó cảm nhận được sự
chênh lệch ít giữa các thang). Kèm theo mỗi nấc là tỷ lệ phần trăm, số phần trăm biểu thị lượng trắng, đen là số
100 trừ đi lượng trắng.
Màu có sắc: Sự biến đổi màu sắc được Ostwald thể hiện dưới dạng sơ đồ tam giác, gọi là tam giác màu. Hình
6.21 là sơ đồ tam giác màu mô tả màu thuần sắc biến đổi khi pha dần với màu trắng, đen và ghi (đen + trắng).
Hình 6.22 là các bước biến đổi khi phối kết các nấc thang màu vô sắc (các chữ cái chỉ cấp độ đậm nhạt ở hình
6.20).
Hình 6.20: Thang đo màu xám của Wilhelm Ostwald
TRANG TRÍ MÀU
Trang Trí Màu là phương thức vẽ phối hợp dãy màu sắc theo quy luật từng màu và đặt chúng cạnh
nhau trong trường hợp cụ thể để thể hiện những chủ đề khác nhau, cho bức tranh trở nên hài hòa
và cân đối.

1. Bộ màu cơ bản và màu thứ bậc


Theo lý thuyết thì tồn tại 3 màu cơ bản là Đỏ, Xanh lam và Vàng. Gọi là màu cơ bản vì không thể
dùng các màu khác mà pha ra được 3 màu này, và hạn chế dùng 3 màu này vào bài vì nó không
được đẹp, dùng màu cơ bản sẽ không được điểm cao.

Khi dùng các màu cơ bản này pha với nhau, ta lại có được 3 màu khác, gọi là màu bậc 2. Nếu màu
bậc 2 mà pha thêm màu khác vào thì thành màu bậc 3, tương tự cho bậc 4, bậc 5.
Tuy nhiên, hầu hết các màu lên tới bậc 5 sẽ ngả sang màu xám chết. Lí do là vì bản chất của màu
mà ta dùng đều là sản phẩm hoá học, tác dụng với nhau quá nhiều sẽ khiến màu trơ ra và trở về
nguyên liệu lúc đầu, và nó là màu chết.
Các màu bậc 2 (có từ các cặp màu chính)

Các màu bậc 3 (nếu như pha tiếp màu bậc 2 với 1 màu bậc 1 “sinh” ra nó)
Thực ra các công thức trên chỉ đúng khi pha với tỉ lệ 5 – 5. Nếu thay đổi tỉ lệ 1 chút, ta sẽ thu được
thêm nhiều màu khác nữa. Điển hình là cặp Đỏ – Xanh lam, nếu cho tỉ lệ Đỏ nhiều hơn sẽ ngả ra
sang các màu như Tím Bordeux, Tím huyết – nếu cho Xanh lam nhiều hơn thì ngã sang Tím than,
Tím xanh.

Trắng và Đen
Về lý thuyết, Trắng và Đen cũng không thể dùng màu nào khác mà pha ra được. Trắng và Đen
không gọi là màu, mà gọi là sắc độ của màu, nên chúng không được gọi là màu cơ bản. Thêm
Trắng thì màu sẽ sáng ra, thêm Đen thì tối lại. Nếu biết sử dụng 2 màu này một cách khéo léo để
pha với các màu khác thì sẽ thu được hiệu ứng chuyển màu rất tuyệt.

Một bài tập thường thấy của các giáo viên dạy môn Màu đó là Vòng thuần sắc, chủ yếu để dạy các
bạn cách pha màu và cách nhận biết các sắc độ của màu.
Chú ý: Khi rảnh rỗi, các bạn nên tập pha các màu bậc 3 – 4. Pha một cách tuỳ hứng, ngẫu nhiên.
Nếu cảm thấy màu nào vừa ý mình thì hãy ghi nhớ tỉ lệ và công thức. Sử dụng các màu bậc cao để
tạo ra phong cách riêng của mình, màu càng lạ càng gây ấn tượng với Ban giám khảo chấm thi.

2. Cặp màu tương phản – bổ trợ


Đây là khái niệm cơ bản của cơ bản. Các bạn hãy ghi nhớ cái này mỗi khi không biết sử dụng màu
gì để làm nổi bật bài.

Những cặp màu này khi nằm cạnh nhau sẽ tạo hiệu ứng nổi bật, tôn nhau lên tùy theo độ sáng tối
phụ trợ mà bạn sử dụng.

