You are on page 1of 16

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ


Học phần: Ứng dụng tâm lý trong quản trị nhà trường

Giảng viên phụ trách môn học: PGS.TS Nguyễn Văn Hồng
Sinh viên:……………MAI THÙY LINH…………..…..
Lớp: QUẢN TRỊ TRƯỜNG HỌC – QH 2021…….……
Hà Nội: 2023

Hạn nộp bài: …………………………………………………………………….


Thời gian nộp bài thực tế của học viên:…………………………………………

Nhận xét của giảng viên chấm tiểu luận


….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
….
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………..
KẾT QUẢ CHẤM TIỂU LUẬN
Điểm số…………..……………………Chữ ký của giảng viên…………..
…………………….

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


Anh (Chị) hãy lựa chọn vấn đề tâm đắc nhất về tâm lý học trong học phần đã học.
Phân tích ứng dụng của vấn đề tâm lý đó trong hoạt động quản trị cơ sở giáo dục
đào tạo. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong quản trị ở các cơ sở giáo dục hiện
nay.
BÀI LÀM
Mở đầu
Từ khi nước ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN, mở cửa và hội nhập thì việc đổi
mới và nâng
cao hoạt động quản lí đã trở thành nhiệm vụ bức xúc. Hoạt động quản lí đã trở
thành một trong những yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội ở nước ta. Đã đến lúc chúng ta cần phải nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống xã hội.
Những yêu cầu trên đã đặt ra cho chúng ta cần phải nghiên cứu về tâm lí của
những người lãnh đạo, những người dưới quyền... trong tổ chức. Bởi lẽ mỗi con
người,mỗi tổ chức xã hội là một thế giới tâm lí rất phức tạp và phong phú. Thế giới
tâm lí này là động lực nội tâm chi phối từ nhận thức đến hành vi của các chủ thể.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn đó cộng với tâm thế ham học hỏi, tìm tòi
những học viên cao học quản lý giáo dục đã được học tập và nghiên cứu học phần
Tâm lý học ứng dụng trong quản trị nhà trường do PGS.TS Nguyễn Văn Hồng trực
tiếp giảng dạy. Trong khoảng thời gian không nhiều chúng tôi đã được học tập
những nội dung cơ bản sau.
1. Khái quát chung về thi đua và khen thưởng
1.1. Khái niệm thi đua
Từ lâu, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã coi thi đua như là một đặc
trưng riêng có trong xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, trong xã
hội tương lai, cạnh tranh sẽ không còn; thay vào đó là sự thi đua lẫn nhau giữa
những người lao động trong quá trình sản xuất. Khi Cách mạng Tháng Mười Nga
thành công, nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới ra đời để lãnh đạo xây dựng
xã hội mới, V. I. Lênin đòi hỏi “nhiệm vụ của chúng ta hiện nay, khi chính phủ xã
hội chủ nghĩa đang cầm quyền, là tổ chức thi đua”.

Ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng
đến công tác thi đua. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thi đua tồn tại khách quan trong
xã hội, người dạy “…Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công
việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. Thi đua là
một hiện tượng khách quan, là qui luật phát triển tất yếu trong quá trình hợp tác lao
động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó nảy sinh thi đua. Dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa, thi đua yêu nước bao giờ cũng là phong trào thi đua tập thể
của những công nhân, nông dân, trí thức, những người lao động tự mình làm chủ
vận mệnh của mình, không đối kháng về lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; mọi
người mang hết nhiệt tình và khả năng của mình ra để xây dựng đất nước.

Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua xã hội chủ nghĩa là đoàn kết, hợp tác cùng
phát triển, phổ biến sáng kiến, kinh nghiệm; Người tiền tiến thân ái giúp đỡ người
chậm tiến để đạt tới sự tiến bộ chung. Hoàn toàn không giống với bí mật thương
nghiệp trong cạnh tranh. Thi đua xã hội chủ nghĩa chẳng những nhằm mục tiêu
kinh tế mà còn nhằm xây dựng con người mới, rèn luyện nhân cách cao đẹp cho
người lao động.

Thi đua phải có mục đích, mục tiêu. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thi đua ái quốc nhằm 3
mục đích chính: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức là làm cho
nhân dân no, ấm, biết chữ, làm Tổ quốc độc lập, tự do”.

