You are on page 1of 9

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ

VĂN HÓA, KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG


VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN

Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Hồ Chí Minh đã
nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Muốn có cuộc sống mới đó, trước tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc,
kế đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa. Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì độc
lập cũng chẵng có nghĩa lý gì!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”(1).
I. Phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân
dân:
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng
suốt, có tính nguyên tắc. Đó là:
1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta là một nước thuộc địa nữa phong kiến. Kinh tế rất lạc hậu và gồm
nhiều thành phần phức tạp, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân thấp kém. Do vậy, Người đã chỉ rõ: “... nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội,... có công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và khoa học
tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài”(2).
2. Về cơ cấu kinh tế.
- Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp. Người chỉ rõ: Nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân
không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ: Nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều
nhau, không thể lớn mạnh được. Người giải thích rất rõ:
Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân
dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ
nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu đổi lấy máy mới.
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết
cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hóa
học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy
bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp
mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và
cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và
nhanh chóng đi đến mục đích. Thực hiện liên minh công nông để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân.
- Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con
đường no ấm thực sự của nhân dân ta.
Trong bài viết Con đường phía trước (ngày 20-01-1960), Người chỉ rõ
nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1959, trong sản xuất của
miền Bắc, công nghiệp chỉ mới chiếm không đầy hai phần, còn nông nghiệp và
thủ công nghiệp chiếm đến tám phần. Người đặt câu hỏi: Như vậy thì làm sao
cho đời sống nhân dân thật dồi dào được? Và Người đã trả lời: “Đời sống nhân
dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách hật
rộng rãi: dùng máy móc trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp
thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp
người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra
máy, ra gang, thép, than, dầu.... Đó là con đường phải đi của chúng ta, con
đường công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở
mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật
sự của nhân dân ta”(1).
3. Về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
- Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại
bốn hình thức sở hữu chính: “+Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động.
+ Sở hữu của người lao động riêng lẽ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”(2).
Người chỉ rõ mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức sở hữu không
xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở thành
một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữ tập thể.
- Về thành phần kinh tế: trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế. Hồ Chí Minh xác định: “2) Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh
tề khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của
nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã
hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào
hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để
kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả.
Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo
hướng chủ nghĩa tư bản”(1).
Phải phát triển các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế quốc doanh để
tạo nền tảng cho kinh tế xã hội chủ nghĩa; khuyến khích kinh tế hợp tác xã với
các hình thức đa dạng, nhấn mạnh các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và
quản lý dân chủ, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất cho họ,
hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn. Đối với các nhà công thương, họ
đã tham gia ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ thì sẵn sàng cải tạo, hướng họ
hợp doanh với Nhà nước để góp phần xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa
xã hội, không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ,
hướng dẫn họ phục vụ cho quốc kế dân sinh phù hợp với kế hoạch Nhà nước.
4. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản
xuất, trong tiêu dùng, tiết kiệm vật tư, thời gian, sức lao động. Đồng thời,
phải chống tham ô, lãng phí, quang liêu là những “giặc nội xâm”, đồng
minh với giặc ngoại xâm.
Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi
đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”(2).
II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
1. Thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới
và các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan
trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa.
Từ năm 1943, Hồ Chí Minh đã nêu ra định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”(1).
Cùng với việc chỉ rõ nội hàm của văn hóa, Người phân tích và luôn nhấn
mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và cơ sở hạ tầng, văn hóa với kinh
tế, chính trị, xã hội: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ
tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được”.
Mặt khác, Người lại khẳng định nhiều lần ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động
lực của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho
quốc dân đi”.
Từ cách nhìn nhận rất biện chứng rên, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong
công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi
trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đồng thời, trong quan
hệ của bốn thành tố trên, Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò quyết định của chính trị và
kinh tế đối với sự phát triển của văn hóa.
Khi dân tộc và đất nước còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số phận nô lệ
đó, vì vậy, theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính tị trước để giải
phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó, giải phóng văn hóa, mở đường cho văn
hóa phát triển. “Xưa kia chính trị bị áp bức, nền văn hóa của ta vì thế không nảy
sinh được”.