3. Mảng màu và gam màu


Mảng màu là tập hợp các màu có sắc độ gần như tương đồng nằm cạnh nhau. Mảng chia ra ba loại
là mảng sáng, mảng tối, mảng trung gian.
Gam màu là tập hợp các màu phối với nhau để tạo ra một hiệu ứng thị giác nhất định. Có hai gam
màu là nóng và lạnh.
Màu nóng là các màu tạo cảm giác chói mắt và rực rỡ như Đỏ, Cam, Vàng ….
Màu lạnh là các màu tạo cảm giác dịu mắt và êm đềm như Tím, Xanh lam, ….

Ngoài ra thì các bạn có thể sử dụng màu magenta và cyan để cho bài của mình thêm tươi tắn và
nổi bật hơn.
Mỗi người có một cá tính riêng, một sở thích riêng, do đó dẫn tới sẽ có gam màu riêng đặc thù của
mình.
Không nên bắt chước gam màu của người khác, việc sử dụng gam màu không phải của mình sẽ
rất gượng ép, khó phối hợp với nhau.
Trong quá trình luyện vẽ Màu, bạn nên tìm cho riêng mình 1 – 2 gam màu, bảo đảm sẽ tốt hơn khi
phát triển các bài về sau và không còn lúng túng khi tìm màu nữa.

Màu sắc trong nghệ thuật ở Ai Cập cổ đại

\Màu sắc (tên Ai Cập cổ đại "iwen") được coi là một phần không thể thiếu trong bản chất của
một vật phẩm hoặc con người ở Ai Cập cổ đại, và thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau có
nghĩa là màu sắc, hình dáng, đặc điểm, bản thể hoặc bản chất. Các vật phẩm có màu tương tự
được cho là có tính chất tương tự.

1. Các cặp màu:


Màu sắc thường được kết hợp với nhau. Bạc và vàng được coi là những màu bổ sung (tức là chúng
tạo thành một cặp đối lập giống như mặt trời và mặt trăng). Màu đỏ kết hợp với màu trắng (liên
tưởng đến chiếc vương miện kép của Ai Cập cổ đại) và màu xanh lá cây và màu đen đại diện cho
các khía cạnh khác nhau của quá trình tái sinh. Nơi một đám rước các nhân vật được mô tả, các
tông màu da xen kẽ giữa màu vàng nhạt và tối.
Độ tinh khiết của màu sắc rất quan trọng đối với người Ai Cập cổ đại và nghệ sĩ thường sẽ hoàn
thành mọi thứ bằng một màu trước khi chuyển sang màu tiếp theo. Các bức tranh sẽ được hoàn
thiện với nét vẽ đẹp để phác thảo tác phẩm và thêm các chi tiết nội thất hạn chế.
Mức độ mà các nghệ sĩ và thợ thủ công Ai Cập cổ đại pha trộn màu sắc khác nhau tùy theo triều
đại. Nhưng ngay cả lúc sáng tạo nhất, sự pha trộn màu sắc vẫn không được phổ biến rộng
rãi. Không giống như các chất màu ngày nay cho kết quả nhất quán, một số loại bột màu có sẵn
cho các nghệ sĩ Ai Cập Cổ đại có thể phản ứng hóa học với nhau; ví dụ, chì trắng khi trộn với
orpiment (vàng) thực sự tạo ra màu đen.

2. Màu đen và trắng ở Ai Cập cổ đại:


Màu đen (tên Ai Cập cổ đại "kem") là màu của phù sa bồi đắp sự sống do lũ lụt sông Nile để lại,
tạo nên tên gọi Ai Cập cổ đại cho đất nước: "kemet" - vùng đất đen. Màu đen tượng trưng cho khả
năng sinh sản, sự sống mới và sự phục sinh được thấy trong chu kỳ nông nghiệp hàng năm. Nó
cũng là màu của Osiris (“người đen”), vị thần chết sống lại, và được coi là màu của thế giới ngầm,
nơi mặt trời được cho là tái sinh mỗi đêm. Màu đen thường được sử dụng trên các bức tượng và
quan tài để gọi quá trình tái sinh được quy định cho thần Osiris. Màu đen cũng được sử dụng làm
màu tiêu chuẩn cho tóc và đại diện cho màu da của những người từ phía nam - người Nubia và
người Kushites.
Màu trắng (tên Ai Cập cổ đại "hedj") là màu của sự tinh khiết, thiêng liêng, sạch sẽ và giản dị. Vì
lý do này, các dụng cụ, đồ vật thiêng liêng và thậm chí cả dép của linh mục đều có màu trắng. Động
vật linh thiêng cũng được miêu tả là màu trắng. Quần áo, thường chỉ là vải lanh không nhuộm,
thường được mô tả là màu trắng.
Bạc (còn được gọi với cái tên "hedj", nhưng được viết với yếu tố xác định kim loại quý) đại diện
cho màu của mặt trời lúc bình minh, mặt trăng và các vì sao. Bạc là kim loại hiếm hơn vàng ở Ai
Cập cổ đại và có giá trị lớn hơn.

