You are on page 1of 157

Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

ÔN TẬP PHẦN VĂN HỌC


LỚP 12- QUYỂN 1
(CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO)

QUYỂN VỞ CỦA: ....................................................................

LỚP: ...........................................................................................

TRƯỜNG: ..................................................................................

KÌ THI NĂM: ............................................................................

1
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Contents

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (Hồ Chí Minh)................................................................3


TÂY TIẾN (Quang Dũng)............................................................................................9
VIỆT BẮC (Tố Hữu)..................................................................................................31
ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm)............................................................................54
SÓNG (Xuân Quỳnh).................................................................................................77
ĐÀN GHI-TA CỦA LORCA (Thanh Thảo)............................................................93
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ.....................................................107
(NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- Nguyễn Tuân)..........................................................107
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ.................................126
(NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ-Nguyễn Tuân)............................................................126
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)...................136

2
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (Hồ Chí Minh)


I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Hoàn cảnh ra đời, mục đích và đối tượng sáng tác
- Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc
ta thừa cơ vùng lên giành lại chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường
Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Mục đích

- Đối tượng sáng tác:

2. Giá trị của bản tuyên ngôn


- “Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện lịch sử vô giá:
+ Đánh dấu sự chấm dứt, sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ thực dân, phong kiến,
khép lại một thời kì lịch sử tăm tối, nô lệ hàng trăm năm dưới ách đô hộ của thực dân
Pháp, mở ra một kỉ nguyên mới - độc lập tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc, ấm no cho
nhân dân.
+ Khẳng định được vị thế bình đẳng, lập trường chính nghĩa của dân tộc Việt
Nam trên trường quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX;
đồng thời, đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân đế quốc, vạch trần dã tâm quay
trở lại xâm lược cùng bản chất tàn bạo của chúng trước dư luận quốc tế.
- “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực, đặc sắc:
+ Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận với chất văn chương.
+ Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở hệ thống
lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực và văn phong sắc sảo, giàu tính
thẩm mĩ của Hồ Chí Minh.
II. PHÂN TÍCH
* Phần mở đầu: nêu vấn đề và khẳng định chân lí khách quan của vấn đề:
- Người nêu lên vấn đề Nhân quyền, Dân quyền - quyền của con người và quyền
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Người dẫn:

3
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” (Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mĩ).
+ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách
mạng Pháp, 1791).
+ Từ những “lời bất hủ” của hai nước, Người “suy rộng ra” câu ấy có ý nghĩa
là: Tất cả mọi người sinh ra trên trái đất đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được”.
- Ý nghĩa của việc trích dẫn:
+ Hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp - thế kỉ XVIII – là di sản tư tưởng của
nhân loại, đánh dấu buổi bình minh của cuộc cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong
kiến và có công lao nêu lên thành nguyên tắc pháp lí, quyền cơ bản của con người thì
không có lí gì những quyền ấy chỉ thuộc về hai nước.
Vì vậy, Người đã lấy hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại để mở
đầu cho bản Tuyên ngôn của nước Việt Nam, để khẳng định quyền của người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam trước nhân dân thế giới. “Suy rộng ra”, đó là chân lí khách
quan, là lẽ phải, không ai chối cãi được.’
+ Cách viện dẫn của Người mang lại ý nghĩa rất sâu sắc: vừa khôn khéo, vừa
kiên quyết, vừa sáng tạo.
~ Khôn khéo, kiên quyết ở chỗ: Bác đã sử dụng thủ pháp lấy “gậy ông đập lưng
ông”. Người vừa tỏ ra tôn trọng những danh ngôn bất hủ của họ, vừa nhắc nhở họ
đừng phản bội lại tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ “tự do, bác ái” mà họ đã
giương cao trong các cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc họ.
~ Khôn khéo và sáng tạo ở chỗ: Người viện dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế
giới có nghĩa là Người đã đặt ba cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của ba nước
ngang hàng nhau; ba nền độc lập và ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau.
~ Trong bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh cũng vậy, Người đặt quyền của ba
nước là ngang hàng nhau là thể hiện niềm tự tôn, tự hào dân tộc, khẳng định vị thế của
một đất nước đầy kiêu hãnh trước thế giới.
4
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ Sáng tạo ở chỗ: Người đã nâng vấn đề Nhân quyền, Dân quyền lên tầm vóc cao
hơn, rộng hơn. Từ quyền bình đẳng, tự do, hạnh phúc của cá nhân lên thành vấn đề
quyền của các dân tộc: “suy rộng ra... Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do...”
Cụm từ “Suy rộng ra” thật thông minh, chặt chẽ, đanh thép như: “Một phát súng
lệnh khởi đầu cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa thế giới” (Nguyễn Đăng Mạnh), là
đòn đánh phủ đầu vào âm mưu tái chiếm của Pháp và sự can thiệp của các thế lực vào
nền độc lập, tự chủ của Việt Nam; đồng thời, tranh thủ sự đồng tình rộng rãi của dư
luận quốc tế.
Nhà xuất bản Sự thật năm 1967 cũng viết: “Cống hiến lớn nhất của Hồ Chí Minh
là ở chỗ, Người đã nhìn quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như
vậy, tất cả mọi dân tộc đề có quyền quyết định lấy vận mệnh của riêng mình.”
-> Cách viện dẫn bằng những danh ngôn bất hủ, nổi tiếng của hai cường quốc, đó
là hành động táo bạo, là tài nghệ sáng suốt của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra những
lí lẽ ngắn gọn, sắc sảo, “lạt mềm buộc chặt”; những bằng chứng; những chân lí không
ai chối cãi được.
Tất cả kết tinh từ tầm tư tưởng, văn hóa lớn của Hồ Chí Minh nói riêng và của
nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì Nhân quyền, Dân quyền của dân tộc và của
cả nhân loại nói chung. Có thể nói đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn tiêu biểu cho vẻ đẹp
văn chương chính luận mẫu mực.
* Phần nêu cơ sở thực tiễn:
- Người lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với Đông Dương.
+ Người vạch trần bản chất lợi dụng lá cờ “tự do, bác ái” để cướp nước ta, áp
bức đồng bào ta của bọn chúng. Đó là hành động phi nghĩa, phi nhân đạo.
+ Người tố cáo những hành động:
Bóc lột về kinh tế: chúng bóc lột nhân ta đến tận xương tủy, cướp không ruộng
đất, hầm mỏ, nguyên liệu; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng; đặt ra trăm
thứ thuế khóa nặng nề cho nông dân; không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên;
công nhân bị bóc lột tàn nhẫn...
Đàn áp về chính trị: chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút quyền tự do
nào, chúng thi hành những luật pháp dã man, chia để trị, chúng tắm các cuộc khởi
nghĩa của ta trong những bể máu...
5
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Nô dịch về văn hóa: chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, thi hành chính
sách ngu dân, dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm suy nhược giống nòi của ta...
Tội ác chúng gây ra ở mọi mặt đời sống, ở mọi đối tượng nông dân, công nhân,
thợ thủ công. Kết quả là bọn chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp “từ Quảng Trị đến
Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”
+ Người nhắc đi nhắc lại bằng các điệp ngữ và các động từ mạnh chỉ hành động
tội ác khác nhau của chúng: chúng thi hành.., chúng lập ra..., chúng chém giết...,
chúng tắm..., chúng ràng buộc..., chúng dùng..., chúng độc quyền..., chúng đặt ra...,
chúng không cho..., chúng bóc lột...
+ Kết hợp với giọng điệu đanh thép liên hoàn, trùng điệp làm nổi bật lên tội ác
chồng chất của giặc.
=> Phủ nhận thực dân Pháp rêu rao có công khai hóa >< chúng đã thi hành những
chính sách khai thác thuộc địa hết sức dã man
- Tố cáo sự hèn nhát của thực dân Pháp, phủ nhận luận điệu của TD Pháp
cho là có công ”bảo hộ” dân tộc VN
+ Mùa thu năm 1940: Nhật xâm lược nước ta thì Pháp quỳ gối đầu hàng, Pháp đã
bỏ chạy, đầu hàng, kết quả là trong 5 năm, Pháp bán nước ta hai lần cho Nhật. Vậy là
“bảo hộ” hay hèn nhát? Là có công hay có tội?
+ Người khẳng định: chúng ta lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ tay
Pháp. Sự thật là từ năm 1940 ta là thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp. Nhật
đầu hàng Đồng minh, ta nổi dậy giành chính quyền: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo
Đại thoái vị”. Ta đánh đổ chúng dựng lên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Người láy đi láy lại hai chữ “sự thật...”, “sự thật là...”, “sự thật là...”, vì không
có lí lẽ nào có sức thuyết phục cao hơn là lí lẽ của sự thật. Sự thật còn là những bằng
chứng xác đáng không ai có thể bác bỏ được.
- Bản Tuyên ngôn ca ngợi cuộc đấu tranh chính nghĩa và tinh thần nhân đạo
của dân tộc ta. Người đưa ra những mặt đối lập làm nổi bật bản chất giữa ta và địch:
+ Khi phát xít Nhật vào Đông Dương thì Pháp đầu hàng, trong khi đó thì ta tiến
hành kháng Nhật.
+ Trong khi thực dân Pháp đầu hàng Nhật và không hợp tác với ta mà ngược lại
còn khủng bố, giết chết số đông tù chính trị của ta ở Yên Bái và Cao Bằng.

6
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Khi người Pháp thua chạy, ta đã “giúp, cứu, bảo vệ” tính mạng và tài sản cho
họ. Như vậy thì ai đã bảo hộ cho ai? Những hành động ấy chẳng phải đã chứng minh
bản chất vô nhân đạo, hèn nhát của chúng và tinh thần chính nghĩa, thái độ khoan
hồng, nhân đạo của ta?
=> Với cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, Người đã
vạch rõ tội ác bản chất tàn bạo, hèn nhát, huênh hoang của giặc; đồng thời ca ngợi
tinh thần chính nghĩa, anh dũng, nhân đạo của nhân dân ta.
=> Phủ nhận lời rêu rao Pháp có công bảo hộ, đứng về phía phe đồng minh...-
Pháp khoong hề bảo hộ, đã phản bội đồng minh...
- Tuyên bố kết thúc chiến tranh, thoát li mọi quan hệ với thực dân Pháp,
ràng buộc dư luận:
- Người đã sử dụng câu văn chỉ có chín chữ mà tóm lược đầy đủ các sự kiện:
“Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Người đã dựng lại cả một giai đoạn
lịch sử đầy biến động và vô cùng oanh liệt của dân tộc, đã đánh đổ các xiềng xích thực
dân gần một trăm năm, đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như một tất yếu lịch sử. Đó cũng chính là lời tuyên bố
khai sinh ra nước Việt Nam độc lập.
- Người còn tuyên bố thoát li, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi đặc quyền của Pháp trên
đất nước Việt Nam.
- Tất cả các sự kiện trên là “sự thật” nên Người đã ràng buộc các nước Đồng
minh phải công nhận nền độc lập của Việt Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng
minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng
và Cựu Kim Sơn”, “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt
Nam”. Đó là cách nói “lạt mềm buộc chặt”, đánh vào lòng tự trọng của họ và buộc họ
phảo ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
- Người khẳng định quyền độc lập của một dân tộc đã phải đổi bằng xương máu
của mình “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
* Lời tuyên ngôn độc lập
- Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên)
- Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng
xương máu và lòng yêu nước).
7
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> Lời kết như sấm truyền cảnh báo cho kẻ thù từ ngàn xưa vọng về tinh thần
bất khả xâm phạm của dân tộc: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Nhữ đẳng hành
khang thủ bại hư”
* Nhận xét chung:
 Tuyên ngôn độc lập là áng văn chính luận đặc sắc, mẫu mực; lập luận chặt
chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, giọng văn đầy cảm xúc…
có sức thuyết phục, lay động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam:
- Khi luận tội kẻ thù, Người thể hiện thái độ căm phẫn “chúng lập ra ... chúng
thẳng tay...”
- Người xót thương khi nói đến nỗi đau của dân tộc “Chúng chém giết ... tắm
các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu... nòi giống ta suy nhược... dân ta
nghèo, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều...”.
- Tình cảm tha thiết, mãnh liệt; thái độ kiên quyết khi Người nói đến quyền
được hưởng độc lập, tự do của dân tộc cũng như quyết tâm đến cùng bảo vệ nền độc
lập ấy: “Sự thật là... sự thật là... chúng tôi tin rằng... quyết không thể... một dân tộc...
một dân tộc, dân tộc đó...”. Điệp ngữ được nhấn đi nhấn lại toát lên khát vọng, ý chí
mãnh liệt của Người cũng như của cả dân tộc Việt Nam.
- Giọng điệu khi nồng nàn, tha thiết, khi xót xa thương cảm, khi hừng hực căm
thù, khi hào sảng khích lệ. Tất cả tạo nên “áng hùng văn” của thời đại mới - thời đại
Hồ Chí Minh.
“Tuyên ngôn độc lập” là một kiệt tác bằng cả tài hoa, tâm huyết của Hồ Chí
Minh, Người đã thể hiện khí phách của cả dân tộc trước trường quốc tế. Tác phẩm
được đánh giá là văn bản chính luận mẫu mực bởi kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép,
hùng hồn, thấu tình đạt lí. Câu văn gọn gàng, trong sáng một cách kì lạ, có sức lay
động hàng triệu trái tim người Việt Nam và cả thế giới. “Tuyên ngôn độc lập” rất
xứng đáng là áng văn muôn đời.

8
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

TÂY TIẾN (Quang Dũng)


I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn…
nhưng hơn hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà
thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng, tài hoa,
lãng mạn những cũng rất hồn hậu, tinh tế.
2. Tác phẩm:
* Hoàn cảnh sáng tác
- Đoàn quân Tây Tiến:
+ Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội
Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ của Việt Nam.
+ Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn
và hiểm trở của biên giới Việt – Lào gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền
tây Thanh Hóa và Sầm Nứa.
+ Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập
trung đoàn 52.
- Chiến sỹ Tây Tiến:
+ Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang
đậm nét hào hoa lãng mạn.
+ Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội
gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức
gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy nhiên họ
vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”
- Quang Dũng (vị trí tác giả trong hoàn cảnh):
+ Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến. Tới cuối
1948, ông được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu
Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ
“Nhớ Tây Tiến”.
9
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành
“Tây Tiến”
Hoàn cảnh sáng tác cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và
mảnh đất miền Tây đầy kỷ niệm, nỗi nhớ đã trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài
thơ, đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hòa hoa, hào hùng của chiến sỹ Tây
Tiến, hiểu được bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn – những yếu tố làm nên
chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ.
* Bố cục
+ Đoạn 1: Nỗi nhớ về chặng đường hành quân, qua đó khắc họa bức tranh Tây
Bắc hùng vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất đỗi thơ mộng và trữ tình
+ Đoạn 2: Kỉ niệm về một đêm liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước Tây
Bắc
+ Đoạn 3: Bức chân dung người lính Tây Tiến
+ Khổ cuối: Lời thề, hẹn ước không quên Tây Tiến.
=> Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện
tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là
một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.
II. PHÂN TÍCH:
* Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, dòng hồi ức của tác giả về thiên nhiên, núi rừng
miền Tây Bắc, về chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Với bút pháp lãng
mạn, Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ dữ dội lại
vừa thơ mộng, lãng mạn:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
- Hai câu thơ đầu là dòng cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ. Nhà thơ trực tiếp
bộc lộ nỗi nhớ của mình về sông Mã, về Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc….
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

10
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Hình ảnh sông Mã là hình ảnh xuất hiện đầu tiên trong tâm hồn nhà thơ khi nhớ
về TT.
Bởi Sông Mã là dòng sông quen thuộc với những bước chân hành quân
của người lính Tây Tiến. Nó là địa bàn hoạt động, là địa bàn chiến đấu,
cũng là một chứng nhân đã chứng kiến biết bao những buồn vui, những
gian khổ của người lính. Đối với QD - người lính ra đi từ Hà Nội, con
người vốn hào hoa, lãng mạn, dòng sông Mã lại càng trở thành người
bạn trong những năm tháng không thể phai mờ.
+ Từ hình ảnh dòng sông, nhà thơ bộc lộ một nỗi nhớ đậm sâu, da diết, mãnh liệt
về Tây Tiến, một nỗi nhớ dường như không thể kìm nén được đã phải bật thốt lên
thành tiếng gọi: “Tây Tiến ơi!”.
Tiếng gọi thiết tha ấy là nỗi nhớ cháy bỏng trong tâm hồn, là khát khao,
tha thiết quay về với quá khứ, với đồng đội thân thiết.
+ Nhớ về Tây Tiến, như một lẽ tất yếu, là nhớ rừng núi-
không gian, địa bàn hoạt động quen thuộc, những chặng đường hành
quân mà những người lính Tây tiến đã trải qua với biết bao niềm vui, nỗi
buồn.
+ Để thể hiện nỗi nhớ đằm sâu trong tâm hồn của thi nhân, trong câu thơ “Nhớ về
rừng núi nhớ chơi vơi”, tác giả đã sử dụng điệp từ “nhớ”
nhằm khẳng định nỗi nhớ ăm ắp trào dâng. Nỗi nhớ ấy từ trong lòng
người lan tỏa, trải dài ra cả một không gian rộng lớn. Bên cạnh đó, nhà
thơ còn có một sự sáng tạo, sự kết hợp từ vô cùng tinh tế: “nhớ chơi
vơi”- “chơi vơi” là một từ láy tượng hình thường dùng để miêu tả những
sự vật hữu hình, đang lơ lửng giữa không trung. Trong khi đó, nhớ là
trạng thái vô hình trong lòng người, không thể nhìn thấy mà chỉ có thể
cảm nhận; “nhớ chơi vơi”, là một nỗi nhớ vừa vô hình vừa hữu hình, có
lúc nhòe mờ không thể nắm bắt được, có lúc lại hiện lên thành hình,
thành khối. Một nỗi nhớ có dáng có hình, cứ bồng bềnh, chênh chao, vừa
thực, vừa hư. Ca dao cũng từng có câu:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải, nhớ chăn bạn nằm.”

11
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Hơn thế, từ “chơi vơi” còn rất phù hợp để diễn tả nỗi nhớ của một người
đang ngồi ở đồng bằng hướng về một vùng rừng núi hùng vĩ, với đèo cao,
vực thẳm ẩn hiện giữa sương mờ. Từ đồng bằng hướng về vùng đồi núi
xa xôi, nỗi nhớ lại càng bồng bềnh, hư ảo.
- Sau hai câu thơ mở đầu, những kỉ niệm về Tây Tiến, về rừng núi cứ lần
lượt hiện lên trong kí ức của nhà thơ.
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
+ Bằng một vài chi tiết giàu sức gợi, tác giả đã vẽ nên bức tranh miền Tây Bắc
có những đặc điểm riêng biệt với sức hút lạ kì:
~ Ở Sài Khao là cảnh sương núi dày đặc như bao phủ, vây bủa, nhấn chìm cả
đoàn binh mỏi mệt. Động từ “lấp” là động từ mạnh, nó tô đậm sự dữ dội đến khắc
nghiệt của khí hậu miền Tây.
~ Còn ở Mường Lát là cảnh “hoa về trong đêm hơi” – hình ảnh thơ gợi nhiều liên
tưởng, đó là mùi hương thơm nhè nhẹ của những bông hoa rừng, hay là những bông
hoa rừng ẩn hiện chập chờn trong làn sương mờ ảo…
=> Hành quân trong đêm, trong làn sương rừng dày đặc, nhưng đó cũng
là một cơ hội để các chiến sĩ thưởng thức hương hoa thoang thoảng, được
ngắm nhìn nhưng bông hoa thoắt ẩn thoắt hiện. Vẻ đẹp thơ mộng đó có
thể xua tan biết bao mệt mỏi, bởi họ là những người lính có tâm hồn lãng
mạn, bay bổng nay lại bắt gặp được cảnh đẹp như mơ, vẻ đẹp đậm màu
sắc phương xa xứ lạ mà những người con của Hà Nội chưa một lần được
thưởng thức.
- Cảnh sắc núi rừng miền Tây còn được hiện lên hết sức chân thực, nhưng
cũng rất diệu kì, tuyệt đẹp trong khổ thơ tiếp, khổ thơ cũng thể hiện nét bút rất đỗi
tài hoa của Quang Dũng, nó chứng tỏ thơ ông vừa giàu chất nhạc, chất thơ, vừa giàu
chất họa:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”

12
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Ba câu thơ đầu là những nét bút rẳn rỏi, cứng cỏi, mạnh mẽ, khắc họa bức
tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây vô cùng hùng vĩ với cảnh đèo dốc cheo leo.
~ Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm
thẳm”, “heo hút”
làm nổi bật lên một con đường hành quân quanh co, gập ghềnh, chênh
vênh, thăm thẳm tới mức lúc đi lên thì như đi lên tận trời xanh, chạm
được cả vào mây trời; lúc đi xuống thì như xuống tận cùng của vực sâu.
~ Tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật đối: “ngàn thước lên cao” với
“ngàn thước xuống” hay “dốc lên” với “dốc thăm thẳm”,
khiến câu thơ như bị bẻ đôi ra, bức tranh thiên nhiên hiện lên với những
sườn dốc, sườn núi dựng đứng.
=> Quang Dũng đã tái hiện được những chặng đường hành quân vô cùng
vất vả của người lính. Nó chứa đựng biết bao sự nguy hiểm, có khi chỉ sơ
sẩy một chút thôi là có thể mất mạng. Người đọc cũng cảm nhận được sự
vất vả đến mức chỉ cần đọc câu thơ lên cũng như nghe thấy hơi thở nặng
nhọc của họ. Trong những câu thơ này Quang Dũng đã sử dụng chủ yếu
thanh trắc, khi đọc lên thấy khỏe khoắn, nhưng cũng thấy được sự khó
khăn, mệt nhọc của những người lính trên đường hành quân.
Ngắm nhìn bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội này của miền TB, ta lại
nhớ về những câu thơ trong “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm):
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Hay những hình ảnh rùng rợn hoang dã trong thơ Khương Hữu Dụng:
Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm thác đổ Không Tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim.
~ Nhưng bằng ý chí, bản lĩnh, bằng tinh thần lạc quan của mình,
những người lính Tây Tiến đã vượt qua những chặng đường hành quân
vô cùng vất vả ấy. “Đoàn quân” có thể “mỏi” về thể xác nhưng tinh thần
của họ dường như không hề “mỏi”. Trước khó khăn, gian khổ, thái độ
của người lính vẫn vui tươi, lạc quan, yêu đời, tinh thần tràn đầy khí
13
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

phách, hình ảnh thơ: “súng ngửi trời” – từ “ngửi” đặt trong nghệ thuật
nhân hóa tạo điểm nhấn cho câu thơ, nó cho thấy điểm đứng của người
lính là ở trên đỉnh đèo, đỉnh dốc và mũi súng đã có thể chạm vào mây
xanh. Đồng thời, động từ “ngửi” thể hiện nét hóm hỉnh, tươi vui, sự
ngang tàng, ngạo nghễ của người lính. Câu thơ cũng làm hiện lên hình
ảnh những người lính sừng sững, hiên ngang, uy nghi lẫm liệt giữa núi
rừng, họ đã chinh phục được những khó khăn, những đỉnh cao của đất
trời.
Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi
tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh
thắng!”. Nó làm ta liên tưởng đến người lính trong thơ Tố Hữu:
Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Hình ảnh này cũng gợi nhắc chúng ta nhớ đến câu thơ của Không Lộ
Thiền Sư:
“Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.”
Hai câu thơ làm hiện lên hình ảnh của người xưa một mình đối diện với
thiên nhiên, trước vũ trụ bao la rộng lớn mà con người vẫn khát khao ghi
lại dấu ấn riêng cho mình. Những người lính Tây Tiến cũng vậy, họ đã
khẳng định được tầm vóc lớn lao, khí thế hiên ngang ngạo ngễ của mình
trước thiên nhiên trời đất, mũi súng của họ đã “ngửi” được trời xanh!
+ Sau những câu thơ miêu tả con đường đèo dốc cheo leo, gập ghềnh, câu thơ
thứ tư Quang Dũng đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp thơ mộng, thể hiện tâm hồn
lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp gợi tả sự êm dịu tươi
mát của tâm hồn những người lính trẻ trong gian khổ vẫn lạc quan yêu
đời. Khi đọc lên, ta thấy nhẹ bẫng, nó giúp ta hiểu hơn về tâm hồn, niềm
vui phơi phới của người lính. Dường như cảnh vật trước mặt chính là một
14
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

phần thưởng cho họ. Khi vượt qua những con đường đèo dốc cheo leo,
người lính Tây Tiến lại có thêm những cơ hội để ngắm nhìn thiên nhiên
miền Tây Bắc huyền ảo, mơ hồ: xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng
là những nếp nhà sàn, những bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung
lũng, lúc ẩn lúc hiện- đây là một nét đẹp đặc trưng của miền Tây Bắc,
miền đất xứ lạ phương xa đối với những người lính Tấy Tiến. Nơi ấy,
những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây
Tiến nhưng dưới ngòi bút cuả Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình
hơn.
- Một trong những đặc điểm nổi bật của hồn thơ Quang Dũng là chất bi tráng.
Ông không hề tránh né những đau thương, mất mát mà sẵn sàng nói đến những
hiện thực tàn khốc của chiến tranh (chiến tranh nào phải trò đùa!!!). Những người
lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian nan đã có phút giây gục ngã – chỉ có
điều qua cách nói của nhà thơ ta thấy trong bao đau thương, mất mát ấy người lính
hiện lên vẫn hào hùng, bi tráng:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
+ Hai chữ “dãi dầu” đã thể hiện sự khó khăn, vất vả,
những người lính đã phải chịu “dầm sương dãi nắng”, “gió bụi pha
xương máu/Đói rét bao lần xé thịt da”, trên những cung đường đèo dốc
cheo leo, hành quân bất kể ngày đêm. Những khó khăn ấy càng ngày
càng chất chồng khi những người lính Tây Tiến vốn là những học sinh,
sinh viên vừa rời ghế nhà trường, là tầng lớp trí thức của Hà Nội chưa
quen với sương gió.
+ Do vậy, họ đã có những hy sinh, những mất mát trên chính những chặng
đường hành quân ấy. Những cụm từ “không bước nữa”, “gục lên súng mũ”, “bỏ
quên đời” , ... có nhiều cách lý giải.
~ Có người cho rằng cụm từ này là những từ ngữ dùng để miêu tả, diễn
tả những phút giây vì mỏi mệt mà những người lính đang ngủ thiếp đi,
đang tranh thủ nghỉ ngơi ngay trên đường hành quân. Nếu hiểu như vậy
cũng đủ để thấy nỗi vất vả của người lính Tây Tiến, giấc ngủ có mấy khi
được trọn vẹn, hay chỉ vừa chợp mắt đã giật mình tỉnh giấc, phải chăng vì
15
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

tiếng bom đạn quân thù, vì mối lo dẹp loạn, giữ nước vẫn canh cánh trong
lòng chưa thể nguôi ngoai.
~ Nhưng nếu xét kĩ hơn thì có lẽ đây chính là những câu thơ nói trực
tiếp đến sự hy sinh của người lính trên chặng đường hành quân. QD
không né tránh sự thật mà sử dụng cách nói giảm, nói tránh để tránh đi sự
hy sinh, giảm nhẹ sự mất mát, nỗi đau thương trong lòng bạn đọc cũng
như trong lòng mình, qua đó nó còn thể hiện tư thế của những người lính
trong lúc hy sinh, sự ngạo nghễ, coi thường cái chết, đối mặt với cái chết
bằng tâm thế, thái độ vô cùng thanh thản: với họ, cái chết chẳng qua chỉ
là “không bước nữa”, chỉ giống như một giấc ngủ dài gục vội lên chiếc
mũ sau chặng đường hành quân vất vả, chỉ là tạm bỏ quên cuộc đời ở
phía sau lưng mà thôi.
=> Chính thái độ này khiến hình ảnh người lính Tây Tiến mang dáng dấp
của những tráng sĩ thuở xưa, khi xông pha ra xa trường, coi cái chết nhẹ
“tựa hồng mao”
=> Những câu thơ trên đã làm cho bài thơ, cũng như chân dung của
người lính Tây Tiến mang nét đẹp riêng độc đáo, vừa chân thực vừa lãng
mạn, không thể trộn lẫn. Đây cũng chính là lí tưởng sống cao đẹp, sẵn
sàng xả thân vì đất nước của cả một thời đại, một thế hệ anh hùng.
- Đối với Quang Dũng, núi rừng miền Tây không chỉ đẹp ở sự hùng vĩ, dữ
dội, thơ mộng mà nó còn hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, bí hiểm vô cùng. Những
câu thơ tiếp theo càng gợi lên sự vất vả của người lính giữa bốn bề hiểm nguy nhưng
vẫn ánh lên sự dũng cảm, kiên cường vì tổ quốc.
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
+ Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông
là những nơi xa lạ với bạn đọc, nhưng nhà thơ đã thật tài tình khi đưa tên
những địa danh này vào từng câu thơ của mình. Mới chỉ nghe tên thôi mà
ta đã cảm thấy xa xôi, bí hiểm, nhất là cái tên Mường Hịch: đọc lên thấy
sự nặng nề, ghê rợn,…
+ Ở miền Tây xa xôi ấy, tiếng thác đổ

