You are on page 1of 29

PHẦN CÂU HỎI NGẮN/ ĐÚNG SAI

1. Mục tiêu chính trị CNXH


Phải xây dựng chế độ nhân dân làm chủ: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Là xây dựng
chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân làm chủ, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân,
quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện và không ngừng mở rộng và phát huy. Dân là
chủ và làm chủ nên phải coi việc nước như việc nhà.
- Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện qua
+ Quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan nhà nước.
+ Quyền kiểm soát các đại biểu do mình bầu ra.
+ Có quyền bãi miễn đại biểu nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với
sự tín nhiệm của nhân dân.
- Dân chủ nghĩa là dân vừa làm chủ và dân vừa là chủ.
- Dân làm chủ thì cán bộ, Chính phủ “là đày tớ trung thành của dân, từ Chủ tịch toàn
quốc đến làng, dân là chủ thì Chính phủ là đày tớ”.
2. Mục tiêu về chính trị thời kỳ quá độ
Giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
- Tăng cường quản lý nhà nước.
- Xây dựng mặt trận nhân dân.
3. Thực chất của thời kỳ quá độ
TKQĐ lên CNXH là quá trình cải biến cách mạng toàn diện sâu sắc, triệt để toàn bộ đời
sống xã hội trong đó trọng tâm là cải biến nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn
XHCN.
- Đó là quá trình cải biến nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn hiện đại.
- Là quá trình đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
- Nhằm xây dựng thành công XHCN ở Việt Nam.
4. Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ
Đặc điểm 5: “Việt Nam đi lên xây dựng XHCN từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng
lên CNXH không phải kinh qua các giai đoạn phát triển của CNTB”. Đây là đặc điểm cơ bản,
bao trùm, chi phối các đặc điểm khác của thời kỳ quá độ.
- “Tiến thẳng”: Từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH.
- “Không kinh qua tư TBCN”: Bỏ qua quan hệ sx TBCN (ko bỏ hết, chỉ bỏ chế độ bóc lột
và giữ lại những sự tiến bộ, phát triển).
5. Tính chất của thời kỳ quá độ
Rất gay go, phức tạp, lâu dài, khó khăn, gian khổ
Vì:
- Thứ nhất, đây là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, đòi hỏi
phải giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn khác nhau , phải xây dựng từ cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng…
- Thứ hai, hình thức quá độ gián tiếp từ một nước tiền tư bản còn rất lạc hậu, hơn nữa
theo HCM trong quá trình xây dựng CNXH Đảng và nhân dân ta còn thiếu nhiều kinh
nghiệm, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta phải vừa học vừa làm, do đó không
tránh khỏi những sai lầm, vấp váp.
- Thứ ba, các thế lực thù địch và bọn phản động trong và ngoài nước không ngừng
chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân ta. Theo HCM, có sự nhận thức
sâu sắc những tính chất trên, sẽ giúp cho Đảng và Nhà nước khi đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách phải hết sức thận trọng, phải xuất phát từ điều kiện thực tế
khác quan của đất nước, từ nhu cầu và khả năng của nhân dân. Tuyệt đối không
được chủ quan, nóng vội sẽ dẫn đến sai lầm thất bại.
6. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ
- Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; Xây dựng các tiền đề
kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
- Kết hợp cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trong đó xây dựng là chủ yếu và
lâu dài.
7. Điều kiện quyết định đảm bảo thành công của thời kỳ quá độ
Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
8. Tại sao Hồ Chí Minh lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu?
Hồ Chí Minh ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu vì 5 lý do
sau:
- Truyền thống nông nghiệp lúa nước, nhân dân có nhiều kinh nghiệm.
- Điều kiện tự nhiên thuận lợi.
- Giải quyết nạn đói.
- Giải quyết công ăn, việc làm.
- Đầu tư cho nông nghiệp: vốn ít, thu hồi vốn nhanh.
Chúng ta vừa ra khỏi chiến tranh, “Nếu để dân đói là chính phủ có lỗi, mọi chính sách của
Đảng không thực hiện được”. “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung thì
phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”; phải ưu tiên phát triển nông nghiệp còn
bởi vì chúng ta có “thiên thời” (khí hậu, đất đai), “nhân hòa” (lực lượng lao động nông
nghiệp đông đảo). Vì vậy, “Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ta phải dựa vào nông
nghiệp và phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”
9. Kẻ thù chính của CNXH
Chủ nghĩa cá nhân
10. Hồ Chí Minh có chủ trương xây dựng CNXH theo kiểu mô hình
Liên Xô. Đúng hay Sai?
Sai => Hồ Chí Minh yêu cầu có thể học hỏi kinh nghiệm từ kiểu mô hình Liên Xô nhưng phải
sáng tạo, phát triển, vì LX - VN khác nhau cả về điểm xuất phát, đặc điểm về lịch sử, văn
hóa và điều kiện phát triển. Làm trái với Liên Xô, đó cũng là mácxít.
11. Hồ Chí Minh có chủ trương xóa bỏ các thành phần kinh tế phi
XHCN. Đúng hay Sai?
Sai => Hồ Chí Minh ưu tiên phát triển kinh tế nhà nước nhưng cũng tạo điều kiện để các
thành phần kinh tế khác được phát triển.
12. Biện pháp nào quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ?
Đem sức dân làm lợi cho dân
13. Động lực nào quan trọng nhất trong xây dựng XHCN? Kể tên
các động lực, trở lực.
Động lực quan trọng nhất trong xây dựng XHCN là: Con người
Về các nhân tố động lực: Bao gồm tất cả các nguồn lực, như: nguồn lực về vốn,
khoa học - kỹ thuật, con người... Trong đó nguồn lực con người là bao trùm và quyết
định nhất. Vì các nguồn lực khác đều phải thông qua hoạt động có ý thức của con
người thì mới trở thành sức mạnh to lớn trong thực tế; các nguồn lực khác có thể bị
cạn kiệt qua quá trình sử dụng, nhưng nguồn lực trí tuệ con người càng khai thác
càng phát triển và phát huy. Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân
lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá
nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế,
phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan
tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của
chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan
trọng.