Nói như vậy thi đua có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả. Thông qua thi đua để
giáo dục động viên mọi người, nâng cao lòng yêu nước, ý thức giác ngộ giai cấp,
trách nhiệm công dân và tính cộng đồng xã hội.
Công tác thi đua qua những chặng đường lịch sử, đặc biệt thấy rõ vai trò thi đua
thời kỳ đổi mới, trong cơ chế thị trường Nhà nước đã có Luật Thi đua, khen
thưởng ngày 26/11/2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
khen thưởng ngày 16/11/2013 quy định : “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự
tham gia tự nguyện của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích
tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.2. Khái niệm khen thưởng
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác Hồ) đã rất quan tâm đến việc biểu dương
khích lệ động viên người tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử
đẹp là Bác Hồ cho đi kiểm tra ngay để Bác Hồ khen thưởng. Bác thường nhắc nhở
khen thưởng phải chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ưu điểm, tích
cực, khắc phục và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người
mới vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị “Có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng
phải có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương…” khen thưởng còn là một chính
sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành tích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong điều kiện hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng là động lực thúc
đẩy xã hội phát triển là biện pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm
chính trị của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích động viên mọi tầng lớp
trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động sản xuất và công tác.

Trên cơ sở lý luận đó Luật Thi đua, khen thưởng của Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thi đua, khen thưởng ngày 16/11/2013, quy định: “Khen thưởng là việc nghi
nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối
với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

1.3. Mối quan hệ thi đua và khen thưởng


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”, việc
lấy hình ảnh gieo trồng, khen thưởng và thu hoạch tại thời điểm đó là một sự vận
dụng vô cùng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về thi đua yêu nước.
Trên thực tế, trải qua 02 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, từ những phong
trào thi đua trên tất cả các ngành nghề, lĩnh vực xuất hiện bao nhiêu điển hình tiên
tiến, những anh hùng trong lao động và sản xuất, hăng hái thi đua lập nhiều thành
tích trong chiến đấu giết giặc ngoại xâm. Khi đất nước đã vững vàng hơn, dân trí
được nâng cao hơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thi đua và khen thưởng là
công tác động viên chính trị, giáo dục tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa, đều là động lực phát triển xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Nếu thi đua là
hành động cách mạng, tự nguyện, tự giác của quần chúng nhân dân có tổ chức của
Nhà nước gắn liền với truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc thì khen
thưởng lại là chức năng quản lý của Nhà nước, là ghi nhận, biểu dương, khuyến
khích, tôn vinh công trạng của nhân dân. Thi đua và khen thưởng quan hệ chặt chẽ,
tác động biện chứng lẫn nhau. Là hai thành tố hữu cơ của một quá trình dẫn đến
một hiệu quả chung. Mối quan hệ đó biểu hiện:

 Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân và cộng đồng hoàn thành nhiệm vụ
trên cơ sở đó thực hiện khen thưởng, thực tế cho thấy: Ở đâu phong trào
thi đua thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển quần chúng phấn
khởi và khen thưởng chuẩn xác, ngược lại ở đâu phong trào thi đua yếu,
hoặc không có phong trào thi đua ở đó xã hội trì trệ công tác khen thưởng
không chuẩn xác, quần chúng kém phấn khởi, thậm chí có những tiêu
cực.
 Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua
phát triển, thực tế cho thấy: Ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, công tác
này được đánh giá khách quan, công minh trên cơ sở phong trào thi đua
thì ở đó quần chúng phấn khởi, có được phong trào thi đua mới, tốt hơn
và ngược lại.
Bác Hồ coi thi đua là đoàn kết, là cải tạo con người. Theo Bác thi đua phải toàn
dân toàn diện, thường xuyên. Đặc biệt bác nhấn mạnh Thi đua phải gắn với khen
thưởng một cách đích đáng; khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục nêu
gương; Bác khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng là:
“thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Như vậy có tổ chức tốt phong
trào thi đua thì kết quả khen thưởng mới chính xác, mới có tác dụng giáo dục, nêu
gương, động viên khuyến khích, hơn nữa còn tạo điều kiện cho đợt thi đua sau đạt
kết quả cao hơn. Do vậy, không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại
không có thi đua thì không có căn cứ đánh giá hiệu quả công tác thi đua và khen
thưởng hiếu chính xác, ít tác dụng.