16
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

gầm thét, gồng mình gào lên dữ dội như để chứng tỏ cái oai linh của rừng
thẳm. Tiếng nước từ thác dội xuống như sẵn sàng cuốn sạch hết mọi thứ
trên đường đi của nó.
+ Ở nơi ấy, khi người lính dừng chân hạ trại, trong đêm khuya tĩnh mịch có thể
nghe tiếng bước chân của những loài thú dữ đang rình rập,
đe dọa xung quanh khiến khung cảnh núi rừng càng trở nên hoang dã,
hiểm nguy. Đó chính là một khó khăn, nguy hiểm nữa mà người lính Tây
Tiến phải đối mặt trên bước đường hành quân.
+ Điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm”
diễn tả nỗi nguy hiểm luôn luôn đe dọa, rình rập người lính bất cứ khi
nào. Sự nguy hiểm ấy không phải chỉ đến trong chốc lát, không phải
trong một ngày mà nó diễn ra hằng ngày, cả ngày lẫn đêm, như quy luật
của tự nhiên.
+ Nhưng trước những hiểm nguy đó dường như họ không hề nao núng, sợ sệt.
Với họ, tiếng thác gầm, cọp rống chẳng qua là để “trêu người”. Họ tham
gia kháng chiến với duy nhất một mục đích là tiêu diệt kẻ thù, khi giặc
còn hoành hành thì họ còn xông pha, chẳng có khó khăn, hiểm nguy nào
có thể làm họ chùn bước. Qua lời thơ, chúng ta thấy được sự tếu táo, tinh
thần lạc quan, thái độ ngạo nghễ, coi thường hiểm nguy đầy chất lính.
- Có lẽ trong kí ức nhà thơ, trong nỗi nhớ nhung da diết, không chỉ hiện hữu
cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc, không chỉ là chặng đường hành quân gian nan
mà tâm hồn nhà thơ khi ấy nhớ về những năm tháng không thể nào quên với
những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
=> Đoạn thơ được mở đầu bằng nỗi nhớ và cũng kết thúc bằng nỗi lòng da diết
nhớ thương.
+ Nếu mở đầu bài thơ, tác gỉa viết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” thì đến đây
nhà thơ bộc bạch “Nhớ ôi Tây Tiến”.
Hai tiếng “nhớ ôi” vừa diễn tả được nỗi nhớ nhung mãnh liệt, không thể
kìm nén, phải bật thốt lên thành tiếng gọi. Tiếng gọi ấy không phải để trải
lòng mà để thể hiện nỗi nhớ sau khi đã trải rộng dài theo không gian thì
17
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

bây giờ nó được đo bằng chiều sâu của tâm hồn, chan chứa biết bao tình
yêu thương.
+ Nỗi nhớ ấy gắn với kỉ niệm tưởng chừng rất bình thường, giản dị nhưng lại
chan chứa biết bao tình cảm, tình quân dân.
Đây là khoảnh khắc mà người lính dừng chân hạ trại ở bản làng nào đó,
được dân làng, nhất là những thiếu nữ vùng Tây Bắc đón tiếp nồng hậu
bằng những nồi cơm đang bốc khói tỏa hương.
+ Các cụm từ “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi”
là những hình ảnh giàu chất tạo hình. Người đọc có thể hình dung ra
trước mắt mình những làn khói ấm nồng đang lan tỏa, mùi hương thơm
của xôi nếp đầu mùa cứ vương vấn, quấn quyện, thoang thoảng đâu đây,
nó gọi mời, quyến rũ vô cùng.
Nhớ mùi hương “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ
tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào thân yêu. Chế Lan Viên
cũng từng viết về hương vị của tình quân dân ấy trong bài thơ “Tiếng hát
con tàu”:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương
Lính Tây Tiến nay đã “xa rồi” nhưng có bao giờ quên “Bữa xôi đầu còn
tỏa nhớ mùi hương” ấy?
+ Đặc biệt là hai chữ “mùa em”,
nó vừa có cái chân chất, giản dị của tình người, tình quân dân, nhưng
cũng có cái tình tứ, cái lãng mạn của người lính Tây Tiến, của những
chàng trai hào hoa ra đi từ Thăng Long. Phải chăng đó là sự xúc động
trước nét đẹp từ tâm hồn thấm đượm tình quân dân nồng hậu. Giữa những
tháng ngày gian khổ, thiếu thốn, gặp được những người con trẻ tuổi, đáng
mến như vậy, ai mà không rung động cho được?
 Kết thúc đoạn thơ thứ nhất, với nỗi nhớ da diết khôn nguôi, Quang Dũng đã
làm sống dậy cả một vùng thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi trữ
tình, thơ mộng. Vùng thiên nhiên ấy đã gắn liền với những kỉ niệm của một thời chinh
18
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

chiến tuy gian khổ nhưng chan chứa yêu thương, chan chứa nghĩa tình. Qua đoạn thơ,
nhà thơ cũng cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến, đó là những con
người giàu ý chí, giàu bản lĩnh, coi thường, bất chấp, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ
nhưng đó cũng là những con người trẻ tuổi với tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Nhà thơ
bộc lộ tài năng nghệ thuật của mình qua cách kết hợp cảm hứng lãng mạn và chất hiện
thực, kết hợp chất nhạc với chất họa, làm cho người đọc càng trở nên ấn tượng, thích
thú.
* Với QD, nhớ về Tây Tiến, không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, mà nơi đây còn
lưu giữ bao kỉ niệm thắm đượm tình quân dân.
- Những người lính Tây Tiến, trên đường hành quân, ngoài những vất vả,
gian lao, có lúc họ dừng chân hạ trại ở một bản làng nào đó, tổ chức đêm liên
hoan văn nghệ có sự tham gia của đồng bào địa phương:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ăm ắp tiếng cười, rất sôi động, rực rỡ được
mở ra với hai tiếng “bừng lên”.
Đây là động từ mạnh, trước hết gợi lên nguồn ánh sáng mạnh, có sức lan
tỏa rộng, đồng thời gợi lên nói, tiếng cười, tiếng khèn, điệu hát tưng bừng
rộn rã. Nguồn ánh sáng đó đã xua tan đi màn đêm đen tối nơi núi rừng,
tiếng nói cười như xua tan sự mệt mỏi sau những ngày tháng hành quân.
+ Không gian tràn ngập ánh sáng như trong đêm hội hoa đăng rực rỡ sắc màu, với
người lính Tây Tiến, quang cảnh ấy chẳng khác nào một “hội đuốc hoa”, như một lễ
cưới lớn.
Hình ảnh những ngọn đuốc sáng rực rỡ khi đốt lửa trại giống như những
cây nến được thắp lên lung linh trong phòng cưới – “đuốc hoa” là cây nến
được thắp lên trong đêm động phòng hoa chúc của cặp vợ chồng mới
cưới. Nhìn những ngọn đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan văn nghệ
mà như những ngọn đuốc hoa, đêm liên hoan văn nghệ trong con mắt của
người lính TT đã trở thành một lễ cưới lớn. Cái nhìn ấy là nét dí dỏm, nét
tinh nghịch, cái nhìn đa tình, lãng mạn của người lính Tây Tiến. Họ quả
19
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

là những con người giàu khát vọng hạnh phúc, giàu khát vọng yêu
thương.
+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấy càng thêm phần sôi động, hấp dẫn với người
lính khi có sự xuất hiện của những người con gái xinh đẹp miền Tây Bắc.
~ Họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho ngày hội này “tự bao giờ”. Sự xuất hiện
ấy làm cho người lính vô cùng ngỡ ngàng, ngạc nhiên, sung sướng đến
hạnh phúc. Từ “kìa” để thể hiện sự bất ngờ đến khó tả, sự háo hức, say
đắm trước vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của những người con gái.
~ Hai chữ “xiêm áo” gợi lên hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc khi
xuất hiện chẳng khác nào những nàng tiên, những nàng công chúa,
~ nhất là khi họ say sưa trong điệu kèn, tiếng nhạc, với những vũ điệu
vừa hoang dã, vừa tràn đầy sức sống: “Khèn lên man điệu nàng e ấp”.
=> Những từ “man điệu”, “e ấp” gợi hình ảnh những người con gái có
những vẻ hấp dẫn, quyến rũ độc đáo: họ vừa lộng lẫy, vừa mềm mại,
duyên dáng, vừa e ấp, thẹn thùng, sự kín đáo, có chút ngại ngùng nhưng
cũng rất tình tứ, đấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt.
=> Chỉ bằng một vài nét phác họa, Quang Dũng đã làm nổi bật lên hình ảnh một
đêm liên hoan văn nghệ rực rỡ ánh sáng, rộn rã âm thanh, chan chứa tình người.
+ Được sống trong đêm liên hoan văn nghệ ấy, tâm hồn người lính càng như
được xây đắp bằng thơ, bằng nhạc, bằng họa: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Câu thơ đã diễn tả được cảm xúc sung sướng, say đắm, ngất ngây của
những người lính Tây Tiến khi được thưởng thức vẻ đẹp mang đậm màu
sắc phương xa xứ lạ của Tây Bắc.
=> Những khoảnh khắc đó làm cho người lính thêm trẻ trung, vui tươi, như tiếp
thêm sức mạnh để họ vượt qua mọi gian nan phía trước, nó cũng là sức mạnh đã đẩy
chiến tranh vào một góc khuất, để niềm vui, sự yên bình được lên ngôi.
* Nếu như khổ thơ trước giống như bức tranh sơn mài rực rỡ thì khổ thơ
tiếp theo, với khung cảnh sông nước miền tây thơ mộng hiện lên trong kí ức của
nhà thơ như bức tranh lụa mượt mà:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
20
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”


- Bức tranh sông nước hiện lên trong vẻ bình yên của buổi chiều với làn sương
giăng mắc, huyền ảo, lung linh, mặt nước dòng sông trải rộng mênh mang.
Chỉ với hai tiếng “chiều sương”, tác giả đã gợi ra được cả một miền
không gian bồng bềnh, nửa thực nửa hư, cứ như ở trong cõi mộng.
- Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt những câu hỏi tu từ “có nhớ”,“có thấy”
để thể hiện nỗi nhớ da diết, gợi lên những kí ức đậm sâu trong lòng mình.
Những câu thơ này nhằm khơi gợi lên bức tranh cảnh vật, con người trên
sông nước miền Tây, ẩn đằng sau đó là là kỉ niệm một thời chinh chiến.
- Hai chữ “hồn lau”
gợi hình ảnh một dòng sông hoang vắng, hai bên bờ lau lách xào xạc.
Trong kí ức của QD, cảnh vật miền Tây Bắc dường như cũng mang linh
hồn khiến con người tha thiết nhớ thương.
=> Đây cũng là tình cảm của bất kì ai đối với những mảnh đất, những
miền quê mà mình đã từng đi qua.
Trong thơ, “hồn lau” dường như luôn mang một tâm tình, một suy ngẫm,
một nỗi buồn man mác nhớ thương:
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng”
(Lau mùa thu- Chế Lan Viên)
- Quang Dũng nhớ về miền quê ấy không chỉ là nhớ về cỏ cây, sông nước, hoa lá,
bến bờ mà còn nhớ “dáng người trên độc mộc”.
chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu
hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc
trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp
riêng của con người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm
tháng gian khổ mà hào hùng? “dáng người” ở đây có thể là dáng hình của
người Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối
mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào,
dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà
21
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo.
“Dáng người” ấy hình như cứ trở đi trở lại giữa những vần thơ được
Quang Dũng gửi tình:

“Bến vắng chiều xuân hoa gạo rơi


Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi
Đò ngang một chuyến qua mưa bui
Nhớ mãi người đi… bóng dáng người”
+ Câu hỏi tu từ với phép điệp “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ
niệm của một thời đã xa
+ Trên mặt nước dòng sông còn có hình ảnh một bông hoa đang đong đưa trôi
theo dòng nước lũ.
Dòng sông cuồn cuộn chảy, bông hoa vô cùng nhỏ bé nhưng vẫn có nét
duyên dáng, hài hòa với dòng sông, bông hoa như đang uốn mình, cố tình
đong đưa theo dòng nước. Tác giả sử dụng từ “đong đưa” chứ không
dùng từ “đung đưa” để miêu tả. Từ “đung đưa” chỉ đơn thuần là miêu tả
cảnh vật trên từng con sóng, là sự chuyển động mà ta nhìn thấy bằng mắt
thường, nhưng “đong đưa” chỉ cái chuyển động nhẹ nhàng mà dường
như rất tình tứ, không chỉ được cảm nhận bằng mắt thường mà còn được
cảm nhận bằng tâm hồn thi sĩ, nhà thơ diễn tả được tình ý thầm kín của
cảnh vật, cánh hoa rừng trên sóng nước như đang có chút lả lơi, gọi mời.
Cảnh vật vì thế mà cũng trở nên có hồn và sinh động hơn.
(MR- BL) Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết /đắt/ nhất mà
Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ
của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ
mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong
đưa” khi đang “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại
rất hợp lý khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt
đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng
mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế?
=> Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần
tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi nhớ
niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên

22
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

nhiên và con người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của
chiều sương cao nguyên đến như vậy!
=> Nếu ở đoạn thơ mở đầu, thiên nhiên miền Tây chủ yếu được khắc họa bởi nét
dữ dội, hiểm trở thì ở đoạn thơ này, Quang Dũng tập trung miêu tả nét trữ tình của con
người hòa quyện với thiên nhiên. Nếu ở khổ thơ trước, tác giả viết lên khúc nhạc rộn
rã, sôi động thì ở khổ thơ này là khúc nhạc êm đềm, du dương được cất lên bằng tâm
hồn say đắm, thiết tha.
=> thơ QD giàu chất nhạc, chất họa
* Quang Dũng không chỉ gợi mở bức chân dung người lính gián tiếp qua bức
tranh thiên nhiên, sau chặng đường hành quân, qua những kỉ niệm về một đêm
liên hoan văn nghệ, đến đoạn thơ thứ ba, nhà thơ trực tiếp khắc họa một cách rõ
nét, chân thực về bức chân dung người lính Tây Tiến từ diện mạo đến vẻ đẹp tâm
hồn, lí tưởng và cả sự hy sinh cao đẹp của họ.
- Vẻ đẹp ngoại hình:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Với hai chữ “đoàn binh”, tác giả gợi mở bức chân dung một tập thể, một đoàn
quân đông đảo, hùng hậu, đầy sức mạnh
=> Dưới ngòi bút của Quang Dũng, dường như lần đầu tiên trong văn học
Việt Nam nói chung cũng như trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói
riêng, tác giả đã miêu tả một cách đầy ấn tượng bức chân dung tập thể,
một cụm tượng đài về người lính.
- Đoàn binh ấy hiện lên với diện mạo thật khác thường, có phần kì dị: đầu
“không mọc tóc”, da “xanh màu lá”.
+ Nhà thơ đã sử dụng bút pháp tả thực, ông không hề có ý định né tránh
hiện thực gian khổ trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của người lính, cũng như của dân tộc ta
lúc đó thiếu thốn đủ đường: thiếu lương thực, thực phẩm; chặng đường
hành quân thì có biết bao những khó khăn, nguy hiểm đang rình rập, ốm
đau, bệnh tật, do sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của địa bàn hành quân
nơi “rừng thiêng nước độc”. Đặc biệt, hậu quả rụng tóc, làn da xanh xao,
vàng vọt ấy còn là do những cơn sốt rét rừng không ai lường trước được.
23
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> người lính TT: tóc rụng, làn da ngả màu xanh tái như lá rừng, vẻ bên
ngoài của họ thật tiều tụy.
=> Đây cũng là nét gian khổ của những người lính trong thời kháng
chiến chống Pháp:
. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt rung người vầng trán ướt mồ hôi (Chính Hữu)
. Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu đến thế (Tố Hữu)
+ Nhưng có điều khác là, cảm hứng lãng mạn trong ngòi bút của Quang Dũng
đã biến vẻ tiều tụy ấy thành sức mạnh nội tại, phi thường. Người lính Tây Tiến tuy ốm
mà không yếu, tuy thể trạng mệt mỏi nhưng ý chí không bao giờ lung lay, da dẻ xanh
xao nhưng vẫn toát lên sức mạnh của chúa sơn lâm,
“không mọc tóc”, chữ “không” là từ phủ định đã thể hiện được sự chủ
động trước khó khăn, gian khổ với thái độ coi thường, thậm chí thể hiện
tư thế ngạo nghễ, hiên ngang của người lính. Ba tiếng“dữ oai hùm” khiến
hình ảnh của người lính trở nên uy nghi, lẫm liệt
=> Với khí phách ấy, đoàn binh Tây Tiến đã khiến giặc Pháp phải kinh
hồn bạt vía;
+ Hình tượng người lính hiện lên đầy ấn tượng không chỉ bởi diện mạo khác
thường mà ở họ còn có đời sống tâm hồn vô cùng phong phú, họ là những người
lãng mạn, mộng mơ, giàu khát vọng:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
~ là người có khát vọng:
Hai tiếng “mắt trừng” - như gợi hình ảnh đôi mắt có cả sự giận dữ,
lòng căm thù và cả khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn người chiến sĩ.
“Mộng” ở đây là khát vọng giết giặc lập công để giành lại độc lập dân
tộc.
~ ”qua biên giới” - Có thời điểm địa bàn hoạt động cách mạng của
người lính Tây Tiến là bên kia đất Thượng Lào, trong tâm trí của họ lúc
24
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

nào cũng cháy bỏng thù nhà, nợ nước, nên lúc nào hướng ánh mắt,
niềm khát vọng của mình “qua biên giới”, hướng về quê hương, đất
nước.
=> Câu thơ khắc họa nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn những người lính
có lý tưởng và khát vọng lớn lao, họ sẵn sàng ra đi vì nghĩa lớn như
những tráng sĩ xưa Giã nhà đeo bức chiến bào/ Thét roi cầu vị ào ào gió
thu.
+ Những người lính Tây Tiến khi xông pha ra xa trường, họ đã không chỉ mang
theo bên mình súng, ống, gươm, đao mà họ còn mang theo cả một thế giới tâm hồn
lãng mạn với nỗi nhớ về “dáng kiều thơm” – trong những giấc mơ đêm đêm họ vẫn
mơ về những người con gái đẹp nơi quê nhà:
~ Hình ảnh “dáng kiều thơm” là để chỉ những người con gái đẹp, là bóng
dáng giai nhân của Hà thành, người con gái của Hà Nội với vẻ thùy mị,
nết na, thanh lịch, duyên dáng, yêu kiều,…
=> Nỗi nhớ nhung ấy một thời người ta cho là “mộng rơi mộng rớt” của
tầng lớp tiểu tư sản trí thức Tây học, cũng vì thế có người đã có lúc ác
cảm với bài thơ “Tây Tiến”.
~ Những người lính Tây Tiến là những chàng trai hào hoa xuất thân từ Hà
Nội, mà người Hà Nội nổi tiếng với câu ca:
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.”
như một lẽ tất nhiên, người con gái Hà thành trong tâm trí của những
chàng trai độ tuổi mười tám đôi mươi ắt phải là “dáng kiều thơm”- giai
nhân, mỹ nữ, yêu kiều, duyên dáng
=> Hình ảnh “dáng kiều thơm” có thể là người yêu, người vợ, người mẹ -
những người con gái, người phụ nữ tượng trưng cho nét đẹp của người
Hà Nội, tượng trưng cho nét đẹp của quê hương, là hậu phương vững
chắc, những người đang từng ngày mong chờ người lính Tây Tiến mang
chiến thắng trở về.
~ Cũng giống như những người lính ra đi từ những miền quê nghèo khó,
họ nhớ về “người vợ mòn chân bên cối gạo canh khuya”, nhớ về giếng
nước, gốc đa, ..., thì những chàng trai ra đi từ Hà Nội sẽ nhớ về “dáng
25
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

kiều thơm”, là nỗi nhớ về quê hương, nhớ về những người thân yêu nơi
quê nhà. Nỗi nhớ ấy sẽ tiếp thêm sức mạnh để người lính tiếp tục cuộc
trường chinh, bởi họ hiểu rằng họ chiến đấu vì chính những người thân
yêu nơi quê nhà. Chính những tình cảm tưởng chừng như rất đỗi đời
thường, giản dị nhưng lại là nguồn động viên tinh thần to lớn cho người
lính trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy.
=> “Hai câu thơ như chứa đựng cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương)- tâm
hồn người lính TT có cả “mộng” và “mơ”, cả “nghĩa chung” và “tình
riêng” (Trịnh Thu Tuyết), nó đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn toàn vẹn: họ
không chỉ có lý tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa
lớn mà họ còn là những chàng trai lãng mạn, mộng mơ, có trái tim chan
chứa tình yêu thương.
Những chàng trai HN trong đoàn quân TT thật kiêu hùng, lãng mạn
khi tình yêu thương là động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu, còn lý tưởng
cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao;
=> đây là những nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế
hệ người VN dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.
- Với người lính Tây Tiến, họ không chỉ có một tâm hồn đẹp đẽ mà họ còn có
một lí tưởng cao cả, sự hi sinh cao đẹp:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
+ Cảm hứng và ngòi bút của Quang Dũng một lần nữa đã không né tránh hiện
thực. Nhà thơ đã tái hiện sự mất mát, đau thương của những người lính Tây Tiến trên
chặng đường hành quân gian khổ
~ Họ đã hy sinh, những nấm mộ của họ nằm dọc miền biên cương xa xôi,
thậm chí ở những nơi hoang lạnh nhất. Những từ ngữ như “rải rác”,
“biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” – gợi lên miền đất xa xôi, thể hiện nỗi
đau xót khi nhìn vào hiện thực của nhà thơ => những chàng trai HN khi
hi sinh thân xác của họ nằm lại nơi đất khách quê người

26
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ 3 tiếng “mồ viễn xứ” vừa gợi không khí trang nghiêm, cổ kính, vừa gợi
cho người đọc một niềm xót xa thương cảm. Khi lên đường, họ là những
chàng trai trẻ đầy khát vọng, nhưng khi ngã xuống họ chỉ còn là những
nấm mồ hoang lạnh nằm rải rác nơi đất khách quê người.
=> Dù năm tháng đã đi qua, sự hy sinh của đồng đội, chiến binh Tây Tiến
vẫn là nỗi xót xa đến khôn nguôi, vẫn thổn thức không ngừng trong lòng
tác giả.
+ Chỉ có điều, nói đến sự mất mát, đau thương nhưng âm hưởng của đoạn thơ
không hề bi lụy mà ngược lại, vẫn toát lên tinh thần bi tráng. Sự ra đi ấy tuy đau
thương nhưng thật hào hùng, ngạo nghễ chứ không hề bế tắc, bi lụy.
Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã sử dụng rất nhiều từ Hán Việt như “biên
cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, “độc hành”, …. với chủ ý muốn gợi
lên giọng điệu trang trọng, làm cho âm điệu của câu thơ trở nên rắn rỏi,
gân guốc, giảm nhẹ nỗi đau thương, tạo nên giọng điệu hào hùng, mạnh
mẽ.
+hơn thế tinh thần bi tráng của người lính còn bởi họ hi sinh vì lý tưởng cao đẹp,
chết vì quê hương, đất nước: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
~ Hai chữ “đời xanh” là từ chỉ tuổi trẻ - là quãng đời tươi đẹp nhất, giàu
sức sống, hứa hẹn một tương lai với nhiều điều tốt đẹp.
~ Vậy mà những người lính lại “chẳng tiếc”, họ sẵn sàng hy sinh quãng
đời tươi đẹp ấy vì quê hương, đất nước. Họ đã chiến đấu và hi sinh một
cách thật thanh thản.
=> Trong câu thơ, hai tiếng “chẳng tiếc” với hai thanh trắc được đặt giữa
1 bên là chiến trường, một bên là đời xanh thể hiện rõ sự dứt khoát, mạnh
mẽ của những người lính. Đó chính là tinh thần, lý tưởng “cảm tử cho tổ
quốc quyết sinh” của cả thế hệ thanh niên Hà Nội đương thời
=> Với Quang Dũng, nhà thơ chắc chắn không thể tránh khỏi niềm đau
xót, tiếc nuối trước sự hy sinh của đồng đội, tuy thế, ông cũng không né
tránh hiện thực, đã phi thường hóa sự hy sinh của những người lính,
những con người mang vẻ đẹp của cả một thời đại. Họ phảng phất chân
dung của những tráng sĩ thuở xưa: “Quyết ra đi – chưa chiến thắng là ta

27
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

chưa về.” “chí lớn chưa về bàn tay không”… nét đẹp này cũng gợi nhắc
cho ta hình ảnh Kinh Kha sang đất Tần
+ Chân dung người lính Tây Tiến không chỉ trở nên đẹp đẽ lạ thường với lí tưởng
sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho quê hương, tổ quốc mà họ còn đẹp đẽ, cao cả ngay
trong cái chết, trong sự hy sinh:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
=> hai câu thơ này cũng làm toát lên chất bi tráng trong bức chân dung người lính
TT, QD không né tránh hiện thực nhưng phi thường hóa hiện thực, lãng mạn hóa hiện
thực
+ “Áo bào”
~ Trong thực tế, những người lính Tây Tiến hy sinh, họ trở về với đất mẹ
trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, khó khăn, đến cả manh chiếu bọc thây
cũng không có. Chính vì thế, đồng đội, những người còn sống đành phải
chôn cất anh bằng chính bộ quân phục đã sờn vai bạc màu sương gió.
~ Quang Dũng, bằng cảm hứng bi tráng, lãng mạn, đã biến bộ quân phục
sờn vai bạc màu thành tấm áo bào sang trọng, khoác lên mình đồng đội
để giảm bớt nỗi xót xa, khiến cái chết của các anh trở nên đẹp hơn, cao cả
hơn. Vì “áo bào” – ngày xưa là tấm áo vua ban cho tráng sĩ, anh hùng
chiến thắng trở về => người lính TT chính là người anh hùng ngã xuống
vì đất nước
=> Đây chính là tấm lòng, sự trân trọng, tôn vinh, ca ngợi của nhà thơ
dành cho đồng đội.
+ Không chỉ thế, khi miêu tả sự hy sinh của những người lính Tây Tiến, khắc họa
tinh thần bi tráng của người lính, nhà thơ đã sử dụng cách nói giảm, nói tránh “anh về
đất”-
~ cách nói này vừa gợi lên tư thế hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản,
~ đồng thời bất tử hóa cái chết những người lính. Với Quang Dũng, sự hy
sinh của những chiến binh TT là sự trở về với đất mẹ vĩnh hằng, các anh
đã hòa mình, hóa thân vào dáng hình non sông đất nước, để làm nên Đất
nước muôn đời. Nói như Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích “Đất
Nước” (trích Trường ca MĐKV):
28
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“… Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi


Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
=> Những người lính chính là những người anh hùng chiến đấu, hy sinh
vì Đất Nước với một tâm thế tự nguyện, thanh thản. Họ hy sinh mà không
mong được ghi tên vào sử sách, được ghi tên vào bia đá, bảng vàng. Với
những người lính, với anh bộ đội cụ Hồ, với nhân dân nói chung, chiến
đấu hy sinh là để bảo vệ nền độc lập tự do của Đất Nước, làm nên chiều
dài lịch sử dân tộc. Đó là sự hi sinh vô cùng cao đẹp!
+ Sự hy sinh của những người lính Tây Tiến đã để lại bao nỗi tiếc thương cho
thiên nhiên, sông núi, đất nước, nhân dân:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
~ Dòng sông Mã không chỉ là hình ảnh gắn liền, chia sẻ những vui buồn
với cuộc đời của người lính, mà còn tượng trưng cho thiên nhiên, cho đất
nước.
~ “Khúc độc hành” – âm thanh dòng chảy sông Mã là tiếng khóc đau
thương, dữ dội, là tiếng kèn bi tráng của thiên nhiên, cỏ cây, sông nước,
của đất nước, quê hương tiễn đưa người lính.
=> Trong tiếng gầm của dòng sông Mã, ta bắt gặp sự đau xót, tiếc
thương, sự trân trọng của nhà thơ cũng như của cả dân tộc dành cho
người lính.
(MR) qua tiếng khóc của Sông Mã lại càng chứng minh sự hi sinh của
người lính TT là vô cùng cao đẹp => bởi thời nào cũng vậy, người anh
hùng hi sinh vì đất nước quê hương bao giờ cũng để lại nỗi tiếc thương
lớn, tiếng khóc lớn => VTNSCG : Nhìn chợ Trường Bình trẻ già hai
hàng lụy nhỏ/ Đoái sông Cần giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng
 Chỉ bằng tám câu thơ, Quang Dũng đã khắc họa bức chân dung về người lính
đầy đủ từ diện mạo, tâm hồn, sự hy sinh anh dũng, làm bật lên vẻ đẹp vừa lãng mạn
hào hoa, vừa hào hùng bi tráng.
* Khổ thơ cuối mang cảm xúc của nhà thơ khi quay trở về hiện tại, hơi thơ
cứ vọng dài thăm thẳm không dứt:
29
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
- Ngay cả khi quay trở về với hiện tại rồi thì nỗi thương nhớ về đồng đội vẫn
không thể nguôi ngoai, cứ day dứt, da diết đến cháy bỏng trong lòng thi nhân. Nỗi nhớ
ấy được thể hiện rõ bằng những cụm từ “không hẹn ước”, “thăm thẳm một chia
phôi”, “chẳng về xuôi”, …
Những người lính Tây Tiến đúng là những con người ra đi với một quyết
tâm “nhất khứ bất phục hoàn”, các anh đã hy sinh vì quê hương, đất
nước, thân xác các anh còn gửi lại ở miền viễn xứ, hồn còn ở Sầm Nứa
nhưng đồng đội vẫn luôn nhớ về các anh, tổ quốc đã ghi công các anh để
thế hệ sau ngàn đời tưởng nhớ.
- Khi xa TT, dường như một phần tâm hồn nhà thơ gửi lại ở Sầm Nứa chứ chẳng
nguyên vẹn ở lại với Phù Lưu Chanh. Tấm lòng ấy cũng chính là lời thề không bao giờ
quên Tây Tiến, không bao giờ quên đồng đội và những vùng đất mình đã đặt chân tới,
một thời kì lịch sử hào hùng đã qua.
Trong cuộc đời mỗi con người, có những kỉ niệm sẽ đi cùng ta đến khi ta
nhắm mắt xuôi tay, nó như là một phần cuộc sống, không thể thiếu đi
được. Đối với Quang Dũng, nhà thơ đã phần nào bộc lộ được nỗi lòng
của mình cùng với những kỉ niệm đã đi cùng năm tháng về những người
đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến. Đọc toàn bộ bài thơ, chúng ta lại cảm
phục tinh thần, ý chí bất khuất, kiên cường chiến đấu chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ đất nước của thế hệ cha anh. Qua đây, chúng ta lại càng thêm
yêu quê hương, muốn cống hiến hết mình vì quê hương để tiếp bước cha
anh, kiến thiết đất nước ngày một giàu mạnh hơn.
* *
*

30
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

VIỆT BẮC (Tố Hữu)


I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết,
miền Bắc đi lên xây dựng XHCN, phát triển kinh tế.
-10/1954, cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về
Hà Nội => Đây là một sự kiện lịch sử hết sức trọng đại, với nước ta là một trang sử
mới đã mở ra.
- Xúc động trước cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc, Tố
Hữu đã viết bài thơ này.
2. Cấu tứ bài thơ “Việt Bắc”
- Kết cấu theo lối hát đối đáp trong khúc hát dao duyên.
- Xây dựng hai hình tượng nhân vật cùng với cách xưng hô “ta - mình”- cách
xưng hô quen thuộc của đôi lứa yêu nhau trong khúc hát dao duyên => cán bộ cách
mạng và đồng bào VB sẽ hiện lên là đôi lứa yêu nhau, sau một khoảng thời gắn bó bây
giờ phải chia xa..
=> Chất trữ tình - chính trị: tác giả đã biến một sự kiện trong đời sống chính trị
của đất nước trở thành một sự kiện trong đời sống tình cảm của con người nhất là tình
yêu lứa đôi.
3. Bố cục bài thơ “Việt Bắc”
Bài thơ gồm có 3 phần:
- Phần 1: Tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến.
- Phần 2: Gợi viễn cảnh tương lai tươi sáng của đất nước; Ngợi ca công ơn của
Đảng, Bác Hồ với dân tộc.
4. Bố cục của đoạn trích: 3 phần
- Phần 1 (8 câu đầu): Khúc hát chia tay giữa kẻ ở người đi.
- Phần 2 (12 câu tiếp): Lời khơi gợi kỉ niệm của người ở lại.
- Phần 3 (còn lại): Lời đáp của người đi.
+ 4 câu đầu: Lời khẳng định tình nghĩa của người đi.
+ 18 câu tiếp: Kỉ niệm của người đi về thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, con người
Việt Bắc cần cù lao động, nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan.
31
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ 10 câu tiếp: Bức tranh tứ bình về Việt Bắc qua bốn mùa.
+ 22 câu tiếp: Kỉ niệm kháng chiến.
+ Còn lại: ca ngợi chiến lược của Đảng và Chính phủ, ngợi ca Bác Hồ
=> VB là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng
chiến và con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ
đậm sắc thái dân gian – tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của TH: hãy
nhớ mãi và phát huy truyền thống quý báu, anh hùng bất khuất, ân nghĩa thủy
chung của cách mạng, của con người VN.
(khúc hùng ca: tái hiện được cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng
của DT; khúc tình ca: thể hiện, ngợi ca ân tình, ân nghĩa cách mạng, đạo lý truyền
thống dt “uống nước nhớ nguồn”)
II. PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH
Bài thơ Việt Bắc có cấu tứ độc đáo: kết cấu theo khúc hát đối đáp quen thuộc của
ca dao có lời chàng trai, lời cô gái. Đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, chàng trai là
người đi – là hình ảnh của người cán bộ Cách mạng còn cô gái chính là người ở lại –
là đồng bào Việt Bắc. Với kết cấu như vậy, tác giã đã tình cảm hóa, trữ tình hóa một
sự kiện lịch sử từ cuộc chia tay giữa cơ quan trung ương Đảng, Chính phủ với đồng
bào Việt Bắc và ông đã hình dung đó là cuộc chia ly của một đôi lứa yêu nhau sau
nhiều năm gắn bó. Lối cấu tứ như vậy đã giúp nhà thơ Tố Hữu dễ bộc bạch tình cảm,
tình nghĩa nhất là tái hiện được một thời kì kháng chiến gian khổ.
* Mở đầu bài thơ là khúc hát chia tay của kẻ ở người đi, trong đó 4 câu đầu
là lời của người ở lại (đồng bào VB- người còn gái trong tình yêu):
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
- Mở đầu khúc hát chia tay bằng lời của người ở lại,
điều đó chứng tỏ Tố Hữu rất hiểu tâm lí của đôi lứa trong bất kì cuộc chia
tay nào, bởi người ở lại bao giờ cũng có nhiều lo lắng, dằn vặt, day dứt,
nhiều nỗi nhớ nhung hơn người đi; hơn thế việc để cho người ở lại mở lời
cũng là một cái cớ giúp cho người đi có cơ hội bộc bạch chân thành nỗi
niềm của mình.
32
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Với tất cả lí do đó, mở đầu bài thơ VB, mở đầu khúc hát chia tay đầy ân tình,
người ở lại đã khơi gợi biết bao nhiêu tâm tình bằng 2 câu hỏi – câu hỏi 1 gợi lên
thời gian chứa đầy kỉ niệm:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
+ Trước hết, mười lăm năm là thời điểm tính từ thời điểm kháng chiến chống
Nhật của mặt trận Việt Minh (1940) cho đến lúc chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc
(1954).
Nếu như so với đời người thì mười lăm năm đủ làm nên một ân tình, với
lịch sử thì mười lăm năm đủ làm nên một bước ngoặt lớn, một sự thay đổi
lớn. Vì thế mười lăm năm là một khoảng thời gian đủ dài khiến cho con
người khi gắn bó với nhau thì không thể nào quên nhau được.
+ Cụm từ “thiết tha mặn nồng” càng tô đậm thêm cho tình nghĩa sâu nặng giữa
kẻ ở người đi.
Ở đây, Tố Hữu rất khéo léo khi vận dụng câu Kiều vào ý thơ. Câu thơ
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” được lấy ý từ một câu Kiều rất
quen thuộc thể hiện tình cảm của Thúy Vân và Kim Trọng “Mười lăm
năm ấy biết bao nhiêu tình”.
+ Câu hỏi thứ hai của người ở lại là câu hỏi khơi gợi không gian chứa đầy kỉ
niệm:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
~ Chỉ trong bốn câu thơ cụm từ “mình về - mình có” đã được lặp đi lặp lại thể
hiện sự trăn trở, day dứt và nỗi nhớ nhung trong lòng người ở lại.
~ Các hình ảnh “cây, núi, sông, nguồn”
gợi lên không gian núi rừng Việt Bắc - nơi đôi lứa đã có nhiều kỉ niệm
trong những ngày tháng gắn bó. Đồng thời những hình ảnh này còn gợi
nhắc một câu ca dao quen thuộc:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
Câu ca dao là lời nhắc nhở về lối sống “uống nước nhớ nguồn” – đạo lý
truyền thống của DT VN. Vì thế, trong câu hỏi của người ở lại không chỉ
33
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

khơi gợi một không gian chứa đầy kỉ niệm mà nó còn là một lời nhắn nhủ
về lối sống thủy chung: về xuôi thì đừng bao giờ quên VB, VB là nguồn
cội, là quê hương CM.
(MR) Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất
hiện trong thơ TH:
Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm
Qua lời nhắn nhủ, người ở lại không chỉ có nhớ nhung mà còn có cả sự lo
lắng: người cbcm về xuôi có nhớ VB không, liệu có bao giờ quên VB
không? Trong phần hai của tác phẩm, người ở lại một lần nữa lại nhắc
nhở:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nhớ chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng cuối rừng”
=> 4 câu thơ đầu là lời chia tay lưu luyến, bịn rịn của người ở, người ở
nhắc nhở người đi sống ở hiện tại đừng quên quá khứ, sống ở miền xuôi
đừng quên miền ngược, đừng quên kỉ niệm của một thời đã qua; lời dặn
dò kín đáo, sâu sắc: VB là cội nguồn cm, là trung tâm đầu não, là cái nôi
của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội nguồn
- 4 câu thơ tiếp: tiếng lòng của người về xuôi mang theo bao nỗi nhớ thương,
bịn rịn, da diết
=> Trong lời hồi đáp của người đi, người đi đã không trả lời trực tiếp vào câu
hỏi của người ở lại mà trả lời bằng cách bộc bạch cảm xúc, nỗi niềm của mình trước
tình cảm của người ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
+ Tình cảm và cảm xúc của người được thể hiện ngay trong việc tg sử dụng đại từ
phiếm chỉ “ai”

