You are on page 1of 6

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY

DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM


NHÓM 3

1. MỤC TIÊU: Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến


mục tiêu của CNXH, theo Hồ Chí Minh mục tiêu là sự
thể hiện cô đọng nhất các bản chất đặc trưng, tính ưu
việt vốn hàm chứa trong chế độ xã hội tương lai mà
chúng ta xây dựng.
- Mục tiêu chung:
+ Vào những năm hai mươi thế kỷ XX, Hồ Chí Minh
xác định mục tiêu chung của CNXH là đảm bảo không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no, việc làm cho mọi người và
niềm vui, hoà bình, hạnh phúc cho mọi người.
+ Những năm năm mươi, sáu mươi, khi miền Bắc trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh xác định rõ mục tiêu là thoả mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con
người: chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Người
từng nói: “ làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
+ Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây dựng con người.
+ Không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và cả
đời sống tinh thần, đây là cách diễn đạt mà Hồ Chí Minh thường dùng nhất.
- Từ những mục tiêu chính chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những mục tiêu cụ thể như:
+ Về chính trị: cần phải xây dựng chế độ chính trị do nhân dân lao động làm chủ. “Nhà
nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai
cấp công nhân lãnh đạo”. Mọi công việc quan trọng của nhà nước đều phải do nhân dân
quyết định, đảm bảo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Trong
nhà nước XHCN chính phủ là “ đầy tớ trung thành của nhân dân”. Vì vậy người lãnh đạo
phải là người tài đức, cần, kiệm, liêm chính, luôn trao dồi, rèn luyện, không ngừng nâng
cao bản thân. Đồng thời có tầm nhìn xa, chống tham ô lãng phí. Nhà nước XHCN tất cả
mọi người đều có quyền công dân và bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Không
tồn tại sự bất công, bất bình đẳng, không còn mâu thuẫn giai cấp, xóa bỏ mọi sự cách
biệt. Đảm bảo quyền lợi của toàn xã hội, ai cũng là chủ nhân của đất nước mình. Mặc
khác nhân dân có quyền làm chủ, nhưng cũng có nghĩa vụ của người làm chủ. Mọi người
đều có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn
trọng và bảo vệ của công, đồng thời có nghĩa vụ học tập, nâng cao trình độ học vấn… để
xứng đáng với vai trò của người làm chủ. Người viết: “Đã là người chủ Nhà nước thì
phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà,…Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo
toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ” hay “Xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là xây
dựng đời sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân”. Việc để nhân dân tham gia vào công
việc quản lý nhà nước vừa mang tính khách quan vừa mang lại lợi ích cho chính nhân
dân.
+ Về kinh tế:
Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được đảm bảo và đứng vững
trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh là:
“Cần xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
khoa học kỹ thuật tiên tiến”, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng chủ nghĩa tư bản khi nó tạo
ra được một nền kinh tế phát triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học, công nghệ
hiện đại và ngày càng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Để đạt được
mục tiêu đó là cả một quá trình phấn đấu, lao động, nỗ lực cố gắng không ngừng của giai
cấp công nhân và toàn thể nhân dân ta.
Xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất và dần thực
hiện giải phóng sức sản xuất xã hội. Bởi tư hữu là mầm mống của sự bóc lột, của bất bình
đẳng và của những mâu thuẫn trong xã hội. Mà trong khi đó, xã hội chủ nghĩa là một xã
hội nhân đạo và dân chủ nhất thì nhất thiết phải xóa bỏ tư hữu và thiết lập chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất.
Đối với những nước lạc hậu, chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiêu biểu như Việt
Nam thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quy luật tất yếu và phổ biến để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Mặt khác, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là một nền công nghiệp, nông
nghiệp hiện đại với trình độ khoa học kĩ thuật cao. Và thực tiễn cho đến nay thì quy luật
này vẫn hoàn toàn đúng với tình hình nước ta, đã và đang đem lại những thắng lợi to lớn
cho cả dân tộc, thúc đẩy nước ta tiến nhanh trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, HồChí Minh cho rằng, phải nhận thức,
vận dụng và phát huy tối ưu các động lực. Trong tư tưởng của Người, hệ thống động lực
thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa rất phong phú, bao hàm những động lực cả
trong quá khứ, hiện tại và tương lai; cả về vật chất và tinh thần, nội lực và ngoại lực... ở tất
cảcác lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục... Tất cả các động lực
đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau nhưng giữ vai trò quyết định là
nội lực dân tộc, là nhân dân nên đểthúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải
đảm bảo lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh.

+ Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại
chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Theo Người, “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội
chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”, "Phải phát triển những truyền thống tốt
đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thu những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây
dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”
+ Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh. Chế độ xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là chế độ “dân làm chủ” “dân là chủ” nên theo Hồ
Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước nhân dân phải làm tròn nhiệm vụ của
người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đó mọi người đều có quyền làm việc; có
quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền tự do ngôn luận, báo
chí, hội họp, lập hội, biểu tình, có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào; có quyền bầu cử ứng cử.

2. ĐỘNG LỰC
- Khái niệm động lực: Tất cả những nhân tố góp
phần thúc đẩy phát triển KT- XH thông qua các
hoạt động của con người, nhằm mục đích nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Phân loại:
+ Động lực vật chất và động lực tinh thần.
Hồ Chí Minh coi trọng động lực kinh tế
nên rất quan tâm tới việc phát triển sản xuất kinh
doanh, giải phóng mọi lực lượng sản xuất, làm cho mọi người giàu có, gắn kinh tế với kỹ
thuật, kinh tế với xã hội. Đây được xem là động lực vật chất.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh động lực tinh thần, đó là truyền thống yêu nước; sự kiên cường
bất khuất trong chiến đấu; sự cần cù, sáng tạo trong lao động; lạc quan yêu đời…
Hồ Chí Minh cũng quan tâm đến động lực văn hóa, giáo dục, khoa học. Đây là động lực
tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Động lực nội sinh và động lực ngoại sinh
Động lực nội sinh là những nhân tố tự nhiên, có sẵn trong mỗi cá thể, thúc đẩy cá
thể đó hành động để đạt được mục đích của mình. Ví dụ: Học tập bởi vì bạn tận hưởng quá
trình tiếp thu kiến thức, thay đổi bản thân và mở rộng tầm nhìn chứ không phải vì điểm số
hay bằng cấp.
Động lực ngoại sinh là khi một cá thể được thúc đẩy hành động vì những nhân tố
bên ngoài chứ không phải vì mong muốn cá nhân. Ví dụ: Học tập bởi vì điểm số hay bằng
cấp.

Trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh luôn khẳng định nội lực là
quyết định, ngoại lực là rất quan trọng. Vì vậy phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực cánh sinh là chính, nhưng luôn chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên động lực tổng hợp xây dựng chủ nghĩa
xã hội.

- Quan trọng và quyết định nhất: Động lực con người ( Động lực cá nhân và Động lực
cộng đồng)
Nói con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động lực quan trọng
nhất. Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội.
Người cho rằng, không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con
người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng
đồng, sức lao động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan
trọng của chủ nghĩa xã hội.
Để động lực các nhân và động lực cộng đồng trở thành động lực thực sự cần chú ý
các điều kiện cơ bản sau:
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
+ Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước
- Trong đó, điều kiện “Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước” là hạt nhân trong
hệ thống động lực; có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.

+ Hồ Chí Minh không những chỉ ra động lực mà còn cảnh báo những yếu tố kìm
hãm làm giảm, thậm chí triệt tiêu sức mạnh của các động lực, đó là chủ nghĩa cá nhân dẫn
đến tham ô, lãng phí, quan liêu; các phong tục tập quán lạc hậu,…

+ Để đạt được những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, phải
nhận thức, vận dụng và phát huy tối ưu các động lực. Trong tư tưởng của Người, hệ thống
động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủnghĩa rất phong phú, bao hàm những
động lực cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai; cả về vật chất và tinh thần, nội lực và
ngoại lực... ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục... Tất
cả các động lực đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với nhau nhưng giữ vai
trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân dân nên để thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa phải đảm bảo lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đây là những động lực hàng đầu của chủ nghĩa xã hội

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, lợi ích của dân, dân chủ,của dân, đoàn kết toàn dân gắn bó
hữu cơ với nhau, là cơ sở, là tiền đề của nhau, tạo nên những động lực mạnh mẽ nhất trong
hệ thống những động lực của chủ nghĩa xã hội. Những yếu tố trên chỉ được phát huy sức
mạnh thông qua hoạt động của những cộng đồng người và những con người Việt Nam cụ
thể.

- Động lực khác: Với Hồ Chí Minh, chu trình vận động của lịch sử xã hội loài người được
phác họa như sau: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến
chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo
quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con
đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có
nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như
các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta, v.v…. Như vậy, Hồ Chí Minh thừa nhận,
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp.

Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm lớn mà quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải quan tâm và đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Đặc điểm này thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó,
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ
và lâu dài.

Người chỉ rõ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và
sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có
trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ
và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ,
xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế
chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp”. Tuy nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là
sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua xây
dựng, thì thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn.

Theo đó, Hồ Chí Minh khẳng định, phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật
chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện
để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng
suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản
xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ
quá độ. Đặc biệt là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc
vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

You might also like