3. Màu xanh lam ở Ai Cập cổ đại:


Màu xanh lam (tên Ai Cập cổ đại "irtyu") là màu của trời, quyền thống trị của các vị thần, cũng
như màu của nước, ngập lụt hàng năm và lũ lụt nguyên sinh. Mặc dù người Ai Cập cổ đại ưa
chuộng các loại đá bán quý như azurite (tên Ai Cập cổ đại "tefer" và đá lapis lazuli (tên Ai Cập cổ
đại "khesbedj", được nhập khẩu với giá rất cao trên sa mạc Sinai) để làm đồ trang sức và khảm),
công nghệ đã đủ tiên tiến để sản xuất sắc tố tổng hợp đầu tiên trên thế giới, được biết đến từ thời
trung cổ với tên gọi xanh Ai Cập. Tùy thuộc vào mức độ mà sắc tố xanh Ai Cập được nghiền, màu
có thể thay đổi từ xanh đậm, đậm (thô) đến xanh nhạt, thanh tao (rất mịn).
Màu xanh lam được sử dụng cho tóc của các vị thần (đặc biệt là lapis lazuli, hoặc màu đen tối nhất
của nhạc blu Ai Cập) và cho khuôn mặt của thần Amun - một tập tục được mở rộng cho những
Pharaoh liên kết với ông.

4. Màu xanh lá cây ở Ai Cập cổ đại:


Màu xanh lá cây (tên Ai Cập cổ đại "wahdj" là màu của sự phát triển tươi mới, thảm thực vật, sự
sống mới và sự phục sinh (sau cùng với màu đen). Chữ tượng hình cho màu xanh lá cây là thân và
lá cói.
Màu xanh lá cây là màu của "Eye of Horus" hay "Wedjat", có khả năng chữa bệnh và bảo vệ, và
vì vậy màu này cũng tượng trưng cho sự an lành. Để làm "những điều xanh" là phải cư xử một
cách tích cực, khẳng định cuộc sống.
Khi được viết với yếu tố quyết định khoáng chất (ba hạt cát), "wahdj" trở thành từ chỉ malachite,
một màu đại diện cho niềm vui.
Cũng giống như màu xanh lam, người Ai Cập cổ đại cũng có thể tạo ra một sắc tố xanh lá cây -
verdigris (Tên Ai Cập cổ đại "hes-byah" - thực chất có nghĩa là đồng hoặc đồng thau (gỉ). Thật
không may, verdigris phản ứng với sulphides, chẳng hạn như sắc tố màu vàng orpiment, và chuyển
sang màu đen. (Các nghệ sĩ thời Trung cổ sẽ sử dụng một loại men đặc biệt phủ lên trên đỉnh của
verdigris để bảo vệ nó.)
Ngọc lam (tên Ai Cập cổ đại "mefkhat"), một loại đá xanh lục-lam đặc biệt có giá trị từ Sinai, cũng
tượng trưng cho niềm vui, cũng như màu của tia nắng mặt trời lúc bình minh. Thông qua vị thần
Hathor, Lady of Turquoise, người điều khiển vận mệnh của những đứa trẻ mới sinh, nó có thể
được coi là một màu sắc của sự hứa hẹn và báo trước