Khi đất nước đã được giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng, Hồ Chí
Minh chỉ rõ kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, vì vậy phải xây dựng
kinh tế làm cơ sở hạ tầng cho sự phát triển văn hóa “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và
kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi
trước. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân ta”(2).
Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, gắn bó hữu cơ với cơ sở hạ tầng, vì
thế, từ trong bản chất và tuân thủ quy luật chung, văn hóa ở trong kinh tế và
chính trị, văn hóa không thể đứng ngoài, mà có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy xây
dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trở thành
một động lực to lớn, chủ động tác động tích cực trở lại đối với kinh tế và chính
trị. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài,
mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(3). nguyên lý này hoàn toàn khôg phải là sự
áp đặt đối với văn hóa – văn nghệ, mà chính là bản chất xã hội của văn hóa, là
một quy luật khách quan của mối quan hệ biện chứng trên.
Từ luận điểm cơ bản trên, ngay trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, Hồ Chí Minh đã rút ra một kết luận có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm
định hướng cho toàn bộ sự phát triển của văn hóa nước ta: Tham gia cách mạng
là con đường duy nhất, là nhu cầu tất yếu của văn hóa – văn nghệ và những
người hoạt động, sáng tạo trên lĩnh vực này. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức thì văn
nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn được tự do thì phải tham gia cách mạng.
Tham gia cách mạng không chỉ để đóng góp tích cực vào tiến trình và thắng lợi
của cuộc đấu tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, mà còn vì nhu cầu
tồn tại và phát triển của bản thân văn nghệ, vì sự tự do chân chính của văn nghệ.
Kết luận hiển nhiên, giản dị đó của Hồ Chí Minh thực sự có ý nghĩa lớn lao đối
với văn hóa, văn nghệ nước ta gần 60 năm qua.
2. Tính chất, đặc trưng, chức năng của nền văn hóa mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn hóa
mới” và chỉ rõ tính chắt, đặc trưng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa đó.
a. Ngay sau ngày Quốc khánh 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho
thành lập Ủy ban văn hóa lâm thời Bắc bộ. Tại buổi tiếp đại biểu của Ủy ban
này ngày 7-9-1945, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư
tưởng quốc dân, đấu tranh cho độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Từ
đó, tùy theo nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta
nhấn mạnh các tính chất, đặc trưng của nền văn hóa đó, và để phù hợp với tiến
trình cách mạng, với kết quả tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng
bước điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh các quan điểm cơ bản của mình. Song, tựu
trung, đó là nền văn hóa bao hàm các tính chất dân tộc, hiện đại và nhân văn để
tạo nên một nền văn hóa mới đa dạng và thống nhất - nền văn hóa Việt Nanm
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII
(năm 1991) của Đảng đúc kết và khẳng định.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của
dân tộc Việt Nam và của nền văn hóa Việt Nam. Kế tục phẩm chất bền vững đó
của văn hóa dân tộc trong quá khứ, nền văn hóa mới phải tiếp tục phát triển với
những đặc trưng mới. Theo Hồ Chí Minh, đó chính là sự gắn bó mật thiết và trở
thành một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, là sự hài hòa giữa lý tưởng độc lập
dân tộc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong nền văn hóa đó, trở thành nội dung
cốt lõi của nó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn hóa mới của
chúng ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là những giá trị bền vững, cao quý và
những tinh hoa của văn hóa và truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới
được xây đắp và phát triển trong thời kỳ hiện đại của dân tộc ta. Có nghĩa là,
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa quyện hữu cơ
trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa mới.
Về phẩm chất dân tộc, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới, trước
hết là nền văn hóa đó gốc rễ từ dân tộc, mang tâm hồn, diện mạo, đặc tính và
cốt cách dân tộc. Đó là những giá trị bền vững và những tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước, là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc,
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động; dũg cảm, thông minh trong chiến đấu, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống; tình nghĩa thủy chung với người thân, bạn bè.