- Các động lực: 3 động lực


+ Nội lực
+ Ngoại lực
+ Nhận diện và khắc phục các lực cản của CNXH
- Các trở lực gồm:
+ Chủ nghĩa cá nhân (nguy hiểm nhất)
+ Ba thứ “giặc nội xâm”: Tham ô, quan liêu, lãng phí (lãng phí là tội nặng hơn)
+ Tệ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết
+ Sự chủ quan, bảo thủ, lười biếng, không chịu học tập cái mới.
14. Tại sao phải xây dựng Đảng?
Lý do cần xây dựng Đảng:
- Để phục vụ cho mỗi giai đoạn cách mạng có những nhiệm vụ, mục tiêu khác nhau.
- Đảng viên có nhiều mối quan hệ xã hội, có thể bị thái hóa biến chất.
- Quyền lực chính trị có tính 2 mặt
15. Nguyên tắc sinh hoạt nào của Đảng là quan trọng nhất?
Nguyên tắc “Tập trung dân chủ”.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản và quan trọng nhất của Đảng.
nhằm làm cho “Đảng tuy đông người nhưng tiến hành chỉ như một người’’. Với Hồ Chí
Minh, tập trung có nghĩa là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên
phục tùng vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Dân chủ nghĩa là mọi người được tự do trình
bày ý kiến của mình, tranh luận với các ý kiến của người khác. Nhưng phải tránh dân chủ
hình thức, dân chủ quá trớn hoặc tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán.
16. Tại sao nhà nước dân chủ lại mang bản chất của GCCN?
Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, bởi vì:
- Thứ nhất, do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương để Nhà nước ban hành pháp luật,
Hiến pháp.
+ Đảng lãnh đạo bằng các hoạt động của các tổ chức, cá nhân đảng viên trong
bộ máy nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra, đánh giá
- Thứ hai, biểu hiện ở định hướng mục tiêu Xã hội chủ nghĩa, định hướng XHCN chỉ
có ở giai cấp công nhân.
- Thứ ba, thể hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ.
- Thứ tư, lực lượng của nhà nước đó là liên minh công – nông – tầng lớp trí thức, do
giai cấp công nhân lãnh đạo
17. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng những phương thức nào?
Cách thức lãnh đạo nhà nước của Đảng:
- Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương để Nhà nước ban hành pháp luật, Hiến
pháp.
- Đảng lãnh đạo bằng các hoạt động của các tổ chức, cá nhân đảng viên trong bộ máy
nhà nước.
- Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra, đánh giá
18. Ba thứ giặc nội xâm do đâu sinh ra?
Ba thứ giặc nội xâm là: Tham ô, quan liêu và lãng phí => Do Chủ nghĩa cá nhân sinh ra
Tham ô và lãng phí do quan liêu sinh ra.
19. Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc?
Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc => Toàn dân
- Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm toàn thể
nhân dân
Toàn dân:
+ Toàn thể dân tộc, đồng bào “mọi con dân Việt Nam”, “Con rồng cháu tiên”.
+ Là cá nhân mỗi con người
=) Tất cả đều là chủ thể của khối đại đoàn kết, phải tập hợp được tất cả mọi người vào một
khối thống nhất
Nhân dân trong khối đại đoàn kết bao gồm:
+ Tất cả mọi người Việt Nam trong và ngoài nước “đồng bào”.
+ Tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội.
+ Tất cả các dân tộc, tôn giáo
- Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc:
+ Đại đoàn kết phải dựa trên cơ sở lấy liên minh công - nông và trí thức làm cơ
sở, làm trụ cột để đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Trong khối đại đoàn kết, Đảng không chỉ là một bộ phận bình đẳng, mà còn là
lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc
20. Nguyên tắc nào trong xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc là
quan trọng nhất?
Nguyên tắc thứ 6: Tin dân, yêu dân, kính dân
21. Hình thức của khối Đại đoàn k ết dân tộc.
SINHVIENKINHTE.ORG
a) Hình thức của khối đại đoàn kết: Thông qua các mặt trận dân tộc thống nhất
- Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần
chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, từng ngành
nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn
cách mạng: “công hội”, “nông hội”, “Phật giáo cứu quốc”, “Công giáo yêu
nước”…Trong đó, bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Tuỳ tình hình cụ thể, cương lĩnh và điều lệ của Mặt trận dân tộc thống nhất phù hợp
với tình hình cách mạng, mặc dù tên gọi khác nhau: “Hội phản đế đồng minh (1930),
“Mặt trận dân chủ” (1936), “Mặt trận Việt Minh” (1941), “Mặt trận Liên Việt” (1946)
“Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” (1960), “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam” (1955, 1976)- song thực chất chỉ là một: Đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng
lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ tất cả các đảng phái, giai 107 cấp tầng lớp,
cá nhân yêu nước phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tự do
và hạnh phúc của nhân dân.
b. Nguyên tắc xây dựng Mặt Trận dân tộc thống nhất
(1) Mặt trận dân tộc thống nhất phải xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
(2) Giải quyết các mối quan hệ dựa trên sự thống nhất lợi ích dân tộc, giai cấp, quốc
tế.
+ Các dân tộc: tìm ra lợi ích chung (độc lập tự do,; HIỆN NAY: DÂN GIÀU
NƯỚC MẠNH).
+ Các giai cấp: những lợi ích mà phù hợp với lợi ích dân tộc thì phải được tôn
trọng, những gì riêng biệt sẽ được giải quyết dần dần phù hợp với lợi ích dân
tộc, bằng sự nhận thức đúng hơn của mỗi người.
+ Quốc tế: tôn trọng quyền tự quyết các dân tộc, đoàn kết hòa bình
(3) Sử dụng hình thức hiệp thương dân chủ trong khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Hiệp thương dân chủ: là mọi việc đều đưa ra bàn bạc dẫn đến thống nhất
hành động.
+ Hiệp thương phải dựa trên nguyên tắc lập trường của giai cấp công nhân.
(4) Đoàn kết một cách tự giác, có lãnh đạo, có tổ chức, lâu dài, chặt chẽ, chân thành,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, gắn với phê bình và tự phê bình
(5) Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận Dân tộc thống nhất, vừa là linh
hồn là lực lượng lãnh đạo Mặt trận.
22. Tính chất của văn hóa
Văn hóa có 3 tính chất
- Tính dân tộc
+ Hồ Chí Minh thường gọi: Văn hóa có cốt cách dân tộc, đậm đà bản sắc dân
tộc, đặc tính dân tộc.
+ Thể hiện truyền thống dân tộc, kế thừa những giá trị tích cực của truyền
thống và phát triển phù hợp với tình hình mới
- Tính Khoa học
+ Thể hiện ở tính khoa học, tiên tiến, bắt kịp thời đại
+ Chống lại những gì phản khoa học, phản tiến bộ
- Tính đại chúng
+ Lực lượng sáng tạo ra văn hóa: quần chúng
+ Lực lượng hưởng thụ văn hóa: quần chùng
23. Chức năng của văn hóa
- Văn hóa bồi dưỡng lý tưởng đúng và tình cảm đẹp.
+ Lý tưởng: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội =) văn hóa phải làm
cho ai cũng có lý tưởng độc lập tự chủ, tự do.
+ Tình cảm: lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người, chung thực,
chân thành, thủy chung, gạt bỏ những thói hư tật xấu…
- Nâng cao dân trí, mở rộng hiểu biết của con người.
+ Dân trí: là sự hiểu biết của con người, biết đọc, viết đến hiểu biết các vấn đề
kinh tế, chính trị, đời sống xã hội, khoa học kỹ thuật.
+ Để nhân dân tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
=> DÂN GIÀU, NƢỚC MẠNH, XÃ HỘI CÔNG BẰNG, VĂN MINH
- Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách, lối sống tốt lành để hướng con người đến
những giá trị chân thiện mỹ, hoàn thiện bản thân.
+ Chân: khao khát hiểu biết về thế giới xung quanh, về bản thân, về quá khứ,
hiện tại và tương lai, mang lại trí thức, xuất hiện các khoa học.
+ Thiện: biết biến nỗi đau của đồng loại thành nỗi đau của mình, xuất hiện
lương tâm.
+ Mỹ: hướng đến sự cân bằng, hài hòa.
- Văn hóa soi đường cho quốc dân đi
24. Phẩm chất đạo đức nào quan trọng nhất? Tại sao?
Phẩm chất đạo đức quan trọng nhất là “Trung với nước, hiếu với dân”.
=> Vì phẩm chất này sẽ quyết định đến mọi phẩm chất đạo đức khác.
25. Nguyên tắc nào trong xây dựng đạo đức mới là quan trọng
nhất?
Nguyên tắc trong xây dựng đạo đức mới là quan trọng nhất là “Nói đi đôi với làm, nêu
gương về đạo đức.”

PHẦN TỰ LUẬN
1. Tính tất yếu trong xây dựng CNXH (5 ý)
- Xuất phát từ quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội loài người,
xu thế tất yếu của thời đại
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của CN Mác – Lênin đã giúp cho HCM nhận
thức được quy luật phát triển khách quan của lịch sử xã hội loài ngườì, từ đó người
tiếp tục khẳng định: sự phát sinh, hình thành và phát triển của XH loài người là sự
phát triển của lực lượng sản xuất XH qui định.
Việt Nam đã trải qua 3 chế độ xã hội đó là Cộng sản nguyên thủy - Phong kiến -
Cộng sản chủ nghĩa. Và trong xã hội lại luôn có mâu thuẫn, vì sao lại như vậy? Theo
Bác, trong xã hội chỉ có 2 loại người: Người đi áp bức và người bị áp bức hay nói
cách khác là người giàu (những kẻ không phải lao động chân tay, “ngồi mát ăn bát
vàng”) chính là giai cấp thống trị và người nghèo (những người phải làm lụng vất vả,
bị bóc lột) là giai cấp bị trị. Chính những áp bức, bóc lột đã dẫn đến mâu thuẫn gay
gắt giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Từ đó, chúng trở thành động lực thôi
thúc giai cấp bị trị đứng lên đấu tranh, đỉnh cao là cách mạng xã hội, và khi cách mạng thành
công cũng là lúc một xã hội mới ra đời. Đó chính là quy luật vận động,
phát triển và xu thế tất yếu của thời đại mà Việt Nam cũng đã trải qua.
- Ra đời chính từ sự tàn bạo của Chủ nghĩa tư bản
Ngoài ra, HCM còn có một quan điểm hết sức mới mẻ: Sự ra đời của CNXH chính là
từ “sự tàn bạo của Chủ nghĩa tư bản”. Vì sự bóc lột nặng nề của tư sản đế quốc đã
bộc lộ những khuyết tật phi nhân tính không thể khắc phục được của CNTB. Điều
này vừa làm cho quần chúng lao động căm thù thực dân đế quốc, chờ thời cơ đến
đánh đuổi chúng giải phóng dân tộc và cho chính họ thoát khỏi sự áp bức, bóc lột,
đồng thời đây cũng là điều kiện quan trọng nhất để nhân dân thuộc địa giác ngộ về
CNXH: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”
Người Việt Nam chỉ tin vào những điều “tai nghe, mắt thấy”, và cũng chính họ đã
trực tiếp cảm nhận được những nỗi đau, mất mát mà Chủ nghĩa tư bản đã gây ra và
càng thêm căm ghét chế độ này. Và rồi, người Việt Nam như được thắp sáng niềm
tin khi họ nghe thấy, nhận ra những điều tốt đẹp từ thành công trong Chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô.
- Dưới góc độ giải phóng, độc lập dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên, đi lên CNXH mới
giải phóng được giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để.
Con đường Cách mạng mà Bác đặt ra cho dân tộc đó là con đường Cách mạng vô
sản trải qua 2 giai đoạn, đó là Giành độc lập dân tộc và Đi lên CNXH.
- Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng cách mạng không ngừng, từ chế độ này đến chế độ
kia của chủ nghĩa Mác – Lê Nin để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới
chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa ở nước ta.
- Tính tất yếu còn xuất phát từ tương quan so sánh lực lượng giữa giai cấp tư sản dân
tộc và giai cấp vô công nhân trong CMGPDT ( Giai cấp tư sản dân tộc ra đời sau giai
cấp công nhân, vừa ít về số lượng, vừa nhỏ bé về kinh tế và bạt nhược về chính
trị...).
2. Đặc trưng của CNXH (5 ý)
a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra những đặc trưng cơ bản như:
- Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế sở hữu công cộng
để giải phóng sức sản xuất.
- Có một nền đại công nghiệp cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện đại có
khả năng cải tạo nông nghiệp.
- Thực hiện sản xuất có kế hoạch.
- Phân phối theo lao động, thực hiện công bằng trong lao động và hưởng thụ.
- Khắc phục sự khác biệt về giai cấp, tiến tới xóa bỏ sự khác biệt giữa nông thôn với
thành thị, lao động trí óc và lao động chân tay, xây dựng một xã hội thuần nhất về
giai cấp.
- Giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, nâng cao trình độ văn hóa của nhân
dân tạo điều kiện cho mọi người phát triển mọi năng lực sẵn có v.v...
b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng của XHCN ở Việt Nam:
Cái sáng tạo của HCM là xuất phát từ thực tiễn VN, Người đã đưa ra những quan
niệm về của CNXH một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu, phù hợp với lợi ích của các tầng lớp
nhân dân. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người (cộng đồng và cá nhân),
đảm bảo cho con người được tự do phát triển toàn diện . Theo HCM CNXH có những đặc
trưng bản chất như sau:
- Thứ nhất, đó là một chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân là chủ, làm chủ, mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
- Thứ hai, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dân giàu nước mạnh, có khoa học- kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại.
- Thứ ba, CNXH là chế độ không còn áp bức, bóc lột, bất công, dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất và thực hiện phân phối theo lao động.
- Thứ tư, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, có hệ thống quan
hệ xã hội dân chủ, bình đẳng, công bằng.
- Thứ năm, CNXH là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy
dưới sự lãnh đạo của ĐCS, hay nói cách khác nhân dân vừa là chủ thể xây dựng nó,
vừa là người hưởng thành quả của nó.
Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH là một quan niệm hoàn chỉnh, bao quát các
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người...trong đó nổi bật nhất là quyền làm chủ
của nhân dân, và phát huy năng lực sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân để xây dựng
thành công CNXH.