5. Màu vàng ở Ai Cập cổ đại:

Màu vàng (tên Ai Cập cổ đại "khenet") là màu da của phụ nữ, cũng như da của những người sống
gần Địa Trung Hải - người Libya, người Bedouin, người Syria và người Hittite. Màu vàng cũng là
màu của mặt trời và cùng với vàng, có thể tượng trưng cho sự hoàn hảo. Cũng như màu xanh lam
và xanh lá cây, người Ai Cập cổ đại đã sản xuất ra chất antimonit chì tổng hợp màu vàng - tuy
nhiên, tên gọi của nó là Ai Cập Cổ đại vẫn chưa được biết đến.
Khi nhìn vào nghệ thuật Ai Cập cổ đại ngày nay, có thể khó phân biệt giữa chì antimonit, (có màu
vàng nhạt), chì trắng (có màu vàng rất nhẹ nhưng có thể sẫm lại theo thời gian) và orpiment (màu
vàng tương đối đậm nhạt dần trực tiếp. ánh sáng mặt trời). Điều này khiến một số nhà sử học nghệ
thuật tin rằng màu trắng và màu vàng có thể hoán đổi cho nhau.
Realgar, mà chúng ta coi là một màu cam ngày nay, sẽ được phân loại là màu vàng. (Thuật ngữ
cam đã không được sử dụng cho đến khi trái cây đến châu Âu từ Trung Quốc vào thời trung cổ -
ngay cả văn bản Cennini vào thế kỷ 15 cũng mô tả nó là màu vàng!)
Vàng (tên Ai Cập cổ đại "newb") tượng trưng cho xác thịt của các vị thần và được sử dụng cho bất
cứ thứ gì được coi là vĩnh cửu hoặc không thể phá hủy. (Ví dụ, vàng được sử dụng trên quan tài
vì pharaoh đã trở thành một vị thần.) Trong khi vàng lá có thể được sử dụng trong điêu khắc, vàng
hoặc vàng đỏ được sử dụng trong các bức tranh về da của các vị thần. (Lưu ý rằng một số vị thần
cũng được vẽ với màu da xanh lam, xanh lục hoặc đen.)

6. Màu đỏ ở Ai Cập cổ đại:

Màu đỏ (tên Ai Cập cổ đại "deshr") chủ yếu là màu của hỗn loạn và rối loạn - màu của sa mạc (tên
Ai Cập cổ đại "deshret", vùng đất đỏ) được coi là đối lập với vùng đất đen phì nhiêu ("kemet"). Một
trong những sắc tố đỏ chính, màu đỏ son, được lấy từ sa mạc. (Chữ tượng hình cho màu đỏ là ibis
ẩn sĩ, một loài chim, không giống như các ibis khác của Ai Cập, sống ở các khu vực khô hạn và
ăn côn trùng và các sinh vật nhỏ.)
Màu đỏ cũng là màu của lửa hủy diệt và cuồng nộ và được dùng để đại diện cho một thứ gì đó
nguy hiểm.
Thông qua mối quan hệ của nó với sa mạc, màu đỏ trở thành màu của thần Seth, vị thần truyền
thống của sự hỗn loạn, và gắn liền với cái chết - sa mạc là nơi mà con người bị đày ải hoặc bị đưa
đến làm việc trong hầm mỏ. Sa mạc cũng được coi là lối vào thế giới ngầm, nơi mặt trời biến mất
mỗi đêm.
Khi hỗn loạn, màu đỏ được coi là đối lập với màu trắng. Về sự chết chóc, nó đối lập với màu xanh
lá cây và màu đen.
Trong khi màu đỏ là màu mạnh nhất trong tất cả các màu ở Ai Cập cổ đại, nó cũng là màu của sự
sống và sự bảo vệ - bắt nguồn từ màu máu và sức mạnh hỗ trợ sự sống của lửa. Do đó nó thường
được sử dụng để làm bùa hộ mệnh.

7. Lựa chọn thay thế hiện đại cho màu sắc Ai Cập cổ đại:

Màu sắc không cần thay thế:


- Ngà voi và đèn đen
- Xanh đậm
- Ochres đỏ và vàng
- Màu ngọc lam
Đề xuất thay thế:
- Phấn trắng - Trắng titan
- Chì trắng - Trắng vảy, nhưng bạn có thể pha chút màu Trắng Titan với màu vàng.
- Tông màu xanh nhạt Ai Cập - Xanh ngọc coban
- Ai Cập xanh đậm - Ultramarine
- Azurite - Ultramarine
- Lapis Lazuli - Ultramarine
- Malachite - Xanh vĩnh viễn hoặc xanh Phthalo
- Verdigris - Xanh ngọc lục bảo
- Chrysocolla - Xanh Coban nhạt
- Orpiment - Màu vàng Cadmium
- Chì Antimonite - Vàng Naples
- Realgar - Đỏ tươi hoặc Đỏ cam
- Vàng - sử dụng sơn màu vàng kim loại, tốt nhất là có màu hơi đỏ (hoặc sơn màu đỏ)
- Chì đỏ - Vermilion Hue
- Hồ Madder - Alizarin Crimson
- Hồ Kermes - Màu đỏ thẫm vĩnh viễn