34
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“ai” chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác
những câu hỏi tha thiết ở 4 câu đầu là tiếng của ai đó tuy chưa nhìn rõ
mặt, mới chỉ như âm thanh vọng từ cỏ cây, núi rừng VB, nhưng người đi
cảm nhận được tiếng lòng tha thiết của người ở lại; sự tri âm tri kỉ, đồng
thanh tương ứng đã khiến họ (dù chưa nhìn thấy nhau) thấu hiểu lòng
nhau; làm cho giọng thơ trở nên ngọt ngào, da diết hơn.
+ Người đi bộc bạch chân tình cảm xúc
của mình lúc chia tay, khi nghe lời bày tỏ của người ở lại: người đi vốn
đã lưu luyến vì tình cảm sâu nặng, gắn bó nay lại được nghe thấy tiếng
lòng, khúc hát chia tay đầy nhớ thương của người ở lại, khiến họ càng
thêm bâng khuâng, bồn chồn.
+ Các từ láy “bâng khuâng, bồn chồn”
diễn tả tâm trạng xao xuyến, bồi hồi, vừa nhớ thương vừa có chút lo lắng
của người đi, đã biết đến giây phút phải chia tay mà sao lòng vẫn không
đành, không yên.
(vì sao? Như thế nào?)
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
+ Hình ảnh “áo chàm”
là một hình ảnh hoán dụ dùng để chỉ những người dân Việt Bắc. Đây là
hình ảnh gợi lên hình bóng của những con người lao động tuy nghèo khổ
nhưng cần kiệm và hết lòng với Cách mạng. Hơn nữa, màu chàm là màu
xanh của cây lá nên nó còn gợi lên hình ảnh núi rừng Việt Bắc.
=> khung cảnh của một cuộc chia li dường như không chỉ có con người
mà còn có sự tham gia của cả núi rừng Việt Bắc. Không khí chia li ấy
như bao trùm lên cả không gian núi rừng nơi đây và cuộc chia li ấy đã
gây lên bao nhiêu niềm xúc động trong lòng người đi.
+ Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” - thể hiện nỗi xúc động nghẹn
ngào của người đi
Nhịp của câu thơ được ngắt rất đặc biêt 3/3/2. Nó đều đặn, nhịp nhàng,
gợi lên nhịp bước chân đi. Dường như câu thơ khi bị ngắt ra như thế còn
thể hiện sự xúc động, nghẹn ngào của người ra đi: chân thì ngập ngừng
35
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

muốn bước mà lòng thì nghẹn lai giống như “Bước đi một bước giây giây
lại dừng”.
Trong câu thơ, hình ảnh “cầm tay nhau” mà “biết nói gì” thể hiện được
niềm xúc động nghẹn ngào của người ra đi. Cụm từ “biết nói gì” có thể
hiểu theo hai cách. Thứ nhất, có thể do xúc dộng quá nên chỉ biết nắm
chặt đôi bàn tay mà không thốt được nên lời. Hoặc hay chăng do trong
lòng người có quá nhiều kỉ niệm, quá nhiều điều muốn nói mà không biết
bắt đầu từ đâu, chỉ biết bày tỏ tình cảm sâu nặng, nỗi niềm lưu luyến, bịn
rịn bằng cách nắm chặt đôi bàn tay.
 Qua tám câu thơ đầu của bài thơ ta đã thấy được tình cảm gắn bó sâu nặng
giữa kẻ ở người đi, thấy được nỗi niềm lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời xa. Đặt vào
hoàn cảnh, cảm hứng bấy giờ thì đó chính là tình quân dân thắm thiết.
Xét về mặt hình thức nghệ thuật, nó đã thể hiện đầy đủ những nét đặc trưng trong
thơ Tố Hữu, đậm chất trữ tình chính trị.
* Sau lời hồi đáp của người đi, người ở lại tiếp tục cất lên những lời khơi gợi
kỉ niệm- lời minh chứng cho mười lăm năm thiết tha mặn nồng:
“Mình đi, có nhớ những ngày
…………………..
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Trong mười hai câu thơ này, mỗi một cặp câu thơ là một kỉ niệm sâu sắc
không thể nào quên trong lòng người ở lại.
- Trước hết đó là những kỉ niệm của một thời đấu tranh Cách mạng trong những
ngày đầu kháng chiến vô cùng gian nan, khổ cực:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
Hình ảnh “Mưa nguồn, suối lũ, mây mù”
vừa là hình ảnh tả thực, vừa là hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng. Đó là
hình ảnh về Việt Bắc với địa hình hiểm trở, thiên nhiên thời tiết khắc
nghiệt; đồng thời nó cũng là hình ảnh tượng trưng cho những gian lao,
khó khăn của những ngày đầu kháng chiến, một cuộc kháng chiến gian
khổ và trường kì, tương lai chiến thắng dường như còn xa xôi.

36
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Đó còn là những kỉ niệm kháng chiến với những thiếu thốn, cuộc sống sinh hoạt
chiến đấu vô cùng kham khổ:
“Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
+ Hình ảnh “miếng cơm chấm muối”
tượng trung cho những thiếu thốn trăm bề trong những ngày đầu kháng
chiến.
+ tác giả đã sử dụng nghệ thuật tiểu đối giữa “miếng cơm chấm muối” với “mối
thù nặng vai”
vừa tô đậm sự thiếu thốn gian khổ vừa thể hiện lòng quan tâm, ý chí căm
thù giặc của chiến sĩ đồng bào. Mối thù với giặc ngoại xâm như đang đè
nặng lên cả hai vai của họ. Trong suốt mười lăm năm kháng chiến, chúng
ta không chỉ phải chống lại thực dân Pháp mà còn phải kháng chiến
chống phát xít Nhật, lật đổ chế độ phong kiến. Câu thơ cũng đã gợi lên
tinh thần trách nhiệm của các chiến sĩ đồng bào.
- Với sự gắn bó trong những ngày khó khăn gian khổ như vậy, đến khi người cán
bộ Cách mạng về xuôi đã để lại biết bao nhiêu nồi nhớ thương trong lòng người dân
Việt Bắc:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
+ “trám, măng” là những sản vật của núi rừng Việt Bắc
trong kháng chiến thì chúng đã trở thành lương thực thực phẩm thiết yếu,
nay người cán bộ Cách mạng về xuôi thì trám dẫu bùi cũng để rụng,
măng dẫu ngon cũng để già, những sản vật lương thực thực phẩm cần
thiết cho kháng chiến bây giừ cũng trở nên thừa thãi.
+ nghệ thuật nhân hóa “núi rừng nhớ ai”, lối nói thậm xưng “trám bùi để rụng,
măng mai để già” đã thể hiện sự trống vắng, hụt hẫng, niềm thương nhớ như quên cả
thời gian của người ở lại.
- Một kỉ niệm không thể nào quên và đã trở thành ân tình ân nghĩa của người ở lại
đó là kháng chiến dù rất gian khổ nhưng nhân dân vẫn một lòng son sắt thủy chung
với Cách mạng:
“Mình đi, có nhớ những nhà
37
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”


+ Hình ảnh “Hắt hiu lau xám”
đã gợi lên những khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến thuở đầu.
+ Cụm từ “đậm đà lòng son”
nhấn mạnh tấm lòng son sắt, thủy chung trước sau như một của quân dân
với kháng chiến.
+ Hai câu thơ trên tác giả đã một lần nữa sử dụng nghệ thuật tiểu đối đạt đến mức
cổ điển để làm cho câu thơ vừa uyển chuyển trang nhã lại vừa cô đọng, hàm súc.
Tấm lòng son sắt, thủy chung chính là một nguồn sức mạnh để chiến
sĩ đồng bào vượt qua những khó khăn ban đầu của cuộc kháng chiến,
giành những chiến thắng vang dội, mang tính chất quyết định để cuộc
kháng chiến thành công.
- Những kỉ niệm ấy còn là những kỉ niệm về những năm tháng vẻ vang, oanh liệt
từ thời tiền khởi nghĩa với những thành tựu bước đầu:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đinh, cây đa?”
Bốn câu thơ đã khái quát được cả một chặng đường với những trang sử hết sức vẻ
vang của dân tộc: từ thời kì thành lập mặt trận Việt Minh, kháng chiến chống phát xít
Nhật thành công, phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Trong lời thơ có nhắc đến những địa danh nổi tiếng với những hình ảnh
quen thuộc: cây đa Tân Trào là nơi làm lễ xuất quân của Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại
Hội. Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng những hình ảnh “Tân Trào,
Hồng Thái, mái đình, cây đa” vừa thể hiện niềm tự hào về những địa
danh, sự kiện lịch sử, những năm tháng không thể nào quên, vừa cho ta
thấy cách sử dụng tên địa danh, từ ngữ, hình ảnh linh hoạt khéo léo của
mình.
 Mười hai câu thơ là lời khơi gợi kỉ niệm của người ở lại, nó không chỉ nhắc
nhở những kỉ niệm kháng chiến mà còn thể hiện được nỗi niềm nhớ nhung tha thiết,
tình cảm gắn bó sâu nặng, nghĩa tình giữa chiến sĩ với đồng bào, giữa con người với
38
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

kháng chiến với Cách mạng. Để làm nổi bật nỗi nhớ, tình cảm gắn bó giữa kẻ ở người
đi, trong mười hai câu thơ, tác giả đã sử dụng lặp đi lặp lại các từ “Mình đi, mình về,
có nhớ, nhớ ai” nhằm diễn tả niềm xúc động, tình cảm đang dâng trào trong lòng
người ở lại. Gắn liền với mỗi cụm từ “Mình đi, mình về” là một câu hỏi thể hiện nỗi
niềm đau đáu nhớ thương, trăn trở, băn khoăn, day dứt của người ở lại. Nhưng điều
đặc biệt nhất là từ “mình” được sử dụng hết sức sáng tạo: có lúc chỉ người đi, có lúc
lại là người ở lại, có lúc như hòa nhập làm một trong câu “Mình đi, mình có nhớ
mình”. Đoạn thơ trên đã thể hiện được tình cảm thủy chung son sắt nghĩa tình giữa kẻ
ở người đi, giữa cán bộ với đồng bào, giữa con người với kháng chiến. Đó là tình cảm
tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong thời kì
kháng chiến chống Pháp nói riêng, trong tình cảm yêu quê hương đất nước nói chung.
* Sau lời gợi nhắc hết sức thiết tha của người ở lại, người đi đã có lời hồi đáp
nhằm khẳng định trước sau như một và điều đó đã được bộc lộ rõ nhất qua nỗi nhớ
về thiên nhiên, con người Việt Bắc, nhớ những kỉ niệm kháng chiến gian khổ nhưng
rất hào hùng.
- Bốn câu thơ tiếp là lời khẳng định tình cảm trước sau như một của người ra đi:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
+ đại từ nhân xưng “ta-mình” được lặp đi lặp lai theo lối điệp vòng đã thể hiện
được tình cảm gắn bó khăng khít không rời.
+ Câu trả lời của người đi lại là lời hồi đáp trực tiếp của người ở: người ở lại hỏi
“Mình đi, mình có nhớ mình” thì người đi trả lời chắc chắn “Mình đi, mình lại nhớ
mình”.
+ Trong lời người đi, tác giả đã sử dụng hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ để nhấn
mạnh vào tình cảm trước sau như một “sau trước mặn mà”, “Nguồn bao nhiêu nước,
nghĩa tình bấy nhiêu”.
Câu thơ được lấy ý từ nhiều câu tục ngữ ca dao quen thuộc mà nhân dân
ta sử dụng để bày tỏ lòng biết ơn : “Uống nước nhớ nguồn”, “Công cha
như núi thái sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”…

39
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Hình ảnh thiên nhiên, con người Việt Bắc cứ hiện lên rõ nét trong tâm trí
của người ra đi với tất cả tình yêu thương niềm tự hào khiến cho nỗi nhớ trong lòng
người đi lại có cớ dâng lên tuôn trào mãnh liệt.
+ Trước hết đó là nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng Việt Bắc - nơi chiến khu và
kháng chiến còn gian khổ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bế lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều


Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
~ Hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ là một trong số những câu thơ tuyệt bút của
Tố Hữu, cách diễn đạt chẳng khác nào như những câu ca dao xưa.
~ So sánh « như nhớ người yêu »
tình quân dân thắm thiết, nỗi nhớ Việt Bắc nồng nàn sâu đậm chẳng khác
nào nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi. Trong muôn vàn cung bậc cảm xúc
của con người, nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa là nỗi nhớ nồng nàn, da
diết, khó quên nhất. Vậy tại sao Tố Hữu lại so sánh nhớ Việt bắc như
“nhớ người yêu”? Bởi có lẽ với người cán bộ kháng chiến ấy sau những
năm tháng gắn bó với Việt Bắc thì núi rừng, con người nơi đây đã in đậm
trong tâm trí tác giả, sâu sắc, khó có thể phai mờ giống như hình bóng
của người yêu trong tâm trí người yêu.
~ Với hình thức câu hỏi tu từ “Nhớ gì” càng nhấn mạnh cho nỗi nhớ da diết của
nhân vật trữ tình.
~ Hình ảnh “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” là những hình ảnh thơ rất
đẹp, gợi lên một bức tranh núi rừng Việt Bắc đầy thơ mộng: ánh sáng của vầng trăng
lấp ló đầu núi gợi lên một đêm trăng sáng lung linh, huyền ảo, mơ màng; đó là những
buổi chiều nắng trải dài ấm áp trên nương.

40
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ Nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp còn nhớ về những “bản khói cùng
sương, ngòi Thia, sông Đáy.
Đây chính là những nét đẹp đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc mà ta đã
bắt gặp ở một số bài thơ khác: hình ảnh bản làng chìm trong sương khói
trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng: “Sài Khao sương lấp
đoàn quân mỏi - Nhà ai pha luông mưa xa khơi”, hay trong “Tiếng hát
con tàu” của Chế Lan Viên: “Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ”.
~ Âm thanh của “tiếng mõ rừng chiều” – tiếng mõ gọi trâu về, tiếng chày giã gạo
ở bên những con suối là những âm thanh quen thuộc mà nếu từng sống ở Việt Bắc nó
sẽ để nhớ, để thương trong lòng người.
Điều này đã chứng tỏ Tố Hữu ắt hẳn phải sống hết mình và gắn bó máu
thịt với mảnh đất Việt Bắc thì mới có những cái nhìn tha thiết, cảm nhận
tinh tế về vẻ đẹp của núi rừng nơi đây.
+ Không chỉ là thiên nhiên mà con người Việt Bắc cũng để lại nhiều thương
nhớ trong lòng người đi.
~ Đó là những con người tảo tần, chịu thương chịu khó, “sớm khuya, đi về” câu
thơ gợi sự tảo tần, không quản gian lao khó nhọc để phục vụ, chở che cho cán bộ Cách
mạng.
~ Đó còn là những con người biết đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi trong
những năm tháng gian lao của đất nước:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm dẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng các từ “đây, đó, đắng cay, ngọt bùi” đã
gợi sự gắn bó giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào Việt Bắc cho dù có
gian khổ thì lúc nào cũng có nhau, đoàn kết, nghĩa tình. Các động từ “sẻ,
chia” đã thể hiện sự đồng cam cộng khổ, tinh thần đoàn kết của đồng bào
Việt Bắc, cán bộ Cách mạng trong kháng chiến.
~ Đó còn là những con người luôn có tinh thần lạc quan, luôn ý thức thực hiện
nhiệm vụ:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
41
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.”


~ Trong hình ảnh những con người Việt Bắc, ấn tượng nhất, để lại hình ảnh sâu
sắc nhất là hình ảnh ngừoi mẹ Việt Bắc chịu thương chịu khó giàu đức hy sinh, lao
động hết mình phục vụ kháng chiến”
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
Hình ảnh “nắng cháy lưng” gợi lên nỗi vất vả khó nhọc của ngừoi mẹ;
còn hai chứ “bẻ từng” gợi lên dáng vẻ tần tảo, chịu thương chịu khó.
Hình ảnh ngừoi mẹ Việt Bắc không chỉ là hình ảnh giàu cảm xúc trong
thơ Tố Hữu mà còn là một hình ảnh tiêu biểu trong thơ ca kháng chiến.
Như trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên là hình ảnh của người
mế: “Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.”
Hoặc trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là hình ảnh người mẹ Tà – ôi địu
con trên lưng.
* Trong nỗi nhớ, kỉ niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc tươi đẹp, bằng
ngòi bút tài hoa của mình, trong mười câu thơ tiếp, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh
thiên nhiên và con người Việt Bắc qua bốn mùa vô cùng đặc sắc, đẹp như một
bức tranh tứ bình:
“Ta về, mình có nhớ ta
………………….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chug”
đoạn thơ có kết cấu trọn vẹn như một bài thơ độc lập cả về nội dung và
hình thức. Hai câu thơ đầu là lời gợi mở, khái quát nội dung cả đoạn thơ.
Tám câu còn lại là những câu triển khai chủ đề cụ thể và đặt biệt tám câu
này chia thành bốn cặp lục bát cân xứng tương ứng với bốn mùa Việt
Bắc. Đây là một kết cấu quen thuộc trong thơ ca, trong hội họa, trong
nghệ thuật phương đông nói chung. Chúng ta có tranh tứ bình, tranh tứ
quý, … Đoạn thơ chính là bức tranh bốn mùa xuân – hạ - thu – đông.

42
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Ở hai câu thơ mở đoạn, nhà thơ đã gợi mở cảm xúc và nỗi nhớ bao trùm của
người cán bộ Cách mạng:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”
+ Trước hết, tác giả vẫn sử dụng cách xưng hô “ta - mình”
vô cùng quen thuộc trong ca dao và cặp đại từ này được tác giả sử dụng
rất linh hoạt có sự đảo lộn vị trí, đan xen vào nhau để cho ta thấy được
tình cảm gắn bó sâu nặng giữa kẻ ở người đi, giữa cán bộ và đồng bào.
Cách xưng hô này là cách xưng hô của đôi lứa yêu nhau, tạo cho câu thơ
một giọng điệu ngọt ngào tha thiết.
+ điệp từ “nhớ”
được lặp đi lặp lại đã khẳng định được nỗi nhớ thương với những kỉ niệm
như còn nóng hổi, vẹn nguyên trong tâm trí người ra đi.
+ nỗi nhớ ấy được chia đều cho cả hoa và người.
Nỗi nhớ về “hoa” chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp còn
nỗi nhớ về “người” là nhớ về anh em đồng chí đồng đội, đồng bào Việt
Bắc gắn bó với nhau trong kháng chiến. Từ “cùng” là quan hệ từ nối giữa
“hoa” và “người” đã cho ta thấy nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc, con người
Việt Bắc là cùng hiện lên đồng thời, khác với từ “và, với”. Chính vì vậy
trong tám câu thơ tiếp, cứ một câu thơ nhớ về “hoa” thì liền sau đó là câu
thơ nhớ về “người”.
- Bức tranh tứ bình về bốn mùa Việt Bắc được mở đầu bằng cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
+ Bức tranh thiên nhiên mùa đông Việt Bắc có gam màu nền là màu xanh của
rừng già – một màu xanh gợi lên sức sống bất tận và điểm xuyết trên phồng nền ấy là
màu đỏ tươi của bông hoa chuối rừng.
Giữa màu xanh bạt ngàn ấy, hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi ấy hiện lên
giống như một búp sen hồng, một ngọn lửa nhỏ làm cả khu rừng ấy bừng
sáng, khiến nó trở nên ấm áp hơn. Nếu như đặt vào hoàn cảnh ra đời của
bài thơ, màu đỏ ấy không chỉ là sắc màu nổi bật của thiên nhiên mùa

43
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

đông Việt Bắc mà nó còn tượng trưng cho niềm tin Cách mạng tràn đầy
nhiệt huyết, tinh thần của chiến sĩ, đồng bào.
+ Trên nền thiên nhiên ấm áp tươi vui ấy có sự xuất hiện hình ảnh con người
đang trên đèo cao trên đường nên nương làm rẫy.
Con dao gài ở thắt lưng được ánh sáng mặt trời chiếu vào tỏa ra một thứ
ánh sáng lấp lánh theo từng bước chân người đi. Hình ảnh thơ này gợi lên
tư thế, vẻ đẹp của những con người đang làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc
đời, làm chủ lao động. Thiên nhiên đã tô điểm làm cho vẻ đẹp con người
trở nên vững chãi, khỏe khoắn hơn.
- Sau bức tranh mùa đông chính là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
+ Gam màu làm nền cho bức tranh có sự thay đổi, chuyển từ màu xanh của
rừng già thành màu trắng của hoa mơ.
một vẻ đẹp tinh khiết, tinh khôi. Cách sử dụng từ ngữ trong câu thơ của
Tố Hữu rất độc đáo: từ “trắng” vốn là một tính từ nhưng tác giả lại sử
dụng nó như một động từ để diễn tả nhưng bông hoa mơ đang thời kỉ nở
rộ, nó khiến cho cả khu rừng như đang bừng sáng, tràn ngập sức sống.
Cách sử dụng từ ngữ này cũng đã được một số nhà thơ áp dụng. Nguyễn
Du đã viết:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Hay Hoàng Trung Thông: “ Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Để viết
lên được những câu thơ như thế đặc biệt là có thể miêu tả được vẻ đẹp
khu rừng Việt Bắc mùa xuân tràn ngập sắc trắng của hoa mơ hẳn Tố Hữu
phải đã từng sống gắn bó, rất ấn tượng với vẻ đẹp của mùa xuân núi rừng
nơi đây. Sau này trong trường ca “Theo chân Bác”, Tố Hữu cũng có
những ý thơ gọi nhắc sắc trắng của hoa mơ:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.”
+ Trong khung cảnh trữ tình của mùa xuân, hình ảnh con người hiện lên với vẻ
đẹp khéo léo, tài hoa:
44
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”


Hình ảnh con người Việt Bắc trong mùa xuân được tác giả nhớ đến với
công việc đan nón – một công việc góp phần vào phục vụ kháng chiến:
đồng bào đan mũ, đan nón, kết dệt lên những vành mây phục vụ dân quân
bộ đội.
Hai chữ “chuốt từng” đã gợi lên sự cẩn trọng, khéo léo, tài hoa trong đôi
bàn tay người Việt Bắc. Hơn thế, trong từng động tác của họ còn thể hiện
biết bao yêu thương đối với Cách mạng.
- Đến bức tranh mùa hè, tác giả vẽ lên một bức tranh không chỉ có màu sắc
sống động mà còn có cả âm thanh đặc trưng:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
+ Âm thanh của tiếng ve chính là một đặc điểm, đặc trưng tiêu biểu của mùa hè.
Tiếng ve kêu giữa rừng đã làm cho không gian nơi đây trở nên xôn xao,
náo nhiệt. Chính âm thanh này đã gọi, đã đánh thức sự chuyển động của
cảnh vật, làm cho cảnh vật như bừng tỉnh. Phách là một loại cây thân gỗ
ở rừng Việt Bắc, thường nở hoa vàng vào đầu mùa hè. Trước khi mùa hè
đến, trước khi tiếng ve cất lên gọi hè tới, dường như những nụ phách còn
náu mình trong kẽ lá nhưng khi tiếng ve đầu tiên cất lên báo hiệu hè sang,
cả rừng phách nhất loạt trổ hoa vàng, sắc vàng lênh láng đổ xuống tràn
ngập cả khu rừng.
+ Từ “đổ” đã diễn tả được sự chuyển đổi sắc màu vô cùng nhanh chóng, bất ngờ.
Đây là cách sử dụng từ ngữ vô cùng tinh tế. Trong thơ ca Việt Nam rất
nhiều nhà thơ đã sử dụng cách chuyển đổi như vậy: Xuân Diệu viết “Đổ
trời xanh ngọc qua muôn lá”, Nguyễn Du viết “Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san”, Nguyễn Bính viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây
lá vàng”,…
+ Trên nền bức tranh thiên nhiên mùa hè ấy xuất hiện hình ảnh “cô em gái hái
măng một mình”.
Trong thơ xưa, giữa chốn rừng núi xuất hiện hình ảnh con người thường
đem đến một cảm giác đơn độc, lẻ loi. Nhưng ở đây chúng ta không hề
thấy cảm giác đó mà ngược lại dường như là thương yêu, cảm phục hơn
45
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

bởi cách xưng hô “cô em gái” gợi lên một tình cảm thân thương, trìu
mến. Khi đặt vào hoàn cảnh kháng chiến chống pháp, việc hái măng
chính là công việc phục vụ kháng chiến. Việc sẵn sàng một mình hái
măng đã thể hiện sự cần cù, chịu thương chịu khó của người con gái ấy
cũng như con người Việt Bắc.
- Khép lại bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp ấy là bức tranh mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
+ Tố Hữu đã bắt đầu bức tranh ở mùa đông và khép lại ở mùa thu là có ngụ ý.
Kết lại mùa thu ấy vừa đúng thời điểm diễn ra cuộc chia tay lịch sử giữa
cán bộ Cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Hơn thế, tác giả lựa chọn kết
cấu bài thơ, xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình là đôi lứa yêu nhau
đang cất lên tiếng hát trong khúc hát dao duyên. Trong sinh hoạt văn hóa
dân gian Việt Nam, những khúc hát dao duyên này thường diễn ra vào
những đêm trăng sáng dưới mái đình gốc đa và những vầng trăng đẹp
nhất thì thường diễn ra vào mùa thu. Chính nhờ điều này nhà thơ đã tạo
được chất trữ tình cho bài thơ.
+ Khung cảnh thiên nhiên trong đêm mùa thu thật đẹp. Từ “rọi” gợi lên ánh sáng
ngời ngợi của vầng trăng - một thứ ánh sáng có thể xuyên qua lớp lá dày để chiếu
xuống mặt đất để dệt nên một tấm thảm hoa trăng tuyệt đẹp, thơ mộng, lãng mạn, một
ánh trăng hòa bình. Tất cả đã làm nên một khung cảnh thanh bình giữa núi rừng Việt
Bắc.
+ Trong khung cảnh ấy, con người cất lên những tiếng hát ân tình thủy chung,
làm lưu luyến bước chân người ra đi.
Tiếng hát ấy là tiếng hát của anh em – bạn bè, đồng chí – đồng bào, giữa
thời kì khó khăn gian khổ vẫn ca vang núi đèo. Đó cũng là tiếng hát chia
tay đầy lưu luyết, thiết tha của người ở lại.
 Trong nỗi nhớ của người đi, thiên nhiên và con người Việt Bắc hài hòa cùng
tô điểm, cùng tôn lên vẻ đẹp của nhau. Nếu cảnh vật tươi đẹp rực rỡ lung linh thì con
người lại dũng cảm kiên cường, tảo tần, chịu thương chịu khó. Đặc biệt trong đoạn
thơ, điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại khiến cho đoạn thơ có âm điệu nhẹ nhàng, tha
thiết, ngọt ngào chẳng khác nào khúc hát ru với kỉ niệm ngập tràn nhớ thương.
46
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

* Sau nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc tươi đẹp, trong lòng
người đi không thể nào quên những kỉ niệm kháng chiến, qua những kỉ niệm ấy,
nhà thơ đã tái hiện cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng của dân tộc.
- Trước hết đó là những kỉ niệm về những ngày tháng khó khăn gian khổ nhưng
cũng rất hào hùng. Chúng ta cũng đã có được những chiến thắng ban đầu nhờ vào tinh
thần đoàn kết của quân dân:
“ Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
+ Đoạn thơ trên đã tái hiện chân thực cảnh núi rừng Việt Bắc hùng vĩ với rừng
cây, núi đá trùng điệp.
Đây là một địa hình hiểm trở, bộ đội ta đã lợi dụng địa hình ấy để đánh
giặc. Và nó chính là một chiến lược đã dẫn ta đến thành công của chiến
thắng Điện Biên Phủ.
+ Bên cạnh đó hình ảnh rừng cây núi đá còn mang ý nghĩa tượng trưng cho nhân
dân, cho đồng bào Việt Bắc.
Với biện pháp tu từ nhân hóa kết hợp với các động từ “giăng, che, vây”
đã cho ta thấy sự đồng lòng, đồng sức của nhân dân Việt Bắc. Trong
kháng chiến gian khổ, nhân dân Việt Bắc một lòng bao bọc, che chở,
đoàn kết với cán bộ Cách mạng để cùng nhau kháng chiến. Kháng chiến
thành công là nhờ vào sức mạnh của tinh thần đoàn kết quân dân ấy “đất
trời ta cả chiến khu một lòng”.
+ Và kết quả chúng ta từ yếu thế bị “giặc lùng” đã lật ngược tình thế chủ động
“vây quân thù” và liên tiếp tạo nên những chiến thắng bước đầu:
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”

47
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Tác giả đã liệt kê hàng loạt những địa danh mà mỗi địa danh đều gắn liền
với một chiến công của ta, ta có chiến thắng được những bước đầu giòn
giã khiến cho quân giặc phải khiếp sợ. Động từ “nhớ” gợi nhắc những kỉ
niệm như còn đang nóng hổi về những chiến thắng vẻ vang, thể hiện
niềm tự hào, niềm vui chiến thắng. Tác giả sử dụng cặp quan hệ từ độc
đáo “từ - sang” gợi lên những chiến công nối tiếp nhau, cảm xúc và niềm
vui chiến thắng cứ ào ạt chảy về.
- Trong kỉ niệm về kháng chiến, người đi còn nhớ về khung cảnh của Việt Bắc
ra quân rất hoành tráng với sức mạnh của toàn dân tộc:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
+ Ở hai câu thơ đầu tác giả đã mở ra một bức tranh toàn cảnh về Việt Bắc rất
hoành tráng, kì vĩ, đậm chất sử thi.
Hình ảnh “những đường Việt Bắc” đã mở ra một địa bàn kháng chiến với
những ngả đường bát ngát nối liền cả chiến khu Việt Bắc, gợi lên một
không gian rộng lớn, kì vĩ. Hai chữ “của ta” đã vang lên dõng dạc, tự hào
như khẳng định tư cách làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc đời của con
người Việt Bắc.
Trong không gian, khung cảnh đậm chất sử thi ấy đã xuất hiện hình ảnh
của những đoàn quân đang ngày đêm nối đuôi nhau hành quân ra mặt trận
với những bước chân đầy sức mạnh “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.
Từ “đêm đêm” gợi lên một khoảng thời gian dài, nối tiếp nhau mà những
bước chân hành quân của cả dân tộc như chưa bao giờ ngừng nghỉ. Đây
là sức mạnh của sự bền bỉ, kiên cường, hiên ngang. Từ láy “rầm rập” có
sự dụng phụ âm “r” kết hợp với hình ảnh so sánh “như là đất rung” gợi
lên những bước chân hành quân vũ bão có thể làm rung chuyển đất trời.
Qua những hình ảnh này cho thấy hình ảnh cả dân tộc Việt Nam với sức
mạnh ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ đang ngày đêm dồn toàn tâm toàn
lực cho kháng chiến

48
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> Chỉ với hai câu thơ Tố Hữu như làm sống dậy cả thời đại hào hùng của dân
tộc, mở ra một bức tranh toàn cảnh về Việt Bắc ra quân.
+ Để làm nên sức mạnh của dân tộc là có sự tham gia đóng góp của rất nhiều lực
lượng mà đầu tiên phải kể đến đó là Quân đội nhân dân Việt Nam – những người lính
ngày đêm sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc:
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
~ Điệp từ “điệp điệp, trùng trùng”
vốn là từ được dùng để miêu tả sự kì vĩ của núi non. Ở trong câu thơ này,
tác giả đã sử dụng nó để miêu tả Quân đội nhân dân Việt Nam gợi lên
được một đội quân hùng hậu, đông đảo, đang nối đuôi nhau hành quân ra
mặt trận. Ẩn trong câu thơ chính là niềm tự hào của tác giả, là sự phát
triển vượt bậc lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam mới ngày nào
lực lượng còn ít ỏi mà giờ đây đã trở thành một đoàn binh mạnh mẽ nối
đuôi nhau ra chiến trường với khí thế quyết chiến quyết thắng, với một
sức mạnh sánh ngang tầm vóc núi sông.
~ Ngoài ra, bức chân dung anh bộ đội cụ Hồ qua ngòi bút của tác giả đã hiện lên
với vẻ đẹp vừa giản dị, mộc mạc, rất mực đời thường nhưng cũng hết sức cao cả, vĩ
đại:
“Ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan.”
Sự giản dị toát lên từ trang phục với chiếc mũ nan rất bình thường,
chiếc mũ được kết dệt từ đôi bàn tay khéo léo của người Việt Bắc. Sự
giản dị ấy còn toát lên từ sự hài hòa với thiên nhiên, làm bạn với thiên
nhiên. Cụm từ “ánh sao đầu súng” mang ý nghĩa tả thực. Đây là hình ảnh
những người lính hành quân trong đêm, mũi súng chĩa lên trời cao nhìn từ
một góc độ nào đó những ngôi sao từ trên bầu trời như sà xuống treo trên
đầu súng.
Hình ảnh này cũng cho thấy những vẻ đẹp tâm hồn của anh bộ đội cụ Hồ.
Họ là những con người yêu thiên nhiên, cảm nhận được vẻ đẹp thiên
nhiên, trong chiến đấu gian khổ vẫn có những phút giây thưởng thức vẻ
đẹp thiên nhiên.