Quan điểm trên được thể hiện qua 5 câu nói của Người:
- Thứ nhất, “nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết phải làm cho
nhân dân thoát cảnh bần hàn, được ấm no, có công ăn, việc làm, sống một đời hạnh
phúc”.=> “Bần hàn” tức là cảnh nghèo đói, cơ cực, bị áp bức mà nhân dân Việt Nam
đang phải đối mặt. Nhiệm vụ của XHCN trước hết là phải giúp cho nhân dân thoát
cảnh “bần hàn” đó. Vì vậy, biện pháp thiết thực nhất đó chính là tăng gia sản xuất,
để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, được học hành. Người dân phải biết lao động
cần cù, chịu khó, siêng năng, sáng tạo, còn cán bộ cần phải hướng dẫn nhân dân
biết cách làm việc, khi dân gặp khó khăn phải giải quyết cho nhân dân. Chủ nghĩa xã
hội làm sao phải làm cho dân giàu - nước mạnh.
- Thứ 2, “Lấy nhà xưởng, xe lửa, ngân hàng… làm của chung”
=> Trước đây, tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp thống trị, còn trong CNXH thuộc về
nhân dân lao động, là “của chung”. Điều này thông qua chế độ sở hữu của CNXH là
chế độ sở hữu công
- Thứ 3: “Là chế độ không có việc áp bức, bóc lột, ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít
thì ăn ít, không làm thì không ăn, tất nhiên trừ người già cả, đau yếu, và trẻ con”
=> “Không có việc áp bước, bóc lột” tức là một chế độ dân chủ, sở hữu công, cùng
làm, cùng hưởng. Thể hiện sự công bằng trong mọi lĩnh vực khi mà mọi người đều
tham gia lao động và được hưởng thụ thành thành quả, sản phẩm làm ra theo mức
lao động đã bỏ ra chứ không phải “cào bằng” như trong chế độ xã hội trước.
- Thứ 4: “Là xã hội gắn với nền sản xuất kỹ thuật cao, với sự phát triển văn hóa của
nhân dân, là xã hội phát huy tính cách riêng, sở trường riêng để cải thiện đời sống
riêng của mỗi người.”
Như chúng ta có thể thấy, trước đây, văn hóa trong xã hội là của giai cấp thống trị,
nó do chính giai cấp thống trị quyết định, tạo ra và áp đặt lên toàm xã hội, còn trong
XHCN, văn hóa thuộc về nhân dân, do nhân dân sáng tác và hưởng thụ, lưu truyền.
- Thứ 5: Là công trình tập thể của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản
việt nam, chế độ dân chủ nhân dân được thành lập
=> Trong đó, lực lượng tham gia là nhân dân.

3. Động lực, trở lực của xây dựng CNXH (3 ý)


Động lực:
3 Động lực
1. Nội lực - Tất cả các nguồn lực: vốn, khoa học kỹ thuật, con người, trong đó
nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Về vốn:
Chúng ta hãy cùng nhìn qua cách huy động vốn của CNTB. CNTB đã thực hiện huy động
vốn bằng 2 cách, đó là bóc lột nhân dân trong nước (thông qua giai cấp công nhân
) và bóc lột nhân dân các nước thuộc địa (thông qua chủ nghĩa đế quốc). Vậy, câu hỏi đặt ra
là “Việt Nam có thể làm điều đó không?”. Câu trả lời, tất nhiên là Việt Nam không thể đi theo
con đường đó được. Vậy Việt Nam lấy vốn ở đâu? Theo Bác, Việt Nam có thể lấy vốn từ
những nguồn sau:
+ Lao động sản xuất -> Tăng gia sản xuất
+ Thực hành tiết kiệm
+ Một mình, một nhà tiết kiệm không thể làm cho đất nước giàu có, nhưng toàn dân,
toàn quốc thì có thể. Đó chính là tích lũy XHCN
+ Chi tiêu hợp lý: Nếu có lợi cho dân thì bao nhiêu tiền cũng đầu tư và ngược lại.
Khoa học kỹ thuật:
- Học hỏi kinh nghiệm của các nước, đưa người Việt Nam đi học tập khoa học kỹ
thuật ở nước ngoài. Đồng thời, tận dụng lực lượng chuyên gia, các nhà khoa học
quốc tế đang ở tại Việt Nam. Bác yêu cầu cần phải tạo điều kiện cho các chuyên gia
phát huy thế mạnh, tài năng của mình và cùng với đó phải nhanh chóng học hỏi để
chuyển giao công nghệ.
- Người Việt Nam vốn có tính sáng tạo, có nhiều kinh nghiệm sáng kiến, Bác xem đó
là tài sản quý báu của quốc gia. Vì vậy, cần phát huy những sáng kiến, kinh nghiệm
bằng cách khuyến khích, tạo điều kiện cho họ sáng tạo, phát triển sáng kiến, đồng
thời nhân rộng mô hình sáng tạo đó.
- Phải coi trọng tầng lớp tri thức, nhà khoa học.
- Tích cực cải tiến kỹ thuật.
Con người - yếu tố quan trọng nhất:
Nguồn lực con người là bao trùm và quyết định nhất. Vì các nguồn lực khác đều phải
thông qua hoạt động có ý thức của con người thì mới trở thành sức mạnh to lớn trong thực
tế; các nguồn lực khác có thể bị cạn kiệt qua quá trình sử dụng, nhưng nguồn lực trí tuệ con
người càng khai thác càng phát triển và phát huy.
Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặc biệt chú trọng phát huy nguồn lực con người trên cả phương
diện cộng đồng và cá nhân:
- Con người cộng đồng:
Muốn phát huy sức mạnh cả cộng đồng, phải thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, có chính
sách đúng đắn về giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảm bảo lợi ích của nhân dân, thực hành dân
chủ và đặt quyền lợi của dân lên trên hết. Theo HCM: Phát huy sức mạnh của cộng đồng
dân tộc là động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
- Con người cá nhân:
Các giải pháp tác động vào nhu cầu và lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất của người lao
động (lương, khen thưởng, xử phạt về vật chất).
Các giải pháp kích thích về chính trị, tinh thần (thi đua, phát huy tinh thần yêu nước.)
Thực hiện công bằng xã hội: Cả trong lao động và hưởng thụ.
Tóm lại, Theo HCM lợi ích và dân chủ của dân luôn gắn bó hữu cơ với đoàn kết toàn dân,
chúng là cơ sở, là tiền đề của nhau tạo nên động lực mạnh mẽ nhất trong hệ thống động lực
cuả CNXH.

2. Ngoại lực
Ngoài ra, theo HCM để tạo nên động lực tổng hợp to lớn cho CNXH cần chú trọng
khai thác các nguồn ngoại lực, như: Hợp tác với các nước trên thế giới , đặc biệt là với các
nước XHCN anh em, tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, ứng dụng có hiệu quả các
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật v.v…
3. Nhận diện và khắc phục các lực cản của Chủ nghĩa xã hội
Bên cạnh việc chỉ ra các động lực trên, HCM yêu cầu phải nhận diện và khắc phục các lực
cản của CNXH, như:
- Chủ nghĩa cá nhân
Chủ nghĩa cá nhân là: “căn bệnh mẹ”, “bệnh gốc”, là “kẻ thù hung ác nhất của chủ
nghĩa xã hội”, từ đó “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm”.
Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa cá nhân..., đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ
hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường
tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh,v.v.”. HCM coi
đây là những lực cản rất lớn của CNXH, “Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể
tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
- Ba thứ “giặc nội xâm”: Tham ô, quan liêu, lãng phí.
So với giặc ngoại xâm thì chúng khó phát hiện, khó đấu tranh và vì thế nên chúng
nguy hiểm hơn nhiều. Cả ba thứ “giặc nội xâm” này đều gây tổn hại đến tài sản của nhân
dân, của nhà nước. Tham ô là việc ăn cắp của công, lấy của công làm của tư. Quan liêu là
những người, những cơ quan lãnh đạo từ trên xuống dưới, xa rời thực tế, việc gì cũng
không sâu, chỉ đại khái. Đối với công việc thì trọng hình thức, chỉ biết khai hội, xem báo cáo
trên giấy, không kiểm tra đến nơi đến chốn. Còn lãng phí tức là tiêu sài hoang phí, vượt quá
quy định của nhà nước. Theo quan điểm của Bác, lãng phí là tội nặng hơn, bởi vì tham ô là
cố ý, còn lãng phí là không cố ý, không hay biết vì thế cần phải có biện pháp trừng trị
nghiêm để kịp thời ngăn chặn. Tham ô, lãng phí là do quan liêu sinh ra và ba thứ “giặc nội
xâm” là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra. HCM coi đây là “giặc nội xâm“, là “quốc nạn“.
- Tệ chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết làm giảm sút uy tín và sức mạnh của Đảng, của
cách mạng.
- Sự chủ quan, bảo thủ, lười biếng, không chịu học tập cái mới.