Màu sắc trong hội họa phương Tây

1. Màu sắc trong tranh Phục Hưng – hội họa truyền thống tả thực:

Trong suốt hơn một nghìn năm chìm trong đêm trường Trung cổ (khoảng năm 350 cho tới năm
1453), toàn bộ châu Âu như bị bao trùm bởi một bóng đen kìm hãm sự phát triển về nhiều mặt,
trong đó có nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ hoàn toán phục vụ Nhà thờ. Với văn học, hết thảy những
trường ca kể lại cuộc chiến đấu chống lại quỷ cám dỗ hoặc chiến đấu vì nhà vua. Kiến trúc tôn
giáo phát triển mang phong cách Roman nặng nền biểu hiện uy quyền to lớn của Chúa, sau đó là
phong cách Gothic nhẹ nhàng hơn với xu thế vươn lên cao hướng tới Thiên đường. Hội họa không
có giá trị riêng, nó phụ thuộc hoàn toàn vào kiến trúc vì chỉ được sử dụng với mục đích trang trí
nhà thờ và minh họa các tích trong Thánh Kinh… Chỉ tới khi người Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện cuộc
tấn công (1453), Constantinople thất thủ, các học giả Hy Lạp từ Byzantine chạy nạn sang Tây Âu
đã mang theo các tác phẩm nghệ thuật và triết học Hy Lạp cổ đại khiến châu Âu hết sức kinh ngạc.
Từ đó dấy trong tầng lớp trí thức và nghệ sĩ Châu Âu khát khao tìm kiếm các giá trị cũ rực rỡ, sáng
tạo những giá trị mới. Một thời kỳ mới của nghệ thuật được mở ra. Người ta gọi đó là thời kỳ văn
nghệ Phục Hưng Châu Âu.
Thời kỳ này, hội họa thu nhận bộ khung khoa học thấu thị và giải phẫu làm cho trình độ tả thực tái
hiện khách quan chưa từng có. Từ thế kỷ XV người ta đã phát hiện ra sơn dầu. Để vẽ những vật
có sự chuyển biến về khối các tác giả thường lấy màu pha với màu đen để tạo ra bóng tối. Sự
chuyển biến đậm nhạt bằng cách pha các màu với màu đen làm cho các họa sỹ diễn tả rất tinh tế
trong phong cảnh cũng như khi vẽ người. Bản chất của sơn dầu là đục nên khi pha với màu đen nó
thường tạo nên hòa sắc trầm ấm. Vì vậy trong các tác phẩm hội họa cổ điển ánh sáng rất sâu, hình
ảnh của mọi vật có khối tích được nghiên cứu rất kỹ. Tác phẩm của họa sĩ Hà Lan Rembrandt
(1606-1669) vẽ nàng Daniel nằm trên giường có trải ga trắng, xung quanh căn phòng và giường
được chạm nổi rất tinh tế và sâu sắc. Họa sỹ đã diễn đạt rất thành công và sống động cái ánh sắc
của vàng tràn ngập trong căn phòng. Cách thức pha trộn màu với màu đen đã tạo ra hòa sắc ở trong
tranh tuy tinh tế nhưng làm cho người xem vẫn có cảm giác khô chặt. Họa sỹ Paul Rubens ngày
đó được coi là người thiên về lối vẽ mạnh, dùng màu tương phản rực rỡ.

Tranh sơn dầu của Rembrandt

Tranh sơn dầu của Declcaroix


Phải công bằng mà thấy toàn bộ hệ thống tranh cổ điển và thời kỳ Phục Hưng tuy được diễn tả hết
sức tinh tế nhưng vẫn gây cho người xem những cảm giác nặng nề do cách vẽ nhằm chủ yếu diễn
đạt khối, bóng tối – ánh sáng.

2. Màu sắc trong hội họa Ấn tượng:


Bản chất của nghệ thuật luôn phát triển và không ngừng được tìm tòi khám phá. Mỗi tác giả đều
chú trọng tới yếu tố của ngôn ngữ tạo hình như đường, nét, hình mảng để làm phương tiện biểu
hiện tạo ra sự đa dạng cho tác phẩm nghệ thuật, có lúc thiên về diễn tả sáng tối, có lúc thiên về
diễn tả sáng tối, có lúc chú trọng về hình thể, không có tác giả nào xem nhẹ màu sắc, bởi khả năng
biểu hiện của ánh sáng bóng tối, không gian, thời gian, vật chất… tất cả đều liên quan đến sức biểu
hiện của màu sắc. Nhưng sức mạnh to lớn của màu sắc chính là biểu hiện thế giới nội tâm của con
người.
Hội họa Ấn tượng ra đời và nó đã đánh dấu một bước ngoặt mới mở đường cho sự hình thành các
khuynh hướng tạo hình thế kỷ XX. Màu sắc trong tranh là những hệ quả tất yếu của hiện tượng
phản xạ và khúc xạ anh sáng. Họ đã viết vận dụng một cách linh hoạt những lý thuyết cơ bản về
quang học. Các họa sĩ giải thích: Mỗi chất liệu cho thấy một màu nhất định nhưng vật thể vừa bị
nhuốm bởi màu của ánh sáng lại vừa chịu ảnh hưởng các màu của vật thể khác, kể cả màu của nền
trời. Họ còn nắm được quy luật bổ túc của các màu. Để tả phần sáng ít dùng trắng mà thay vào
đấy bằng màu vàng nhạt hoặc da cam, do vậy các bóng tối thường bị nhuốm lam, nhuốm chàm.
Vì màu trắng được dùng hạn chế nên màu tương phản là đen cũng ít được dùng, thậm chí không
có trong bảng màu. Màu sắc của tranh Van Gogh trong trẻo dến lạ lẫm, ông nhìn sự vật, miêu tả
sự vật bằng các màu táo bạo và độc đáo, đặc biệt là màu xanh coban.