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần
nhắc nhở chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt
đẹp ấy của dân tộc. Người khẳng định, văn hóa phải “lột cho hết tinh thần dân
tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”... không chỉ ở chiều sâu của nội dung văn hóa
mà còn thể hiện đậm đà trong các hình thức, phương thức biểu hiện nội dung đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, nói giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc không đồng nghĩa với dân tộc hẹp hòi, đóng cửa, khép kín và cũng hoàn
toàn xa lạ với kiểu bắt chước, học đòi, lai căng để đánh mất đi cái độc đáo, cái
đặc trưng của dân tộc mình. Phải biết kế thừa, phát huy có chọn lọc những
truyền thống văn hóa tốt đẹp phù hợp với những điều kiện lịch sử mới, kiên
quyết phê phán và loại bỏ những tập tục lạc hậu, cổ hủ, đủ bản lĩnh để mở rộng
giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tốt đẹp, tiến bộ của
văn hóa nhân loại, tỉnh táo chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hóa độc hại...
“Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn
hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay,
trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”.
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một nền
văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, “hợp với tinh thần dân chủ”,
mà trước hết là sự tôn trọng và yêu thương con người, góp phần cho sự phát
triển toàn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng nâng cao đời sống tinh thần,
tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người. Đây chính là sứ mệnh, là
chức năng chủ yếu của văn hóa. Trong quan niệm của mình về văn hóa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh một chức năng có vị trí đặc biệt của văn
hóa là bám sát và thấu hiểu cuộc sống, miêu tả và khám phá con người, bảo vệ
và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành
trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời và chiến thắng
của xã hội mới. Thấu hiểu đặc trưng và sức mạnh riêng của văn hóa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng của văn hóa có thể và
cần phải nuôi dưỡng, xây đắp cho con người nhữg lý tưởng cao quý, những tư
tưởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con người để giúp con
người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và từ đó con người có năng lực và
khát vọng không ngừng hoàn thiện bản thân. Quá trình tự hoàn thiện ấy chính là
quá trình con người vươn lên cái tốt đẹp, cái tiến bộ và đấu tranh với cái xấu xa,
đen tối, lạc hậu. Vai trò cao quý của văn hóa, với tư cách là động lực của sự phát
triển, trước hết là thông qua chức năng chủ yếu và đặc trưng này của văn hóa.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong
tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười
biếng, phù hoa, xa xỉ... văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ,
độc lập, tự do... làm thề nào cho mỗi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn
ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của
mình đáng được hưởng.
Nói đến văn hóa là nói đến phẩm chất, đến giá trị, đồng thời cũng là nói
đến trình độ của con người. Nuôi dưỡng các phẩm chất, xây đắp các giá trị tinh
thần, tư tưởng, tình cảm và nâng cao trình độ dân trí là những chức năng không
thể tách rời của văn hóa. Theo yêu cầu của từng thời kỳ của cuộc đấu tranh cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh các nhiệm vụ lớn lao
trên của văn hóa. “Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một
nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định như vậy ngay khi đất nước ta kết thúc cuộc chếin tranh chống thực
dân Pháp và miền Bắc bắt đầu bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Chính từ quan điểm đó mà Người luôn đòi hỏi rất cao đối với chất lượng
của hoạt động văn hóa, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của con người - nhận thức,
tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa và nâng cao trình độ hiểu biết toàn diện của mình
thông qua văn hóa, bằng văn hóa. Người nhắc nhở: Phong trào văn hóa có bề
rộng, chưa có bề sâu, nặng về mặt giải trí mà còn nhẹ về mặt nâng cao tri thức
của quần chúng. Sự nhắc nhở đó cách đây đã gần 40 năm, nhưng chúng ta thấy
đó như là sự phê bình trực tiếp những thiếu sót, khuyết điểm của công tác văn
hóa nước ta trong những tháng ngày gần đây nhất.
Chính do tính chất, đặc trưng và chức năng đặc biệt trên của văn hóa, theo
lời dạy và chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải làm mọi cách để phát
huy tối đa sức mạnh của văn hóa làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực, trong mọi phương diện chính rị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương...
và mọi quan hệ của con người với tự nhiên, xã hội và với chính mình..., biến
văn hóa thành một nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển.
3. Văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú.
Xét về đặc trưng của lĩnh vực hoạt động tinh thần, văn hóa gồm có văn
hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa gíao dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa
pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống... Hồ Chí
Minh đã quan tâm và có nhiều ý kiến sâu sắc về hầu hết các lĩnh vực đó của văn
hóa. Xét về loại hình hoạt động cụ thể, chúng ta còn thấy Người đã đề cập và
cho ý kiến chỉ đạo cụ thể từng loại hình, từ báo chí đến văn hóa nghệ thuật, từ
khoa học đến giáo dục, từ đạo đức đến lối sống nếp sống, xây dựng đời sống
mới, từ các hoạt động văn hóa quần chúng đến lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật
chuyên nghiệp, từ truyền thống văn hóa quá khứ đến văn hóa, nghệ thuật hiện
đại, đương đại, từ cách nói, cách viết đến ngôn ngữ và chữ viết...
Điều đặc biệt quan trọng là, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản
chất xã hội và đặc trưng của văn hóa nói chung, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rất rõ
ràng, sinh động, đầy sức thuyết phục các đặc thù và sức mạnh riêng của mỗi lĩnh
vực, mỗi loại hình hoạt động văn hóa cụ thể, từ đó chỉ đạo chính xác, khoa học
các quan điểm cơ bản nđối với từg lĩnh vực và hoạt động đó.
Ở đây chỉ xin nêu vắn tắt một vài dẫn chứng về lĩnh vực văn nghệ (được
hiểu là văn học và các loại hình nghệ thuật).
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của đời
sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Hồ Chí Minh
đặc biệt coi trọng văn nghệ Người đã khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng và
chính Người là ngọn cờ đầu, là người thầy, người chiến sĩ mở đường, tiên phong
trong sáng tạo văn nghệ, cả thơ ca, truyện ký, kịch chính luận và lý luận văn
nghệ.
Bằng cả cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã đúc kết và khẳng định một chân
lý, một quan điểm sâu sắc: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng con người mới và xã hội mới.
Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh đã có một ý nghĩa đặc biệt to lớn và
sâu sắc trong việc tập hợp, rèn luyện, xây dựng và phát triển một đội ngũ văn
nghệ sĩ kiểu mới, làm cho họ trở thành những nghệ sĩ, chiến sĩ, chiến sĩ, nghệ sĩ,
tự nguyện tham gia vào sự nghiệp cách mạng bằng tài năng và sự sáng tạo của
mình. Để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình chiến sĩ, nghệ sĩ - Hồ Chí Minh
thường xuyên căn dặn văn nghệ sĩ phải bồi dưỡng đồng thời cả phẩm chất và tài
năng, hai nhân tố quyết định cho thành công trong hoạt động sáng tạo của
mình “Phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh”.
Văn nghệ “cần hiểu thấu liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân”,
gắn bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống lao động, sản xuất, chiến đấu, sinh
hoạt, học tập và xây dựng cuộc sống mới để có thể phản ánh chân thật, sinh
động thực tiễn ấy, “bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và
dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao cho tinh thần ấy”.
Thực tiễn phong phú trong lao động và đấu tranh của nhân dân luôn luôn
là nguồn sinh khí, nguồn nhựa sống vô tận cho sáng tạo văn học và nghệ thuật,
chính vì thế, Hồ Chí Minh nêu lên yêu cầu văn nghệ sĩ phải “thật hòa mình với
quần chúng”, gắn bó máu thịt với quà chúng, vì “chỉ có nhân dân mới nuôi
dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn
quên điều đó – nhân dân cũng sẽ quên anh ta”(1).
Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của dân tộc,
của đất nước, và các tác phẩm đó phải phản ánh cho hay, cho chân thật, cho
hùng hồn sự nghiệp cách mạng của nhân dân, đó là một đòi hỏi, đồng thời là
một nguyện vọng, mong chờ sâu xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp văn nghệ và đối với đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng của chúng ta. Sáng
tác cho hay, cho chân thật là những yêu cầu tạo ra những giá trị về tư tưởng và
nghệ thuật đối với tác phẩm văn nghệ. Theo Hồ Chí Minh, “ca tụng chân thật
những người mới, việc mới” không đồng nghĩa với việc tô hồng hiện thực, tạo ra
những hình ảnh xa rời đời sống hoặc lẩn tránh việc phê phán cái sai, cái tiêu cực,
cái xấu trong xã hội. Người khẳng định: “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của
dân tộc ta... đồng thời để phê bình nhữg khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ,
của nhân dân ta, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng
phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay,cái tốt thì phải chừng mực, chớ phóng đại”.
Đồng thời với việc khẳng định văn nghệ phụng sự Tổ quốc, phụng sự
nhân dân, tham gia cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng,
phong phú của văn nghệ, coi đó là đặc trưng, là một đòi hỏi nội tại của bản thân
văn nghệ và cũng là một đòi hỏi khách quan của công chúng đối với hình thái
hoạt động đặc thù này: “... cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú,
không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa,
cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp”(2).
4. Một luận điểm cơ bản và rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa là: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp
cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn
hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và truyền bá
văn hóa tốt đẹp, lành mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ khi nào được mọi người dân, mọi tầng lớp nhân
dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể, các dân tộc, tôn giáo... tham gia
tự nguyện, thường xuyên, chủ động vào công tác văn hóa thì lúc đó, văn hóa
mới phát triển bền vững và mạnh mẽ. Đồng thời Người yêu cầu làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống, vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của con người,
lúc đó, văn hóa mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình, trở thành
động lực và sức mạnh nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng và phong phú của cộng đồng
các dân tộc anh em sống trên đất nước ta. Vì vậy, phát triển văn hóa Việt Nam
chính là phát triển tính đa dạng, bản sắc dân tộc phong phú, đặc sắc của các dân
tộc, đồng thời l;à sự chung sức xây dựng nền văn hóa chung thống nhất trong đa
dạng đó. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn: muốn phát triển văn hóa các dân tộc,
phải tẩy trừ những thành kiến, phải thương yêu, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
lẫn nhau như anh em ruột thịt, một nhà.
Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, vì thế, trong suốt cuộc đời, đặc biệt từ
ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày qua đời
(tháng 9 – 1969), Hồ Chí Minh thường xuyên cổ vũ một cách kiên trì, đầy sáng
tạo cho nhiệm vụ xây dựng “đời sống mới” bao gồm đạo đức mới, nếp sống
mới, lối sống mới, thuần phong mỹ tục mới.... Cuộc vận động độc đáo này của
Hồ Chí Minh trong suốt gần 60 năm qua, đã tạo nên những chuyển biến to lớn,
sâu sắc trong đời sống văn hóa của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hướng lớ
cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc của chúng ta hiện nay. Đó vừa là những tư tưởng có ý nghĩa chiến lược
sâu sắc, vừa có tác dụng chỉ đạo cụ thể trong hoạt động thực tiễn của chúng ta.
Hồ Chí Minh là nhà lý luận văn hóa, đồng thời chính Người là danh nhân văn
hóa kiệt xuất. Ở Người, nói thống nhất với làm, chính vì vậy, những chỉ bảo của
Người có sức thuyết phục cao. Đó cũng chính là niềm tự hào và hạnh phúc đối
với sự nghiệp văn hóa cách mạng của đất nước và dân tộc ta.

(1)
. Sđd, t.12, tr.511.
(2)
. Sđd, t.10, tr.13.
(1)
. Sđd, tr.40-41.
(2)
. Sđd, t.9, tr.588.
(1)
. Sđd, t.7, tr.347-248.
(2)
. Sđd, t.11, tr.257.
(1)
S.đd, t.3, tr.431.
(2)
S.đd, t.10, tr.59.
(3)
S.đd, t.6, tr.368-369.
(1)
. Sđd, t.8, tr.494.
(1)
. Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. văn học, Hà Nội, 1981, tr.516.
(2)
. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.12, tr. 551.

You might also like