Việc phát huy động lực, khắc phục được các lực cản trong xây dựng CNXH phụ thuộc vào
vai trò lãnh đạo của ĐCS và hiệu quả quản lý của nhà nước XHCN.
4. Các nguyên tắc, bước đi, phương pháp xây dựng thời kỳ quá
độ (2 nguyên tắc - 3 bước đi - 4 phương pháp)
- Các nguyên tắc cơ bản có tính chất phương pháp luận:
+ Nguyên tắc 1: Quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh
nghiệm của các nước nhưng không được giáo điều, máy móc. Phải giữ vững
độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường.
+ Nguyên tắc 2: Căn cứ vào điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và
khả năng thực tế của nhân dân để xác định bước đi cho phù hợp.
=> Cần thận trọng, tránh nóng vội, đốt cháy giai đoạn.
- Về các bước đi xây dựng thời kỳ quá độ
Trong thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chưa nói rõ các bước đi cụ thể, song tìm hiểu kỹ
tư tưởng của Người, chúng ta có thể hình dung ba bước sau:
+ Thứ nhất: Ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu.
Hồ Chí Minh ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu vì
những lý do sau: Truyền thống nông nghiệp lúa nước, nhân dân có nhiều kinh nghiệm; Điều
kiện tự nhiên thuận lợi; Giải quyết nạn đói; Giải quyết công ăn, việc làm; Đầu tư cho nông
nghiệp: vốn ít, thu hồi vốn nhanh.
Chúng ta vừa ra khỏi chiến tranh, “Nếu để dân đói là chính phủ có lỗi, mọi chính
sách của Đảng không thực hiện được”. “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói
chung thì phải lấy phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính”; phải ưu tiên phát triển nông
nghiệp còn bởi vì chúng ta có “thiên thời” (khí hậu, đất đai), “nhân hòa” (lực lượng lao động
nông nghiệp đông đảo). Vì vậy, “Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ta phải dựa vào
nông nghiệp và phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”
+ Thứ hai: Phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ.
+ Thứ ba: Phát triển công nghiệp nặng

Người viết: "Mấy năm kháng chiến, ta chỉ có nông thôn, bây giời mới có thành
thị...nếu muốn công nghiệp hóa gấp là chủ quan...Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu
tiên, rồi tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng, 'làm trái
với Liên Xô cũng là Mácxít".
Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước (nhiều chặng đường). Bước dài, bước ngắn
là do hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn.
Phương hướng chung là phải tiến lên dần dần, từ thấp đến cao, đi bước nào vững
chắc bước ấy, phải coi trọng các khâu trung gian, những bước quá độ nhỏ.
Chớ ham làm mau, làm nhiều, không được làm bừa, làm ẩu, không được chủ quan,
nóng vội ‚‘‘đốt cháy giai đoạn“ trong xây dựng CNXH. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ
đảng viên tránh nôn nóng, chủ quan, “đốt cháy giai đoạn” trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. “Phải kiên nhẫn bắc những nhịp cầu nhỏ và vừa, phải chọn những giải pháp
trung gian và quá độ”, “Phải trải qua nhiều bước, dài, ngắn là tùy hoàn cảnh. Mỗi bước, chớ
ham làm mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc, đi bước nào, vững bước ấy tiến tới dần dần”
- Các biện pháp thực hiện
Trong điều kiện chiến tranh, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam; vừa
sản xuất vừa chiến đấu, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Biện
pháp cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ gồm:
+ Kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó xây dựng là chủ yếu và lâu dài
+ Bảo vệ tổ quốc, kháng chiến – xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện đường
lối phát triển kinh tế xã hội hài hòa đảm bảo cho các thành phần kinh tế,
thành phần xã hội đều có điều kiện phát triển
+ Có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm. Coi trọng vai trò quyết định của biện
pháp tổ chức thực hiện và phát huy nỗ lực chủ quan trong việc thực hiện kế
hoạch kinh tế xã hội. Hồ Chí Minh chủ trương: chỉ tiêu một, biện pháp mười,
quyết tâm hai mươi,...có như thế kế hoạch mới hoàn thành tốt được
+ Đem sức dân làm lợi cho dân. -> Quan trọng nhất, phương thức chủ yếu để
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng chỉ đề ra đường lối, chủ trương, Nhà nước
cụ thể hóa đường lối đó thành những văn bản luật và tổ chức cho dân thực hiện. Như vậy dân là
chủ thể xây dựng CNXH, đồng thời cũng là người
hưởng thụ thành quả đó
5. Những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về ĐCS VN (4 luận
điểm)
Luận điểm 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam
“ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH HÀNG ĐẦU ĐỂ ĐƯA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
ĐẾN
THẮNG LỢI”.
❖ Vai trò của Đảng về mặt lý luận, theo HCM thể hiện ở chỗ:
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã có nhiều tổ chức chính trị lãnh đạo
phong trào yêu nước của nhân dân ta (như Việt Nam Quang Phục hội của cụ Phan Bội
Châu, Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học v.v...), song đều thất bại. Sự thất bại đó ngoài
nguyên nhân chủ yếu là do không có đường cứu nước đúng đắn, nó còn thiếu vai trò lãnh
đạo của một chính đảng tiên tiến. Vì thế sự ra đời của ĐCSVN đã đáp ứng được yêu cầu
của CMVN là vạch ra được đường lối cách mạng đúng đắn dẫn đường cho dân tộc trong
cuộc đấu tranh tự giải phóng.
- Cách mạng muốn thành công trước hết cần có Đảng lãnh đạo.
Đối với bên trong: Giác ngộ, tập hợp, giáo dục, tổ chức, lãnh đạo quần chúng nhân dân. Lực
lượng không chỉ là số lượng mà cần có chất lượng. Nhân dân Việt Nam lại xuất phát từ nền
nông nghiệp lạc hậu, chân lấm tay bùn, trình độ còn thấp, vì vậy Đảng đóng vai trò rất lớn
để giác ngộ họ, tập hợp, tổ chức, lãnh đạo họ.
Đối với bên ngoài: Liên hệ với các dân tộc, giai cấp bị áp bức trên thế giới.
- Có Đảng lãnh đạo kháng chiến, cách mạng mới thành công, kiến quốc mới thắng
lợi.
Để đảm bảo cho CM thành công, ĐCSVN đã tập hợp, tổ chức, giáo dục, lãnh đạo
quần chúng tham gia cách mạng:
Theo HCM, CM là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng sức mạnh đó chỉ có được khi
quần chúng nhân dân được tập hợp, đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của một tổ chức chính trị
kiên định, có đường lối đấu tranh đúng đắn. Vì vậy yêu cầu cấp thiết của CMVN là phải có
một Đảng cách mạng chân chính.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ĐCSVN vừa đáp ứng yêu cầu cấp thiết của
CMVN vừa phù hợp với quy luật phát triển của xã hội Việt Nam. Chính những thắng lợi to
lớn mà nhân dân ta dã đạt được từ khi có sự lãnh đạo của Đảng, cho thấy không một tổ
chức chính trị nào có thể thay được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với CMVN
(Dẫn chứng là cuộc cách mạng tháng Tám, khi đó Việt Nam đã đối mặt với vô vàn khó khăn và
thử
thách. Trong khi phương tiện thông tin liên lạc còn hạn chế, việc bảo mật và truyền thông tin
cách
mạng từ Bắc vào Nam, từ Việt Bắc đến mũi Cà Mau thực sự rất khó khăn, nhưng dưới sự lãnh
đạo
của Đảng với sự chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng trong suốt 15 năm rèn luyện quần chúng thì điều này
đã
không còn là trở ngại. Quân đội ta khi đó chỉ có 35 người tình nguyện đi theo, một số lượng vô
cùng ít
ỏi, nhưng chúng ta có sự hỗ trợ của đông đảo nhân, “quân với dân như cá với nước”, sức mạnh
đã
tăng thêm gấp nhiều lần. Đối với 6 triệu quân Nhật còn ở Việt Nam, Đảng ta đã sử dụng công tác
ngoại giao tư tưởng, hóa giải khó khăn. Sự thành công của Cách mạng tháng Tám đã càng khẳng
định thêm vai trò quyết định của Đảng.)
- Sau khi cách mạng thành công, vẫn cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bởi vì::
+ Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và
mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn.
+ Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng vẫn phải
tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao động đến
thắng lợi cuối cùng.”

❖ Vai trò của Đảng trong thực tiễn, theo HCM thể hiện ở chỗ:
- Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người, ngoài ra Đảng không có mục đích nào khác.
- Sứ mệnh của Đảng ta là trên cơ sở đường lối đúng đắn và sự tiên phong gương
mẫu của đảng viên, Đảng đã thu phục, đoàn kết được các tầng lớp nhân dân; phát
huy các nguồn lực của dân tộc tạo thành sức mạnh tổng hợp đủ khả năng giải quyết
các nhiệm vụ do lịch sử đặt ra.
- Trước những sai lầm, Đảng đều phát hiện sớm và kịp thời sửa chữa với một thái độ
kiên quyết nhất. Nhờ vậy, Đảng đã trở thành nhân tố quyết định hàng đầu cho mọi
thắng lợi của CMVN từ 1930 đến nay.
(Lãnh đạo cao trào cách mạng 1930-1930; 1936-1939 và đặc biệt Cách mạng Tháng Tám năm
1945.
Lãnh đạo kháng chiến, kiến quốc 1945 - 1946.
Lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 -1954.
Lãnh đạo kháng chiến chống đế quốc Mỹ 1954 -1975.
Lãnh đạo thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ 1975 – nay.
Lãnh đạo xây dựng thời kỳ đổi mới từ 1986 - nay)