Tranh sơn dầu Hoa Diên Vĩ (Van Gogh)


Có thể khẳng định rằng chủ nghĩa Ấn tượng ra đời đã làm cho bảng màu của nghệ thuật hội họa
được bổ sung và thay đổi. Phần lớn các họa sĩ Ấn tượng dùng màu nguyên chất xóa bỏ các màu
trung gian như trắng, đen. Thậm chí trong bóng tối cũng không dùng màu đen. Màu sắc trong tranh
Ấn tượng được vẽ trực họa của ánh sáng ngoài trời nên rất tươi tắn, lung linh, huyền ảo mang đậm
hơi thở cuộc sống. Thật tình cờ, vì quên màu đen mà họ đã thay đổi quan niệm và cách vẽ màu.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là họ đã khai mở một hướng đi mới, một quan niệm mới, chậm ngòi
dẫn dắt cho sự phát triển các xu hướng hội họa Modec và hậu sau này.

3. Màu sắc trong hội họa Dã thú:


Vào năm 1905, những bức họa của Henri Matisse, Camoin, Marquet, đã gây sốc lớn đối với những
con mắt đang nô nê chủ nghĩa Ấn tượng. Không biết một trường phái của hội họa đã ra đời. Những
con thú mê đắm và đẹp ghê gớm của cánh rừng hoang dại đầy bí ẩn đánh thức bản năng săn mồi,
phấn khích bởi những cơn cuồng nộ và chiếm đoạt.

Tranh sơn dầu Âm nhạc – Henri Matisse


Thế giới trong tranh Dã thú được tạo lập như trong cơn kịch phát dữ dội của núi lửa phun trào
nham thạch phát sáng và tỏa nhiệt. Màu sắc được hoán vị thể hiện sinh động. Không giống với Ấn
tượng, các họa sĩ Dã thú thật công bằng với màu sắc kể cả màu trắng hay đen miễn là nói được
chính khát khao ước muốn sáng tạo.

4. Màu sắc trong hội họa Siêu thực:


Mỗi một khuynh hướng đều có những đóng góp, những tiếng nói riêng, cách thức thể hiện và xu
thế màu riêng. Ví như chủ nghĩa Siêu thực xuất hiện đầu thế kỷ XX kéo dài sau chiến tranh thế
giới lần I. Nói nổi lên nhằm chống lại tất cả những luật lệ về hình thể, những quy ước lôgic và đạo
đức xã hội. Mục đích chính của phong trào Siêu thực là “giải quyết tình trạng mâu thuẫn tồn tại
giữa mộng và thực” đưa nó tới một thực tế tuyệt đối: “trạng thái siêu thực”. Tiêu biểu cho thời kỳ
này là các họa sĩ: Salvador Dalí, Paul Klee. Vì đi sâu miêu tả trạng thái cảm xúc không thực tại
nên cách dùng màu của Siêu thực là sự thừa hưởng của hội họa trước đó. Không tuyệt đối hóa ánh
sáng như ở Ấn tượng, không “lười nhác” bóp màu từ ngay trong tuýp vẽ như Dã thú cũng không
chuẩn mực hóa ánh sáng và thâm diễn như Cổ điển. Có thể nói với Siêu thực thì màu sắc, ánh sáng
chỉ là phương tiện để chuyển tải cái mơ, cái siêu hình trong tâm tưởng vốn đầy hoài bão của các
họa sĩ mà thôi.