Xét cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen thưởng luôn bổ
sung hỗ trợ cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy
tinh thần sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn vươn lên hoàn thành các mục tiêu
kinh tế – xã hội đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà lựa chọn tập thể và cá nhân
xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc đánh giá kết quả phong trào
thi đua. Khen thưởng chính xác kịp thời có tác dụng động viên, giáo dục và nêu
gương tốt trong xã hội, đồng thời cổ vũ phong trào thi đua phát triển sâu, rộng.
Nếu khen thưởng không đúng không chuẩn xác sẽ làm mất tác dụng thậm chí còn
ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua và dẫn đến tiêu cực trong phong trào thi đua,
ảnh hưởng đến công tác khen thưởng.

Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không phản ánh kết quả
trực tiếp từ phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến,
khen thưởng người có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ quan, tổ chức, đoàn
thể… ; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức trong nước và ngoài nước có
công lao, đóng góp cho xã hội, cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, phát triển
kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu người, tài sản của nhà nước của tập thể, của
công dân… song việc khen thưởng này cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua,
nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ phong trào thi đua, từ truyền thống thi đua yêu
nước của dân tộc.

2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng
Việc nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về công tác
thi đua, khen thưởng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới quản lý nhà nước
công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương. Do vậy khóa luận tập trung làm rõ
những nội dung chủ yếu quản lý nhà nước đã được nêu trong Luật Thi đua, khen
thưởng như sau:

2.1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng
Văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lý xã hội nói
chung và quản lý công tác thi đua, khen thưởng nói riêng. Nhà nước quản lý công
tác thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật của nhà
nước là sự thể hiện, cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác thi đua,
khen thưởng, đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng của quần chúng nhân dân
trong lao động, sản xuất, công tác, học tập đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.

Văn bản pháp luật tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp nhân dân
và các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia thi đua và đón nhận
những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo ra sự thống nhất công tác
thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả nước.
Thực tế đã chứng minh, ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, để huy động sức mạnh
của toàn Đảng, toàn dân nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý về thi đua,
khen thưởng như: Ngày 20/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Quốc lệnh ban
hành 10 điều thưởng với lời mở đầu: “Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm
minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành
công”. Quốc lệnh là văn bản pháp lý đầu tiên về điều kiện về khen thưởng, đặt nền
móng hình thành chính sách khen thưởng; Văn bản này đã góp phần quan trọng
trong phong trào thi đua yêu nước phát triển, làm nên chiến thắng thần thánh Điện
Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ năm 1945 – 1998, nhà nước ta đã ban hành 1 quốc lệnh, 15 sắc lệnh, 6 quyết
nghị, 5 pháp lệnh và nhiều nghị định, thông tư, chỉ thị để tổ chức thực hiện công
tác thi đua, khen thưởng. Suốt chiều dài hơn 60 năm xây dựng đất nước công tác
thi đua, khen thưởng đã bám sát được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, kịp thời đề ra những phương pháp tổ chức thực hiện phù hợp với yêu cầu của
từng giai đoạn cách mạng; đã khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí
quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ nghĩa Anh hùng cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng
miền Nam, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau một thời gian dài công tác thi đua,
khen thưởng “bị buông lỏng”. Ngày 03/6/1998 Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số
35 về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới. Ngày 21/5/2004
Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị số 39 về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi
đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến.

Luật Thi đua khen thưởng ra đời cùng các văn bản pháp quy của nhà nước như
Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ qui định chi tiết và
hướng dẫn một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày
04/10/2005 của Chính phủ quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng đã
từng bước thực hiện đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, đưa công tác này vào
nề nếp đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở
quy định của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật,
các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ thể về công tác khen thưởng
của địa phương, đơn vị mình theo chức năng nhiệm vụ và điều kiện thực tế cho
phép để từng bước đưa Luật Thi đua, khen thưởng vào cuộc sống, góp phần đẩy
mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc mà hiệu quả công
tác thi đua và khen thưởng là biện pháp đòn bẩy được áp dụng thống nhất trong
phạm vi cả nước.

2.2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng


Việc xây dựng chính sách đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Ngay sau
khi giành được chính quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ban hành 10
điều thưởng ngày 26 tháng 01 năm 1946. Điều này chứng minh rằng chính sách
trong thi đua, khen thưởng được xác định rất quan trọng để động viên, khuyến
khích mọi tầng lớp trong xã hội thi đua lao động, sản xuất và sáng tạo để phát huy
sức mạnh tổng hợp của nhân dân.