Luận điểm 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn gốc ra đời Đảng công sản Việt Nam.
“CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ PHONG TRÀO YÊU
NƯỚC ĐÃ DẪN ĐẾN VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG VÀO ĐẦU
NĂM 1930”
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin, Đảng cộng sản được ra đời từ Chủ
nghĩa Mác Lenin và phong trào công nhân, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài 2 yếu
tố trên còn có phong trào yêu nước là yếu tố góp phần dẫn đến việc thành lập Đảng. Đây là
điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đem lại hệ thống lý luận toàn diện về cách mạng vô sản của
giai cấp công nhân, đối với Việt Nam, đó là cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản. Đánh giá vai trò của chủ nghĩa Mác - Lenin, Hồ Chí Minh nhận định chủ
nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” cho Đảng, là lực lượng tư tưởng hùng mạnh, hiện thân của trí
tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc Việt Nam và là vũ khí không thể thay thế được của
Đảng.
Về phong trào công nhân, nhiều người cho rằng, phong trào của giai cấp công nhân
diễn ra ở những nước có nền đại cách mạng công nghiệp. Thế nhưng, ở đất nước ta chủ
yếu là nền nông nghiệp, công nhân ra đời muộn, số lượng lại ít ỏi trong khi đất nước không
có nền công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên điều này sẽ không là trở ngại lớn đối với việc lãnh
đạo cách mạng của giai cấp công nhân vì số lượng không phải là yếu tố quyết định mà phụ
thuộc vào 5 đặc tính sau: Tính ý thức tổ chức kỷ luật cao được ảnh hưởng từ bản chất công
việc theo dây chuyền tại nhà máy. Họ mang bản chất của giai cấp vô sản, “trần như nhộng”,
không có gì để mất, không bị phụ thuộc hay kiêng dè ai, vì thế giai cấp công nhân có tinh
thần đấu tranh triệt để, không sợ hãi. Họ cũng là người đầu tiên tiếp xúc với khoa học công
nghệ, vì thế giai cấp công nhân có tính tiên phong cách mạng. Đồng thời, họ có quan hệ
chặt chẽ với nhân dân, công nhân toàn thế giới và sớm giác ngộ lý luận Mác – Lenin. Chính
vì những lý do đó mà giai cấp công nhân Việt Nam trở thành lãnh đạo cách mạng.
Về phong trào yêu nước, từ hàng nghìn năm, đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tinh
thần yêu nước là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Yêu nước là cái trường tồn
trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là yếu tố có trước và là một phong trào thực sự to lớn, nó có
tác động thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Phong trào yêu nước với
phong trào công nhân có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc; quyền lợi giai cấp công nhân
và quyền lợi của toàn thể dân tộc là một. Yêu nước chân chính là yêu nước trên lập trường
giai cấp công nhân, và chỉ có kết hợp với phong trào yêu nước , thì giai cấp công nhân mới
đủ sức mạnh để lãnh đạo CM thành công ( vì trong phong trào yêu nước thu hút 90% là giai
cấp nông dân). Ở Việt Nam phong trào yêu nước của tầng lớp trí thức phát triển rất sôi nổi,
chính bộ phận trí thức yêu nước tiên tiến có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố để thành lập ĐCSVN.
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước đều có yêu cầu khách quan là kết
hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin

Luận điểm 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam
“ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN, CỦA NHÂN
DÂN
LAO ĐỘNG, VÀ DO ĐÓ, LÀ ĐẢNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM”
Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công
nhân, mang bản chất giai cấp công nhân (Chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đặt ra vấn đề Đảng
Cộng sản có phải là đảng của dân tộc hay không).
Với Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt Nam trước hết là Đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, trước sau như một. Đồng thời Người còn
khẳng định thêm: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Do lợi ích của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân
lao động, của cả dân tộc Việt Nam chỉ có thể được đảm bảo khi toàn thể dân tộc đoàn kết
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, cần phải xây dựng một Đảng
Cộng sản vừa là Đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của nhân dân lao động, của cả
dân tộc. Đây là luận điểm sáng tạo giúp cho Hồ Chí Minh xây dựng thành công một Đảng
Cộng sản vững mạnh cho dù giai cấp công nhân rất nhỏ bé và non trẻ.

=> Ý nghĩa: Luận điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng có ý nghĩa to lớn. Về lý luận,
đó là một luận điểm mới, sáng tạo về xây dựng Đảng, góp phần bổ xung, phát triển lý luận
về Đảng Cộng sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Về mặt thực tiễn, nó có ý nghĩa chỉ đạo quá
trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ đó Đảng đã lớn mạnh không ngừng và dẫn
dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Luận điểm 4: Lý do cần xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh cần phải xây dựng Đảng ngay khi Đảng còn đang vững mạnh bởi những
lý do sau: Để phục vụ cho mỗi giai đoạn cách mạng có những nhiệm vụ, mục tiêu khác
nhau. Đảng viên có nhiều mối quan hệ xã hội, có thể bị thái hóa biến chất. Đồng thời, quyền
lực chính trị có tính 2 mặt.
6. Những đặc trưng của nhà nước kiểu mới (3 ý)
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước là chủ trương xây dựng
một nhà nước do Nnhân dân lao động làm chủ... Đây cũng là điểm sáng tạo của Hồ Chí
Minh so với quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin và cũng là điểm cơ bản nhất để
phân biệt nhà nước ta với nhà nước trước đó.
- Nhà nước của dân
(1) Nhà nước của dân tức là Nhà nước thuộc quyền sở hữu của dân, dân là chủ, địa vị
cao nhất thuộc về dân.
(2) Nhà nước của dân không phải nhà nước phi giai cấp: “Nhân dân” không phải là nhà
nước phi giai cấp, mà nhân dân được hiểu là 4 giai cấp chính: công – nông – tư sản
dân tộc – tiểu tư sản.
(3) Quyền lực thuộc về nhân dân: Quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan nhà nước; Có
quyền kiểm soát các đại biểu do mình bầu ra; Có quyền bãi miễn đại biểu nếu những
đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Điều này thể hiện
tất cả quyền bính trong nhà nước đều là của nhân dân.
(4) Dân chủ nghĩa là dân vừa là chủ (thể hiện thân phận, địa vị) và dân vừa làm chủ (có
quyền, nghĩa vụ tương xứng với thân phận “là chủ”)
(5) Dân làm chủ, cán bộ là đày tớ trung thành, tận tụy của nhân dân, có thái độ phục vụ
tận tâm, tận lực, cống hiến vì dân.
(6) Biện pháp nào để đánh giá cán bộ, Chính phủ là: Cán bộ có trách nhiệm hướng
dẫn, chỉ bảo cho dân làm việc cũng như giải quyết vướng mắc, khó khăn cho nhân
dân.
- Nhà nước do dân
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong.”
Nhà nước do dân là nhà nước do dân làm chủ và thực hiện việc xây dựng nhà nước.
(1) Nhân dân lập ra nhà nước: Nhân dân đấu tranh giành chính quyền để từ đó lập nên
nhà nước và thực hiện bầu cử quốc hội để lập ra Chính phủ.
(2) Nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước thông qua “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra.” Phải để cho dân biết, quyết định vận mệnh đất nước, trưng cầu ý
dân.
(3) Nhân dân đóng thuế để nhà nước chi tiêu vào các việc như: Đầu tư vào lĩnh vực
công (điện, đường, trường, trạm), trả lương cho cán bộ. Cán bộ nhận lương từ nhà
nước tức là từ dân cũng đồng nghĩa với việc cán bộ là người làm thuê cho nhân
dân.

- Nhà nước vì dân


Thể hiện lợi ích thuộc về nhân dân.
(1) Mọi hoạt động của nhà nước đều phải vì nhân dân, hướng vào việc phục vụ nhân
dân. Đem lại quyền lợi chonhân dân là mục tiêu cơ bản của nhà nước ta.
(2) Cơ quan nhà nước và cán bộ quản lý nhà nước phải lấy sự phục vụ nhân dân làm
mục đích. “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, cần - kiệm - liêm - chính.
(3) Chính quyền các cấp phải chăm lo cho dân từ việc lớn đến việc nhỏ, các cơ quan
nhà nước quản lý xã hội là để lo cho dân: Nếu để cho dân đói, chính phủ có lỗi, nếu
để cho dân giét, chính phủ có lỗi, nếu để cho dân không được học hành, chính phủ
có lỗi... “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho
dân có học hành”.
(4) Cán bộ nhà nước là người phục vụ, đồng thời còn là người lãnh đạo, người hướng
dẫn của nhân dân, phải "xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân”.
(5) Nhà nước không chỉ làm lợi cho dân, mà còn phải yêu dân, kính dân.
7. Sự thống nhất giữa tính giai cấp, nhân dân, dân tộc của nhà
nước (2 ý)
Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
- Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của giai cấp công nhân, mang
bản chất giai cấp công nhân.
- Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, bởi vì:
+ Thứ nhất, do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo thông qua các
cách thức: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương để Nhà nước ban
hành pháp luật, Hiến pháp. Đảng lãnh đạo bằng các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân Đảng viên trong bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước
bằng công tác kiểm tra, đánh giá.
+ Thứ hai, biểu hiện ở định hướng mục tiêu Xã hội chủ nghĩa, vì định hướng
XHCN chỉ có ở giai cấp công nhân.
+ Thứ ba, thể hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ.
+ Thứ tư, lực lượng của nhà nước đó là liên minh công – nông – tầng lớp trí
thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Nhà nước thống nhất giữa tính giai cấp với tính nhân dân, và tính dân tộc
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân, tính dân
tộc. Đó là nhà nước của khối đại đoàn kết dân tộc. Nói nhà nước ta là “nhà nước của dân,
do dân, vì dân”, không phải là nhà nước “toàn dân”, nhà nước phi giai cấp, mà là nói tới tính
chất dân chủ nhân dân của nhà nước. Nhà nước đó xét về bản chất vẫn là nhà nước của
giai cấp công nhân, nhưng xét về đại diện và bảo vệ lợi ích thì đó là “nhà nước của dân, do
dân, vì dân”, dựa trên cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân.
Về lý luận, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giai cấp và dân tộc là thống nhất, lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động, vì vậy nhà nước
của giai cấp công nhân cũng đồng thời là nhà nước có tính dân tộc, “nhà nước của dân, do
dân, vì dân”.
Về thực tiễn, nhà nước ta là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của toàn
dân tộc với sự phấn đấu hy sinh của nhiều thế hệ cách mạng. Nhà nước ta luôn bảo vệ lợi
ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và từ khi ra đời cho đến nay Nhà
nước ta đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử với dân tộc là tổ chức, lãnh đạo các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi, giải phóng hoàn toàn đất nước, giữ vững độc lập
dân tộc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, góp phần xứng đáng vào sự phát triển tiến
bộ của thế giới..
Liên hệ thực tế
- Chúng ta có được cuộc sống ấm no, hòa bình, độc lập như hôm nay là nhờ có sự hi
sinh của biết bao nhiêu xương máu của thế hệ cha anh đi trước. Để có được quyền
tự chủ dân tộc, xây dựng được một nhà nước vững mạnh như hôm nay cũng chính
nhờ công lao to lớn của các thế hệ đi trước. Đây là thành quả của đại toàn thể dân
tộc ta, của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội, là minh chứng cho sức mạnh của tinh
thần đoàn kết dân tộc đã có thể đánh đuổi được mọi kẻ thù xâm lược.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. “Nhân
dân” là đại diện cho toàn thể các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, không phân biệt bất
cứ ai.
- Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, và kể từ đây đã đánh dấu bước chuyển mới cho xã hội Việt
Nam, một nhà nước của riêng dân tộc Việt Nam ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh
giành độc lập dân tộc, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác hướng đến chủ nghĩa
xã hội.
- Thế hệ trẻ hiện nay là mầm non tương lai, là nguồn sức mạnh, là niềm tin của Đảng
và nhà nước. Chúng ta cần phải phấn đấu hết sức mình, tu dưỡng đạo đức, trao dồi
kiến thức để kế thừa những thành quả mà cha ông đã để lại, góp sức xây dựng nhà
nước vững mạnh hơn, đưa đất nước sánh ngang với các cường quốc năm châu.