5. Màu sắc trong hội họa Trừu tượng:


Khoảng những năm 1910-1914, một số họa sĩ không chấp nhận việc thờ ơ với vật chất thực tại để
tiến hành thực hiện hóa tư duy lý tưởng đã vẽ tranh bằng các đường hình học cơ bản. Phát huy khả
năng tối ưu của đường nét, màu sắc, hình khối để tạo nên cái chung có trật tựu và chuyển đến đến
các giác quan sự nhạy cảm hoặc sự suy nghĩ về những ý tưởng. Hội họa Trừu tượng ra đời như
vậy. Nghệ thuật Trừu tượng có đặc tính tách biệt đến mức lạc lõng các yếu tố hoặc các ý tưởng
riêng biệt của nghệ sĩ. Chính vì vậy người ta thấy nghệ thuật Trừu tượng thật khó hiểu, không
nhằm thể hiện những gì mọi người dễ nhận thấy. Màu sắc trong tranh cũng thật đa dạng bởi khi
không còn phụ thuộc vào hình thể thì tính biểu đạt của màu mới thực sự được phát huy và đem lại
giá trị đích thực.

Màu sắc trong thiết kế đồ họa

Trong lĩnh vực nghệ thuật thiết kế người ta chia ra: thiết kế 2 chiều, thiết kế 3 chiều, thiết kế môi
trường, thiết kế đa phương tiện.
Thiết kế 2 chiều bao gồm: thiết kế logo, biểu tượng (Symbol), nhãn sản phẩm (Label), thiết kế bộ
giấy văn phòng (Stationary) trong đó bao gồm: danh thiếp (Name card), giấy viết thư (Letterheard),
bao thư (Envelop)… Thiết kế 2 chiều còn có: Thiết kế Poster (Poster chính trị xã hội và poster
quảng cáo…), thiết kế Banner, Backdrop, Folder, thiết kế lịch treo tường, thiết kế Tem Bưu
chính…
Trong lĩnh vực thiết kế nói chung và thiết kế đồ họa nói riêng có rất nhiều chuyên ngành. Mỗi
chuyên ngành lại có loại ngôn ngữ, phương pháp thiết kế và khả năng truyền thông không giống
nhau.
Tuy nhiên xét về hiệu quả truyền thông có ba yêu cầu lớn:
- Thứ nhất: ý tưởng có khả năng truyền thông, làm cho người xem hiểu đúng về nội dung, ý tưởng,
tinh thần của đề tài, của sản phẩm. Ý tưởng càng độc đáo càng tốt, nhưng không khó hiểu.
- Thứ hai: Hiệu quả truyền thông chủ yếu dựa vào giá trị của sự dễ hiểu, hiểu nhanh, hiểu chính
xác không hiểu nhầm.
- Thứ ba: Giá trị thẩm mỹ của sản phẩm truyền thông, đẹp, lôi cuốn, hấp dẫn trên cơ sở ngôn ngữ
đồ họa…
Trong ba yêu cầu về hiệu quả nói trên thì các khả năng thể hiện “tinh thần của đề tài”, “tinh thần
của sản phẩm”, “hiệu quả thẩm mỹ”, “sự hấp dẫn thị giác” là do hiệu quả rất lớn của việc sử dụng,
phối hợp, sáng tạo màu sắc.
Người ta đã từng nói rằng “màu sắc có thể nói được tất cả các ngôn ngữ”. Đấy là khả năng kỳ diệu
của nó. Ý của câu này tương tự như câu: “Nghệ thuật không có biên giới”. Nghĩa là mọi người dù
khác màu da, tôn giáo, chủng tộc, quốc tịch, nhưng khi thưởng thức tác phẩm nghệ thuật từ hội
họa, âm nhạc thì người ta có thể “cảm” và “hiểu” được tác phẩm ấy. Bởi vì ngôn ngữ hình ảnh là
loại ngôn ngữ phổ quát (Universal language) chứ không phải ngôn ngữ mang tính quy ước
(Convention) như chữ viết. Do đó nó không có rào cản.
Vậy, trở về lĩnh vực thiết kế đồ họa thì màu sắc là yếu tố thị giác cực kỳ quan trọng… nó đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu, sáng tạo để tìm ra giải pháp sử dụng thích hợp nhất.
Trong lĩnh vực thiết kế đồ họa, việc xây dựng thương hiệu thông qua giải pháp thiết kế đồ họa thì
mỗi công ty, đơn vị đều cố chọn cho mình có một màu sắc riêng (Corporate Color).
Thí dụ: “Màu vàng của phim Kodax, màu Đỏ của Cocacola, màu Xanh lá mạ của Fuji phim, màu