Luật Thi đua, khen thưởng, các văn bản quy phạm pháp luật, thông tư hướng dẫn
thi hành luật đề cập một cách toàn diện các mặt của công tác thi đua, khen thưởng,
đây là chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Cuộc sống phát triển rất
sinh động phong phú, phong trào thi đua, khen thưởng cũng không ngừng phát
triển phong phú đa dạng nhất là ở các ngành, các địa phương cho đến cơ sở. Do
vậy vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng là xây
dựng chính sách về thi đua, khen thưởng, chính sách này phải đáp ứng kịp thời sự
phát triển cuộc sống xã hội thậm chí của mỗi ngành, mỗi cấp đặc biệt của địa
phương và cơ sở.

Trong thời kỳ kháng chiến, đất nước còn nghèo và còn nhiều khó khăn, các danh
hiệu thi đua, hình thức khen thưởng chỉ nhằm động viên tinh thần là chủ yếu; đến
nay, nền kinh tế đang phát triển, nhất là với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế,
Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến quyền lợi và chế độ đối với người lao động
nói chung và đối với những cá nhân, tập thể có thành tích cống hiến được khen
thưởng nói riêng. Do vậy khi xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng phải
chú trọng đến chế độ khen thưởng nhằm khuyến khích, động viên những cá nhân,
tập thể hăng hái trong phong trào thi đua yêu nước.
Thực tiễn cho ta thấy rõ tác dụng to lớn của chính sách trong công tác thi đua, khen
thưởng khi kết hợp giữa động viên tinh thần, gắn với quyền lợi vật chất, có chính
sách đãi ngộ thỏa đáng trong khen thưởng sẽ là động lực cho thi đua, động lực phát
triển kinh tế – xã hội, là động lực để vượt qua những khó khăn, thử thách. Những
vấn đề trên là cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động giúp chúng ta có cách nhìn mới
về công tác thi đua, khen thưởng và cũng chính là cơ sở để đổi mới công tác thi
đua, khen thưởng trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

2.3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của
pháp luật về thi đua, khen thưởng
Điều 12 và Điều 13 Luật Thi đua khen hưởng có nêu: “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: tuyên truyền, động viên các
thành viên của mình tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên
nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; Tổ chức hoặc phối hợp với
cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua; Giám sát việc
thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông tin đại chúng có
trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nêu gương các điển hình tiên
tiến, người tốt việc tốt, cổ động phong trào thi đua, khen thưởng”. Như vậy, theo
quy định của Luật Thi đua, khen thưởng Mặt trận Tổ quốc và các thành viên có
trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giám sát; tổ chức nhà nước có trách nhiệm tổ
chức và phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giám sát; cơ quan thông tin đại chúng có
trách nhiệm thường xuyên trong công tác tuyên truyền cho thi đua và các gương
điển hình.

Đây là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương đơn vị khi tiến hành công
tác thi đua, khen thưởng phải thực hiện. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi cấp tổ chức
thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau.
Trong hiệu quả công tác thi đua và khen thưởng tuyên truyền phổ biến, hướng
dẫn và tổ chức thực hiện thi đua, khen thưởng là một khâu rất quan trọng vì thế
trong Luật Thi đua, khen thưởng cũng quy định rõ và đó là một vấn đề mà nhà
nước cần phải quản lý.

2.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng
Nhà nước, các cấp chính quyền ở địa phương muốn quản lý tốt công tác thi đua
khen thưởng trước hết phải có bộ máy thống nhất, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực,
phẩm chất để làm công tác thi đua, khen thưởng. Muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì
phải đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cán bộ cả về phẩm chất lẫn chuyên
môn nghiệp vụ.

Bồi dưỡng về chính trị là để nâng cao sự hiểu biết, về đường lối chính sách của
Đảng và nhà nước về quan điểm chỉ đạo phong trào thi đua, tư tưởng Hồ Chí Minh
về thi đua, khen thưởng, trên cơ sở đó nâng cao về năng lực tổ chức phong trào thi
đua yêu nước và có phẩm chất đạo đức trung thực khách quan để làm tốt công tác.
Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhất là đối với cán bộ làm công tác thi đua,
khen thưởng ở cơ sở là rất cần thiết. Nếu cán bộ ở cơ sở không thông thạo về
chuyên môn nghiệp vụ thì không thể tham mưu đề xuất với cấp uỷ, chính quyền về
tổ chức phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng ở địa phương, và đề xuất xét duyệt những hình thức khen thưởng được
chính xác, kịp thời …..