8. Biện pháp xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ (2
ý)
Xây dựng nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Nhà nước hợp hiến là nhà nước do nhân dân lập ra, nhà nước có hiến pháp và hệ
thống pháp luật, hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật.
Ngay sau khi cách mạng thành công, cần sớm tiến hành tổng tuyển cử để lập ra nhà
nước hợp hiến, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của quyền lực nhà nước.
Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng pháp luật và yêu cầu tất cả
các cơ quan, công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành đúng luật pháp
Kêu gọi Tổng tuyển cử trong cả nước 6/1/1946: Quốc hội đầu tiên được diễn ra.
Hai lần Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo Hiến Pháp (1946 – 1959)
=) Từ đó cho thấy rằng Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mang tính hợp hiến,
hợp pháp.
Nhà nước quản lý bằng pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống
Quản lý nhà nước bằng nhiều cách (như phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức,
tôn giáo, pháp luật) nhưng quan trọng nhất bằng pháp luật, Hiến Pháp là pháp luật tối cao.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, phải làm cho pháp luật có hiệu lực mạnh mẽ trong
thực tế đời sống xã hội, các cơ quan, công chức nhà nước phải gương mẫu chấp hành
đúng luật pháp.
Nhà nước phải quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu
lực mạnh mẽ trong thực tế đời sống XH, trong các cơ quan NN và ND.
Dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau. Không có dân chủ ngoài pháp luật, mọi
quyền dân chủ phải được thể chế hóa thành pháp luật, bảo đảm bằng pháp luật. Pháp luật
phải được xây dựng trên cơ sở thừa nhận và bảo vệ quyền con người, trước hết là quyền
tự do dân chủ.
Cần có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước: quyền lập
pháp – hành pháp – tư pháp.
Nhưng làm thế nào để Pháp luật thực thi trong thực tế?
+ Xây dựng một nền pháp chế, hệ thống pháp luật thực sự hoàn thiện, đầy đủ,
đảm bảo quyền dân chủ thực sự cho nhân dân.
+ Cơ quan nhà nước, cán bộ phải gương mẫu chấp hành, đủ đức, đủ tài.
+ Người dân phải hiểu và tuyệt đối chấp hành.
+ Thực thi pháp luật phải công tâm, nghiêm minh, bình đẳng và minh bạch
9. Những biện pháp xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
(3 ý)
Để xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh cần thực hiện những biện pháp sau:
Kiểm soát quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu vì xu hướng tha hóa quyền lực là khuyết tật
bẩm sinh của bộ máy nhà nước.
Quyền lực nhà nước là do dân ủy thác, nhưng phải làm sao để dân ủy quyền nhưng
không mất quyền. Vì vậy, quyền lực phải được kiểm soát. -
Về phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, theo Hồ Chí Minh trước hết cần
phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng cộng sản.
+ Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp và dân tộc, là Đảng cầm quyền nên có
quyền và có trách nhiệm kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua công tác kiểm tra, kiểm
soát hoạt động của nhà nước và công chức nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước còn dựa trên cách thức tổ chức và phương thức vận hành
của nhà nước (kiểm soát bên trong ).
+ Phải có cơ chế huy động sự kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước (kiểm soát bên
ngoài)
Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong nhà nước.
- Có 6 căn bệnh chính của nhà nước cần được đề phòng, phát hiện và khắc phục:
+ Trái phép: Lợi dụng chức quyền để làm những điều trái quy định.
+ Cậy thế: Lên mặt, hống hách, ra vẻ với người dân, tỏ ra cao quyền, chức thế,
coi thường nhân dân.
+ Hủ hóa: Ăn chơi xa đọa, là nguyên nhân dẫn đến hành vi ăn cắp của chung ,
tham nhũng, mua quan bán chức, mua bán trái phép.
+ Tư túng: “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, bao che cho những sai trái
của người quen, người thân.
+ Chia rẽ: Chia bè kéo cánh, đi ngược lại với đường lối của Đảng.
+ Kiêu ngạo: Bệnh thành tích, lên mặt với nhân dân, không lắng nghe ý kiến
của cấp dưới, không coi trọng lời nói của cấp trên.
=> Những căn bệnh này bắt nguồn từ chế độ cũ, chế đoọ phong kiến, nhưng đến nay vẫn
còn cái hay của Bác. Mặc dù vẫn quan tâm đến vấn đề chống giặc ngoại xâm nhưng Bác
vẫn đặc biệt quan tâm đến những căn bệnh này của nhà nước. Bởi theo quan điểm của
Người, nhà nước phải thực sự vững mạnh thì mới có thể chiến thắng kẻ thù.

- Biện pháp khắc phục: cán bộ không sợ sai lầm, chỉ sợ không quyết tâm sửa chữa.
+ Đối với mình: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, tự sửa chính mình.
+ Đối với người: yêu thương, quý trọng, tin tưởng nhân dân, hết lòng phụng sự
nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân.
+ Đối với việc: tận tụy với công việc

Chống ba thứ giặc nội xâm: Tham ô, lãng phí, quan liêu.
So với giặc ngoại xâm thì chúng khó phát hiện, khó đấu tranh hơn và vì thế nên
chúng nguy hiểm hơn nhiều. Cả ba thứ “giặc nội xâm” này đều gây tổn hại đến tài sản của
nhân dân, của nhà nước. Tham ô là việc ăn cắp của công, lấy của công làm của tư. Quan
liêu là những người, những cơ quan lãnh đạo từ trên xuống dưới, xa rời thực tế, việc gì
cũng không sâu, chỉ đại khái. Đối với công việc thì trọng hình thức, chỉ biết khai hội, xem
báo cáo trên giấy, không kiểm tra đến nơi đến chốn. Còn lãng phí tức là tiêu sài hoang phí,
vượt quá quy định của nhà nước. Theo quan điểm của Bác, lãng phí là tội nặng hơn, bởi vì
tham ô là cố ý, còn lãng phí là không cố ý, không hay biết vì thế cần phải có biện pháp trừng
trị nghiêm để kịp thời ngăn chặn. Tham ô, lãng phí là do quan liêu sinh ra và ba thứ “giặc nội
xâm” là do chủ nghĩa cá nhân sinh ra.