Xanh lam của Tiger Beer, màu Lá cây của Heineken Beer, màu Hồng của sản pẩm nữ trang bạc
của PNJ…
Thông thường thì sinh viên Thiết kế đồ họa khi làm đồ án Tiền tốt nghiệp, đồ án Tốt nghiệp hay
các nhà thiết kế phải sáng tạo một đồ án cho một đơn vị đều băn khoăn về việc chọn lựa màu cho
hệ thống thiết kế của mình.
Thông thường thì để thực hiện một đồ án thi tốt nghiệp, sinh viên có thể chọn lựa đề tài xoay quanh
các hướng như sau:
- Thiết kế hệ thống đồ họa cho một sản phẩm cụ thể: giày thể thao, máy ảnh, thú nhồi bông, đồ lót
Triumph, nữ trang, bánh kẹo, nhạc cụ…
- Thiết kế hệ thống đồ họa cho một công ty, đơn vị cụ thể: Công ty gốm sứ, công ty quảng cáo in
ấn, công ty may mặc, công ty dệt vải, thảo cầm viên, khu vui chơi Đầm Sen…
- Thiết kế hệ thống đồ họa cho một sự kiện cụ thể: Sea Games, Giải bóng chuyền toàn quốc, Hội
thảo về “Bạo hành trong gia đình”, Hội thảo về “Bảo vệ môi trường, hội thảo về an toàn giao thông,
cuộc thi đấu cờ vua, giải bóng bàn quốc tế Cây vợt vàng…”
- Thiết kế cho một yếu tố có thể nêu lên tinh thần văn hóa, cái riêng của mỗi dân tộc: Cây tre Việt
Nam, Hệ thống cầu của nông thôn Nam Bộ, ghe thuyền Việt Nam.
- Cũng có khi sinh viên đưa ra một sự kiện giả định để làm bài.
Vậy thì dựa vào những cơ sở nào để nhà thiết kế chọn lựa giải pháp sử dụng màu sắc cho mỗi loại
đề tài nói trên?
Sau đây là những tiêu chí cơ bản cho việc chọn giải pháp màu sắc:
- 1. Dựa vào tinh thần, tính chất, đặc điểm của lĩnh vực, của đề tài, của đặc điểm về phái tính, đặc
điểm về lứa tuổi: Tinh thần của sản phẩm, đơn vị công nghiệp chắc không thể giống với sản phẩm
đồ lót, mang nữ tính nhẹ nhàng; tinh thần của dược phẩm chắc không thể giống với nước giải khát;
giầy thể thao nam không thể giống với giày của nhi đồng; thời trang người cao tuổi không thể
giống với thời trang của tuổi teen… Màu sắc được cho sử dụng phải “toát lên” các yêu cầu ấy ngay
từ cái nhìn thoáng qua, nhìn từ xa.
- 2. Dựa vào màu sắc của sản phẩm: Nước cam, nước chanh, nước dâu, cà phê…
- 3. Dựa vào tính chất riêng của mỗi loại sản phẩm: đồ chơi trẻ con, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ đất
nung, tơ lụa, đồ thủy tinh, pha lê…
- 4. Dựa vào đặc trưng của loại màu riêng (Corporate Color) vốn có sẵn cho mỗi công ty. Thí dụ
khi thiết kế quảng cáo cho các công ty Cocacola, Pepsi, Heineken, Tiger thì nhà thiết kế bị bắt
buộc phải dựa vào màu sắc riêng của công ty ấy.
Trong suốt quá trình nghiên cứu chọn lựa, thể hiện, thiết kế thì đòi hỏi phải quan tâm đến sự thống
nhất trong phong cách thiết kế. Và điểm mấu chốt của sự thống nhất trong phong cách thiết kế thì
trước tiên phải có sự thống nhất về màu sắc.
Sự thống nhất trong hệ thống màu sắc là yếu tố cực kỳ quan trọng thường đồng hành với: sự thống
nhất về đặc điểm bố cục, sự thống nhất về kiểu chữ, sự thống nhất về cách xử lý nền, sự thống nhất
về sự sử dụng yếu tố nhận biết.
Phong cách thiết kế màu phải có sự thống nhất từ cách thiết kế ở các sản phẩm chính cho đến phụ
(áo, nón, bao bì, thẻ vào cổng…).
Tóm lại, trong lĩnh vực thiết kế đồ họa, thiết kế quảng cáo thì màu sắc là yếu tố cực kỳ quan trọng.
Nó vừa là khoa học tâm sinh lý, khí hậu, khoa học về nhận dạng thương hiệu, khoa học về thị giác,
khoa học về ánh sáng (ánh sáng màu), khoa học cạnh tranh thương mại, nghệ thuật thị giác, khoa
học về thẩm mỹ…

You might also like