Đối với cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng cũng phải tiêu chuẩn hoá, được
đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, phải có kiến thức xã hội, am hiểu lịch sử và có
nhận thức tốt tiếp cận thông tin mới, nhanh nhậy nắm bắt chủ trương chính sách
mới của Đảng và nhà nước thì mới đáp ứng được yêu cầu về tham mưu cho cấp uỷ
Đảng, chính quyền các cấp về các chủ trương giải pháp trong chỉ đạo và tổ chức
phong trào thi đua.

Nhà nước muốn quản lý tốt công tác thi đua, khen thưởng trước hết phải có đội
ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác này. Do vậy nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng là cấp thiết nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi mà luật mới ra đời
mặt bằng cán bộ còn yếu và thiếu.

2.5. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng đánh giá hiệu
quả công tác thi đua
Mục đích, yêu cầu của sơ kết, tổng kết là nhằm đánh giá được hiệu quả công tác
thi đua và khen thưởng những mặt đã làm được và những mặt chưa làm được.
Chỉ rõ những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
uỷ Đảng và chính quyền, đoàn thể, đơn vị đối với công tác thi đua, khen thưởng.
Từ thực tế tổ chức phong trào thi đua, và công tác khen thưởng trong từng đợt thi
đua, hay hàng năm, hoặc từng giai đoạn qua sơ kết, tổng kết rút ra bài học kinh
nghiệm và đề xuất các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen
thưởng trong giai đoạn tiếp theo góp phần phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc
phòng của địa phương, của đất nước. Nội dung tổng kết phải đánh giá được công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tổ
chức các phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.

Đánh giá về nhận thức vai trò, tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng trong công
cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước. Tổng kết rút ra được những bài học kinh
nghiệm, các hình thức, nội dung, phương pháp để tổ chức phong trào thi đua có
hiệu quả; về kinh nghiệm xây dựng điển hình tiên tiến, rà soát các hình thức, nội
dung, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi, vận
dụng vào đặc điểm của từng ngành, từng địa phương cho phù hợp. Trên cơ sở đó
đề xuất công tác chỉ đạo, quản lý và các qui trình, thủ tục xét duyệt khen thưởng,
tổng kết theo dõi và chấm điểm thi đua để có các hình thức tặng thưởng xứng
đáng, chính xác, kịp thời.

Trong tình hình thực tế bệnh quan liêu, hình thức còn đang nặng nề trong các địa
phương, đơn vị thì việc tổng kết, sơ kết càng phải đặt ra với chất lượng cao hơn để
tránh hình thức, phô trương, tốn kém mà không hiệu quả.

2.6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng


Đất nước đổi mới, mở cửa, hội nhập tạo điều kiện cho các lĩnh vực công tác giao
lưu, học hỏi, tiếp nhận sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Do vậy, đây
là nội dung nhà nước cần quản lý đối với công tác thi đua, khen thưởng gồm:

 Trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước bạn về khen thưởng
và về các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào công việc của
xã hội.
 Giới thiệu hình thức thi đua, khen thưởng của Việt Nam với các nước
bạn.
Theo dõi phát hiện những cá nhân, tổ chức nước ngoài có đóng góp đối
với Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực và các địa phương.
 Đề xuất những hình thức khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức
nước ngoài đã có những đóng góp hiệu quả trong việc giúp Việt Nam xây
dựng, phát triển kinh tế hoặc giúp các ngành, các địa phương giải quyết
được những vấn đề cần ghi công và khen thưởng.
Với điều kiện nước ta hiện nay nội dung này càng cần được quan tâm hơn cùng với
sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, kêu gọi sự hợp tác đầu tư của các cá nhân,
tổ chức nước ngoài.

2.7. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm việc thực
hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng
Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm việc thực
hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng được quy định tại Điều 96
Luật Thi đua, khen thưởng. Có nội dung này vì quản lý nhà nước ở bất kỳ lĩnh vực
nào, ngành nào cũng đều phải có thanh tra, kiểm tra, nếu không thanh tra, kiểm tra
sẽ bị buông lỏng công tác quản lý nhà nước.