Tăng cường pháp luật với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng
Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội kết hợp, bổ sung cho nhau trong
thực tế trị nước. Đạo đức là những điều tốt đẹp tùy vào quan điểm và ý thức của con người
vì thế không có tính bắt buộc, còn pháp luật do nhà nước ban hành mang tính bắt buộc và
cưỡng chế thực hiện. Sự kết hợp này sẽ tạo ra cách thức quản lý vừa có tình, vừa có lý.
Pháp luật là đạo đức tối thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa, vì vậy cả hai bổ sung cho nhau
để hoàn thiện hơn trong cách thức trị nước.
Trong lịch sử, muốn trị nước thành công phải kết hợp giáo dục đạo đức và tăng
cường pháp luật. Giáo dục đạo đức là để định hướng hành vi của con người, còn tăng
cường pháp luật nhằm giúp xã hội được nghiêm minh, an toàn, trật tự.
Nhấn mạnh vai trò của pháp luật, nhưng không được tuyệt đối pháp luật, xem trọng
cả giáo dục đạo đức.
Nước ta có truyền thống đức trị, nhân dân rất coi trọng đạo đức, nhất là đạo đức của
người cầm quyền; kết hợp đức trị với pháp trị là một truyền thống trong đường lối trị nước ở
phương Đông cần được kế thừa, phát huy.
10. Vai trò, vị trí của đoàn kết dân tộc (2 ý)
Một, đoàn kết là chiến lược cách mạng, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt Nam.
- Đoàn kết là chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn
kết không phải là một thủ đoạn chính trị, cũng không đơn thuần là một phương pháp
tập hợp lực lượng, mà mục tiêu của cách mạng còn là đoàn kết, đoàn kết là chiến
lược của cách mạng, là một nhiệm vụ xuyên suốt, quan trọng, là mục tiêu lâu dài của
Cách mạng Việt Nam.
- Đoàn kết là chiến lược cách mạng vì những lý do sau đây:
+ Thứ nhất, từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã có nhiều phong trào
nổ ra, song đều thất bại, một trong những nguyên nhân gây ra sự thất bại là
do chưa tập hợp, đoàn kết, chưa tạo được sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời xác định xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược của cách mạng Việt Nam.
+ Thứ hai, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng tham gia, lực lượng
đó phải là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mới phát huy được sức mạnh tổng
hợp toàn dân tộc.
+ Thứ ba, mỗi một giai đoạn có nhiệm vụ khác nhau, song giai đoạn nào của
cách mạng cũng cần phải đoàn kết.
+ Thứ tư, đoàn kết là điểm mẹ, điểm mẹ có thành công, các điểm khác mới
thành công.
Chính vì những lý do đó, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến
lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình đấu tranh cách mạng.
- Đoàn kết đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
+ Trước khi có Đảng, chưa có đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc, cách mạng
Việt Nam như đêm đông đen tối, không có đường ra.
+ Khi có Đảng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã thay đổi bản chất. Năm 1930,
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và chỉ trong vòng 15 năm sau, CMT8 thành
công. Đến năm 1954 chiến thắng Điện Biên Phủ như một mốc son chói lọi
cho cách mạng Việt Nam, một chiến thắng oanh liệt, lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu. Chưa dừng lại đó, năm 1975, ta lại tiếp tục giành thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
SINHVIENKINHTE.ORG
=> Hồ Chí Minh rút ra chân lý: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn
kết là điểm mẹ”. Đoàn kết tạo nên thành công, muốn thành công phải đoàn
kết.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công đại thành công.”
Hai, đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu của CMVN là giải phóng dân tộc, đi lên CNXH và là xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc. Đoàn kết là đích hướng đến của cách mạng Việt Nam, là động lực giúp chúng
ta chiến thắng.
Đoàn kết là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Trong buổi ra mắt của Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt
Nam có thể gồm trong 8 chữ ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ
hàng đầu của mỗi giai đoạn cách mạng, là nhiệm vụ của toàn dân tộc. Bởi vì:
+ Cách mạng muốn thành công phải có thực lực, thực lực đó chính là khối đại đoàn
kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền
núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng Tháng
Tám, và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các
dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến
để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện
là: Một là đoàn kết, Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất
nước nhà”.
+ Đại đoàn kết dân tộc còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc vì cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu
tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu
đoàn kết và tinh thần hợp tác. Đảng cộng sản phải có nhiệm vụ thức tỉnh, chuyển
các nhu cầu tự phát thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực được tổ chức trong
khối đoàn kết tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh thực hiện các
nhiệm vụ của công cuộc giải phóng
Bác từng nói:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.”
“Đồng tình” tức là sự ủng hộ, đồng ý với những quan điểm CM, mục tiêu của Đảng đề ra.
“Đồng sức” thể hiện sức mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần. “Đồng lòng” là cùng chung một
lòng, một động lực lớn lao để vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Cùng với đó là “đồng
minh”, liên kết với các nước đồng minh, ủng hộ các nước chống lại chủ nghĩa phát xít.
11. Vai trò, vị trí của đạo đức
Thứ nhất, đạo đức là gốc, là nền tảng, là nhân tố chủ chốt của người cách mạng
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội. Giá trị đạo
đức khi được con người tiếp nhận sẽ biến thành một sức mạnh vật chất to lớn. Hồ Chí Minh
đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam, đó là nền đạo đức
mới, đạo đức cách mạng.
Là gốc, có nghĩa: đạo đức là nền tảng, sức mạnh, tiêu chuẩn của cán bộ.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng, là nhân tố chủ chốt của người cách
mạng. Người nói: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Vì muốn giải phóng cho
dân tộc, cho loài người là công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn
bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”. Đạo đức là gốc của người cách
mạng, là cốt cách, là nền tảng để phát huy sức mạnh của người cách mạng.
Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con người. Người thường nhấn mạnh,
“tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người là cao thượng”.
Đường Cách mệnh là cuốn sách bồi dưỡng cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt
Nam theo học thuyết Mác - Lênin và con đường cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đi theo
đường lối cách mạng mới đã được Nguyễn Ái Quốc xác định. Nhưng mở đầu cuốn sách lại
là bài nói về Tư cách người cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc đã nêu: “Tư cách của người cách
mệnh”, phải có 14 điều, nhưng điều trước tiên phải có đạo đức “Tự mình phải cần, kiệm, vị
công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo ”. Từ đó cho thấy, Hồ Chí Minh đã nêu ra
một quan điểm lớn: Phải có đạo đức để đi đến cái Trí. Vì khi đã có cái Trí, thì cái Đức chính
là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã
chấp nhận, đi theo. Đạo đức là gốc của người cách mạng, đó là Đạo đức cách mạng.
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại mọi công việc, phẩm chất mỗi
người: “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng
hay là không”. Bởi lẽ, đạo đức tạo nên uy tín của người cán bộ; là cơ sở để giáo dục, thuyết
phục và lãnh đạo quần chúng, là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo. Có đạo đức
cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần khiêm tốn, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”, còn bởi lẽ
“Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi. Nếu lòng
dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”
Giữa đức và tài, Hồ Chí Minh xác định đức là gốc, nhưng không xem nhẹ tài.
Người từng nói “có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có thì
thì làm việc gì cũng khó”. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm
chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Một người cán bộ cần có
đủ tài và đức, như thế mới “vừa hồng, vừa chuyên”, mới có thể làm nên việc lớn
Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng
cao năng lực, tài năng để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy sức không vươn lên
được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ
vượt lên trước. Ý nghĩa đức là “gốc”, là nền tảng chính là ở chỗ đó.

Đạo đức là nhân tố tạo nên sự hấp dẫn đối với chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội chưa phải ở lý tưởng cao xa, ở mức sống dồi dào, ở tư tưởng
được tự do, giải phóng, mà trước hết nó ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của
những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống, bằng hành động của mình chiến đấu
cho lý tưởng Xã hội chủ nghĩa trở thành hiện thực.
Cuộc đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Đặc
trưng của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là tính nhân đạo chân chính, với phương châm “tất cả vì
con người, vì
hạnh phúc của con người”. Sự thỏa mãn toàn diện và triệt để nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người khiến
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mang giá trị đạo đức, văn minh sâu sắc.

12. Những phẩm chất đạo đức cơ bản (4 ý)


Trung với nước, hiếu với dân
- Trung với nước: yêu Tổ quốc, trung thành với sự nghiệp giải phóng đất nước, giải
phóng con người.
- Hiếu với dân: “không chỉ yêu cha mẹ mình, mà cũng yêu cha mẹ người, cũng làm
cho mọi người biết yêu thương cha mẹ”, yêu kính đối với nhân dân như yêu thương
cha mẹ mình.

Cần - Kiệm - Liêm - Chính - Chí công vô tư


- Cần
+ Cần cù, chịu khó, chăm chỉ, dẻo dai, bền bỉ.
+ Cần cù gắn liền với siêng năng.
+ Cần cù theo nghĩa rộng: Không phải chỉ mỗi cá nhân cần siêng, mà tập thể,
cả đất nước cũng phải siêng năng.
+ Cần cù, nhưng phải có kế hoạch, biết việc gì làm trước, làm sau =) phải tính
toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng.
+ Có kế hoạch, nhưng phải biết phân công.
+ “Cần” phải đi cùng với “chuyên” (chuyên tâm) không chỉ một, hai ngày mà là
cả đời cần, chuyên.
+ Lười biếng là kẻ thù của cần, người lười biếng có tội với nhân dân, với Tổ
quốc
- Kiệm
+ Kiệm: tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.
+ Cần và Kiệm luôn đi đôi với nhau như người đứng bằng 2 chân.
+ Tiết kiệm: Tiết kiệm vật chất, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm nhân lực.
+ Tiết kiệm nhưng không bủn xỉn, cũng không xa xỉ.
+ Phải thi đua thực hành tiết kiệm
-> Cản nước dành dụm xây dựng đất nước.
- Liêm
+ Là trong sạch, là không tham lam: không tham tiền bạc, địa vị, nịnh hót,
không lấy của chung thành của riêng.
+ Liêm phải có nghĩa rộng, mọi người đều phải Liêm.
+ Liêm đối lập với bất liêm. Người không liêm thì không bằng súc vật.
+ Thực hành liêm: Cán bộ - phải thực hành liêm khiết gương mẫu cho nhân
dân. Dân - phải hỗ trợ, giúp cán bộ thực hành liêm.
- Chính
+ Chính là không tà, là ngay ngắn, đứng đắn.
+ Đối với mình: Chớ tự kiêu, tự đại; luôn cầu tiến bộ; luôn biết phê bình và tự
phê bình.
+ Đối với người: Yêu quý, kính trọng, giúp đỡ người khác; không nịnh bợ cấp
trên, khinh ghét cấp dưới; chân thành, rộng lượng, khiêm tốn.
+ Đối với công việc: Luôn đề cao việc công lên trên việc tư; quyết tâm làm cho
bằng được, không sợ khó, khổ; phải có kế hoạch, có sáng kiến.
- Chí công vô tư
+ Thực chất, chí công vô tư: quét sạch chủ nghĩa cá nhân, là lo trước thiên hạ,
vui sau thiên hạ.
+ Thực hành Chí công vô tư không có gì khó, chỉ từ lòng mà ra: một lòng
hướng về nhân dân, Tổ quốc, đồng bào.
+ Là Nhân - Trí - Tín - Dũng - Liêm.
Yêu thương con người
Là có trái tim nhân ái, biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ mọi người cũng là yếu thương
chính mình. Nhưng yêu thương cần phải đi đôi với phê bình, phải biết công tư phân minh,
phân biệt cái xấu, cái tốt.

Có tinh thần quốc tế trong sáng


Không phân biệt chủng tộc, đoàn kết với nhân dân toàn thế giới.

13. So sánh quan niệm về trung - hiếu - cần - kiệm giữa Nho
giáo và Hồ Chí Minh
Quan niệm về Trung
- Nho giáo: “trung” nghĩa là trung với vua. Vua chính là thiên tử, là “con trời” “thay trời
hành đạo”, vua có quyền lực tối cao, vì vậy nhân dân phải phục tùng vua, chúa một
cách tuyệt đối. Nhưng nếu vua không quan minh, chính trực thì sự trung thành đó sẽ
trở thành niềm tin mù quáng, là sự “ngu trung”. Trung thành theo quan niệm của Nho
giáo là của đa số nhân dân dành cho một người, một nhóm người nhất định, điều
này thể hiện sự phân biệt đẳng cấp.
- Hồ Chí Minh: Người có kế thừa, sử dụng những phẩm chất, đạo đức của Nho giáo
nhưng vẫn có sự vận dụng, phát triển đạo đức trong hoàn cảnh mới. Chữ “trung” của
Bác mang nghĩa rộng hơn, là sự trung thành, tin yêu của tất cả mọi người dành cho
Tổ quốc, không phân biệt giai cấp, tầng lớp.