49
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Bên cạnh đó hình ảnh “ánh sao đầu súng” còn là hình ảnh mang tính biểu tượng,
ẩn dụ cho lí tưởng cao đẹp của người lính.
Những người lính sẵn sàng cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương đất
nước, đem lại hòa bình cho dân tộc, bảo vệ những nét đẹp của quê hương,
nét đẹp của cuộc đời. Hình ảnh những anh bộ đội hiện lên là những người
anh hùng nhưng lại rất mực đời thường. Đây cũng là vẻ đẹp con người
trong văn chương cũng như vẻ đẹp con người Việt Nam hướng tới.
Chẳng hạn như nhân vật Từ Hải trong “Truyện Kiều” được Nguyễn Du
khắc họa là một đấng anh hào nhưng vẫn là một người chồng, người đàn
ông có tấm lòng nhân hậu, vị tha, yêu thương Thúy Kiều hết mực. Hay
như hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ “Chiều tối” là một bậc đại nhân, đại
trí, đại dũng ngay cả khi gian khổ Bác đã vượt qua để hướng tới ánh sáng,
tới tương lai. Hình ảnh “lò than, xay ngô” là những chi tiết rất mực đời
thường và hình ảnh “Cô em xóm núi xay ngô tối” phải chăng hướng về
bữa cơm tối ẩn sâu trong Bác là một ước mong rất đỗi bình thường: khát
vọng về gia đình, khát vọng về bữa cơm đoàn viên. Hình ảnh thơ này
chúng ta cũng từng bắt gặp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu với
hình ảnh “đầu súng trăng treo”.
+ Để làm nên sức mạnh của toàn thể dân tộc trong cuộc kháng chiến trường kì
này còn phải kể đến lực lượng dân công hỏa tuyến:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”
Hai câu thơ trên dựng lên một bức tranh toàn cảnh rực rỡ, hoành tráng đầy khí
thế: đó là cảnh những đoàn dân công hòa tuyến đi trong đêm tối nhưng những ngọn
đuốc lung linh đã xua tan u ám bóng đêm núi rừng Việt Bắc – một không gian đậm
chất sử thi hoành tráng, kì vĩ.
những ngọn đuốc đang rực cháy kia còn là một hình ảnh tượng trưng cho
những trái tim đầy nhiệt huyết của những con người Việt Bắc trong
kháng chiến, những trái tim ấy giống như trái tim Đan – kô trong huyền
thoại. Cho dù ban ngày giặc quần đảo thì đoàn dân công với trái tim nhiệt
huyết ấy đã giành thế chủ động vào ban đêm, biến đêm thành ngày.

50
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Động từ mạnh “nát đá”, những hình ảnh kì vĩ “muôn tàn lửa bay” để tiếp tục khắc
họa vẻ đẹp hào hùng của đoàn dân công hòa tuyến.
Hình ảnh những tàn lửa toát ra từ các ngọn đuốc càng làm cho khung
cảnh núi rừng thêm rực rỡ. Đặc biệt hình ảnh “bước chân nát đá” đã cho
thấy sức mạnh lay trời chuyển đất, sức mạnh như vũ bão của dân tộc Việt
Nam. Những người dân công hòa tuyến vốn là những người nông dân
bình thường, trong lao động vốn cần cù chịu thương chịu khó và chính họ
trong cuộc đời cũ, xã hội cũ bị chèn ép, đàn áp và dường như luôn trong
thế bị động chờ đợi. Còn ở trong bài thơ, hình ảnh những đoàn dân công
ấy không chỉ làm chủ cuộc đời, làm chủ vận mệnh của mình mà còn sức
mạnh lay trời chuyển đất. Bước chân của họ có thể làm nát đá, họ có thể
biến đêm thành ngày.
+ Đi trong đêm trên những nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn xe cơ giới:
“ Nghìn đêm thăm thẳm sường dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Hai câu thơ trên mang ý nghĩa tả thực:
những đoàn xe cơ giới đi trong đêm khi ánh đèn pha bật lên đã xua tan
bóng đêm thăm thẳm của núi rừng, làm cho núi rừng sáng bừng lên.
Động từ “bật” kết hợp với tính từ “sáng” đã miêu tả một nguồn ánh sáng
mạnh mẽ, đột ngột đã làm chói lòa, bừng sáng cả núi rừng. Nó cũng gợi
lên sức mạnh của đoàn xe cũng chính là sức mạnh của Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Bên cạnh đó, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng:
ý thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” tượng trưng cho quá khứ đau
thương của lịch sử dân tộc - đó là những ngày tháng dân ta chìm trong
màn đêm của kiếp sống nô lệ; hình ảnh “đèn pha bật sáng” tượng trưng
cho tinh thần quật khởi, sự vùng lên đấu tranh của dân ta từ trong đau
thương, mất mát. Vì thế “ngày mai” là biểu tượng của một tương lai sáng
lạn, tương lai chiến thắng của dân tộc. Hình ảnh thơ tuy giản dị nhưng ý
thơ rất hàm súc, ý nghĩa.
+ Kết quả tất yếu của sức mạnh, của tinh thần đoàn kết dân tộc là những chiến
công vang dội, dồn dập liên tiếp:
51
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“ Tin vui chiến thắng trăm miền


Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Trong đoạn thơ tác đã liệt kê hàng loạt những địa danh
mà mỗi địa danh đều gắn liền với những chiến công vang dội: Hòa Bình,
Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, … Đây đều là những
chiến dịch lớn, chiến công oanh liệt của dân tộc. Tố Hữu đã đưa tên các
địa danh vào thơ một cách khéo léo, uyển chuyển tạo nên những vần thơ
nhịp nhàng.
Tác giả còn sử dụng điệp từ “vui” kết hợp với các quan hệ từ “về, từ, lên”
góp phần thể hiện những chiến công ròn, nối tiếp nhau, chiến công nối
tiếp chiến công, niềm vui gợi niềm vui. Đồng thời nó còn giúp các nhịp
thơ trở nên rộn rã, hào hùng.
Đoạn thơ như một khúc khải hoàn ca reo mừng chiến thắng là kết quả tất yếu của
một cuộc kháng chiến toàn dân.
 Có thể nói, cảm hứng sử thi và lãng mạn chi phối toàn bộ đoạn thơ từ cách sử
dụng hình ảnh, từ ngữ đến cách ngắt nhịp để tạo nên giọng điệu sôi nổi, hào hùng. Về
hình ảnh, TH đã triệt để sử dụng những hình ảnh tượng trưng mang màu sắc thần thoại
có tình chất cường điệu, phóng đại. Về từ ngữ, tác giả sử dụng động từ mạnh, những
từ láy tượng hình, tượng thanh khiến âm hưởng đoạn thơ mạnh mẽ, như rầm rập, điệp
điệp trùng trùng, nát đá, thăm thẳm... Về cách ngắt nhịp, TH sử dụng lối ngắt nhịp linh
hoạt kết hợp với những điệp từ khiến giọng điệu đoạn thơ dồn dập, hối hả
 Chỉ với một đoạn thơ ngắn, TH đã khắc họa thành công một bức tranh cả dân
tộc ra trận bằng một cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ
làm sống dậy một thời kì hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa VB đang chuẩn bị cho
một chiến công lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu mà còn đem lại cho người độc
niềm tin và tình yêu với quê hương, đất nước, niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đoạn
thơ cũng rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ TH.

* Trong nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng, một phần không thể thiếu để
làm nên chiến thắng đó là nhờ vào những chiến lược, sách lược sáng suốt hợp lí
52
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

của cơ quan trung ương Đảng, Chính phủ. Sự phối hợp nhịp nhàng, hài hòa giữa
tiền tuyến và hậu phương đã giúp chúng ta có những thắng lợi vả vang:
“ Điều quân chiến dịch Thu – Đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Đặc biệt đó là sự chỉ đạo của Bác Hồ, niềm tin của nhân dân ta vào vị lãnh tụ:
“ Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.”
 Có thể khẳng định rằng bài thơ Việt Bắc nói chung và phần một của tác phẩm
nói riêng là một thành công trong sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu, là một tác phẩm thể
hiện rõ được phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu từ nội dung đến nghệ thuật. Qua đây
tác giả không chỉ tái hiện được một giai đoạn lịch sử gian khổ của dân tộc, rất đỗi hào
hùng của dất nước mà còn ngợi ca lối sống ân tình, ân nghĩa thủy chung, ngợi ca đạo
lý truyền thống ngàn đời “Uống nước nhớ nguồn”.

53
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm)


(Trích trường ca Mặt đường khát vọng)
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong
những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khác với những nhà thơ cùng thời như
Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh…., Nguyễn Khoa Điềm
thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm
lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách
nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc, thể hiện
những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nghiệm của chính
mình.
2. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ đoạn trích:
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác trong thời kì tác giả sống và
làm việc tại chiến khu Trị - Thiên từ 1971 và được xuất bản năm 1974 với nội dung
nói về sự thức tỉnh của tầng lớp thanh niên đô thị vùng tạm chiếm trước bước ngoặt
lịch sử của dân tộc, trong cuộc đối đầu giữa chính nghĩa và phi nghĩa để giành độc lập
hòa bình cho Tổ quốc, cho dân tộc, về sứ mệnh của lớp người trẻ tuổi đối với đất
nước. Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca này, với cảm
hứng chủ đạo là đất nước của nhân dân, là đoạn tiêu biểu của “Mặt đường khát vọng”.
b) Đề tài:
Đoạn trích “Đất Nước” mang lại cái nhìn mới mẻ về đất nước, một đề tài quen
thuộc trong văn học Việt Nam, mà qua đó đất nước hiện ra với vẻ đẹp nhiều chiều từ
lịch sử, văn hóa, địa lí,…để từ đó, tác giả khái quát đất nước là kết tinh của quá trình
đấu tranh lâu dài của dân tộc, là sự hội tụ của khát vọng của nhân dân và chính nhân
dân là người làm nên đất nước, “Đất nước là của nhân dân”.
c) Bố cục: Đoạn trích có thể chia làm hai phần:
- Phần 1: Tác giả đã tự đặt ra và trả lời hai câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? (từ
đầu đến “Đất Nước có từ ngày đó”) và Đất Nước là gì? (tiếp theo đến “Làm nên Đất
Nước muôn đời…). Tóm lại, phần 1: Cách cảm nhận và lí giải của nhà thơ về đất
nước.
54
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Phần 2: Từ những tiền đề ở phần 1, nhà thơ tiếp tục suy nghĩ: Vậy, ai đã làm
nên Đất Nước? (hay Đất Nước này do ai làm nên?). Tóm lại, phần 2: Nhà thơ tập
trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân.
II. PHÂN TÍCH (ĐOẠN TRÍCH):
* PHẦN 1:
1. Đất Nước có từ bao giờ?
- Tùy theo từng thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan
niệm khác nhau, đất nước có thể thiêng liêng khi đó là nơi “Nam đế cư”, đất nước có
thể hiện ra trong những khái niệm trừu tượng như trong đoạn đầu của “Bình Ngô đại
cáo” thế kỉ XV với “nền văn hiến đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam
cũng khác…”. Văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng
liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ,
mang đậm tính biểu tượng, Đất Nước có thể huy hoàng khi “Rũ bùn đứng dậy sáng
lòa”, có thể hoành tráng “Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn; Mây mờ che đỉnh
Trường Sơn sớm chiều” (Nguyễn Đình Thi), Đất Nước được nhìn qua những trang sử
hào hùng trong “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” của Chế Lan Viên; Đất Nước
cũng có thể đẹp lung linh, kì ảo, xa vời trong so sánh: “Đất nước như vì sao – Cứ đi
lên phía trước” (Thanh Hải)….Trong khi đó, tác giả “Mặt đường khát vọng” lại đến
với Đất Nước ở “muôn mặt đời thường” - những gì bình dị nhất, gần gũi nhất và thân
quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi người Việt Nam chúng ta:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…………………………………….
Đất Nước có từ ngày đó…”
- Câu thơ mở đầu khúc ca, nhà thơ đưa người đọc trở về với cội nguồn của đất
nước: Đất Nước có từ bao giờ?:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.”
+ Câu thơ như lời thủ thỉ tâm tình giản dị, mộc mạc nhưng khẳng định được
nguồn cội sinh thành lâu đời của Đất Nước. Không biết Đất Nước có tự bao giờ, chỉ
biết khi ta lớn lên, khi có nhận thức về vạn vật ở xung quanh mình thì Đất Nước đã có
rồi.

55
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Cụm từ “đã có rồi” khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước, và ở hiện tại,
Đất Nước vẫn hiện hữu ngay trước mắt chúng ta.
- Tác giả đã khắc họa hình ảnh Đất Nước tồn tại, Đất Nước hiện diện trong
những gì gần gũi, thân thuộc xung quanh ta chứ không phải những điều khó hình
dung, cao xa nơi nào cả:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Đất Nước thân thương hiện lên qua lời ru của bà, của mẹ:
“Ngày xửa ngày xưa…” là lời kể xuất hiện quen thuộc trong mở đầu
những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại của văn học dân gian.
Hình ảnh Đất Nước có trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại ấy,
điều đó càng chứng tỏ được sự hình thành lâu đời của Đất Nước. Chỉ có
điều, cho dù hình thành lâu đời nhưng nó không hề xa vời, trừu tượng mà
ngược lại rất gần gũi bởi ngay từ thuở ấu thơ, từ thuở nằm nôi, chúng ta
đã được nghe qua những lời ru, câu chuyện, câu hát của bà, của mẹ, để
“dáng hình Đất Nước” được khắc ghi trong tâm trí chúng ta, để cho ta
biết quê hương nào đã sinh ra ta và nuôi dưỡng ta nên người.
+ Không chỉ có thế, Đất Nước hiện lên giản dị, mộc mạc qua hình ảnh “miếng
trầu”.
Tục ăn trầu là phong tục tập quán của con người Việt Nam. Với người
Việt, “miếng trầu là đầu câu chuyện”, ăn trầu thể hiện tình cảm thân
thương, sự cảm mến, quý trọng tình nghĩa. Người xưa có câu “miếng trầu
nên dâu nhà người”, miếng trầu đã se duyên cho đôi lứa nên vợ thành
chồng. Hình ảnh “miếng trầu” cho ta nhớ đến câu chuyện cổ tích “Trầu
cau”, câu chuyện mang ý nghĩa về tình cảm anh em nghĩa tình sâu nặng,
tình cảm vợ chồng nồng thắm, thủy chung. Đó cũng chính là nét đẹp văn
hóa của đất nước được dân gian gìn giữ suốt biết bao thế hệ. Tác giả sử
dụng từ “bắt đầu” để thể hiện nguồn cội sinh thành của Đất Nước là từ
những gì giản dị nhất, thân thuộc nhất trong đời sống hằng ngày của
chúng ta.
+ Đất nước được lớn lên từ truyền thống yêu nước kiên cường của dân tộc:
56
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Cây tre vốn là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên cường của dân tộc
Việt Nam trong chiến đấu:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.»
Hình ảnh «trồng tre đánh giặc» thể hiện truyền thống yêu nước chống
giặc ngoại xâm của dân tộc. Hình ảnh này còn gắn liền với truyền thuyết
Thánh Gióng, tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta. Từ một chú
bé ba tuổi chẳng nói chẳng cười, khi nghe tin có giặc ngoại xâm thì mở
lời xin đi đánh giặc, rồi vụt cao lớn thành tráng sĩ, nhổ tre quét sạch quân
thù.
+ Đất Nước không chỉ được hình thành từ truyền thống yêu nước và bề dày văn
hóa của dân tộc mà còn được tạo nên qua những thói quen sinh hoạt hằng ngày,
qua những phong tục tập quán, qua lối sống của nhân dân :
«Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên.»
Khi có gia đình, người phụ nữ Việt Nam lại rất đảm đang, vén khéo, lo
toan công việc, chính vì vậy, mái tóc luôn được búi gọn gàng ở sau gáy.
Người Việt Nam còn là những con người rất coi trọng tình nghĩa Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn - thành ngữ “gừng cay muối mặn”
vốn để chỉ những khó khăn, thử thách, những đắng cay mà con người có
thể gặp phải trong cuộc đời, nhưng đặt vào trong câu thơ, trong lời thơ lại
khẳng định tình nghĩa vợ chồng mặn mà, sâu đậm khi đã cùng nhau trải
qua đắng cay. Đúng vậy, khi đã cùng nhau trải qua khó khăn, thử thách
thì người Việt Nam càng thương yêu nhau, càng gắn bó, sẻ chia với nhau
hơn.
=> Ở trong câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc đến những bài
ca dao quen thuộc, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, tình yêu lứa đôi:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.”
Hay : “Muối ba năm muối còn đang mặn
57
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay


Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dù có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.”
+ Đất nước được trưởng thành từ truyền thống lao động cần cù của nhân
dân ta:
“Cái kèo, cái cột thành tên”.
Đất Nước hiện lên từ những sự vật bình dị, đơn sơ: cái kèo, cái cột là
những vật không thể thiếu trong quá trình dựng nhà của người Việt. Cha
mẹ cũng dùng tên những sự vật ấy để đặt tên cho con, đó là tên gọi suồng
sã, giản dị với niềm mong ước dễ nuôi, dễ lớn.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”.
Đất nước ta là một nước nông nghiệp, nổi tiếng với truyền thống trồng
lúa nước, không chỉ sản xuất hạt gạo để cung cấp đời sống nhân dân trong
nước mà còn xuất khẩu ra các nước trong khu vực. Nhưng để sản xuất ra
hạt gạo là quá trình vất vả “một nắng hai sương”, cần cù chịu khó “xay,
giã, giần, sàng” của nhân dân. Đó là công việc lao động nặng nhọc,
nhưng lại vô cùng quen thuộc của người Việt.
=> Qua đây, tác giả cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải biết quý trọng
công sức lao động của những người nông dân không ngừng dựng xây Tổ
quốc
 Qua chín câu thơ đầu, tác giả không chỉ gợi lên nguồn cội Đất Nước mà còn
cảm nhận về Đất Nước trên bình diện văn hóa, qua đó Đất Nước hiện lên giản dị, mộc
mạc, gần gũi, thân thuộc với mỗi người. Đó cũng là cách nhà thơ gián tiếp thể hiện tư
tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
 Để làm nổi bật lên hình ảnh Đất Nước gần gũi thân thương, tác giả có sự kết
hợp hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính luận.
Chất liệu văn hóa dân gian đậm đặc nhưng cũng rất linh hoạt ở những câu
ca dao, truyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục, tập quán. Những lời thơ,
câu thơ có sự đan xen giữa câu dài, câu ngắn, gợi lên giọng điệu du
dương như câu hát ru của bà, của mẹ về đất nước, lời thủ thỉ tâm tình của
đôi lứa yêu nhau về cội nguồn quê hương mình. Từ “Đất Nước” được
dùng lặp đi lặp lại, luôn được viết hoa rất trang trọng gợi lên sự thiêng
58
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

liêng, niềm tự hào về đất nước của tác giả. Nhà thơ cũng sử dụng từ ngữ
mang màu sắc chính luận, làm nổi bật sự hình thành, phát triển của Đất
Nước như là ‘bắt đầu”, “lớn lên”, và đặc biệt là câu thơ “Đất Nước có từ
ngày đó.” Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật
vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng
sông núi. Việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian ấy ko đơn thuần chỉ là
một phương tiện nghệ thuật, cũng ko phải là một mô-tuyp sáng tạo... mà
nó còn thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng Đất nước của Nhân dân của nhà
thơ.
Có thể nói, tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” – tư tưởng chủ đạo của trang
thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật
của tác phẩm.
- Đất Nước không chỉ được cảm nhận qua bình diện văn hóa, truyền thống
lâu dài của dân tộc mà còn được tác giả cảm nhận trên bình diện không gian địa
lí:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
+ Trong đoạn thơ trên, tác giả đã viết theo lối triết tự, tách từ “Đất Nước” ra làm
hai thành tố “Đất” và “Nước” -
- “Đất Nước” vốn là một khái niệm trừu tượng để chỉ một quốc gia, một
dân tộc nhưng ở đây, nhà thơ đã tách ra thành hai thành tố như vậy để
làm cho hình ảnh Đất Nước trở nên cụ thể, dễ hiểu, dễ cảm nhận hơn.
+ Từ đây, với Nguyễn Khoa Điềm, không gian địa lí của Đất Nước trước hết
là không gian gắn liền với những sinh hoạt đời thường, là không gian sinh tồn,
gắn bó với mỗi người.
~ “Đất là nơi anh đến trường”
Con đường đến trường là con đường gắn với nhiều sự vật quen thuộc,
gắn với quê hương thân thương của mỗi con người. Nơi đó đã cho “anh”
cả một chân trời kiến thức, chắp cánh cho “anh” vững bước vào đời.
~ “Nước là nơi em tắm”
59
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Hình ảnh bến nước, bến sông quê hương là nơi lưu giữ những kỉ niệm
của tuổi ấu thơ. Đất Nước đã gột rửa tâm hồn em trong sáng, dịu hiền,
cho em được đắm mình trên dòng sông quê mẹ.
~ Đất Nước còn là nơi anh và em hò hẹn, lưu giữ những kỉ niệm lứa đôi, bên bến
nước, gốc đa, sân đình. Không những thế, Đất Nước còn người bạn chia sẻ những tình
cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất Nước – nơi em đánh rơi chiếc khăn
trong nỗi nhớ thầm,
là hiên nhà, căn phòng, là bờ ao đã đi vào thơ ca:
. “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước”
. “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai, khăn vắt trên vai.”
. “Đêm qua ra đứng bờ ao…”
=> Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy: không gian địa lý của Đất Nước là những
gì thân thuộc, gắn liền với mỗi người chứ không hề xa vời, trừu tượng,
nó không phải là một không gian được phân định tại một « sách trời »
nào đó, cũng không phải chỉ là hình ảnh của những cánh đồng bao la
thẳng cánh cò bay hay hình ảnh của dãy Trường Sơn hùng vĩ, như
Nguyễn Đình Thi từng cảm nhận:
“ Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”
Những câu thơ trên gợi không gian mênh mông, kì vĩ rất đáng tự hào
nhưng có phần xa vời trong nếp nghĩ của người Việt Nam, điều đó đã trở
thành ước lệ, công thức. Những không gian mà đối với mỗi người dân
Việt Nam bình thường chưa bao giờ được đặt chân tới và rất khó hình
dung, tưởng tượng. Đây chính là sự mới mẻ, độc đáo khi định nghĩa Đất
Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
+ Bên cạnh đó, nhà thơ cũng không quên khắc họa lên không gian kì vĩ của
Đất Nước với những hình ảnh của núi rừng, sông bể rất đáng tự hào:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
60
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Chỉ có điều khi đọc những câu thơ này ta nhận thấy ngay cả khi khắc họa không
gian kì vĩ của Đất Nước, nhà thơ vẫn khiến hình ảnh Đất Nước thật gần gũi, thân
thuộc gắn bó với mỗi người.
Ở đây, tác giả đã rất khéo léo sử dụng những câu hò vùng Bình Trị Thiên
để gợi lên hình ảnh về núi bạc, về biển khơi. Những câu hò, câu hát ấy
cũng gợi nhắc người đọc về những câu chuyện cổ tích quen thuộc, gắn
liền với mỗi người thuở ấu thơ. Đó là truyện cố tích “Cây khế”, sự tích về
cá ngư ông…. Chính những câu chuyện cổ tích này, với không gian về
núi vàng, núi bạc, về biển khơi xa thẳm đã khiến cho hình ảnh Đất Nước
vừa lớn lao, hùng vĩ song hết sức bình dị, thân thuộc.
=> Tác giả không chỉ cảm nhận không gian địa lí Đất Nước gắn liền với
sinh hoạt đời thường, mà còn cảm nhận về một không gian lớn lao, kì vĩ
mênh mông, nhưng cách diễn đạt của nhà thơ vẫn khiến Đất Nước gần
gũi, thân thuộc hơn.
=> Ngoài việc sử dụng nghệ thuật tách từ thì tác giả còn sử dụng chất
liệu văn hóa dân gian một cách linh hoạt, uyển chuyển trong ca dao,
truyện cổ tích, câu hò, điệu hát dân gian, …
+ Không gian địa lí của Đất Nước là không gian sinh tồn, nơi người dân Việt
Nam đoàn tụ, sinh sống bao đời.
“ Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
- Đất nước còn được cảm nhận trên bình diện chiều dài thời gian lịch sử :
+ Khi gợi lên chiều dài lịch sử Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm không sử dụng
chính sử, không sử dụng những con số mà tác giả sử dụng những huyền thoại, truyền
thuyết, dã sử,… nó khiến hình ảnh Đất Nước hiện lên hết sức gần gũi, thân thuộc.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
….
bằng huyền thoại, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lên cả một quá khứ lịch
sử lâu đời của Đất Nước. Với tác giả, Đất Nước được ra đời từ thuở hồng
hoang của loài người, từ thủa đồng bào ta được sinh ra từ “bọc trứng”.
61
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Qua đây, tác giả cũng đã bộc lộ niềm tự hào về nguồn gốc cao quý của
dân tộc Việt Nam, chúng ta là con Rồng, cháu Tiên.
=> Trong một đoạn thơ ngắn, nhà thơ đã vận dụng những câu chuyện
truyền thuyết, gợi mở sự hình thành của dân tộc Việt Nam đó là truyền
thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”, “Lạc Long Quân”, ….
+ chiều dài lịch sử của Đất Nước vẫn còn đang được tiếp nối bởi cuộc đời của
mỗi người, đang được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
~ Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ mang màu sắc
chính luận như “gánh vác”, “dặn dò”, để gợi lên sự tiếp nối giữa các thế
hệ con người để tạo nên chiều dài lịch sử vô cùng vô tận của Đất Nước.
“Những ai đã khuất” là thế hệ đi trước, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của
chúng ta; “những ai bây giờ ” là hiện tại, là chính chúng ta; “sinh con đẻ
cái” – sự gợi mở về thế hệ tương lai của Đất Nước.
=> Bất kể những ai đang sống trọn vẹn phần đời của mình, đó là đang
góp phần làm nên chiều dài lịch sử của dân tộc, là đang hòa mình vào
dòng chảy lịch sử của Đất Nước. Một cuộc đời “trọn vẹn” là sống để vừa
gánh vác phần người đi trước để lại, yêu nhau, sinh con đẻ cái, biết cúi
đầu trước ngày giỗ Tổ, khi khuất đi thì dặn dò con cháu về chuyện của
tương lai, để làm sao cho trọn nghĩa tình với Tổ quốc. Trong cảm nhận
của nhà thơ về chiều dài lịch sử của Đất Nước: Đất Nước có quá khứ lịch
sử lâu đời, lịch sử ấy vẫn đang được nối tiếp bằng cuộc đời của mỗi
người, bằng cuộc đời của chính chúng ta. Để gợi lên chiều dài lịch sử lâu
đời của đất nước, bên cạnh việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian, tác
giả đã kết hợp với lớp từ chính luận hết sức đặc sắc và cảm xúc thiêng
liêng nhưng hết đỗi chân thành.
<=> Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một
hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương
62
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

diện : trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của
thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách
dân tộc. Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện
nào thì tư tưởng: Đất Nước của Nhân Dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui
chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
- Từ cách cảm nhận Đất Nước về nguồn cội sinh thành, chiều sâu văn hóa,
không gian địa lí, thời gian lịch sử, nhà thơ đã cho ta thấy hình ảnh Đất Nước gần gũi,
thân thuộc, gắn bó với mỗi người. Không chỉ vậy, trong mười ba câu thơ tiếp theo,
tác giả khẳng định: Đất Nước không chỉ là khách thể tồn tại ở bên ngoài chúng ta
mà Đất Nước còn là chủ thể có trong mỗi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.”
+ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng “anh-em” kết hợp với
giọng điệu thủ thỉ, tâm tình đã làm cho hình tượng Đất Nước được cảm nhận một cách
đậm đà chất trữ tình, trở thành câu chuyện tình cảm của đôi lứa.
+ Trong lời trò chuyện thủ thỉ tâm tình ấy, tuổi trẻ Việt Nam (anh-em) đã ý thức
được sự hòa nhập giữa cái tôi – ta, giữa cái riêng – chung qua việc khẳng định: Trong
mỗi con người đều mang một phần của Đất Nước cũng giống như ai cũng có của riêng
mình một miền quê để thương, để nhớ, để tự hào
Mỗi chúng ta, ai cũng có tổ tiên, ông bà, cha mẹ để yêu thương, để
tưởng nhớ, tiếp bước noi theo. Chính vì vậy, mỗi người đều mang một
phần lịch sử dân tộc (bởi lịch sử dân tộc là sự nối tiếp của các thế hệ, sự
nối tiếp của cuộc đời mỗi người). Chúng ta là người Việt Nam, trong ta,
mỗi người đều mang một giọng nói, một ngôn ngữ riêng, một tiếng Việt
rất ngọt ngào, thân thương cũng rất đỗi Việt Nam :
63
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết


Người qua đường chung Tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời (Tiếng Việt- Lưu Quang
Vũ)
+ Khi mỗi người đều mang một phần hình hài Đất Nước mà “cầm tay nhau”,
“cầm tay mọi người”,
tức là tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu ĐN, « từ chân trời của một người
đến với chân trời của mọi người ». Chúng ta có tinh thần đoàn kết, biết
hòa nhập cái tôi – ta, cái riêng – chung thì hình ảnh Đất Nước sẽ “hài hòa
nồng thắm”, “vẹn tròn to lớn”.
+ làm nên hình ảnh Đất Nước toàn vẹn, non sông nối liền một dải thì không thể
thiếu đi bất kì một cá nhân nào, cũng như không thể thiếu đi bất kì một thế hệ nào.
Nếu thế hệ cha anh tạo nên cho Đất Nước một lịch sử lâu đời, nếu chúng
ta bây giờ đang tiếp nỗi chiều dài lịch sử ấy của Đất Nước thì thế hệ con
cháu chúng ta – thế hệ tương lai sẽ “mang Đất Nước đi xa”.
=> Qua đây, tác giả muốn nhắn nhủ chúng ta rằng: Để làm nên sự trọn vẹn của
Đất Nước thì không chỉ có sự đoàn kết của mỗi cá nhân trong hiện tại mà còn có sự
nối tiếp của các thế hệ giữa quá khứ - hiện tại – tương lai. Hình ảnh “đi đến những
tháng ngày mơ mộng” bộc lộ ước mơ, khát vọng về tương lai tốt đẹp, Đất Nước hòa
bình, thống nhất, đó là những tháng ngày với niềm tin và hy vọng về những điều tốt
đẹp nhất đến với chúng ta, đến với Đất Nước.
+ Từ việc khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với Đất Nước, tác giả đã nêu lên
tinh thần trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
~ Sự dồn nén về cảm xúc của nhà thơ được thể hiện qua lời gọi thiết tha “em ơi
em”, qua điệp từ “phải biết”.
~ Mỗi người chúng ta cần phải có trách nhiệm với Đất Nước vì Đất Nước là máu
xương của mình.
64
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Câu thơ vừa mang tính chất khái quát nhưng cũng rất cụ thể. Khái quát
ở chỗ hình ảnh Đất Nước nhìn trên bất kì bình diện nào cũng gắn bó với
mỗi người, là chủ thể có trong mỗi người, đã trở thành một phần máu thịt
không thể tách rời. Cụ thể ở chỗ: Để làm nên Đất Nước, có biết bao thế
hệ những con người đã hy sinh vì quê hương, đất nước; tổ tiên, ông bà
chúng ta cũng sinh sống trên mảnh đất này, khi ra đi cũng gửi lại một
phần thân xác nơi đây. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.”
Hay nhà thơ Hoàng Cầm trong “Bên kia sông Đuống” khi nghe tin quê
hương bị giặc xâm chiếm đã bộc lộ:
“Sao xót xa như rụng bàn tay”
Quê hương là máu thịt nên mất một phần quê hương là mất đi một phần
máu thịt của mình, xót xa như mất một phần cơ thể sống của chính mình.
~ Trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước là “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” thì
sẽ “làm nên Đất Nước muôn đời”.
Đây là những lớp từ chính luận để tác giả nhấn mạnh sự cống hiến, hy
sinh vì quê hương, đất nước cũng chính là hy sinh vì những người thân
yêu, vì máu thịt của mình, vì tổ tiên, ông bà và vì chính bản thân chúng
ta.
Tóm lại, trong phần một của đoạn trích Đất Nước (chương V trường ca MĐKV),
Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận, định nghĩa Đất Nước trên nhiều bình diện khác
nhau, thể hiện cái nhìn tổng hơp, toàn vẹn về Đất Nước.
Qua cảm nhận ấy, tác giả đã làm hiện lên hình ảnh Đất Nước gần gũi, thân thuộc,
gắn bó với mỗi người, góp phần thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
Để góp phần thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”, nhà thơ đã
sử dụng chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo.
Văn hóa dân gian là lời ăn tiếng nói của nhân dân, là tư tưởng, tâm hồn,
tình cảm của nhân dân, vì thế việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian với