Trong thực tế, không phải đơn vị, địa phương, cá nhân nào cũng thực hiện tốt, đầy
đủ những quy định của Luật Thi đua Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi
hành luật.

Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong những nội dung: Việc thực hiện
Luật Thi đua khen thưởng, các băn bản hướng dẫn thi hành luật, các quy định,
chính sách của nhà nước về thi đua, khen thưởng không đúng tiêu chuẩn, không
đúng đối tượng v.v…

Công tác thanh tra, kiểm tra theo định kỳ hàng quý, hàng năm hoặc theo đợt phát
động phong trào thi đua, kết thúc phong trào thi đua, hoặc thanh tra đột xuất khi
thấy có vấn đề về công tác thi đua, khen thưởng.Thanh tra khi có khiếu nại, vì vậy
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen
thưởng cũng phải được quan tâm giải quyết. Trong tiến trình xét thi đua, khen
thưởng không phải không còn những hiện tượng không khách quan, cảm tình, nể
nang, chủ quan có những động cơ không trong sáng. Một số cá nhân, đơn vị lợi
dụng những sai sót trong phương pháp, tinh thần trách nhiệm của người thực hiện
nhiệm vụ, các cá nhân, tập thể khai man hiệu quả công tác thi đua và khen
thưởng …
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến có đơn thư khiếu nại của quần chúng
nhân dân về khen sai, khen không đúng tiêu chuẩn, tố giác những người khai man
thành tích, thực hiện không đúng chính sách về khen thưởng của Đảng và nhà
nước. Vì vậy, cơ quan quản lý phải giải quyết để thực hiện tốt Luật Khiếu nại, tố
cáo đảm bảo quyền lợi, chính sách trong thi đua, khen thưởng. Sau khi thanh tra
kiểm tra phải có đánh giá, kết luận ở từng đơn vị từng ngành, từng cấp trong việc
thực hiện chính sách khen thưởng. Công tác quản lý nhà nước trong việc thanh tra,
kiểm tra giải quyết các khiếu nại tố cáo và đặc biệt là xử lý những vi phạm pháp
luật về thi đua, khen thưởng phải được quan tâm thường xuyên để Luật Thi đua,
khen thưởng thực sự đi vào cuộc sống, đảm bảo được nguyên tắc của thi đua là tự
nguyện, tự giác, nguyên tắc của khen thưởng là chính xác, công khai, công bằng và
kịp thời. Có được như vậy thi đua, khen thưởng mới thực sự là động lực cho mỗi
cá nhân, tập thể trong lao động, sản xuất, công tác, học tập tốt hơn và mới có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương cũng như của đất nước.

Một trong những bài học kinh nghiệm về đổi mới quản trị các cơ sở GD mà
nhiều nước đã tổng kết là cần phải tạo lập môi trường thuận lợi cho:
a) Đổi mới về nhận thức và sự đồng thuận xã hội về sự cần thiết phải thay đổi mô
hình quản trị đối với các cơ sở GD để thực hiện “dịch vụ sự nghiệp công”.
b) Hoàn thiện thể chế ở cả cấp độ nhà nước và cấp độ ngành tạo khung pháp lí cho
tiến trình đổi mới phù hợp với văn hóa và mức độ phát triển GD ở từng giai đoạn
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
c) Nâng cao năng lực quản lí cho cán bộ ở cấp độ hệ thống và cấp cơ sở để có đủ
phẩm chất và năng lực thực hiện các nội dung đổi mới, phù hợp với yêu cầu của
chuyển đổi mô hình quản lí theo cơ chế cũ sang mô hình quản lí theo cơ chế mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 19/NQ-TƯ về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lí nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Bộ Nội vụ. Tài liệu bồi dưỡng chuyên viên cao cấp. 2014.
3. Thông tư số 14/2018/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo về chuẩn nghề nghiệp của hiệu trưởng các trường phổ thông.
4. Peter F. Drucker (2008); “Tinh hoa của quản trị”. NXB Trẻ.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp giảng viên cao cấp hạng 1. 2018.
6. Đặng Xuân Hải và cộng sự (2018); “Năng lực thích ứng của CBQL nhà trường
trong bối cảnh đổi mới GD”. NXB Giáo dục Việt Nam.

You might also like