Quan niệm về Hiếu


- Nho giáo: Chữ “hiếu” tức là có hiếu với cha mẹ, biết chăm lo cha mẹ khi về già, yêu
thương, kính trọng, nghe lời cha mẹ, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, không được
phép cãi lời hay tự ý quyết định. Vì thế nó có một sự hạn chế khi mà mối quan hệ
cha con trở thành một chiều, là sự áp đặt của cha mẹ lên con cái
- Hồ Chí Minh: “Hiếu” tức là hiếu với dân: “không chỉ yêu cha mẹ mình, mà cũng yêu
cha mẹ người, cũng làm cho mọi người biết yêu thương cha mẹ”, yêu kính đối với
nhân dân như yêu thương cha mẹ mình.

Quan niệm về Cần


- Nho giáo: Một người cần cù, siêng năng làm giàu cho bản thân.
- Hồ Chí Minh: Không phải chỉ mỗi cá nhân cần siêng, mà tập thể, cả đất nước cũng
phải siêng năng. Nếu người xưa chỉ chú trọng sự cần cù trong lao động sản xuất và
trong học tập thì Hồ Chí Minh cho rằng chúng ta còn phải cần cù, kiên trì cả trong
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Quan niệm về Kiệm


- Nho giáo: Kiệm là hà tiện, căn cơ để làm giàu.
- Hồ Chí Minh: Kiệm không phải là bủn xỉn, hà tiện mà là chi tiêu thật hợp lý để làm lợi
cho dân. Đặc biệt hơn nữa, Hồ Chí Minh đã mở rộng tối đa nội dung của Kiệm. Đó
không chỉ là tiết kiệm của cải, vật chất mà còn là kiệm thời gian, kiệm sức dân, kiệm
nhân tài, chất xám. Kiệm tức là cả nước dành dụm để xây dựng đất nước.

14. Phân tích một số câu nói:


a. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ II, năm 1961. Người gửi đến quốc dân đồng bào thông
điệp về sức mạnh của tinh thần đoàn kết, đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết thực
sự.
- 3 cấp độ độ đoàn kết: Nội bộ Đảng - Toàn dân - Đoàn kết quốc tế.
- Muốn thành công phải đoàn kết.
Người khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn
chính trị” và điều ấy không chỉ đúng với đoàn kết toàn dân,còn đúng với cả đoàn kết trong
Đảng.Khi nhấn mạnh “đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết”, Người nói rõ mục
đích để “làm cho quần chúng mến Đảng, ra sức ủng hộ Đảng và tự giác, tự nguyện chịu Đảng
lãnh đạo”; đoàn kết trong Đảng thể hiện cả trong tư tưởng, hành động, không được giả tạo,
hình thức mà phải thực chất, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, đoàn kết trên nền tảng
đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của tập thể.
Nội bộ Đảng đoàn kết thì mới có thể tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc,
tạo nên niềm tin cho toàn dân tộc, để từ đó lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh giành lại
non sông. “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của
đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây”. Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc
anh em, mỗi dân tộc mang bản sắc riêng nhưng đều nằm trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Vì vậy Người kêu gọi đồng bào các dân tộc không phân biệt Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,…
phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để cùng xây
dựng Tổ quốc chung, xây dựng xã hội XHCN, làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc.
Với các tôn giáo, Người nhắc nhở phải luôn gắn liền lợi ích tôn giáo với lợi ích chung của dân
tộc. Phải đoàn kết giữa đời và đạo, giữa yêu nước và phụng đạo. Dù là lương hay giáo, đồng
bào cũng phải yêu thương đùm bọc nhau, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, ấm no,
xây dựng Tổ quốc.
Đoàn kết dân tộc và mở rộng hơn thành đoàn kết quốc tế. Đó là cách để chúng ta tận
dụng mọi sức mạnh để chống lại kẻ thù, muốn chiến thắng, chúng ta cần phải hợp sức với
các dân tộc bị áp bức, những dân tộc ủng hộ hòa bình trên thế giới. Trên hành trình bôn ba
tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: “Bọn đế quốc áp bức chúng ta và
đối xử với chúng ta như loài vật, đó là vì chúng ta không đoàn kết! Nếu chúng ta đoàn kết
chúng ta sẽ trở nên đáng gờm” và Người viết trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân
tộc bị áp bức (1925): “Hỡi các bạn thân yêu, chúng ta nên sớm kết đoàn lại! Hãy hợp lực để
đòi quyền lợi và tự do của chúng ta! Hãy hợp lực để cứu lấy nòi giống chúng ta!”.
Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân
dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Theo Bác, để giải phóng
một dân tộc cũng như để xây dựng một chế độ mới thì phải huy động sức mạnh toàn dân mới
thắng lợi, hoàn thành được. Đoàn kết toàn dân vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và tiến
bộ xã hội là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng và là mục tiêu đấu tranh trong cuộc
đời hoạt động cách mạng của Người. Đoàn kết thì thành công và đại đoàn kết thì sẽ đại thành
công.
Liên hệ bản thân:...
b. “Giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”
Lời dạy của Bác về giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng.
Người chỉ rõ: ''Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp rất vẻ vang nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh nặng và đi xa được. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang''. Đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến là đạo đức mới, đạo
đức cách mạng mang tính nhân văn cao cả.

Để xây dựng đạo đức Việt Nam mới, Hồ Chí Minh nêu ra những nguyên tắc và
phương pháp cơ bản để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng, cũng như việc rèn
luyện của mỗi người.

Phải tu dưỡng rèn luyện đạo đức bền bỉ, suốt đời. Người thường nhắc nhở:
''Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng giống như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong''. Từ nhân sinh quan cho rằng bản tính con người không
phải do trời định sẵn, không phải ''thiên định kỳ tính'' mà đạo đức con người chủ yếu
chịu ảnh hưởng của giáo dục, của xã hội, ''hiền dữ nào phải là tính sẵn, phần nhiều
do giáo dục mà nên”. Con người ta không phải là thánh thần, ai cũng có phần tốt,
phần xấu, trong cuộc sống khó tránh hết những khuyết điểm sai lầm, vì vậy, vấn đề là
phải nhận thức được những điểm yếu để sửa chữa, khơi dậy phần thánh thiện tốt đẹp
của con người, đẩy lùi cái xấu, cái ác. Tu dưỡng đạo đức phải thực hiện thường
xuyên, bền bỉ, kiên trì, đòi hỏi sự quyết tâm cao, sự khổ công rèn luyện.
Xây dựng đạo đức mới đòi hỏi phải nêu gương điển hình, lời nói phải đi đôi với
việc làm. Trong lĩnh vực giáo dục đạo đức mới yêu cầu sự gương mẫu, đó là những
tấm gương tốt trong cuộc sống của ông bà, cha mẹ với con cháu; của anh chị với
những người em; của thầy cô giáo với học sinh, của cán bộ đảng viên với nhân dân,
của người tốt việc tốt với mọi người. Nêu gương đạo đức là lời nói phải đi đôi với việc
làm, đó vừa là nguyên tắc để xây dựng đạo đức mới vừa là ranh giới phân biệt với
đạo đức cũ, nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo là đặc trưng
đạo đức của giai cấp bóc lột. Người cách mạng thì lời nói phải đi đôi với việc làm hành
động gương mẫu để quần chúng noi theo, đó là nguyên tắc để rèn luyện, tu dưỡng
và xây dựng đạo đức mới. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
lên trán hai chữ ''cộng sản'' mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước''.

Xây dựng đạo đức mới, đòi hỏi phải đấu tranh bảo vệ cái mới, cái đúng, cái tốt,
loại trừ cái sai, cái xấu, xây phải đi đôi với chống. Người cho rằng trong cuộc sống
công tác hàng ngày và ngay trong mỗi con người cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái
đạo đức, cái vô đạo luôn tồn tại đan xen. Nhưng cái vô đạo đức chỉ thừa dịp là trỗi
dậy tấn công con người, vì vậy xây dựng đạo đức cách mạng, bồi dưỡng những phẩm
chất đạo đức cao đẹp: trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, tình nhân
ái, tinh thần quốc tế trong sáng... phải đi liền với cuộc đấu tranh chống những hiện
tượng vô đạo đức như chủ nghĩa cá nhân; tệ quan liêu, tham ô, lãng phí; óc bè phái,
mất đoàn kết, vô kỷ luậ,t phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đó là thứ bệnh mẹ đẻ ra
trăm thứ bệnh con.

Tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Trong cuộc
sống của mỗi người khó tránh hết những khuyết điểm, nhưng khi có khuyết điểm thì
phải thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình, rồi kiên quyết sửa
chữa. Mỗi đảng viên, cán bộ, mỗi người phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa
như rửa mặt mỗi ngày, như vậy mới mong tiến bộ. Chúng ta khẳng định những mặt
tích cực tiến bộ của nền đạo đức xã hội mới, nhiều giá trị đạo đức truyền thống được
bảo tồn và phát huy, như chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương
ái...nhiều giá trị đạo đức mới được khẳng định. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực đó, nền
đạo đức xã hội ta còn nhiều yếu kém, sự phai nhạt lý tưởng, sa sút về phẩm
chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tệ quan liêu, tham nhũng trở thành quốc nạn chưa được ngăn chặn hiệu quả. Nguyên
nhân chủ quan của những tiêu cực đó là do chúng ta chưa lường hết những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu những biện pháp hữu hiệu trong cả xây và chống,
chưa xử lý kiên quyết với những cán bộ thoái hóa biến chất.

Để xây dựng đạo đức trong Đảng, đạo đức xã hội phát triển lành mạnh, mỗi
người dân Việt Nam luôn luôn học tập, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức theo tấm gương
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng ta nên tổ chức thường xuyên và rộng rãi cho toàn
Đảng, toàn dân, đặc biệt với thanh niên, học sinh học tập và rèn luyện đạo đức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo ra môi trường xã hội trong sạch, làm động lực để xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.

Mặt khác, chúng ta phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan
liêu, tham nhũng; xử lý nghiêm những cán bộ thoái hóa biến chất; xây phải đi đôi với
chống. Đồng thời cần nhân rộng những tấm gương điển hình, trước hết là cán bộ,
đảng viên phải có đạo đức cách mạng nêu gương sáng cho nhân dân. Xây dựng Đảng
ta là đảng vừa là đạo đức vừa là văn minh, xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ
trung thành của nhân dân.
Liên hệ bản thân: …

You might also like