65
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Nguyễn Khoa Điềm không chỉ đơn thuần là một phương tiện nghệ thuật
mà nó còn chứng tỏ ông thấm nhuần tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
Hình ảnh Đất Nước hiện lên cũng rất mới mẻ, độc đáo:
Đất Nước được định nghĩa, cảm nhận trên nhiều phương diện khác
nhau và ở phương diện nào cũng thấy hình ảnh Đất Nước hiện lên cụ thể,
gần gũi với mỗi người, không hề xa vời, trừu tượng (không gian địa lí
được nhìn nhận bằng những gì thân thuộc nhất, giản dị nhất với mỗi con
người chứ không phải những điều khó tưởng tượng, chiều dài lịch sử của
Đất Nước được đo bằng cuộc đời của chính chúng ta chứ không phải đo
bằng những con số,…). Nhà thơ làm nổi bật hình ảnh Đất Nước mới mẻ,
độc đáo qua chất liệu văn hóa dân gian như những điệu hò, câu hát,
truyện cổ tích, truyền thuyết,…
* Không chỉ thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” một cách gián tiếp
qua việc khắc họa hình ảnh Đất Nước gần gũi, thân thuộc, gắn bó với mỗi người,
có trong mỗi người, tác giả còn tập trung khẳng định trực tiếp: Nhân Dân chính
là những người làm nên Đất Nước trong phần thơ tiếp theo.
- Trước hết, nhà thơ khẳng định Nhân dân chính là những người đã làm nên
không gian địa lí của Đất Nước.
+ Với Nguyễn Khoa Điềm để có được dáng núi hình sông, danh lam thắng cảnh
trên khắp mọi miền Đất Nước là nhờ vào sự đóng góp, sự hóa thân của những cuộc
đời, những ước mơ, khát vọng của Nhân Dân:
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hừng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.”
+ Nguyễn Khoa Điềm khi ngắm dáng núi hình sông trên khắp quê hương, đất
nước đã không nhìn bằng con mắt của những nhà địa lí để thấy những danh lam, thắng
cảnh là do thiên nhiên, tạo hóa ban tặng, do sự kiến tạo của vỏ Trái Đất, những đặc
66
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

điểm về địa hình trên Đất Nước Việt nam, mà nhà thơ đã nhìn bằng tư tưởng “Đất
Nước của Nhân Dân”. Cho nên mỗi một danh lam thắng cảnh, dáng núi hình sông, tên
đất, tên làng đều là do Nhân Dân đóng góp, hóa thân mà thành:
~ Sở dĩ ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam đều có núi Vọng Phu là bởi có biết bao
người vợ nhớ chồng qua những cuộc chiến tranh đến hóa đá mà thành.
~ Ở Thanh Hóa có danh lam mang hình và được gọi tên là hòn Trống Mái là vì có
cặp vợ chồng yêu nhau hóa thân mà thành.
~ Có những ao, đầm là do gót ngựa của Thánh Gióng, chú bé làng Phù Đổng để
lại sau cuộc chiến đấu chống giặc Ân.
~ Ở vùng đất Phong Châu – Phú Thọ có những ngọn núi mang hình những chú
voi chầu về đất Tổ. Đó là sự hóa thân của những người con có hiếu, có lòng trung
thành với Đất Nước, với quê hương.
~ Ngay cả con rồng, một con vật linh thiêng tưởng chừng chỉ có trong truyền
thuyết cũng nằm im để góp cho Đất Nước dòng sông Cửu Long xanh thẳm.
~ Những cậu học trò nghèo bằng ước mơ, khát vọng học hành đã hóa thân để góp
cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên. Nếu không có sự đóng góp, hóa thân của những
con người bình dị này thì Đất Nước Việt Nam chúng ta ngày nay khó có thể được thế
giới biết đến như bây giờ.
~ Ngay cả những con vật bình thường như con cóc, con gà cũng hóa thân để trở
thành những danh lam thắng cảnh tô điểm cho Đất Nước, như hình ảnh Vịnh Hạ Long
hay biết bao danh lam thắng cảnh khác …
~ Những tên đất, tên làng cũng chính là tên của những người đã có những đóng
góp cho quê hương, xứ sở: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,… Đó là những
con người mà họ đã sẵn sàng hy sinh bản thân, dùng trí tuệ để khai hoang, lập ấp, để
chiến đấu bảo vệ quê hương. Người đời sau, để ghi nhớ công ơn của họ đã lấy tên của
những con người này để đặt tên cho làng, cho xã như một cách để bày tỏ lòng biết ơn,
sự tri ân với thế hệ đi trước.
+ Trong đoạn thơ này, để làm nổi bật vai trò to lớn của Nhân Dân trong việc làm
nên không gian điạ lí Đất Nước, tác giả đã sử dụng những điệp từ “góp”, “những”,
điệp cấu trúc câu,… và phép liệt kê: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non
Nghiên,… để nhấn mạnh vai trò to lớn của Nhân Dân. Trong suốt bốn nghìn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã không tiếc công sức của mình để tạo dựng
67
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

nên hình ảnh Đất Nước Việt Nam tươi đẹp với những danh lam thắng cảnh, những
miền quê trù phú.
+ Từ đó, những câu thơ tiếp theo, tác giả đã cất lên lời khái quát về công lao, sự
đóng góp của Nhân Dân với Đất Nước:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
~ Tác giả đã đặt cạnh nhau những từ: “ruộng đồng”, “gò bãi” để gợi lên không
gian địa lí của Đất Nước vô cùng rộng lớn.
~ Hình thức câu hỏi tu từ nhưng để khẳng định: Ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò
bãi cũng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
=> Dấu ấn của Nhân Dân, công lao của Nhân Dân có ở trên khắp mọi miền Đất
Nước, quê hương. Nhìn vào bất kì hình sông thế núi nào cũng là “dáng hình của Nhân
Dân”, là sự hóa thân của những con người bình dị, đâu cũng gợi lên ao ước, khát vọng,
ước mơ đẹp đẽ của ông cha ta về truyền thống hiếu học, khát vọng hạnh phúc,…
=> Đó cũng là lời nhắc nhở về lối sống đã trở thành truyền thống, bản sắc văn
hóa riêng của người Việt Nam. Đó là sự thủy chung, tình yêu thương nồng nàn, là sự
hiếu thảo,… Nhà thơ đã bộc lộ suy nghĩ của mình, để làm nên Đất Nước phải có sự
đóng góp, hóa thân của những cuộc đời, những số phận con người đã “hóa núi sông ta
 Nguyền Khoa Điềm đã nêu lên lời khẳng định vai trò, công lao vô cùng to lớn
của Nhân dân trong việc làm nên không gian địa lí của Đất Nước, bằng nghệ thuật
điệp từ, liệt kê, chất liệu văn hóa dân gian
được thể hiện ở chỗ: mỗi một ý thơ đều lấp lánh những câu chuyện cổ
tích, những huyền thoại, truyền thuyết: sự tích núi Vọng Phu, truyền
thuyết Thánh Gióng, truyền thuyết về các vua Hùng, sự tích hòn Trống
Mái, sự tích về núi Bà Đen.
những lớp từ chính luận: dáng hình, ao ước, Đất Nước bốn nghìn năm,…đã cho ta
thấy sự dồn nén cảm xúc của nhà thơ ở những câu thơ cuối.
- Nhân Dân không chỉ làm nên những dáng núi, hình sông từ những sự vật
hữu hình, những danh lam thắng cảnh mà Nhân Dân còn làm nên chiều dài lịch
sử cho Đất Nước:
68
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.”
+ Trong đoạn thơ này nhà thơ đã sử dụng một con số mang tính ước lệ để gợi lên
chiều dài lịch sử của Đất Nước: Đất Nước đã có bề dày, có chiều dài lịch sử bốn nghìn
năm, đó là một bề dày lịch sử thật đáng tự hào.
+ Để làm nên chiều dài lịch sử đó phải kể đến công lao đóng góp của Nhân Dân.
~ Những từ ngữ, hình ảnh “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta”, “người người
lớp lớp” gợi lên một cộng đồng, một tập thể vô cùng đôg đảo, hùng hậu, không phân
biệt già – trẻ, gái – trai,… đó chính là Nhân Dân bao đời.
~ Khi Đất Nước hòa bình, Nhân Dân chính là người “cần cù làm lụng” để xây
dựng quê hương,
những con người mà Nguyễn Đình Chiểu đã từng ca ngợi trong “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”: “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, “chỉ biết đến
ruộng trâu ở trong làng bộ”.
~ Nhưng khi Đất Nước có chiến tranh, cũng chính Nhân Dân đã sẵn sàng chiến
đấu, hy sinh để bảo vệ tổ quốc:
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con”.
Vai trò của nam giới với lịch sử đất nước được khẳng định trước hết
trong việc chiến chinh, sẵn sàng đối đầu với kẻ thù nguy hiển để bảo vệ
quê hương, bảo vệ gia đình. Còn người phụ nữ với thiên chức làm vợ,
làm mẹ sẽ trở thành hậu phương vững chắc, trở thành chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho những người lính ngoài tiền phương. Thế nhưng trong tình
thế nguy cấp của Đất Nước thì ngay cả “đàn bà cũng đánh” mỗi khi “giặc
đến nhà”. Người phụ nữa Việt Nam vẫn khẳng định vai trò của mình với
69
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Đất Nước, với quốc gia. Họ không còn chỉ là những người biết « tề gia
nội trợ » mà họ sẵn sàng xông pha lên mặt trận, có nhiều người phụ nữ đã
trở thành anh hùng. Trong lịch sử ghi lại biết bao tấm gương về những
người phụ nữ anh hùng như: Bà Trưng, Bà Triệu, chị Võ Thị Sáu, chị
Trần Thị Lý,…
+ Với Nguyễn Khoa Điềm, trong quá trình khẳng định vai trò của nhân dân trong
việc làm nên lịch sử Đất Nước, tác giả cũng không phủ nhận những công lao của
những vị anh hùng kiệt xuất, những con người đã được ghi danh vào sử sách, những
người anh hùng mà “cả anh và em đều nhớ”.
Trong những trang lịch sử chói lọi của dân tộc đã từng ghi tên biết bao
anh hùng: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung,… những người
anh hùng nổi danh ấy đã góp phần tạo nên những bước ngoặt trong lịch
sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm cho dân tộc, họ là những dấu son chói
lọi cho con cháu tự hào. Những anh hùng này đã được rất nhiều nhà thơ
ca ngợi: Nguyễn Trãi khi nhắc đến những triều đại với những vị vua là
những hào kiệt: “ Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập”, hay
Chế Lan Viên trong bài thơ “Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?” khi
khắc họa vẻ đẹp của đất nước Việt Nam, ông đã điểm danh những anh
hùng, những con người kiệt xuất của Đất Nước:
“ Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
Chưa đâu và ngay cả những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.”
+ NKĐ đặc biệt ngợi ca và đề cao công lao của những người anh hùng vô
danh :
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
70
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Không ai nhớ mặt đặt tên


Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
=> Nhà thơ đã khẳng định: Nhân dân bao đời nay vẫn hy sinh thầm lặng để xây
dựng và bảo vệ Đất Nước.
~ Những cụm từ: “biết bao”, “bốn nghìn lớp người”,
đã gợi lên hình ảnh của nhân dân không chỉ đông đảo, hùng hậu mà đó
còn là những con người bền bỉ, kiên trì vượt qua bao nhiêu khó khăn, biết
bao thăng trầm của lịch sử để chiến đấu, bảo vệ đất nước, bảo vệ quê
hương.
~ Nhân dân, những người anh hùng vô danh ấy cả khi “sống” và khi “chết” đều
“giản dị và bình tâm”,
họ lặng lẽ, âm thầm lao động, cống hiến, chiến đấu, hy sinh vì Đất
Nước với một tâm thế tự nguyện, thanh thản. Họ hy sinh vì quê hương,
Đất Nước mà không mong được ghi tên vào sử sách, được ghi tên vào bia
đá, bảng vàng mà với nhân dân, chiến đấu hy sinh để bảo vệ nền độc lập
tự do của Đất Nước, làm nên chiều dài lịch sử dân tộc.
+ Câu thơ “Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” là lời khẳng định chắc nịch về vai trò
to lớn của nhân dân, thể hiện lòng biết ơn, sự khâm phục, ngưỡng mộ của nhà thơ
dành cho những người anh hùng vô danh, dành cho Nhân Dân.
+ Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã không sử dụng chất liệu văn hóa dân gian mà
thay vào đó là những từ ngữ mang màu sắc chính luận như “Đất Nước”, “anh hùng”,
….kết hợp với những điệp từ, câu thơ viết theo kiểu vắt dòng, với giọng điệu hào
hùng, trang trọng nhưng cũng tràn đầy cảm xúc.
Nhà thơ xiết bao ngưỡng mộ, khâm phục, biết ơn trước công lao trời
biển của nhân dân. Từ cách sử dụng từ ngữ cho đến giọng điệu, những
câu thơ đã tác động cả vào lí trí và trái tim của người đọc bởi bên cạnh sự
ngưỡng mộ với nhân dân, từ những dòng đầu đoạn thơ, tác giả đã cất lên
“em ơi em…” như cách trò chuyện tâm tình của đôi lứa để thấm dần vào
trong tâm hồn của chúng ta về công lao to lớn của nhân dân.
 Từ đây, chúng ta càng thấy rõ vai trò của nhân dân trong việc làm nên chiều
dài Đất Nước, từ lúc hòa bình, nhân dân làm lụng, lao động để xây dựng Đất Nước;
khi chiến tranh, nhân dân chiến đấu để bảo vệ Đất Nước; bên cạnh đó, tác giả không
71
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

phủ nhận công lao của những anh hùng nổi tiếng nhưng ông đặc biệt ngợi ca công lao
của những nhân dân – những anh hùng vô danh. Đó cũng là điểm mới mẻ, độc đáo
trong đoạn thơ này.
- Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn khẳng định vị thế của mình trên trường quốc
tế, ngoài việc khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc, yếu tố vô cùng quan trọng là phải
có bản sắc văn hóa riêng. Nhân dân ta trong quá trình lao động, chiến đấu để xây
dựng và bảo vệ tổ quốc đã không ngừng sáng tạo ra biết bao những giá trị văn
hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần cho Đất Nước:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
+ Trong lao động, nhân dân ta đã sáng tạo, lưu giữ và lưu truyền rất nhiều những
giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần cho Đất Nước.
~ Hạt lúa
là giá trị văn hóa thể hiện đời sống vật chất không thể thiếu, là bữa cơm,
là hạt gạo đã nuôi lớn con người Việt Nam biết bao đời nay. Hạt lúa còn
là hình ảnh gợi lên nét đặc sắc của nền nông nghiệp, nền văn minh lúa
nước của người Việt Nam từ thói quen sản xuất, lao động, cấy lúa, là
lương thực, thực phẩm chính, hạt gạo phải một năng hai sương xay, giã,
dần, sàng.
~ Con người trong lao động cũng đã phát hiện ra lửa, sử dụng lửa trong đời sống
sinh hoạt, lao động… đó là một bước ngoặt trong nền văn minh loài người cũng như
văn hóa Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm cũng tự hào khi Nhân Dân ta hòa mình vào
trong nền văn minh nhân loại, Hình ảnh « chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con
cúi » còn gợi lên lối sống tình nghĩa “tối lửa tắt đèn có nhau” của người Việt Nam.
=> Hình ảnh của hạt lúa, ngọn lửa là những giá trị văn hóa vật chất thiết
yếu trong đời sống của con người Việt Nam bao đời. Nhưng ẩn sâu trong
những giá trị văn hóa vật chất đó là sự kết tinh của những giá trị văn hóa
tinh thần, truyền thống, đạo lí, lối sống của con người Việt Nam được
hình thành trong lao động.
72
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ Nhân dân cũng chính là những người lưu giữ và lưu truyền giọng nói, giọng
điệu
ngôn ngữ, tiếng nói của người Việt. Tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ là một
trong những yếu tố văn hóa tinh thần mà làm nên bản sắc văn hóa của dân
tộc Việt Nam. Người lưu truyền không ai khác là nhân dân trong đời sống
sinh hoạt hằng ngày của nhân dân. Tiếng Việt có sức sống kì diệu từ nhân
dân, trải qua biết bao cuộc đô hộ, biết bao thời kì khó khăn, bị đồng hóa
dân tộc nhưng tiếng Việt vẫn còn được lưu truyền đến tận ngày hôm nay,
nó là linh hồn của dân tộc. Câu thơ cũng giúp chúng ta hình dung được sự
giản dị, cũng hết sức chân thật trong cách lưu truyền, đồng thời gợi ra
khung cảnh của gia đình truyền thống của người Việt Nam rất đầm ấm,
hạnh phúc; những người cha, người mẹ đang dạy con tập nói, đang dang
tay đỡ con trong những bước đi chập chững đầu đời.
~ Nhân dân, trong quá trình khai khẩn bờ cõi, trong quá trình di dân lập ấp đã
gánh theo tên xã, tên làng,
hay chính họ đã mang theo nếp sống, những phong tục tập quán của quê
hương mình đến những vùng đất mới để lưu giữ những văn hóa ấy. Nhân
dân cũng chính là những người “đắp đập be bờ”, tạo nên những miền quê
trù phú, những khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt để dành cho con cháu
đời sau. Câu thơ còn gợi lên lối sống, truyền thống đạo lí của con người
Việt Nam đó là “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”….
+ Trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nhân dân cũng đã hình thành và
truyền lại cho con cháu đời sau tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu chuộng tự do,
hòa bình:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Trong tư tưởng của nhà thơ, Nhân Dân chính là những người đã làm nên
không gian địa lí của Đất Nước, làm nên chiều dài thời gian lịch sử, chiều sâu văn hóa
cho Đất Nước. Để làm nổi bật tư tưởng ấy, nhà thơ đã sử dụng chất liệu văn hóa dân
gian một cách sáng tạo, khéo léo, điệp từ “họ” được lặp đi lặp lại, đặt ở đầu mỗi câu
thơ nhằm nhấn mạnh vai trò, công lao to lớn của nhân dân, phép liệt kê được dùng để
cho thấy những giá trị văn hóa nhân dân sáng tạo nên là vô cùng phong phú, đa dạng.
73
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã khái quát, khẳng định trực tiếp tư tưởng “Đất
Nước của Nhân Dân”:
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
~ Nguyễn Khoa Điềm kết hợp giữa biện pháp điệp nối tiếp “Để Đất Nước này là
Đất Nước Nhân dân - Đất Nước của Nhân dân…” và những từ chính luận như “Đất
Nước”, “ Nhân dân” luôn được viết hoa một cách trang trọng để nhấn mạnh vào tư
tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
~ Ở vế thứ hai của cặp câu thơ, tác giả có sự lặp lại theo chiều tăng tiến, nhấn
mạnh hơn, khẳng định một cách sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân bằng cụm từ
“Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Ca dao thần thoại là sáng tác của nhân dân, được nhân dân lưu truyền,
lưu giữ. Đó cũng là tấm gương phản chiếu đời sống tâm hồn, tình cảm, trí
tuệ của Nhân dân. Hình ảnh Đất Nước cũng được lưu giữ ở ca dao thần
thoại: sự tích trầu cau, An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, …
+ Nếu Lí Thường Kiệt với Nam Quốc Sơn Hà đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để
trang trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, phải
nhờ đến “Một mối gia thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa
đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, Nguyền Khoa
Điềm đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống
của mỗi người dân trong đất nước này:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.”
Trong đoạn thơ này, tác giả đã lấy ý từ những câu ca dao dân ca quen
thuộc để cho chúng ta thấy trong ca dao thần thoại đã lưu giữ “điệu hồn
của dân tộc”. Cho đến nay nó vẫn là những bài học quý giá mà nhân dân
bao đời để lại.
~ Qua ca dao thần thoại, ta thấy người Việt Nam là những con người biết yêu
thương nồng nàn, đắm say,

74
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

câu thơ “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”” được lấy ý từ bài
ca dao quen thuộc:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
~ Người Việt Nam là những con người biết quý trọng tình nghĩa hơn bất cứ thứ
của cải vật chất nào:
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
~ Người Việt Nam cũng là người có lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu
sắc, kiên trì, bền bỉ:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Ca dao “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què”.
~ Người Việt ta là những người lạc quan, yêu lao động, yêu đời:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Trên bất kì những dòng sông nào ở đất nước Việt Nam đều gắn liền với
những điệu hò, câu hát như hò trèo thuyền, hò kéo lưới,… Điều này cho
ta thấy được tâm hồn yêu đời, yêu lao động của nhân dân ta. Đây là
những phẩm chất, bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo của người Việt.
Những phẩm chất đáng quý, đặc sắc, những nét văn hóa tươi đẹp được
lưu truyền bằng ca dao thần thoại.
 Qua đoạn trích, tác giả khắc họa hình tượng Đất Nước vô cùng mới mẻ,
độc đáo. Tác giả tập trung khẳng định và nhấn mạnh vào tư tưởng “Đất Nước của
Nhân dân”.
Không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà tư tưởng này đã có
một quá trình lâu dài để khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Đó là
từ tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã sáng tác với mục đích
cốt để yên dân, để chống giặc Minh:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
75
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”


Hay trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình
Chiểu, ông đã ca ngợi những anh hùng giữ nước là những người nông dân
nghĩa sĩ “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”…. Trong bài thơ “Đất
Nước”- Nguyễn Đình Thi đã ngợi ca hình ảnh Đất Nước của những anh
hùng áo vải:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Đó là trong lịch sử văn học, còn ngay cả trong lịch sử tư tưởng, chúng
ta đã từng bắt gặp những quan niệm đề cao vai trò của nhân dân đối với
Đất Nước. Tư tưởng của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh với những quan
niệm như “dĩ dân vi bản” hay “dân là dân nước, nước là nước dân”.
Cái mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm trong hình tượng Đất Nước cũng
như trong việc thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là ở chỗ : Hình tượng
Đất Nước được cảm nhận một cách toàn diện, sâu sắc trên nhiều bình diện, tác giả đã
khẳng định, ngợi ca công lao to lớn của Nhân dân trong việc làm nên, đóng góp, sáng
tạo nên tất cả những phương diện, những bình diện của Đất Nước, điều đó làm nổi bật
lên vai trò của Nhân dân đối với Đất Nước được cụ thể hóa, được khẳng định trực tiếp
vì Nhân dân đã làm nên lịch sử, địa lí, văn hóa,… Không chỉ có thế, xét trên phương
diện nghệ thuật, sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm để làm nổi bật tư tưởng “Đất
Nước của Nhân dân” là dùng chính lời ăn tiếng nói hằng ngày, sử dụng chất liệu văn
hóa dân gian để khẳng định các phương diện của Đất Nước. Qua đây, tác gỉa đã làm
nên một khúc ca có giai điệu riêng để hòa vào bản hợp xướng hào hùng về Đất Nước,
về tổ quốc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói riêng và văn học Việt
Nam nói chung, nhất là đề tài viết về tổ quốc, về đất nước.
 Đoạn trích “Đất Nước” trích trong Trường ca Mặt đường khát vọng vừa là
một thành công nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời cũng là một tiếng nói
góp phần không nhỏ vào sự cổ vũ, động viên tinh thần đấu tranh của Nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ trường kì. Đoạn trích cũng như tác phẩm đã tạo ra
những rung động âm vang trong lòng người đọc chính là nhờ những cảm xúc chân
thành, sự trải nghiệm của bản thân, những suy tư sâu lắng của nhà thơ cũng như cả thế
hệ trẻ đương thời đối với đất nước, góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất
76
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước, về nhân dân, bằng tiếng nói
đậm đà chất dân gian là vẻ đẹp riêng của chương thơ, tạo nên ấn tượng trong lòng bạn
đọc nhiều thế hệ. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn tìm thấy nhiều bài học cho bản
thân mình.
KẾT BÀI
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết
về đất nước . Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn
xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc “Đất Nước”
của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn Đất Nước mà còn khơi dậy tinh
thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

77
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

SÓNG (Xuân Quỳnh)


I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Vài nét về tác giả:

- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và
tình mẫu tử

- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh
phúc đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.

2. Bài thơ “Sóng”

* Hoàn cảnh sáng tác

Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền.
Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây
là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in
trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).

* Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ

- Âm điệu bài thơ Sóng là âm điệu, của những con sóng ngoài biển khơi, lúc ào
ạt, dữ dội lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với
những câu thơ được ngắt nhịp linh hoạt.

- Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” - lúc phân tách, soi chiếu vào nhau,
lúc nhập hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.

II. PHÂN TÍCH BÀI THƠ

1. Khổ 1: => miểu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tang những nét
nghĩa ẩn dụ gợi sự liên tưởng sâu sa, tinh tế tới tình yêu của người phụ nữ:
- Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã miêu tả những trạng thái thật trái ngược của
sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ.
78
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi: lúc
biển động phong ba, sóng dữ dội, ồn ào; khi trời yên bể lặng, sóng dịu êm, lặng lẽ.
~ Hai câu thơ có tới 4 tính từ mang sắc thái tương phản cả về ngữ âm và ngữ
nghĩa đã miêu tả những trạng thái khác nhau – gợi sự thất thường muôn đời của sóng
~ giữa các cặp từ tương phản là từ “và” cho thấy đại dương mênh mông vỗn luôn
hàm chứa, luôn tồn tại đồng thời những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất
ngờ (khi dữ dội, lúc dịu êm…) => Những đối cực ấy đôi khi thật rõ ràng, có thể dự báo
trước nhưng nhiều lúc cũng khó đoán, thất thường và hết sức bất ngờ.
=> Mượn hình tượng sóng, người phụ nữ đang yêu trong bài thơ đang tự nhận
thức về những biến động trong lòng mình, đang chân thành bộc bạch mà không hề giấu
giếm những trạng thái tâm lí, tình cảm: vừa phong phú vừa phức tạp của một tâm hồn
đang khao khát yêu đương: lúc giận dữ, hờn ghen, khi dịu hiền, sâu lắng, lúc nhớ nhung
mong ngóng - giận dỗi; khi vui, lúc buồn, khi mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng đằm thắm,
khi gần gũi như những con sóng âu yếm vỗ bờ - lúc lại xa xôi như những con sóng rời
bờ, tít tắp ngoài khơi…
=> tình yêu là vậy, nó vốn mang trong mình nhiều đối cực, mâu thuẫn; nhưng đó
là những mâu thuẫn trong thống nhất bởi tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của
một trái tim yêu chân thành, mãnh liệt.
MR: (1) XQ cũng từng viết trong một bài thơ khác: Vì tình yêu muôn
thuở/ Có bao giờ đứng yên
(2) Còn Hai- nơ, trong bài Ngốc cũng phát hiện và miêu tả thật tinh tế, ý
nhị trái tim khi yêu của người phụ nữ => nhạy cảm, không yên định

Em bảo anh đi đi

Sao anh không đứng lại

Em bảo anh đứng đợi

Sao anh vội về ngay

Lời nói thoảng gió bay

Đôi mắt huyền ngấn lệ

Sao mà anh ...ngốc thế

Không nhìn vào mắt em

(3) Có lúc giận hờn, nhớ nhung:


79
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Nếu phải cách xa nhau

Biển chỉ còn sóng vỗ

Nếu phải cách xa anh

Em chỉ còn bão tố (Thuyền và biển- XQ)

(4) có lúc người con gái lại thu mình về với chất nữ tình đáng yêu, lặng
lẽ, dịu êm, lặng im chiêm nghiệm:

Có những tình yêu không thể nói bằng lời

Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt

Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất

Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên (Đinh Thu Hiền)

=> gợi lên nét duyên dáng, đáng yêu, sự quyến rũ cho tình yêu của người phụ nữ
=> trái tim người con gái khi yêu vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương
=> Cấu trúc của hai câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng của người phụ nữ khi
yêu: sau những dữ dội ồn ào, cả hai câu đều kết lại bằng trạng thái dịu êm, lặng lẽ =>
người phụ nữ có thể buồn vui thất thường, có thể có những biểu hiện phức tạp tới khó
hiểu trong tình yêu, nhưng điều cuối cùng họ khao khát hướng tới vẫn là cảm giác bình
yên.
+ Tiếp đó, sóng hiện lên thật mạnh mẽ trong hành động vượt thoát khỏi giới hạn
chật hẹp và thiếu sự đồng cảm (Sông không hiểu nổi mình) để đến với biển rộng bao la,
đến với môi trường đích thực của nó.
“Sông” – có 2 cách hiểu trong mối quan hệ với sóng:
(1): Sông là chủ thể, là đối tượng cụ thể => ý thơ là một sự tuyên bố mạnh mẽ và
kiên quyết: nếu sông không hiểu nổi những khát vọng mãnh liệt của mình thì sóng dứt
khoát từ bỏ nơi chật hẹp, từ bỏ một không gian có thể là quen thuộc, bình yên, tìm ra tận
bể - nơi có sự đồng cảm lớn lao, nơi có thể tìm thấy một tình yêu đích thực.
(2) “sông” là trạng ngữ chỉ không gian, nơi chốn, sông là bối cảnh, là hoàn cảnh
sống, một yếu tố thường có sức chi phối mạnh mẽ tời tâm hồn và tính cách con người
=> ý thơ thể hiện sự cố gắng không mệt mỏi của sóng để được sống đúng với bản ngã
của mình: giới hạn của sông làm bức bối những con sóng, trong lòng sông, sóng không
thực sự là mình – không được thỏa sức vẫy vùng, không hiểu nổi mình, không nhận ra
mình. Sóng tìm ra bể lớn để thỏa sức vẫy vùng, để là chính mình giữa đại dương mênh
80
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

mông, phóng khoáng, để có thể nhận thức được sức mạnh và những khát khao của mình
trong những mãnh liệt của đam mê
=> sóng không còn là sóng trong những giới hạn chật hẹp thì tình yêu cũng
không còn là tình yêu nếu bị ràng buộc, bị chi phối bởi những điều kiện
=> người phụ nữ không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, họ luôn khát khao
khám phá chính mình trong tình yêu, khao khát một tình yêu lớn lao, khao khát được
giải phóng mọi giới hạn để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu
=> Khác với người phụ nữ xưa, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã đến với
tình yêu một cách đầy tự tin và chủ động. Con người ấy thật minh bạch và quyết liệt
trong khát vọng tìm đến một tâm hồn đồng điệu, có thể thấu hiểu, sẻ chia, tìm đến một
khung trời tình yêu cao cả, bao dung.
2. Khổ 2: Từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả một quy luật muôn
thuở của tình yêu: Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ luôn khát khao yêu đương:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- nếu ở khổ 1, sóng được miêu tả trong không gian thì tới khổ 2, sóng được soi
chiếu trong thời gian
+ sóng được đặt giữa ngày xưa và ngày sau – những khái niệm chỉ thời gian và ý
nghĩa khẳng định của cụm từ “vẫn thế” đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng ->
+ “vẫn thế” => hàng ngàn năm, hàng triệu năm qua, những con sóng ngoài biển
khơi vẫn cất lên những bài ca bất tử. Nó vẫn là nó, vẫn “ru mãi ngàn năm” như bản tình
ca của biển. Từ ngày xưa khi chưa có mình, sóng đã xôn xao, cồn cào như thế; ngàn
năm sau khi ta tan biến vào hư vô, sóng vẫn vỗ về rạo rực thế kia, vẫn vừa dữ đội vừa
dịu êm, vẫn từ sông ra biển để được là mình...
- Cũng như sóng, khát vọng tình yêu mãi mãi là một khát khao cháy bỏng, bồi hồi
trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
+ trong cảm nhận của người phụ nữ đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển
giống như vồng ngực trẻ trung, cường tráng của trời đất, sóng tựa nhịp thở phập phồng

81
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

mang khát vọng tình yêu bồi hồi trong ngực biển => biển tựa như người, sóng giống
như nhịp đập của trái tim yêu đương, còn biển thì còn sóng, còn con người thì còn khát
vọng tình yêu
+ Bao nhiêu thế kỉ qua, con người đã đến với tình yêu, đã sống mà không thể
thiếu tình yêu và sẽ còn yêu chừng nào còn tồn tại; khát vọng tình yêu là khát vọng vĩnh
hằng của con người và mãnh liệt nhất của tuổi trẻ
MR: (1) Xuân Diệu: Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ
không thương một kẻ nào!
(2) Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu
(3) Danh ngôn cũng có câu: Chẳng có gì ngọt ngào bằng nửa sự ngọt
ngào của tình yêu thời tuổi trẻ” => tình yêu gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ có
trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực niềm yêu thương. Chính vì thế, mà khát
vọng tình yêu cứ bồi hồi trong ngực trẻ, nó cứ thúc đẩy tuổi trẻ đi tìm chân
lý yêu đương, cũng như con sóng ngày xưa, ngày sau vẫn thế.
=> Từ trải nghiệm của bản thân, Xuân Quỳnh khẳng định một chân lí: Khát vọng
tình yêu là vĩnh viễn. Nó không chỉ thường trực trong tâm hồn con người, đặc biệt là
tuổi trẻ, mà còn khiến người ta trẻ lại, tái sinh như con sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa
nhập vào biển cả mãi mãi.
3. Khổ 3: Bằng hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh diễn tả sự băn khoăn, trăn trở của
con người với tình yêu, con người khi yêu: Tình yêu là gì mà lại khiến con người luôn
khao khát như thế?
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
- Khổ thơ gợi hình ảnh một người con gái một mình trước biển suy tư:
+ khi đứng trước cái vô biên, người ta thường quên đi những cái nhỏ nhặt tầm
thường, những lo toan vặt vãnh mà chỉ nghĩ đến những gì lớn lao cao cả: nghĩ về biển
lớn, về tình yêu...
=> tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng, rất đặc biệt của con người,
(biển là điều huyền diệu lớn lao hiện hữu trước mắt, thì tình yêu là điều lớn lao, huyền
diệu hiện hữu, thường trực ở trong lòng); tình yêu thường phát triên theo những quy luật
chung của cuộc sống và quy luật riêng của tình cảm lứa đôi. Trước khát vọng tình yêu
82
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

mãnh liệt, trước sự kì diệu của tình yêu con người thường có nhu cầu khám phá những
bí ẩn vốn luôn tồn tại trong lòng nó và luôn muốn cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu
+ Nhu cầu lý giải, cắt nghĩa thể hiện ở những suy tư sâu lắng “em nghĩ” + nhịp
thơ => những phút giây tâm hồn lắng lại để ngẫm nghĩ, lý giải, truy tìm nguồn gốc của
tình yêu, cảm xúc hiện hữu, thường trực trong lòng.
- Suy ngẫm ấy còn hiện lên qua những câu hỏi về sóng, về gió:
“Từ nơi nào... nữa”
+ những câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô đến vô cùng, miên
man không dứt:
~ câu hỏi đầu tiên về sóng => lời đáp dễ dàng, chóng vánh “sóng bắt đầu...” =>
cách lý giải đầy trực cảm, hồn nhiên
~ câu hỏi thứ 2 riết ráo, lý trí, muốn đẩy những băn khoăn lên đến tận cùng “gió ..
đâu” => không có câu trả lời => thế giới tự nhiên có muôn vàn những điều bí ẩn
+ sau cùng là câu hỏi muôn đời “Khi nào ta yêu nhau” => câu trả lời “không biết
nữa”
=> cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa – đều không có
lý lẽ, hay quy luật, nếu có thì cũng là quy luật riêng của trời đất, lý lẽ riêng của tình yêu.
Em không biết gió có từ đâu, em không biết những xao xuyến của trời đất có từ bao giờ,
cũng như em không biết khi nào ta yêu nhau, càng không thể cắt nghĩa vì sao ta yêu
nhau.
MR: (1) đã bao đôi lứa, thế hệ yêu nhau tự tìm hiểu, cắt nghĩa về tình
yêu: tình yêu là gì, tình yêu bắt đầu từ đâu, vì sao ta yêu nhau... nhưng đến
nay chưa có 1 câu trả lời đầy đủ làm thỏa mãn tất cả mọi người
(2) Xuân Diệu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
(3) Lep Tonxtoi “Có bao nhiêu cái đầu thì có bấy nhiêu cách suy nghĩ,
có bao nhiêu trái tim thì có bấy nhiêu cách yêu đương” => nghĩa là chẳng
có một chuẩn mực, khuôn mẫu nào dùng để căt nghĩa cho tình yêu, cho
trái tim
(4) Tình yêu là một ẩn số giữa hai thế giời tâm hồn chứa đầy bí mật:
Dù tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh, em vẫn cứ là em
Có thể nào qua Vạn lý trường thành

83
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Của hia vũ trụ chứa đầy bí mật (XD)

Nhưng em ơi, đời anh là một trái tim


Nào ai biết chiều sâu và bến bờ của nó
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết gì biên giới của nó đâu (Tago)
=> đây cũng là một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm thường đến trước
lý trí, thậm chí nhanh hơn lý trí, dẫn dắt lý trí => đó cũng là nét hấp dẫn của tình yêu:
khi con người không thể lý giải nổi tình yêu của mình thì chính là lúc họ đang sống thật
nhất với những cảm xúc vô tư, chân thành của tình yêu
+ Cấu trúc đảo trong 2 câu thơ cuối của khổ thơ: đáp trước- hỏi sau khiến câu trả
lời duyên dáng như một nụ cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc; bỗi rối vì sự bất lực của lý
trí và hạnh phúc khi nhận ra một điều kì diệu: tình yêu đích thực không cần một lý do
nào, tình yêu lớn lao hơn mọi thứ lý trí trên đời; tình yêu hồn nhiên giản dị mà mãnh
liệt, như sóng, như gió, như thiên nhiên muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên huyền diệu
của đất trời.
4. Khổ 5, 6, 7:
* Khổ 5: Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Bằng việc khai thác trạng thái đa
dạng, đối lập của hình tượng Sóng, tác giả đã diễn tả nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải của
người phụ nữ khi yêu :
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ .
Ngày đêm không ngủ được.
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
- 4 câu đầu là hình ảnh của sóng trong cả không gian và thời gian:
+ điệp từ “con sóng”, hình ảnh đối lập: mặt nước- lòng sâu, ngày – đêm =>khắc
họa hình ảnh những con sóng hăm hở trào dâng, xô bờ, nhịp điệu câu thơ dồn dập=>
nhịp điệu sóng, nhớ cồn cào

84
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ sử dụng nghệ thuật nhân hóa, đó là những con sóng đang nhớ bờ cồn cào, mãnh
liệt; đó là những con sóng vì nhớ bờ mà thao thức, ngày đêm ào ạt vỗ bờ như không cần
biết đến thời gian.
=> Nỗi nhớ ấy đầy ắp không gian, dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ
ấy tràn ngập thời gian dù là ngày hay đêm
=> XQ mượn hình tượng sóng diễn tả được nhiều cung bậc cảm xúc của nỗi nhớ
trong trái tim của người con gái khi yêu: “con sóng dưới lòng sâu” – nỗi nhớ âm ỉ, da
diết; “con sóng trên mặt nước”- nỗi nhớ cồn cào mãnh liệt; đo đếm bằng chiều dài của
thời gian, nỗi nhớ từ ngày vào đêm; nỗi nhớ bao trùm cả không gian và thời gian
MR: (1) XQ cũng vô cùng tinh tế khi mượn 1 hình tượng rất động để diễn
tả nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ
thôi vỗ, có khi nào thôi hành trình xô bờ, sóng dù lặng yên dưới lòng biển,
hay dữ dội trên mặt nước thì ngàn đời vẫn tìm về với bờ “Bởi hôn mãi
ngàn năm không thỏa/Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi” (XD)
=> Quan sát sóng bằng trái tim đang yêu, XQ xao xuyến nhận ra sự
tương đồng kì diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất
với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dạt dào trong lòng mình,
đã yêu là nhớ, cả đại dương mênh mông thành biển nhớ của tâm hồn.
- Thực ra, chỉ cần ý nghĩa nhân hóa trong hình ảnh con sóng nhớ bờ, khổ thơ đã
có thể gợi ra nỗi nhớ cồn cào, da diết của tình yêu. Nhưng hình như khi muốn bộc lộ nỗi
nhớ của người phụ nữ đang yêu, trạng thái cảm xúc đặc biệt này không đựng vừa trong
hình tượng sóng qua tầng nghĩa ẩn dụ, cho nên XQ đã kéo dài khổ thơ => khổ thơ đặc
biệt gồm 6 dòng thơ, vượt ra khỏi những khuôn khổ, mực thước thông thường; nỗi nhớ
còn được bộc lộ trực tiếp:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
+ hai câu thơ trước hết là nỗi nhớ trong nét nghĩa tương đồng với hình tượng
sóng:
~ sóng vỗ bờ cả ngày và đêm, sóng nhớ bờ từ ngày vào đêm, em cũng nhớ anh
mọi lúc, mọi nơi; nếu sóng vì nhớ bờ mà ngày đêm không ngủ được thì em vì nhớ anh
mà thức cả trong mơ
~ nếu nỗi nhớ của sóng bao trùm, chế ngự cả cái không cùng của không gian và
thời gian thì nỗi nhớ của em với anh lại xâm chiếm toàn bộ thế giới vô biên của tâm

85
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

hồn; “lòng em nhớ” – lòng => nơi sâu thẳm nhất=> nỗi nhớ sâu sắc, chân thành, phơi
trải lòng mình không dấu diếm... – cách sử dụng từ ngữ tinh tế
+ nỗi nhớ còn được bộc lộ sâu sắc, tinh tế, độc đáo qua diễn đạt “trong mơ còn
thức”
mơ – trạng thái mộng mị của con người trong giấc ngủ; “trong mơ... thức” – nỗi
nhớ vẹn nguyên thức tỉnh, chưa một giây phút nào mộng mị, phôi phai => nỗi nhớ
thành tiềm thức
+ Tuy nhiên trạng thái “trong mơ còn thức” không chỉ là nỗi nhớ, đó dường như
là những dự cảm lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khát khao tình yêu và hạnh phúc
nhưng lại có quá nhiều những trải nghiệm đắng cay, một trái tim từng bầm dập đau đớn
vì những tổn thương mất mát trong tình yêu cho nên luôn lo sợ:
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay
Một trái tim luôn xót xa:
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi
=> do vậy, người phụ nữ đang yêu mà “cả trong mơ còn thức” thì thức không chỉ
để nhớ tới anh, thức còn để trông giữ tình yêu, để tình yêu không tuột khỏi tầm tay.
Ca dao:
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề
=> Trăn trở, âu lo, bất ổn luôn là nét ám ảnh quen thuộc trong hồn thơ XQ, cũng
là nét riêng tạo nên cái mong manh xa xót cho tình yêu
=> như vậy trong khổ 5, nhà thơ đã thông qua sóng để thể hiện cả nỗi nhớ và
những dự cảm lo âu của một trái tim luôn đầy ắp tình yêu cùng những trải nghiệm cay
đắng.
=> người phụ nữ có một tình mãnh liệt, táo bạo tỏ bày – nét đẹp rất hiện đại
- Khổ 6: sự thủy chung son sắt trong tình yêu

86
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

C/Y: qua việc thể hiện nỗi nhớ ở khổ 5, nhà thơ đã khẳng định tình yêu đích thực,
mãnh liệt không phụ thuộc vào thời gian ngày đêm- thức ngủ, sự khẳng định tình yêu ấy
ở khổ 6 lại tiếp tục với phẩm chất thủy chung, son sắt:

+ hai câu thơ đầu:


Dẫu xuôi
Dẫu
Hai câu thơ đã nói lên được những khó khăn, trắc trở mà con người có thể gặp
trong cuộc đời, trong tình yêu:
~ hình ảnh “phương Bắc- Nam” gợi những không gian xa xôi, cách trở, những
không gian thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, cuộc đời:
Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã Nam đã Bắc
~ Các động từ - cặp từ đối lập: xuôi, ngược => lại thể hiện những vất vả, gian
khó, truân chuyên...
=> XQ có cách diễn đạt lạ so với cách nói thông thường: người ta thường nói
ngược bắc xuôi nam => XQ lại nói xuôi bắc ngược nam – sự khác biệt này hình như đã
hé mở những éo le, trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của
nữ sĩ nói riêng; điệp cú pháp ở hai câu đầu làm đậm thêm những éo le, những xa xôi,
cách trở
~ Nhưng từ “dẫu” điệp lại ở đầu 2 câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên cường của
người phụ nữ, không sợ, sẽ vượt qua khó khăn...
=> bản lĩnh của những cô gái tự ngàn xưa:
Yêu nhau mấy núi.../ Mấy sông cũng lội...
=> với XQ, khó khăn trong tình yêu không chỉ là những gian truân, vất vả mà còn
là những trắc trở, éo le. Ý thơ của XQ có lẽ còn hàm chứa: không dễ dàng gì để tới
được bến bờ của hạnh phúc, nhưng khi con người có thể vượt qua những thử thách, khó
khăn thì tình yêu lại càng bền vững, bến bờ hạnh phúc của tình yêu sẽ lại càng thêm quý
giá.
=> XQ đã cho thấy một quan niệm rất đẹp về tình yêu: tình yêu đích thực không
phụ thuộc vào không gian Nam, Bắc, những phương hướng ngược xuôi, trái tim chỉ biết

87
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

yêu thương mà không bận tâm đến những logic, những khó khăn trắc trở của cuộc đời,
có thể vượt qua không gian, thời gian để gìn giữ tình yêu
+ hai câu sau => bản lĩnh trọn vẹn của người phụ nữ trong tình yêu, đó là sự thủy
chung son sắt, bất chấp mọi thử thách, khó khăn, trắc trở:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
~ nhà thơ sử dụng các cặp từ đối lập: nơi nào- một phương => người phụ nữ son
sắt thủy chung chỉ duy nhất hướng về phương anh, phương có người yêu dấu- giữa cuộc
đời rộng lớn, giữa vũ trụ bao la, anh là bến bờ hạnh phúc duy nhất để lòng em hướng
tìm.
=> nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu khiến vũ trụ không còn Nam Bắc
Đông Tây mà như được chia đôi: phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng; mọi
phương không có anh đều trở nên lạnh lẽo, u buồn:
Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại
Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh
~ nếu ở khổ 5, nhà thơ bộc lộ nỗi nhớ nồng nàn, sâu đậm trong tình yêu, thì ở khổ
6, sắc thái cảm xúc cơ bản vẫn là nỗi nhớ khi người phụ nữ một lòng chung thủy, tha
thiết hướng về anh, nhưng thay cho từ “nhớ” là “nghĩ” – trong nghĩ có cả yêu thương,
cả mong nhớ, cả trăn trở, âu lo, cả giận hờn, buồn bã...
=> không chỉ là nỗi nhớ bất chợt, anh đã trở thành ý nghĩ luôn canh cánh, thường
trực trong lòng em; nếu “nhớ” là xúc cảm tự nhiên, cảm tính, thì “nghĩ” là tình cảm lâu
bền lắng đọng, những suy tư sâu sắc, chín chắn...
=> những khát vọng tình yêu sôi nổi, cháy bỏng được bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo
bạo, chân thành, vừa nữ tính => qua đó làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ vừa
hiện đại vừa truyền thống (thủy chung- truyền thống; chủ động giữ gìn, hướng về
phương anh- hiện đại)
- Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu => thông qua hình tượng sóng, nhà thơ mượn
quy luật khách quan của trời đất để kiểm chứng và thể hiện niềm tin vào sự thủy
chung của mình, niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và đích đến cuối cùng tốt đẹp của
tình yêu:
“Ở ngoài kia đại dương
...

88
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Dù muôn vời cách trở”


=> XQ phát hiện: sóng dù xa bở thì vẫn tới bờ, qua đó thể hiện niềm tin: tình yêu
dù có cách trở, khó khăn, thử thách – sẽ đến được bến bờ hạnh phúc của tình yêu
+ trong 2 câu thơ cuối, tg sử dụng phép đảo ngữ “Con…. trở”:
~ nếu câu thơ theo cấu trúc thông thường: Dù muôn vời… bờ => ý thơ sẽ thuận,
sự khẳng định sẽ chắc chắn, đầy lý trí với một kết cục có hậu và bình ổn
~ Nhưng XQ lại chọn một kết cấu đảo thể hiện một niềm tin sâu sắc nhưng trong
lòng vẫn ẩn chứa một chút mong manh, một chút bất ổn đầy cảm tính, lo âu => niềm tin
vào tình yêu của XQ mãnh liệt, chân thành mà không hề dễ dãi, ngây thơ.
=> một người phụ nữ đã từng mất mát, đổ vỡ trong tình yêu nên luôn hiểu rằng
con đường đến với hạnh phúc thường không ít những cay đắng, gian nan; một trái tim
đã bao lần bầm dập đau đớn nên niềm tin vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có
thêm vị đắng của sự nếm trải
~ câu kết: Dù muôn vời cách trở như một lời nói thêm để tự dặn lòng, tự nhắc
mình đừng bao giờ mất niềm tin, nhưng cũng đừng ngây thơ, ảo tưởng vào sự dễ dàng
trong tình yêu => chính vì sự nếm trải ấy mà niềm tin của người phụ nữ vào tình yêu
càng đáng quý, đáng trân trọng.
BL: tin vào người mình yêu- yêu mình; tin cảm xúc
trong trái tim là tình yêu; tin vào đích đến, bến bờ hạnh phúc
của tình yêu (hôn nhân, gia đình hạnh phúc, sum vầy...)
 qua 3 khổ thơ, XQ bộc lộ cảm xúc, khát vọng tình yêu chân chính, mãnh liệt,
đó là nỗi nhớ nhung da diết, sự thủy chung son sắt, niềm tin vào tình yêu, đích đến của
tình yêu
 vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu vừa có nét truyền thống vừa
hiện đại
- Khổ 8:
không dừng lại ở một niềm tin vào tình yêu, vào một kết thúc có hậu của
tình yêu, mà trái tim nhạy cảm, giàu suy tư của XQ tiếp tục mở ra những trăn trở,
suy ngẫm về sự trôi chảy của thời gian, sự hữu hạn của kiếp người:
Cuộc đời tuy dài

Mây vẫn bay về xa

89
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ hình “sóng” và “em” tách nhau, để “em” nhìn vào sóng, thực tại để chiêm
nghiệm, suy tư về cuộc đời
+ XQ nhận ra: thời gian cuộc đời cứ trôi chảy, một đi không không trở lại, trong
dòng thời gian vũ trụ thì kiếp người là hữu hạn => 100 năm cuộc đời tưởng là dài,
nhưng năm tháng trôi đi thì 100 năm sẽ hết, cuộc đời sẽ kết thúc. Giống như: biển cả
tưởng bao la, những đám mây vẫn bay, trôi xa, vượt thoát khỏi lòng đại dương để về
cuối trời
=> cặp từ đối lập: cuộc đời - năm tháng; biển cả - mây trời => cuộc đời tuy dài,
biển cả tuy rộng nhưng năm tháng sẽ trôi qua hết, như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ
đến với không gian bao la trong vũ trụ không cùng.
~ khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và sự hữu hạn
của cuộc đời, khi cuộc đời là hữu hạn thì tình yêu cũng sẽ có lúc phôi pha, tình yêu sẽ
hết khi cuộc đời không còn nữa
=> XQ là người phụ nữ giàu trắc ẩn, lúc nào cũng có âu lo
=> bởi XQ là một người từng trải, nhất là từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn
thương. Vì thế con người ấy luôn khao khát sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng vô tận.
Càng khao khát lại càng buồn bã, tiếc nuối khi nhà thơ nhận ra cuộc đời của mỗi người
lại ngắn ngủi, mong manh như một áng mây phù du…
MR: (1) Cảm giác về sự hữu hạn thường khiến con người buồn bã, bất
lực
=> XD từng sợ chính cái hữu hạn của lòng mình:
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
=> XD từng giục giã:
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi
=> và XD khi không thể “tắt nắng” “buộc gió” để níu kéo năm tháng,
để giữ gìn hương sắc cuộc đời, để nới dài hơn quỹ thời gian cho tình yêu
và hạnh phúc.... thì XD đã tìm đến một giải pháp mãnh liệt đầy nam tính,
đó là vội vàng tận hưởng cuộc đời một cách say sưa, ham hố khi còn có
thể, từ “ôm”, đến say đắm “riết, thâu, hôn, cắn”… từ “sự sống”, “mây đưa
gió lượn” đến “non nước, cỏ cây”…

90
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

(2) XQ trong tình yêu, dường như lúc nào cũng có những âu lo- nhất là
trước sự trôi chảy của thời gian:
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi
(Nói cùng anh)

Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế

Chỉ em là đã khác với em xưa

(...)

Bao ngày tháng đi về trên mái tóc

Chỉ em là đã khác với em thôi!

(Hoa cúc)

(chuyển ý) Bình thường, sự âu lo ấy có thể dẫn con người đến những phản ứng
tiêu cực (thất vọng, chán chường hoặc sống gấp, thả trôi theo dòng đời) nhưng cũng có
thể là động lực khiến con người sống tích cực và mạnh mẽ hơn (sống hết mình, sống
mãnh liệt trong tình yêu…). Xuân Quỳnh đã chọn cho mình một cách ứng xử thật tích
cực và thật đẹp. Chị không chán nản, tuyệt vọng mà trái lại càng khao khát được sống
hết mình trong tình yêu
- Khổ 9: Xuân Quỳnh lại có mong ước thật da diết:
Làm sao được tan ra
….
Để ngàn năm còn vỗ
=> XQ khát vọng được sống hết mình, dâng hiến hết mình cho tình yêu để tình
yêu trở thành vĩnh hằng, bất tử
+ “làm sao” cấu trúc câu nghi vấn thể hiện nỗi trăn trở và niềm mong ước da diết
và thành thực
+ “tan ra” – âm điệu nhẹ nhàng => được hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ” hòa
vào biển lớn – mong ước được sống hết mình, được hi sinh, dâng hiến cho tình yêu,
được sống mãnh liệt trong tình yêu
=> khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành táo bạo

91
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> khi sống hết mình, yêu hết mình, để tình yêu lớn lao tới mức tan hòa trong cái
vô biên biển cả, của trời đất thì lúc ấy tình yêu cũng sẽ được nhập hòa vào dòng thời
gian vĩnh hằng, tình yêu sẽ trường tồn cùng năm tháng, cùng đất trời vũ trụ.
BL: (1) thế nào là sống hết mình cho tình yêu:
* Tình yêu, hạnh phúc của tình yêu- không dễ dàng => sống hết mình với tất cả
cung cảm xúc của tình yêu: hạnh phúc, sung sướng, khổ đau...
* khi yêu không ích kỉ (không chỉ đắm chìm trong trong tình yêu, mà còn bằng
sức mạnh tình yêu con người yêu đời, yêu cuộc sống, cống hiến => sống hết mình với
tình yêu:
Tình yêu là sức mạnh: Ôi những đêm dài hành quân nung nấu/ Bỗng bồn chồn
nhớ mắt người yêu;
tình yêu đôi lứa là cội nguồn của tình yêu quê hương, đất nước: Tình yêu làm đất
lạ hóa quê hương
=> tình yêu lứa đôi hòa nhập tình yêu cuộc đời, quê hương, đất nước => tình yêu
trở thành vĩnh hằng
<=> Như vậy cách để XQ kéo dài cuộc đời của mình để sống trọn vẹn với tình
yêu là “tan ra thành sóng”- tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu cuộc đời, hòa vào biển lớn
tình yêu bất tận, muôn đời. Đó là thái độ sống dám cháy hết mình, dâng hiến cuộc đời
cho tình yêu- một tình yêu không vị kỉ, mà là một tình yêu đã hòa vào biển lớn để tồn
tại vĩnh hằng.
 khát vọng mãnh liệt – so sánh với XD, một người được “ông hoàng của thơ
tình”, ca ngợi là một người khát sống thèm yêu – mà trong bài “Biển” XD viết:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Một người cuồng nhiệt đắm say trong tình yêu như XD mà còn nghĩ đến lúc “thôi
dào dạt”- còn XQ, nữ tính hơn, đằm thắm hơn, nhưng cũng mãnh liệt hơn khi XQ khao
khát, kết thúc bài thơ bằng câu “Để ngàn năm còn vỗ”
Ý thơ, và tình yêu mãnh liệt cũng từng được XQ thể hiện trong bài Tự hát:
Em trở về đúng nghĩa trái tim
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
92
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa


Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
KL:
- bằng sử dụng hình tượng “sóng”, thể thơ ngũ ngôn, hình ảnh đối lập, giàu giá trị
biểu cảm...
- diễn đạt thật hay, sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ VN khi yêu:
+ Tâm hồn mang vẻ đẹp truyền thống thể hiện ở chất nữ tính, đằm thắm, giàu
cảm xúc, sự thủy chung, nhớ thương.....
+ Vẻ đẹp hiện đại: táo bạo, chủ động, khát vọng sống, dâng hiến trọn vẹn cho
tình yêu
----------------------------------------------------------

93
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

ĐÀN GHI-TA CỦA LORCA (Thanh Thảo)

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Nhà thơ Thanh Thảo:
- Một trí thức nhiều suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội và thời đại.
- Muốn cuộc sống được cảm nhận và thể hiện ở chiều sâu nên luôn khước từ lối
biểu đạt dễ dãi; đào sâu vào cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu đạt mới qua
hình thức câu thơ tự do, giải phóng mọi ràng buộc nhằm mở đường cho một cơ chế
liên tưởng phóng khoáng, xoá những khuôn sáo bằng những nhịp điệu bất thường,
đem đến cho thơ một mĩ cảm hiện đại bằng hệ thống hình ảnh và ngôn từ mới mẻ.
- Kiểu tư duy: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm và nhuốm màu
sắc tượng trưng siêu thực.
+ Tượng trưng: tìm vào trạng thái tâm hồn với những linh cảm được khơi dậy từ
vô thức, cho rằng hiện tượng trong vũ trụ tồn tại như những dấu hiệu tượng trưng cho
bản chất huyền bí của tạo vật mà chỉ riêng nhà thơ mới có những thiên bẩm kì diệu để
thâm nhập và biểu đạt được những hình ảnh tượng trưng ấy. Thơ là một thứ “siêu cảm
giác”, không thể giải thích được. Không cần có hình tượng rõ nét, thơ được quan niệm
như một bản hoà âm hoàn hảo. Dường như có nét tương đồng giữa sinh sôi của tạo
hoá với sự sáng tạo thơ ca.
+ Siêu thực: Hướng tới một hiện thực cao hơn thực tại. Thế giới siêu thực chỉ có
thểcảm thấy trong giấc mơ, trong tiềm thức, lúc đãng trí, thần kinh suy nhược, rối
loạn. Khám phá thế giới ấy, nghệ sĩ sẽ phát hiện ra những điều sâu kín mà thiêng
liêng, bí ẩn mà chính xác trong cuộc sống con người. Đề cao yếu tố tâm linh và sự
ngẫu hứng, sáng tác thường được cấu thành bởi những dòng liên tưởng tiềm thức rời
rạc, gi¸nc¸ch, không thể khắc hoạ được những bức tranh thực tại toàn vẹn.
2. PhêđêricôGaxiaLorca (1898-1936)
- Là một trong những tài năng sáng chói của văn học hiện đại Tây Ban Nha.
- Trước một Tây Ban Nha - dưới sự cai trị của chế độ độc tài- đã trở nên phản
động về chính trị và già cỗi về nghệ thuật, Lorca đã nồng nhiệt cổ vũ nhân dân đấu
tranh với mọi thế lực áp chế, đòi quyền sống chính đáng đồng thời cũng khởi xướng
và thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Lorca đã tự nguyện

94
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

làm người du ca đi lang thang với cây đàn ghita hát lên những bài ca lãng tử, dùng
tiếng đàn giãi bày nỗi đau buồn và niềm khát vọng yêu thương của nhân dân.
- Ông đã bị chế độ phản động cực quyền thân phát xít bắt giam và bắn chết. Cái
chết thảm khốc của Lorca đã dâng lên một làn sóng phẫn nộ hết sức mạnh mẽ trên thế
giới với bè lũ Phrăngcô. Tên tuổi của Lorca trở thành biểu tượng chống chủ nghĩa phát
xít, bảo vệ văn hoá dân tộc và văn minh nhân loại.
3. Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác bài thơ “Đàn ghita của Lorca”
a. Hoàn cảnh:
- Được viết liền mạch trong khoảng thời gian rất ngắn, sau khi ngồi chơi và đàn
đạo về thơ Lorca với những người bạn tâm đắc -> kết quả của ấn tượng và nhận thức
sâu sắc của Lorca.
- LORCA là nhà thơ mà Thanh Thảo rất ngưỡng mộ. Cả thơ ca, cuộc đời và cái
chết của Lorca đã gây cho tác giả những xúc cảm và ấn tượng. Chính những hình ảnh
và nhạc điệu trong nhiều bài thơ của Lorca đã dẫn dắt Thanh Thảo khi viết “Đàn ghita
của Lorcaorca”
=> Kết quả của cuộc gặp gỡ về cảm xúc, giọng điệu và hình ảnh (sự gặp gỡ của
hồn thơ)
- Từng được biết đến Tây Ban Nha qua những tác phẩm của Hêminguê- một nhà
văn Mĩ, lại đọc thơ Lorca từ khi còn trẻ, hình ảnh Tây Ban Nha và hình ảnh trong
những câu thơ Lorca đã lặn sâu vào tâm trí và trở thành một ám ảnh để khi viết bài
thơ, nó bật ra một cách hoàn toàn tự nhiên.
=> kết quả sự thăng hoa của vô thức và ám ảnh về con người, cuộc đời và thơ
Lorca- một con hoạ mi Tây Ban Nha.
b. Mục đích:
Bài thơ được viết như một khúc tưởng niệm Lorca, làm sống dậy hình ảnh Lorca
và thể hiện sự tri âm, đồng cảm và ngưỡng vọng một người nghệ sĩ tài hoa có cốt cách
anh hùng và số phận bi thương.
II. PHÂN TÍCH:
1. Nhan đề và đề từ:
- Đàn ghita - còn gọi là Tây Ban cầm- gắn liền với đất nước Tây Ban Nha xinh
đẹp và hào phóng, rực lửa và mê đắm với những trận đấu bò và vũ điệu Flamencô,
cùng gắn liền với PhêđêricôGaxiaLorca- một nhà thơ nhân dân, một người chiến sĩ
95
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

cống phát xít- một ngườinghệ sĩ đã dùng tiếng đàn ghita cất lên lời ca tranh đấu chống
chủ nghĩa phát xít vừa gắn với nền văn hoá Tây Ban Nha vừa gắn với cuộc đời và khát
vọng LORCA.
- “Đàn ghita của Lorca”: tiếng nói nghệ thuật của riêng LORCA- không thuần tuý
chỉ là âm thanh, giai điệu mà còn là toàn bộ con người LORCA với tinh thần đấu tranh
và khát vọng đổi mới nghệ thuật. Trong trường hợp này, cây đàn ghita đã gắn bó và
biểu hiện tâm hồn nghệ sĩ của LORCA- tình yêu cuộc sống và khí phách kiên cường
của người chiến sĩ yêu tự do, hoà nhập trái tim mình với quần chúng nhân dân.
- Câu thơ của LORCA “Nếu tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”: ước nguyện của
LORCA gắn với cây đàn. Trong cuộc sống, LORCA đã dùng cây đàn ghita cất lên lời
ca tranh đấu thì khi đi vào cõi chết, ông vẫn muốn mang theo cây đàn để tiếp tục hát
lên những lời ca tranh đấu thì khi đi vào cõi chết, ông vẫn muốn mang theo cây đàn để
tiếp tục hát lên những bài ca của tình yêu và khát vọng tự do. Tiếng đàn ghita sẽ là sự
sống, là niềm tin, là hi vọng, là sức mạnh đấu tranh vượt lên cái chết. Sử dụng câu thơ
này làm đề từ, Thanh Thảo có lẽ muốn khẳng định rằng LORCA sẽ bất tử cùng với
tiếng đàn, cây đàn sẽ kéo dài sự sống, nối dài khát vọng của LORCA.
2. Hình tượng tiếng đàn:
- Không trực tiếp miêu tả âm thanh tiếng đàn mà tập trung miêu tả một thế giới củ
tưởng tượng và cảm xúc mà tiếng đàn ấy gợi lên. Dường như trong quan niệm của
Thanh Thảo, tiếng đàn là âm thanh tiếng lòng của LORCA, phản chiếu cuộc sống và
tâm hồn của LORCA.
=> Nói về tiếng đàn mà dùng những từ không miêu tả trực tiếp âm thanh “nâu”,
“tròn”, “vỡ tan” và bằng những hình ảnh thoạt nhìn không có mối liên hệ gì với nhau
“bọt nước”, “bầu trời cô gái ấy”, “lá xanh biết mấy”, “bọt nước vỡ tan”, “ròng ròng
máu chảy”, “cỏ mọc hoang” tạo nên sự giao thoa lạ lùng mà đầy gợi cảm giữa âm
thanh và hình ảnh.
- Là “Đàn ghita của Lorca”, lẽ đương nhiên có thể hiểu tiếng đàn ở đây là âm
thanh, là giai điệu, là sự ngân rung của tâm hồn tràn đầy cảm xúc của LORCA với tư
cách một chiến sĩ đấu tranh cho tự do và một nghệ sĩ thiết tha với cuộc sống.
- Hệ thống hình ảnh mà Thanh Thảo sử dụng để gợi ra tiếng đàn ghita của
LORCA là những hình ảnh có khả năng gợi mở một bức tranh cuộc sống muôn màu
muôn vẻ mà cũng có sức ám ảnh lạ lùng.”
96
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ “bọt nước”: trong tự nhiên, bọt nước tạo thành do tác động từ bên ngoài vào
mặt nước, do sự xô đẩy của những lớp sóng hoặc do những vận động ở tầng sâu đáy
nước- nó có thể xuất hiện liên tục song cũng là sự tồn tại mong manh ngắn ngủi.
Đó là một hình ảnh thị giác gợi cái hữu hạn mong manh, cái phù du trôi nổi.
Cũng như âm thanh tiếng đàn, ở ý nghĩa vật chất, là cái tồn tại trong một khoảng hữu
hạn của thời gian, vang lên rồi tắt.
Cũng như đời người, hiện diện rồi tan biến mất. Đây là liên tưởng đầu tiên về
tiếng đàn của LORCA và cũng là một liên tưởng lạ lùng, độc đáo, gợi nhiều ám ảnh.
Nhất là khi đặt nó trong mối quan hệ với cuộc đời của LORCA: rất ngắn ngủi (chết
khi mới 38 tuổi) và rất đau thương (khi chưa hòan thành khát vọng đấu tranh và chưa
đi hết con đường sáng tạo nghệ thuật, bị bắt, bắn chết rồi bị ném xác xuống giếng để
phi tang). Trong liên tưởng của Thanh Thảo, hình ảnh LORCA và tiếng đàn LORCA
đã nhập vào bọt nước, hiện diện thành bọt nước, mong manh và ám ảnh như bọt nước.
+ “tiếng ghita nâu / bầu trời cô gái ấy”: “nâu”có thể là màu của vỏ đàn, màu của
đất đai quê hương hay màu da cô gái LORCA yêu.
khi gắn với “bầu trời cô gái ấy” thì “tiếng ghita nâu” đã là âm vang và màu sắc
của tình yêu, tiếng ghita đã chứa đựng trong nó thế giới của những rung động tình yêu
say mê đắm đuối. Lạ là ở chỗ âm thanh tiếng ghita lại mở ra một khoảng trời, một
phần đời sống riêng tư với tình yêu dành cho “cô gái ấy” nghĩa là nó chứa đựng cái
phần cuộc sống riêng tư mà cũng rạo rực say mê.
+ “tiếng ghita lá xanh biết mấy”: lá xanh là thiên nhiên tươi tắn, là cỏ cây với
cuộc sống tự nhiên; “lá xanh biết mấy” đã là sắc xanh làm xao xuyến cả tâm hồn.
“Tiếng ghita lá xanh biết mấy” là tiếng ghita mang màu xanh của sự sống và niềm
thiết tha khắc khoải với sự sống.
+ “tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan”: “tròn” gợi sự hoàn tất, “bọt nước vỡ tan” gợi
sự mất mát, kết thúc của cái sự tồn tại mong manh- khi tiếng ghita vang lên những âm
thanh cuối cùng của giai điệu cuộc sống cũng là khi sự sống đột ngột chấm dứt.
+ “tiếng ghita ròng ròng máu chảy”- là sự sống ở dạng tồn tại đau thương và bi
tr¸ng nhất. Âm thanh tiếng ghita là giai điệu, là sự sống của tâm hồn. Máu chảy ròng
ròng lại gợi sự hủy diệt tàn bạo và vết thương đau đớn, gợi sự sống đang bị hủy diệt
tàn bạo nhất. Đây là cách liên tưởng rất bạo (khác hẳn với kiểu liên tưởng của Nguyễn
Du “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”- gợi ngón tay bật máu khi dạo đến khúc cao
97
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

trào của bản nhạc, cũng gợi nỗi đau ứa máu của ngời chơi đàn. Vì trong sự liên tưởng
của Nguyễn Du, tiếng đàn là phương tiện biểu hiện nỗi lòng, còn trong liên tưởng của
Thanh Thảo, bản thân tiếng đàn là một sự sống, một sinh thể cũng bị tổn thương và
“chảy máu” như chính con người). Đây cũng là một cách liên tưởng rất tự nhiên và tất
yếu từ thực tế cuộc đời LORCA (bị bắn chết tàn bạo rồi ném xác xuống giếng). Song
quan trọng hơn, cách liên tưởng ấy của Thanh Thảo cho thấy một quan niệm của nhà
thơ về nghệ thuật: nghệ thuật (tiếng đàn của Lorca) phản ánh cuộc sống và khi hấp thụ
vào mình cái phong phú của cuộc sống thì bản thân nó cũng trở thành một sinh thể có
sự sống, có linh hồn.
+ “không ai chôn cất tiếng đàn/ tiếng đàn như cỏ mọc hoang”
“không ai chôn cất tiếng đàn- có thể hiểu là không ai trân trọng tiếng đàn; là tiếng
đàn không thể chôn cất được bởi nó là môt giá trị tinh thần, sự tồn tại của nó vượt ra
ngoài mọi giới hạn vật chất. Song đặt bên cạnh cách so sánh “tiếng đàn như cỏ mọc
hoang” thì nên hiểu theo cách thứ hai. Về mặt cách thức, cách so sánh này nằm trong
hệ thống của toàn bài (âm thanh được biểu hiện bằng hình ảnh). Về mặt ý nghĩa, đây
là một cách liên tưởng rất lạ lùng: “cỏ mọc hoang” vừa gợi sức sống mãnh liệt, hoang
dại, sức lan tỏa không gì ngăn cản được, vừa là chứng nhân, vừa là một tri âm với
người lãng tử trong khúc du ca (thơ LORCA: “Ghi ta bần bật khóc/không thể nào/ dập
tắt”). Trong trường hợp này tiếng đàn là biểu tượng cho một sức sống mãnh liệt vẫn
tiếp tục. Cũng có thể hiểu đây là lời đối thoại của Thanh Thảo với LORCA. LORCA
mong muốn được chôn cùng với cây đàn. Thanh Thảo không phải không đồng tình với
nguyện ước ấy mà chỉ mở rộng để khẳng định rằng: Cây đàn của LORCA có thể chôn
cất, thể xác LORCA có thể vùi lấp song tiếng đàn và tấm lòng của LORCA thì sẽ
được trân trọng đón nhận và lu giữ bởi tiếng đàn ấy mang trong nó một sức sống vẫy
gọi để kết nối mọi cá nhân trong khát vọng vươn tới tự do và sáng tạo. Triết lí về nghệ
thuật của Thanh Thảo: nghệ thuật nằm ngoài mọi quy luật của băng hoại, chỉ mình nó
không thừa nhận cái chết
=> Thông qua hệ thống hình ảnh, Thanh Thảo vừa gợi ra một bức tranh cuộc
sống muôn màu vẻ của người nghệ sĩ, vừa gợi được sự vận động của hiện tượng tiếng
đàn trong cuộc sống từ một thực thể tồn tại ngắn ngủi, mong manh đến một thực thể
hội tụ trong nó muôn sắc màu của sự sống và rồi cuối cùng trở thành một sinh thể, một
sự sống có sức sống bất diệt.
98
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Cùng với hệ thống hình ảnh, trong bài thơ có hai lần Thanh Thảo mô phỏng âm
thanh tiếng đàn bằng chuỗi điệp âm “li - la li - la li - la” như một chuỗi âm buông do
người đệm đàn lướt qua hàng dây- những âm thanh ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Hai
lần chuỗi âm thanh này xuất hiện đều tạo nên những điểm nhấn làm nổi bật hình tượng
tiếng đàn. Lần thứ nhất nó vang lên lãng đãng, ngân nga trong một không gian dữ dội
của đấu trường chính trị và đấu trường nghệ thuật trên xứ sở Tây Ban Nha. Lần thứ
hai nó vang lên như những dư âm không dứt của tiếng đàn, những dư ảnh không tan
của sự sống (li-la còn gợi nhắc đến tên một loài hoa, hoa tử đinh hương) vẫn đang lặng
lẽ tỏa hương. Ở vị trí mở đầu và kết thúc bài thơ, chuỗi âm thanh này góp phần hoàn
tất hình tượng tiếng đàn như một sự sống mãnh liệt mà mơ hồ, kiêu bạc và lãng đãng,
ngân vang da diết mà lặng lẽ để gợi mở những cảm nhận, hình dung thậm chí là những
ám ảnh về một hình tượng khác- hoàn chỉnh và trọn vẹn hơn- hình tượng LORCA.
3. Hình tượng LORCA
a. Hình tượng L được khắc họa trên nền không gian đất nước Tây Ban
Nha (với không gian văn hoá đặc trưng và không khí dữ dội của những xung đột chính
trị và nghệ thuật)
- Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
- Tây Ban Nha bỗng kinh hoàng
- Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra một không gian văn hoá đặc trưng của đất
nước Tây Ban Nha với những trận đấu bò và chiếc áo choàng đỏ rực của đấu sĩ. Màu
“đỏ gắt” trong tự nhiên là cộng hưởng của màu áo đỏ với màu nắng rực cháy trên
không gian đầy cát bỏng, trong ý nghĩa biểu tượng lại gợi liên tưởng đến tính chất dữ
dội của một đấu trường đặc biệt- nơi diễn ra những xung đột gay gắt giữa khát vọng
dân chủ và nền chính trị độc tài, giữa khát vọng cách tân nghệ thuật với nền nghệ thuật
già nua.
- Từ “kinh hoàng” (hoảng hốt, ghê sợ tột độ) gợi liên tưởng đến không khí khủng
bố căng thẳng dữ dội của chế độ độc tài, cũng gợi liên tưởng đến bầu không gian kinh
hoàng những ấn tượng chết chóc- nhất là khi đặt bên cạnh “áo choàng bê bết đỏ” và
“tiếng ghita ròng ròng máu chảy”.
- Âm thanh tiếng đàn ghita (Tây Ban Nha), hình ảnh chiếc áo đấu sĩ (matactor) và
hình ảnh chàng hiệp sĩ lang thang, đơn độc với “vầng trăng chếnh choáng” và “yên

99
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

ngựa mỏi mòn” gợi liên tưởng đến giấc mơ hiệp sĩ của Đôn Kihôtê lại cũng gợi ra một
ấn tượng lãng mạn, say đắm, một hình tượng đậm chất lý tưởng và chất nghệ sĩ.
b. Chân dung, cuộc đời LORCA:
- Trong thực tế, LORCA đã khơi dậy phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc
tài phát xít và khởi xướng, thúc đầy những cách tân trong nghệ thuật. Trên lập trường
chính trị, LORCA ca là người đi đầu khởi xướng những cách tân nên cũng không dễ
dàng tìm được sự thấu hiểu và ủng hộ trong một nền nghệ thuật đã trở nên già cỗi.
=> LORCA như một hiệp sĩ cô đơn trong cuộc hành trình, cô đơn như Đôn
Kihôtê trong khát vọng tình yêu và trong cuộc chiến đấu chống lại quái vật và yêu ma.
- Để thể hiện được thực tế đó của cuộc đời LORCA và đặc điểm đó của hình
tượng LORCA, Thanh Thảo không kể một câu chuyện cụ thể và mạch lạc, cũng không
xây dựng một hệ thống chi tiết tường minh và lôgic. Lối thơ tượng trưng, siêu thực
khiến ngòi bút nhà thơ đầy ngẫu hứng trong lựa chọn hình ảnh. Sự thấu hiểu và
ngưỡng mộ một tài năng khiến Thanh Thảo tiến đến xu hướng lý tưởng hoá để tạo nên
một sự hoà nhập chuyển hoá của cá nhân LORCA và đất nước Tây Ban Nha:
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li - la li - la li - la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
- Nói về LORCA song không vội nhắc đến tên LORCA, thay vào đó, danh từ
“Tây Ban Nha” được dùng không chỉ một lần có tác dụng gợi cảm đặc biệt: vừa gợi
hình tượng LORCA trong môi trường, không khí đặc trưng của đất nước Tây
Ban Nha, vừa tạo liên tưởng đến một sự hoà nhập của LORCA trong đất nước
quê hương mình. Hơn nữa, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” của nền văn hoá Tây Ban Nha
không thích hợp để ghép với một cái tên cụ thể. Sự kết hợp “Tây Ban Nha áo choàng
đỏ gắt” một mặt vẫn cho phép hiểu đó là hình ảnh của LORCA như một hiệp sĩ trên
đấu trường thời đại một mặt nâng hình tượng LORCA thành một biểu tượng tráng lệ
của thời đại đó.
- Những từ láy “lang thang’, “đơn độc”, “chếnh choáng”, “mỏi mòn” rất Việt
Nam, rất có giá trị tạo hình biểu cảm được đún một cách hợp lí để gợi ra một hình
tượng mang đậm cốt cách Tây Ban Nha: hình tượng một hiệp sĩ cô đơn với bước chân
100
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

mỏi mệt trong cuộc hành trình đơn độc song lòng vẫn đắm say mải miết theo đuổi lý
tưởng vì cái đẹp, cái cao cả của đời mình - một hình ảnh không thể không gợi liên
tưởng đến tinh thần hiệp sĩ và tư thế cô đơn của Đôn Kihôtê - một hình tượng văn học
của đất nước Tây Ban Nha.
“lang thang”- nay đây, mai đó, không dừng lại ở một nơi nào, không bó buộc
trong một không gian nào- cốt cách tự do và hình ảnh người nghệ sĩ tự nguyện làm
người du ca đi lang thang với cây đàn ghita hát lên bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi
bày nỗi buồn đau và khát vọng yêu thương của nhân dân.
“đơn độc”- một mình, không có ai bên cạnh- hình ảnh của LORCA trong cuộc
đấu tranh chính trị và khát vọng cách tân nghệ thuật, cũng gợi tư thế của một hiệp sĩ
với lí tưởng cao cả đẹp đẽ mà không phải ai cũng có thể thấu hiểu và ủng hộ.
“chếnh choáng”- cảm giác của người đang say- say với cái đẹp và say với lí
tưởng của mình dù cái đẹp ấy, lí tưởng ấy không được thực tại đón nhận và trân trọng.
“mỏi mòn”- trạng thái hao sút dần về sức lực, thể chất- hình ảnh con người đã
mệt mỏi, đã bị vắt kiệt sức lực trong cuộc hành trình đơn độc của mình.
- Bản thân các từ láy rất giàu giá trị biểu cảm, khi đặt trong các kết hợp đã tạo nên
những hình ảnh vừa chân thực, vừa thi vị vừa cụ thể vừa có sức khái quát để tạo
những ấn tượng đầy lãng mạn.
+ “đi lang thang” là bước chân của người nghệ sĩ với khúc du ca, “miền đơn độc”
lại là một không gian trống trải quạnh vắng không sao tìm được ai cùng đi bên mình
để có được một chút ấm áp => cuộc hành trình đơn độc của một hiệp sĩ- nghệ sĩ cô
đơn.
+ “vầng trăng chếnh choáng” là sự say đắm của vầng trăng hay của con người với
vầng trăng; “vầng trăng” là hiện thân của cái đẹp. Con người nghệ sĩ say đắm với cái
đẹp là điều bình thường. Nhưng ngay cả cái đẹp cũng bị quyến rũ, bị cuốn hút theo
những khát vọng và cảm xúccủa nghệ sĩ mới thật là điều kì lạ, độc đáo. Nó chứng tỏ
cảm xúc ấy phải thật sâu sắc và khát vọng ấy phải thật mãnh liệt, thật cao cả.
+ “yên ngựa mỏi mòn”- những bước chân ngựa nặng nề mệt mỏi cùng với dáng
vẻ mệt mỏi của con người trên yên ngựa- mệt mỏi vì đã phải đi một chặng đường xa
mà cái đích vẫn xa vời, mệt mỏi và một mình đơn độc.
- Khi kết hợp lại tất cả các yếu tố ngôn ngữ trong đoạn thơ, ta có một nét phác
đầu tiên khá chân thực, chính xác và vô cùng gợi cảm về LORCA: “áo choàng đỏ gất
101
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

cùng với âm thanh tiếng đàn li - la li - la li – la đi lang thang về miền đơn độc với vầng
trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn” gợi một liên tưởng thú vị: con người
nghệ sĩ đã đồng hành cùng vầng trăng chếnh choáng, song thật khó để xác định xem
con người đang chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn hay chính vầng trăng kia đang
chếnh choáng trên yên ngựa. Có lẽ là cả hai. Từ đó, ta có thể hình dung ra hình tượng
của một chàng lãng tử với cuộc hành trình về miền xa thẳm. Chàng lãng tử ấy mang
trong tâm hồn mình cả cuộc sống dữ dội và giấc mơ lãng mạn, cả ý chí kiên cường và
những xúc cảm say đắm làm chếnh choáng cả vầng trăng. Đồng thời ta cũng có thể
hình dung ra hình tượng một người nghệ sĩ cô đơn trên hành trình đi tìm cái Đẹp trong
thế giới bạo tàn, cô đơn trong chính cuộc đấu tranh vì tự do và cái Đẹp mà nhân tố
không phải ai cũng thấu hiểu.
c. LORCA và cái chết bi thảm của một số phận thảm khốc
* Được gợi ra trước hết qua một tương phản:
Tây Ban Nha Tây Ban Nha
hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
=> LORCA với tâm hồn thanh thản dân tộc Tây Ban Nha với cảm xúc
và cốt cách tự do hiện lên như một người choáng váng tột độ, đau đớn tột cùng và
du ca hát lên bài ca lãng tử ghê sợ, bàng hoàng khi Lorca- hiện thân
của khát vọng tự do- bị bắt và bắn chết
tàn bạo
Ở đây nhà thơ như nhập thân vaò hình tượng, đồng thời cũng tự phân thân để trải
nghiệm đến tận cùng hai tâm trạng- tâm trạng của LORCA và tâm trạng của dân tộc
Tây Ban Nhamà LORCA là đại diện ưu tú. Nỗi kinh hoàng của dân tộc Tây Ban Nha
không chỉ là vì cái chết của LORCA mà còn vì cách ứng xử tàn bạo, vô nhân đạo
trước khát vọng tự do của con người.
+ Cái chết đến với L vào lúc mà nghệ sĩ không ngờ nhất, L đang trong những
phút giây thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, đang hết mình cống hiến
+ Cái chết đến với L bất ngờ, kinh hoàng và bi thảm vô cùng
Ở khổ thơ đầu, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra cốt cách tự do và tính cách dữ
dội, phong cách anh hùng và cá tính nghệ sĩ thì ở khổ thơ này, hình ảnh “áo choàng bê
bết đỏ” lại gợi tấm thảm kịch của con người mang khát vọng tự do. “Áo choàng đỏ
102
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

gắt” là một biểu tượng có chức năng khái quát, “áo choàng bê bết đỏ” lại là một sự
kiện cụ thể (LORCA bị điệu về bãi bắn)

=> Thanh Thảo không đi sâu miêu tả sự kiện LORCA bị giết mà chỉ gợi một ấn
tượng dữ dội về nó để biêt hiện cảm xúc đau đớn của chính mình và gợi nỗi đau trong
lòng người đọc.
- Song trong cảm nhận và biểu hiện của Thanh Thảo, nỗi đau không phải điều
cuối cùng đọng lại. Cái đọng lại sau cùng là sự ngưỡng mộ một người nghệ sĩ sống-
chết hết mình cho nghệ thuật: Được gợi mở bằng một so sánh đặc biệt: “chàng đi như
người mộng du”. Trong không khí của đoạn thơ, “đi” là một hành động thụ động của
đôi chân (vì con người thể xác đã bị bắt, bị điệu về bãi bắn), còn trong mạch vận động
của hình tượng, đây l¹i lµ một bước chuyển đột ngét từ sự sống bên ngoài vào sự sống
bên trong, từ vận động của đôi chân đến sự vận động của tâm hồn, từ hành trình tới sự
kết thúc vật chất đến sự khởi đầu bất tử của tinh thần. Vì “mộng du” tức là thoát khỏi
thế giới thực tại để sống và bay bổng trong một thế giới khác- ở đây là thế giới của sự
sống- một sự sống mạnh mẽ và phóng khoáng, tươi tắn mà lãng đãng để không thể nào
huỷ diệt được.

* Thanh Thảo đã gợi ra một sự hoá thân, hoà nhập tuyệt đỉnh giữa hình tượng
tiếng đàn và hình tượng LORCA: khi LORCA bị điệu về bãi bắn cũng là lúc tiếng đàn
ngân lên – qua tiếng đàn những ước mơ khát vọng, thế giới tâm hồn, cuộc đời, cái chết
bi tráng của người nghệ sĩ như sống lại
- tiếng ghita nâu
- tiếng ghita lá xanh.
- bầu trời, cô gái
- Khi LORCA bị bắn là khi tiếng ghita dạo khúc cao trào rồi tắt lịm: tiếng ghita
tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghita ròng ròng máu chảy.
d. Nỗi niềm xót tiếc của nhà thơ và sự bất tử của Lorca
- Khi xác của LORCA bị ném xuống giếng là khi sự sống của tiếng đàn trỗi dậy
“như cỏ mọc hoang”.
=> Hình tượng tiếng đàn- LORCA đã vượt khỏi giới hạn vật chất của hình ảnh và
âm thanh để trở thành hình tượng tinh thần có sức sống bất diệt.
103
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Lối liên tưởng độc đáo:


giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Hình ảnh “vầng trăng” xuất hiện hai lần đều không phải như những thực thể của
thế giới khách quan mà như một biểu tượng gắn liền với những năng lượng tinh thần
đặc biệt. Lần thứ nhất, trăng xuất hiện trong trạng thái “chếnh choáng” rất nghệ sĩ. Lần
thứ hai lại được gợi ra trong một nỗi đau rất con người mà cũng thẳm sâu như chính
vũ trụ- nơi trăng kia hiện diện. Ở câu thơ này, vầng trăng trước hết thuộc về vũ trụ bát
ngát với ánh sáng dịu dàng và vẻ đẹp mĩ lệ.
Đối lập với vầng trăng là đáy giếng- nơi kẻ thù ném xác LORCA hòng xoá dấu
vết tội ác, nơi tăm tối mịt mùng, không sao soi thấu được, nơi lưu giữ hiện thân của
đau thương và tội ác xấu xa. Hai hình ảnh tương phản này gợi hai thế giới hoàn toàn
cách biệt, xa lạ và không thể nào tìm mối liên hệ. Vậy mà Thanh Thảo đã phát hiện ra
mối liên hệ giữa chúng bằng một liên tưởng độc đáo. Trớc hết, “giọt nước mắt vầng
trăng” vừa có thể hiểu là giọt nước mặt của vầng trăng (trăng khóc cho cái chết oan
khuất của LORCA hay chính là vũ trụ đã cảm thấu nỗi đau khôn cùng của con người),
vừa có thể hiểu rằng là giọt nước mắt của vũ trụ rơi vào đáy giếng để soi sáng sự thật
bị chôn vùi. “Đáy giếng” là nơi chôn vùi thân xác LORCA, nơi cất giấu một bí mật về
tội ác của chế độ độc tài, “đáy giếng” cũng là nơi đón nhận sự toả sáng của mối đồng
cảm sâu xa từ vũ trụ.
e. Sự giải thoát, giã từ của Lorca và niềm thương xót, ngưỡng mộ của nhà thơ
- “Đường chỉ tay đã đứt” là sự chấm dứt cuộc sống vật chất, “dòng sông rộng vô
cùng” là cuộc đời vô hạn vẫn tiếp tục chảy trôi- hình ảnh ấy dường như gợi một cảm
giác bi quan: có lẽ sự tồn tại hữu hạn, mong manh của một đời người ngắn ngủi đứt
gãy nửa chừng sẽ bị dìm cho chìm nghỉm dưới đáy sông, sẽ trở nên vô nghĩa trước cái
vô cùng của sóng nước. Thế nhưng Thanh Thảo lại bằng tưởng tượng đem đến một
cảm nhận hoàn toàn ngược lại:
LORCA bơi sang ngang
trên chiếc ghita màu bạc
“bơi” là hành động để tồn tại và khẳng định sự tồn tại trên dòng sông, “bơi sang
ngang” là không bị cuốn đi và không muốn buông trôi theo dòng nước- phải chống
chọi với sức băng cuốn của sóng nước song cũng thể hiện rõ tư thế đứng cao hơn mọi
104
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

sự chảy trôi thông thường; bơi bằng và trên chiếc “ghita màu bạc” là dùng cây đàn
ghita chở tải sự sống của mình vượt lên mọi sự băng hoại, chảy trôi.
=> Chiếc đàn ghia ta đã chở sự sống và linh hồn LORCA vượt qua giới hạn ngắn
ngủi của đời người để đến với cõi vô cùng của cuộc sống. Đó vừa là thực tế, vừa là
niềm tin tuyệt đối của Thanh Thảo vào sự bất tử của LORCA. Vậy là, sự tưởng tượng
xét đến cùng lại bắt nguồn từ nhận thức về giá trị tinh thần của tiếng đàn LORCA, từ
giá trị của tiếng nói và những cống hiến của LORCA cho nghệ thuật. Vậy là ta lại thấy
ở đây một khía cạnh nữa trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo: sự sống vật
chất của người nghệ sĩ chỉ là hữu hạn song sản phẩm nghệ thuật mà nghệ sĩ tạo ra sẽ
đưa nghệ sĩ vào cõi bất tử.
- “lá bùa cô gái Digan” là vật có phép thiêng để trừ tà và tránh tai hoạ. Ném “lá
bùa” vào “xoáy nước” là sẵn sàng đối mặt với hiểm hoạ và định mệnh trong cuộc đời-
hành động làm bật lên tư thế đầy kiêu hãnh (“xoáy nước” là hiểm hoạ trên dòng sông
số phận, “ném lá bùa” là ném sự bảo vệ về sinh mạng).
- “Ném trái tim” – sinh mênh cuộc đời đã hết, L sẵn sàng lùi bước những đam
mê, khát vọng, nhường bước cho thế hệ tương lai, đây lại là sự dâng hiến trọn vẹn
trong thanh thản và vô tư những rung cảm trong sáng, chân thành và thiêng liêng nhất
của chính L- hành động làm bật lên sự cao cả của tấm lòng, sự cao thượng trong tình
cảm cũng như trong khát vọng sáng tạo cống hiến cho nghệ thuật, cho cuộc đời.
=> Cả tư thế kiêu hãnh và trái tim cao thượng ấy đều là dấu hiệu của cốt cách
nghệ sĩ- hiệp sĩ, nó làm tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng LORCA (hai lần Thanh Thảo
dùng từ “ném”. Lần thứ nhất là hành động của một hiệp sĩ dám coi khinh cái chết bởi
cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn LORCA hòa vào
sự sống bất tử của nhân dân. Lần thứ hai là hành động của một nghệ sĩ sẵn sàng và tự
nguyện dâng trọn tâm hồn mình cho cuộc đời để ra đi trong yên lặng. Chính sự dâng
hiến vô tư và tự nguyện ấy đã khiến tiếng đàn ghita của LORCA ngân vang bất diệt
không chỉ bằng âm thanh mà còn bằng cả dư âm. Hai lần Thanh Thảo mô tả tiếng đàn
“li - la li - la li - la”. Lần thứ nhất là những âm thanh vang lên trong không gian dữ dội
của đất nước Tây Ban Nha thành lời ca tranh đấu. Lần thứ hai là những âm thanh vang
lên trong “lặng im bất chợt”, vang lên từ cõi vô cùng và sự bất diệt. Lần thứ nhất là âm
thanh thực. Lần thứ hai đã là những dư âm không dứt để khơi dậy và nối dài cảm xúc,
rung động và tỏa sáng lí tưởng cao cả đẹp đẽ của LORCA).
105
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

III. Tổng kết


- “Đàn ghita của Lorca” là một bài thơ hay. Hay ở chỗ không chỉ tạo dựng chân
dung người nghệ sĩ- chiến sĩ PhêđêricôGaxiaLorca một cách trung thực và gợi cảm
mà còn giúp người đọc cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn và tính cách đậm chất Tây
Ban Nha của LORCA. Bài thơ giàu nhạc điệu- kết quả của sự hòa nhập chất nhạc đặc
biệt của thơ LORCA và năng lượng sáng tạo đặc biệt của hồn thơ Thanh Thảo (những
câu thơ không viết hoa đầu dòng tạo mạch thơ liên tục, xâu chuỗi với nhau để kết nối
các biểu tượng vốn rời rạc và đầy sức ám ảnh; những liên tưởng thơ bất ngờ, phóng
khoáng tạo một gợi mở độc đáo về tiếng đàn ghita của LORCA; những tương phản
gay gắt được xây dựng liên tiếp để làm nổi bật những ấn tượng đậm nét về con người,
cuộc sống và sức sống bất diệt của những giá trị tinh thần mà LORCA tạo nên trong
bối cảnh xã hội và thời đại dữ dội lúc bấy giờ; những hình dung từ được dùng một
cách tình cờ, không cố ý song đều gắn một cách vô thức với số phận và cuộc đời
LORCA để tạo nên một ám ảnh và làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài thơ...). Nhạc
điệu của bài thơ không phải là chất nhạc do âm, vần hay thanh điệu đem lại mà là giai
điệu của tâm hồn, của trái tim đồng điệu trong lí tưởng và khát vọng nên khó thấy hơn
và cũng dễ ám ảnh hơn.
- “Đàn ghita của Lorca” là tiếng nói tri âm của người nghệ sĩ với một người nghệ
sĩ, một người chiến sĩ với một người chiến sĩ. Sự đồng cảm của Thanh Thảo và
LORCA trong bài thơ vừa cho người đọc hiểu về LORCA vừa cho người đọc một cái
nhìn trọn vẹn hơn về con người Thanh Thảo- một trí thức giàu suy t và một người
nghệ sĩ tràn đầy nhiệt huyết, lí tưởng. “Đàn ghita của Lorca” như là sự tiếp nối trọn
vẹn cái mạch thơ đã được khơi dòng từ trường ca “Những người đi tới biển”
Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
- “Đàn ghita của Lorca” cũng chứa đựng trong nó triết lí về nghệ thuật của nhà
thơ Thanh Thảo: triết lí về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, về sức sống của
nghệ thuật và về mối quan hệ giữa sức sống của nghê thuật với sự tồn tại về mặt tinh
thần của nghệ sĩ trong cuộc đời. Những điều này thực ra không mới song trong bài thơ
này, nó chính là cơ sở để Thanh Thảo khẳng định giá trị những sáng tạo nghệ thuật và

106
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

những cống hiến về tư tưởng của LORCA đồng thời cũng là cơ sở để nhà thơ khẳng
định niềm tin vào sự bất tử của những cống hiến ấy.
--------------------------------------------

107
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ

(NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- Nguyễn Tuân)

MỞ BÀI

- Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông
tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ
cho thoả niềm khát khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên
và ở tâm hồn của người lao động.

- Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu,
thác nước dữ dội hoặc những cảnh thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời.

- “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác
phẩm là những trang văn miêu tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng
vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và thơ mộng.

II. Thân bài:


1. Khái quát:
 "Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân.
 Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.
 Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang đến với một tâm hồn vô
cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn
Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính
là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà dòng chảy dữ dội của núi rừng
Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến
ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ
phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thủy, dòng sông mang những
cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào
trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết
đúng 3 câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy.
=> Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung
bạo và trữ tình.
2. Phân tích:
a. Sông Đà hung bạo:
- Sông Đà hung bạo
với dòng chảy ngỗ ngược mà NT đã mượn 2 câu thơ của NQB gợi mở từ
đề từ: "Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu", một dòng
chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường.
vì lắm thác nhiều ghềnh: "Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái
thác, trăm ba cái ghềnh" (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện
qua:
- Cảnh "đá bờ sông dựng vách thành":
+ những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp,
nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự
vững trãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của SĐ với
vách đá như thành cao, vực thẳm, hào sâu.
+ Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
 "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
 Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có
thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách;
 Độ hẹp của lòng sông Đà khi bị những vách đá lớn bên bờ sông
chèn ép tới nghẹt thở còn được tái hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử
dụng động từ “chẹt” trong một hình ảnh so sánh rất ấn tượng về cái yết
hầu: vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu
 "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện"
=> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng, nhà văn tạo ra
ấn tượng tương phản của xúc giác (hẹp, sâu, tối đến mức mùa hè cũng
thấy lạnh), ấn tượng đặc biệt cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy
nhà cao gợi ra thành vách... => truyền cho người đọc những hình dung về
cái tăm tối, lãnh lẽo đột ngột khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông
có đá dựng vách thành.
=> những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với kết cấu câu trùng điệp
của kiểu ngôn từ không xác định: nào, mấy... trong so sánh “khung cửa sổ
của tầng nhà.... điện” đã làm tăng cảm giác về độ cao hun hút, thăm thẳm
của vách đá qua cái nhìn chới với, rợn ngợp của người quan sát.
=> Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng đầy ăm ắp
để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
- Mặt ghềnh Hát loóng: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm "
+ bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu
trúc câu trùng điệp, nhịp văn ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các
thanh trắc,
NT tái hiện hình ảnh con sông Đà với sóng, gió dữ dội, cuồng nộ- những
con sóng dữ cứ cuồn cuộn chồm lên nhau, rồi đổ ập xuống, ghê rợn trên
mặt ghềnh
+ động từ “xô”
điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chuyển động liên tiếp,
mạnh mẽ, thể hiện sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác
+ từ láy ‘gùn ghè” và hình ảnh so sánh nhân hóa
“như lúc nào cũng đòi nợ xuýt...” đã thể hiện sinh động sự hunh hãn, lì
lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Đem lại ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của SĐ là những hút
nước ở quãng Tà Mường Vát:
+ (dc) "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng
nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút
những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" ...
=> Lối so sánh sống động,
đặc sắc khiến hút nước SĐ hiện ra trong hình ảnh cái giếng bê tông ...
xoáy tít đáy, trong âm thanh ghê rợn của “cửa cống cái bị sặc”, như rót
dầu sôi vào...=> khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với
những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con
người.
+ từ láy tượng hình “lừ lừ”, tượng thanh “ặc ặc”, hình ảnh so sánh nhân
hóa “thở”, “kêu” như “cửa cống cái...”
tất cả đều góp phần làm hiện ra hình ảnh và âm thanh của hút nước như
một con quái vật đang giận dữ đến ghê người.
+ NT tưởng tượng:
~ phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ như đi qua một quãng đường
“mượn cạp ra ngoài bờ vực” đã giúp người độc hình dung cảm giác hãi
hùng;
~ nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra
những bè gỗ to lớn, nghênh ngang bị “lôi tuột” xuống đáy hút nước,
“trồng ngay cây chuối ngược”... => những hình ảnh chỉ có trong tưởng
tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp
của hút nước sông Đà.
~ “có anh bạn quay phim táo tợn...” => nhằm gợi lên chân thực cảm giác
sợ hãi của con người khi nhìn thấy hút nước, tưởng tượng bị hút nước ấy
nó lôi tuột xuống, cả một “khối pha lê” nước “sắp vỡ tan” bất cứ lúc nào
cũng có thể đổ ụp vào người.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất ở cả diện mạo và tâm địa của SĐ là thác đá
sông Đà- SĐ dưới ngòi bút của NT hiện hình là “mụ gì ghẻ”, “kẻ thù số 1”
+ Âm thanh thác nước sông Đà:
 Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng
chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
 Ban đầu tác giả để SĐ cất lên khúc nhạc như đang "oán trách", "van
xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo".
 Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng
thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích
mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng"
=> nghệ thuật nhân hóa
đã khiến SĐ thực sự trở thanh một sinh thể sống động đang giận dữ gầm
gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện;
=> sự tài hoa tinh tế của NT còn thể hiện qua cách nhà văn dùng một hệ thống
những từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và
âm lượng
để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung hãn của dòng sông vừa gợi tả
được khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với thác đá SĐ; đây
cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp đầy hứng thú cho
người đọc.
=> đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp hình
ảnh dữ dội
“hàng ngàn con trâu mộng... bùng bùng” – âm thanh thác nước SĐ được
Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng,
động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả
sông, lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, N.T quả là đã chơi ngông trong nghệ
thuật ngôn từ.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> qua so sánh, tiếng thác đá SĐ hiện lên như những âm thanh man dại,
bản năng của một loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát
thân, lại kết hợp với âm thanh của những thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ,
cháy dữ dội trong lửa... => cách miêu tả khiến âm thanh của thác đá
không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua
trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt sống
động của thị giác, xúc giác
+ Dữ dội nhất là sông Đà bày thạch trận trên sông:
~ Tg khái quát về thạch trận sông Đà:
. Thác đá hiện ra với câu văn ngắn giống như một tiếng reo ngỡ ngàng
“Tới cái thác rồi”
. “sóng bọt đã trắng xóa... đá” – câu văn miêu tả đồng thời cả đá và nước
thác; tình từ “trắng xóa” gây ấn tượng về sóng, gió, bọt nước trào sôi
mãnh liệt, sóng tung lên làn hơi nước làm mặt sông mờ trắng
. “chân giời đá” – hình ảnh đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của
thác đá SĐ ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt.
. NT còn phát hiện: đá SĐ cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với
nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người “đá ở đây.... mỗi lần có chiếc
thuyền... một số hòn bèn nhổm...”
=> NT sử dụng thuật ngữ quân sự, gợi dậy những bí ẩn, hiểm ác của đá
SĐ hàng ngàn năm nay, nó dữ dằn, đột ngột “nhổm dậy vồ lấy...”
. những thuật ngữ quân sự, thể thao, võ thuật được NT tận dụng triệt để
“thạch trận, cuộc giáp lá cà....; hệ thống dày đặc những động từ: hò la, ùa
vào,... khiến thác đá SĐ thực sự trở thành một chiến trường với những
trận hỗn chiến ác liệt giữa con người và thiên nhiên
=> Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những
hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn
vào từng thớ đá
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng
mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ
~ SĐ càng dữ dội, ác liệt hơn trong cuộc chiến với người lái đò qua 3 trùng vi
. Trùng vi thứ nhất
Sông Đà bày ra:
năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở,
thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi
thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa
vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: "Mặt nước hò la vang
dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.
Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối
vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận
nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm
độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đò".
Người lái đò:
. Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ
hai:
Sông Đà:
"Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố
trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh
trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh
giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền
đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử "vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu
cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Người lái đò:
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

. Đến trùng vi thứ ba:


Sông Đà:
Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng
ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-
ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm
ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt.
Người lái đò:
Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa,
vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn
được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã
thắng lợi về phe người lái đò tài ba với "tay lái ra hoa".
=> Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược
biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ
thiên nhiên Tây Bắc với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một".
Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với
con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông
Đà". Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn
Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời
đánh ghen".
Trùng vi Sông Đà Người lái đò
1 - mở ra 5 cửa trận: 4 cửa tử, 1 cửa sinh - hai tay giữ chặt lấy mái chèo
(lập lờ phía tả ngạn) - bị thương mặt “méo bệch đi”, cố
- nước reo hò, đá khiêu khích dụ con nén vết thương
thuyền “có giỏi thì tiến vào” - hai chân kẹp chặt lấy cuống lái
- sóng nước ùa vào bẻ gẫy cán chèo, - cất lên tiếng chỉ huy ngắn gọn,
như quân liều mạng, đá trái, thúc gối, tỉnh táo
đội cả thuyền lên, tùm lấy thuyền đòi => dũng cảm, dày dạn kinh
lật ngửa bụng thuyền nghiệm sông nước
- luồng nước “vô sở bất chí” bóp chặt
hạ bộ
- đánh hồi lùng, đòn tỉa, đòn âm
2 - thay đổi chiến thuật: tăng thêm nhiều - Không một phút nghỉ tay nghỉ
cửa tử, cửa sinh lệch hữu ngạn ta, nghỉ mắt
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- như một con thú hoang với dòng thác - nắm chắc binh pháp của thần
dữ dội “hồng hộc tế mạnh” sông thần đá, cũng thay đổi chiến
- ngọn sóng bờ trái xô ra lôi vào tập thuật
đoàn cửa tử - nắm chặt bờm sóng đúng luồng,
ghì cương lái
=> điều khiển một con ngựa bất
kham
- phóng nhanh vào cửa sinh, lái
miết đường chéo
=> điêu luyện
- con sóng- đứa ông tránh, rảo bơi
chèo; đứa ông đè sấn, chặt đôi...
=> thông minh, linh hoạt
- chiến thắng đá tướng
3 - ít cửa hơn, phải- trái đều là luồng - với “tay lái ra hoa” rất khéo léo,
chết, luồng sống nằm giữa bọn đá hậu điêu luyện điều khiển con thuyền:
vệ (boong ke chìm, pháo đài nổi- có + đi mà như lướt trên mặt nước
nhiều đá ngầm) “vút... vút...”;
- luồng sống- cửa sinh mở ra rất hẹp: + so sánh: thuyền như một nũi tên
cảnh mở cánh khép tre xuyên nhanh qua hơi nước =>
=> lắt léo, hiểm ác đi như bay
+ như tự động lái được lượn được
=> không thấy lúng túng, bối rối
nào
=> thuyền lách qua khe cửa hẹp
=> như một nghệ sĩ chèo đò

=> (MR) (1) Tuy nhiên, ngay khi miêu tả một SĐ hung bạo, hiểm ác,
làm hiện lên tất cả diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số 1 của con
người, bằng tài năng, tâm huyết, tình yêu Tổ Quốc, nhà văn của những
cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh phi thường tuyệt mĩ, những gió
bão, thác ghềnh dữ dội, những núi cao, vực sâu vẫn luôn truyền cho
người đọc niềm say mê khát khao muốn được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ
đẹp kì thú của thiên nhiên.
(2) Khi miêu tả SĐ hung bạo ở khúc thượng nguồn, NT không giấu
được niềm say mê, phấn khích với những hình ảnh, âm thanh, hay những
hoạt động của dòng sông. Nhà văn say sưa trước khúc tráng ca mãnh liệt
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

của “hàng cây số, nước xô đá...”, là âm thanh man dại tới cuồng loạn của
nước thác trong sự so sánh với lửa, với rừng, với đàn trâu da..., đó là sự
hùng vĩ mênh mông của thác đá sông Đà sóng bọt trắng xóa, là sự ghê
rợn của một trận nước vang trời thanh la não bạt... => tất cả đã tạo thành
một tập hợp hoành tráng của những sức mạnh thiên nhiên hung dữ, một
cảnh trí có sức hấp dẫn kì lạ bởi cả nỗi sợ hãi và niềm say mê.
(3) thậm chí đến khi miêu tả SĐ ở khúc hạ lưu êm ả, câu văn của NT
vẫn bâng khuâng trong cảm giác “dòng sông quãng này như nhớ như
thương...”- từ láy “xa xôi” gợi nỗi nuối tiếc nhớ nhung của chính nhà văn
với khúc thượng nguồn với sức mạnh hoang dại, với những cuồn cuồn
thét gào, với vẻ đẹp dữ dội hào hùng...

=> thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn đạt taiif hoa, những tri thwucs uyên
bác, NT đã làm hiện lên hình ảnh SĐ hung bạo, hiểm ác, không chỉ như một loài thủy
quái, kẻ thù số 1 của con người mà còn trở thành một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt
vời của tạo hóa, khơi gợi được cảm giác vừa hãi hùng lại vừa ngưỡng mộ, mê đắm
=> SĐ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi
bút số một về thể loại tùy bút VN.
b. Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà
còn đậm nét thơ mộng, trữ tình
Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi “vặn mình vào một cái bến cát”, khi
chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “tan xèo xèo trong trí
nhớ”, ngòi bút tài hoa của NT lại bất ngờ dẫn người đọc đến một SĐ êm
đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.
* Cách quan sát và miêu tả: - ở nhiều góc độ (trên cao nhìn xuống, ngồi
trên thuyền), ở thời điểm (mùa xuân, mùa thu...) => hiểu rõ về SĐ, miêu
tả đến tận cùng đối tượng; mối quan hệ với con người
- Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình dáng mềm mại, hiền hòa, dòng chảy
êm đềm của SĐ:
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

“cái dây thừng ngoằn nghèo” – cảm giác về dòng sông hiền hòa, êm đềm
"Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
=> câu văn dài, có nhịp điệu, hình ảnh so sánh đã gợi lên những nét thi vị đặc
biệt của dòng sông:
+ câu văn dài, điệp ngữ “tuôn dài”
vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, đem đến cảm giác về sự liền
mạch bất tận, vừa gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn, SĐ tuôn chảy từ
những dãy núi hùng vĩ vùng biên giới TB, miên man chảy xuống đồng
bằng, hòa vào sông Hồng rồi thao thiết đổ ra biển...
+ những thanh bằng
liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng
cho dòng sông ở khúc hạ nguồn
+ khi so sánh dòng sông như “một áng tóc trữ tình”- (dòng sông như áng tóc
dài của thiếu nữ buông lơi; dáng hình của người thiếu nữ...)
– nhà văn đã đem đến cho SĐ nét mềm mại đằm thắm, vẻ duyên dáng
đầy nữ tính, nhưng lại không làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ lớn lao của dòng
sông (độ dài, bởi sự tuôn chảy miên man...).
+ trong những câu văn miêu tả tài hoa, NT sử dụng nhiều hình ảnh giàu giá
trị biểu cảm: áng tóc trữ tình, mây trời, hoa ban, hoa gạo, mù khói Mèo đốt nương
xuân
có thể thấy SĐ, trong hành trình về đến hạ lưu, đã nhận thêm vào dòng
chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo của “mây trời”, sự tươi tắn rực rỡ
của hoa ban, hoa gạo tháng hai, và cái đặc biệt ấm áp, thật gần gùi, yên
bình của làn “khói Mèo đốt nương xuân”.
=> cách miêu tả, viết câu của NT đã cho thấy vẻ đẹp của SĐ làm say mê trái tim
nghệ sĩ
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

bởi SĐ là vẻ đẹp của “đất nước Tổ Quốc bao la”, nó gắn bó, gần gũi, thân
thiết với con người.
=> Nhà văn của những vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã có sự thay
đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp không cô đơn, lạc lõng, xa
xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay
trong cuộc sống đời thường của những người lao động bình thường.
- Vẻ đẹp của Sông Đà còn hiện ra qua sắc nước biến ảo theo mùa, trong đó
đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu:
+ Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh
canh hến của Sông Gâm Sông Lô.
~ “xanh ngọc bích” – trong sáng, thanh nhẹ
~ so sánh với sắc “xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô
. cách so sánh quen thuộc của NT – một nhà văn thích khoe tài, khoe
uyên bác, miêu tả cái gì cũng phải đến kiệt cùng của đối tượng
. cũng là cách để thể hiện niềm yêu mến của NT với SĐ
+ Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
~ “lừ lừ chín đỏ” – từ ngữ tượng hình gợi tả dòng chảy chậm rãi, điềm
đạm của con sông đầy nặng phù sa thượng nguồn
~ so sánh “da mặt người... thu về” – không chỉ làm hiện lên sắc nước đặc
trưng của SĐ mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa
những đe dọa của dòng sông vẫn “năm năm báo oán...”
=> ngay cả khi miêu tả nét thơ mộng, trữ tình của dòng sông, hình ảnh
của một SĐ hung bạo vẫn như ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm
nhận của một nhà văn luôn say mê với những cảm giác mạnh.
- Con Sông Đà gợi cảm trong mối quan hệ với con người, SĐ như một “cố
nhân” với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu", làm cho người đi rừng dài ngày khi gặp lại dòng sông thì "vui như thấy nắng
giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

MR (1) Để thể hiện sự gợi cảm của một dòng sông gần thương xa nhớ,
nhà văn đã tạo ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ niềm yêu, cho
những bồn chồn, khát khao, vồ vập...: đi rừng dài ngày, bắt đầu thèm chỗ
thoáng, thèm một không gian phóng khoáng mênh mông, lúc đó càng
thèm gặp lại sông Đà – sông Đà trong mối quan hệ với con người lúc ấy
chính là một “cố nhân”
+ Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa – dòng sông là một người bạn
cũ, vừa đem đến một nét đẹp cổ kính, xưa cũ, vương vấn lòng người như trong Đường
thi
+ Vì là một cố nhân nên con người khi gặp lại dòng sông:
~ Khi nhìn dòng sông thấy “loang loáng như trẻ con nghịch gương...”, thấy
miếng sáng lấp lóa nắng của dòng sông thấp thoáng, ẩn hiện giữa những vạt cây =>
mà háo hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát. Tg liên tưởng mặt sông với cái “miếng
sáng” ấy giống như “một màu nắng tháng ba Đường thi...”
=> bằng cách liên tưởng đến vẻ đẹp của thiên nhiên, dòng sông trong thơ
Đường, NT đã gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, huyền ảo của khói sương, sự
trong sáng rực rỡ của nắng xuân trên sông Đà. Cùng với vẻ đẹp ấy câu
văn “Tôi nhìn miếng sáng... Dương Châu” cũng gợi lên được cảm xúc
bâng khuâng nhớ thương, xao xuyến của nhà văn, gợi lên vẻ đẹp của
sông Đà mang phong vị của Đường thi => nghĩa là NT đã gợi hình ảnh
dòng sông không chỉ chảy trôi trong không gian mà còn trôi chảy trong
thời gian miên viễn, xa xăm, dòng sông Đà như từ xa xưa, từ những
trang thơ tuyệt bút của cổ nhân chảy về => tô đậm vào vẻ thơ mộng của
SĐ (dòng sông như được phủ lên một lớp bụi của thời gian)
~ gặp lại dòng sông là được chiêm ngưỡng một bức tranh non sông cẩm tú với
“bờ sông Đà, .... trên sông Đà”
=> một câu văn đặc biệt toàn chủ ngữ, hai chữ “Sông Đà” điệp lại như
nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian
phóng khoáng của bờ bãi Đà giang => nhà văn như đang hân hoan choán
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

ngợp giữa không gian mênh mông, hòa vào không gian ấy, bị cuốn theo
những xúc cảm dồn dập, gấp gáp, cuốn mình đi theo những say đắm, khát
khao...
~ Gặp SĐ, gặp lại “cố nhân” thì nhà văn- người đi rừng dài ngày- rất vui “Chao
ôi! Trông con sông, vui như thấy nắng ...quãng”.
. “nắng giòn tan” - ẩn dụ đẹp gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, mỏng,
nhẹ, nó hoàn toàn tương phản với cái u ám, trĩu nặng của bầu trời những
ngày mưa dầm => gợi niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp
lại dòng sông.
. “nối lại chiêm bao đứt quãng” – một việc gần như không thể có trong
đời người, nên nối lại được giấc mơ là hi hữu, hiếm quý => diễn tả được
cảm giác sung sướng, hạnh phúc của nhà văn
=> NT là nhà văn của chủ nghĩa xê dịch, ông nhiều lần tới SĐ, bất cứ lúc
nào, nếu muốn, ông cũng có thể đến với “cố nhân” của mình; vậy mà qua
so sánh, có thể thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi
mới, kì diệu như được nối lại một giấc mơ đẹp, như vừa được tận hưởng
niềm vui chưa từng có trong đời, lần cuối cùng, lần duy nhất => tình yêu
mến của NT với SĐ
~ gặp lại dòng sông “nó đằm đằm âm ấm” – tình cảm thân thương, yêu quý, gắn

– SĐ thực sự đã trở thành người bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn
bó trong quá khứ, bao thương nhớ trong hiện tại, bao hẹn hò thủy chung
trong tương lai.
=> Với sự gợi cảm của mình, SĐ đã thực sự trở thành “cố nhân”, tình
nhân, dẫu có lúc trái tính, trái nết mà vẫn có sức hấp dẫn mê hoặc lòng
người.
- Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ
mộng: "Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời
Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Có những cảnh
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa". Cảnh sông Đà còn là "những nương ngô
nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm".
+ những câu văn nhiều thanh bằng gợi nên một cõi êm đềm, hoang sơ, vắng
lặng như chưa từng có dấu vết của con người
+ tính từ “lặng tờ” được lặp lại + câu văn mang nghĩa khẳng định “Hình như từ
đời Trần...” khiến cho sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm – không chỉ vì
cái yên ả trong không gian mà còn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian.
+ so sánh độc đáo: bờ sông hoang dại... tuổi xưa
So sánh (như bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích tuổi xưa) không hề làm rõ, làm
hiện hình cụ thể hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những
khái niệm trừu tượng (tiền sử, nỗi niềm cổ tích), nó như càng đẩy dòng
sông trôi xa vào miền mộng ảo, phiêu diêu, vào cõi hồng hoang xa xôi,
trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ => người đọc lại càng cảm
nhận rõ hơn sự lặng tờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm
+ sự yên ả, êm đềm đến mức mơ hồ của SĐ khúc hạ lưu tiếp tục được nhà văn
tô đậm hơn với những hình ảnh thơ mộng, những hình ảnh thuộc về thế giới trong
lành, nguyên sơ, thuần khiết:
“mấy lá ngô non đầu mùa...”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”;
hình ảnh “con hươu thơ ngộ...”, cất tiếng hỏi nhà văn bằng ‘tiếng nói
của...”; tiếng “cá dầm xanh...” khẽ khàng, dịu nhẹ; => nhiều chi tiết thuộc
về ảo giác, là sự tưởng tượng phong phú của nhà văn => những chi tiết,
hình ảnh này càng chứng minh rõ: đến với SĐ là NT bước lạc vào một
cõi trong trẻo, an lành, thuần hậu, nguyên sơ- một thế giới tưởng chừng
như không có thực, là thế giới của cổ tích
- Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như
thế, nhà văn bỗng cảm thấy "thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một
chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu",
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Tg muốn thiên nhiên được đánh thức bởi sự hiện diện của con người.
Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ. Nhà văn hướng tới tương lai
đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở,
những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười
nói của mọi người. Đó là ước mơ hiện đại hóa miền TB => đã hòa mình
vào phong trào, khát vọng của ĐN của ND
(MR) => việc giật mình thèm một tiếng còi... => còn là một cách để NT
thấy mình vẫn còn đang trong thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người
của nền văn minh hiện đại (tiếng còi là âm thanh của cuộc sống hiện đại)
– mơ về âm thanh của cuộc sống hiện tại giữa bờ bãi SĐ cũng là một
cách để nhà văn gián tiếp tô đậm sự lặng tờ, hoang dại của dòng sông
(giống như lấy động để tả tĩnh). SĐ ở hạ lưu là một dòng sông quá đỗi êm
đềm.
- Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng,
nhà văn còn có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước:
"Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình"
của "một người tình nhân chưa quen biết".
Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ "như
nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như
đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi". Con sông trở
nên hiền hòa và thơ mộng, nó "trôi những con đò mình nở chạy buồm vải
nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên".
=> trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn trực
tiếp xuất hiện
qua lời kể hào hứng: tôi đã nhìn say sưa...; trong những lời cảm thán
nồng nàn: Chao ôi... => vậy là, bên cạnh một NT sắc sảo, tài hoa, uyên
bác còn có một NT đam mê, dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ
nhung như một tình nhân, như một cố nhân; khi bồng bột như trẻ nhỏ
trước mênh mông phóng khoáng của bờ sông Đà, bãi SĐ; khi thì lại say
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

đắm muốn tan hòa vào thế giới êm đềm, bát ngát của dòng sông; nhất là
lại luôn lai láng niềm mong ước của một thi nhân muốn đề thơ vào sông
nước
3. Nhận xét chung:
* SĐ là biểu tượng của vẻ đẹp của thiên nhiên TB, “vàng mười” của tổ quốc;
Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông, vẻ đẹp của đất nước, quê hương với tất cả sự
tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiên nhiên, đất nước thiết. Lòng ngưỡng
mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã
tạo nên những trang văn đẹp hiếm có, Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa
bậc nhất của nền văn học Việt Nam- đặc biệt ở thể tùy bút.
* Hình tượng con sông Đà trong tùy bút đã thể hiện được những nét độc đáo
trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
- NT vốn là người nghệ sĩ của những cái phi thường, xuất chúng, đối tượng
của ông phải tạo được ấn tượng mạnh đập vào giác quan của người nghệ sĩ. SĐ là một
đối tượng như thế. Ngay ở lời đề từ, NT đã trích hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
2 câu thơ này đã khẳng định nét độc đáo của SĐ, bản thân nó chứa đựng những
nét phi thường không giống với dòng sông nào. SĐ dữ dội, bạo liệt: vách thành đá,
sóng gió dữ dội, hút nước xoáy tít đáy, trùng vi thạch trận... Có thế nó mới thu hút
được 1 nghệ sĩ như NT. Có thể nói, NT đến với SĐ chính là sự độc đáo đi tìm cái độc
đáo.
- NT thường tiếp cận đối tượng ở phương diện thẩm mĩ, văn hóa, nếu là con
người phải là nghệ sĩ tài hoa, còn nếu là cảnh phải đạt đến mức tuyệt vời, diễm lệ.
SĐ cũng mang nét đẹp ấy ở dáng vẻ mềm mại, thướt tha, lộng lẫy mà mơ màng; ở
màu nước thoắt ẩn, thoắt hiện... Khi viết về SĐ trữ tình quả thật NT đã hiến cho đời
những trang hoa, tờ hoa, làm sống dậy trong tâm trí người đọc 1 dòng sông cẩm tú của
non sông gấm vóc.
- NT có phong cách nghệ thuật nổi bật là tài hoa, uyên bác
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ nét tài hoa của ông được thể hiện trong việc sử dụng từ ngữ, sáng tạo hình
ảnh, cách viết câu văn.
Về sử dụng ngôn từ, NT xứng đáng là một bậc thầy, ngôn từ của NT phải “nóng
rẫy” sự sống, phải nổi hình, nổi khối, phải có âm thanh, sắc màu. VD khi NT viết “SĐ
tuôn dài...” thì chữ “áng” thường để nói về những áng văn thơ tuyệt bút, mái tóc mềm
mại, NT dùng từ này để nói về SĐ là ông muốn khẳng định duyên dáng SĐ, SĐ cũng
chính là áng thơ tuyệt vời mà tạo hóa ban tặng cho con người TB. Khi tả về âm thanh
của hút nước, ghềnh thác, NT viết “ặc ặc” “ghùn ghè”... những từ này đã biến hút
nước, ghềnh thác trở thành loài thủy quái đang giẫy giụa, gào thét đến ngạt thở để hăm
họa, uy hiếp con người.
NT cũng rất giỏi trong việc sáng tạo những hình ảnh so sánh. Khi tả bờ đá SĐ,
ông viết “vách đá thành chẹt ...” - khiến người đọc hình dung bờ đá SĐ chính là những
ngón tay khổng lồ của thần đá đang bóp cổ con sông Đà. Còn khi tả tiếng thác nước
“thế rồi nó rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng...” quả thật không ai như
NT lấy lửa tả nước, rừng tả sông - vậy mà những sự đối lập ấy khi được NT so sánh
vói nhau vẫn rất phù hợp, đặc biệt tạo được ấn tượng mạnh của ngôn ngữ, hình ảnh kì
thú của lối chơi ngông.
Cách viết câu văn của NT rất độc đáo, có lúc ông viết câu trường phú, trùng điệp,
tầng tầng, lớp lớp; nhưng có những câu văn lại rất ngắn gọn, tỉnh lược một cách bất
ngờ. Khi tả độ dài của SĐ NT viết “SĐ tuôn dài... nương xuân”- 1 câu văn thật dài kết
hợp với việc sáng tạo khi dùng dấu chấm, dấu phẩy khiến SĐ trở nên dài hơn bội
phần, đáng lẽ phải đặt dấu “,” giữa hai từ “tuôn dài” nhưng NT không làm vậy. Khi
miêu tả vẻ êm đềm, nên thơ của SĐ NT lại viết “Thuyền tôi...”- những câu văn ngắn
toàn thành bằng khiến nó trở thành những câu thơ gợi cảm giác bâng khuâng, êm ái...
những câu văn như thế khiến cho NT như một nhà thơ, rất thơ.
+ bên cạnh nét tài hoa thì uyên bác cũng là một đặc điểm nổi bật của pc nghệ
thuật NT. Ông thường sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau
trong trang văn của mình để miêu tả đối tượng, đối tượng được xoay lật, ngắm nghía ở
nhiều góc độ, phương diện khác nhau => đối tượng, những gì NT miêu tả, khắc họa
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

hiện lên vừa chính xác khoa học vừa sinh động hấp dẫn. Qua hình tượng con SĐ ta
thấy NT có một kiến thức địa lý thực tế rất phong phú. Ông đã từng đến vùng thượng
lưu để thấy SĐ hung bạo, đã xuống vùng hạ lưu để thấy SĐ trữ tình, ông đã từng đi
thuyền trên sông để thấy có cảm giác như đang đứng ở hè một cái ngõ nào mà ngóng
vọng lên tầng nhà thứ mấy nào... ông đã từng ngồi trên máy bay để đến với SĐ để thấy
SĐ ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng, ông đến với SĐ mùa xuân để thấy nước SĐ
xanh màu ngọc bích, đến với SĐ mùa thu để thấy nước SĐ lừ lừ chín đỏ...
Với kiến thức lịch sử phong phú, NT cho người đọc thấy SĐ đã từng găn với
chiến công của người anh hùng cứu nước. Với kiến thức của ngành điện ảnh ông đã
truyền cho người đọc cảm giác hãi hùng khi ngồi xem những thước phim tư liệu quay
cảnh những cái hút nước SĐ mà người quay phim đã ngồi vào một chiếc thuyền thúng
tròn vành rồi cho cả người, cả thuyền, máy quay xuống đáy hút nước rồi quay ngược
ống kính lên.
Với vốn tri thức về quân sự, thể thao, võ thuật, NT đã biến thác đá SĐ thành
thạch trận với nhiều trận tuyến. Ở trận địa ấy có boong ke chìm, pháo đài nổi, những
binh hùng tướng mạnh sử dụng nhiều chiến thuật, lối đánh giáp lá cà, khuýp quật vu
hồi hay thúc trái, túm thắt lưng, phòng ngự, hậu vệ...
Có thể nói còn rất nhiều tri thức của nhiều ngành, nhiều môn được vận dụng một
cách sáng tạo trong việc khắc họa con SĐ. Có thể nói, NT đến với thể loại tùy bút và
đến với SĐ như một cuộc hội ngộ tất yếu - tài năng, tính cách ấy phải đến với thể loại
ấy và dòng sông ấy. Tuy nhiên qua hình tượng con sông Đà ta không chỉ thấy bút lực
tuyệt vời của NT mà còn thấy một tấm lòng tha thiết, tự hào với từng tấc đất, dòng
sông của tổ quốc. Sau những trang viết ấy là một tình yêu thầm kín, là niềm tự hào về
tổ quốc, giang sơn hùng vĩ, tươi đẹp.
III. Kết bài:
Tùy bút NLĐSĐ là một thành công nghệ thuật của một tài năng đã tìm đúng
hướng. Tuy nhiên gốc của chữ “tài” bao giờ cũng là chữ “tâm”. Văn NT đâu chỉ là lâu
đài, dòng sông chữ nghĩa mà còn là bể thẳm của tâm hồn. Chính tình yêu đất nước đã
làm dào dạt thêm tấm lòng thơ lai láng khi NT đặt bút viết về SĐ, khiến dòng sông Đà
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

"hung bạo và trữ tình" chảy mãi trong dòng văn học nước nhà cũng như trong niềm
yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của biết bao thế hệ bạn đọc.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

(NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ-Nguyễn Tuân)


MỞ BÀI

- Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng.
Trước 1945 ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi…
sau năm 1945 ông nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội
ta đánh Mỹ giỏi, tùy bút Sông Đà…

- Người lái đò Sông Đà là tác phẩm trích trong tùy bút Sông Đà được viết nhân
chuyến thực tế Tây Bắc năm 1958.

- Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng
con Sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang
trên thác dữ - một tay lái ra hoa.

THÂN BÀI

1. Giới thiệu chung.

- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà được in trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960), gồm
15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây
dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây
Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn
Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các
dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn
cảm hứng sáng tạo dồi dào, mới mẻ.

Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, với lòng tự hào của mình, đã khắc
hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua
hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca
ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới - chất vàng mười của
đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Thế giới nhân vật trong trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô
cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn
lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự
hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang
phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong ấm trà
pha ngon, cụ đã "nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí" (Chén trà
sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ đeo gông, vung bút
viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể
hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người" (Chữ người
tử tù)...

=> Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có "tay lái ra hoa". Đó
là những người lao động mới, không chỉ thành thục lão luyện trong nghề,
thông minh, tài trí mà còn cực kì tài hoa, mang cốt cách nghệ sĩ.

2. Phân tích

* Ngoại hình, lai lịch, nghề nghiệp

(chuyển ý) Ngay khi miêu tả dòng sông Đà hung bạo khúc thượng
nguồn, NT đã có ý thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội, kì vĩ, một
không gian lớn lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông
nước. Trên thác đá đầy đủ tướng dữ quân tợn, những hút nước chết
người, những yết hầu chật hẹp, lạnh lẽo và “sóng xô đá, đá xô gió” bỗng
hiên ngang một người lái đò hùng dũng, oai phong như khắc như
chạm.

- Đó là một ông lái đò bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình vẫn đẹp
như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh
tay “lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, “nhỡn giới vòi vọi”. Trên ngực của ông nổi
lên một số "củ nâu" thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân
ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Ông lái đò sông Đà có "tay lái ra hoa", đã từng vượt qua bao trùng vây thạch
trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn 20 năm chèo đò, có 10 năm
chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo, đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da
trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, cho nên ông thuộc lòng từng con thác, cái
ghềnh, ông nắm chắc “binh pháp thần Sông, thần Đá”.

=> người lao động gắn bó với nghề nghiệp, dấu ấn nghề nghiệp hằn in trên thân
thể, ngấm vào xương thịt

* Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn
có nhiều phẩm chất đáng quý:

- Người lái đò là một người từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc
về luồng lạch trên sông Đà.

+ “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng
đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà,
đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả
những cái chấm than chấm câu và những đọan xuống dòng ”.”

+ Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá.
Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”.

=> Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông
nước, từng trải và giàu kinh nghiệm.

- Ông cũng là người thông minh, linh hoạt, dũng cảm, tài hoa - ông như một
viên tướng tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà.

=> Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày.
Và ngày nào cũng phải giành lấy sự sống từ tay nhưng con thác. Vẻ đẹp
của người lái đò, được ngòi bút NT thể hiện qua cảnh vượt thác SĐ.
Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt, mà ở đó,
tất cả những phẩm chất tuyệt vời của nhân vật được bộc lộ. Nếu
không dũng cảm, không thông minh, linh hoạt, điêu luyện thành thục
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

trong nghề, thì người lái đò sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của
mình. Nhà văn gọi cảnh vượt thác sông Đà là cuộc chiến đấu gian lao của
người lái đò trên chiến trường sông Đà.

Đó là cuộc vựơt thác nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt
như một trận đánh mà đối phương bộc lộ diện mạo và tâm địa của thứ kẻ
thù số một. Lòng dũng cảm, sự thông minh, kinh nghiệm sông nước, nhất
là chất tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện ở bản lĩnh chiến đấu và tinh
thần dũng cảm phi thường qua các trùng vi thạch trận.

+ Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết
thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt
diễn ra, “kẻ thù” rất mạnh, hung hăng: những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được
nước thác "reo hò làm thanh viện" đã liều mạng xông vào mà "đá trái” mà “ thúc gối
vào bụng và hông thuyền… Có lúc chúng đội cả thuyền lên". Nguy hiểm là vậy nhưng
ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc
bị con ‘thủy quái” này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng –
mặt “méo bệch” đi - nhưng vị thuyền trưởng vẫn “hai chân vẫn kẹp lấy cuống
lái”, cất tiếng chỉ huy của ông sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy
hiểm.

~ Trong hình ảnh mặt “méo bệch đi”- NT có cách sử dụng từ độc đáo
“méo bệch” => làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch
vì đau đớn, mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh

~ sự đau đớn của ông còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của
thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể
đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”- đây là cách miêu tả
thông qua cảm giác rất quen thuộc của NT- vết thương đau đớn của ông
lái đò được thể hiện bởi cảm giác tóe đom đóm và rát bỏng như lửa cháy

=> môi trường lao động càng khắc nghiệt thì càng nổi bật lòng dũng cảm
của người lái đò
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ qua miêu tả tiếng hô chỉ huy “ngắn gọn...” của người lái đò, NT cũng
không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên
cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò

+ Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, SĐ bố trí nhiều cửa tử hơn, lệch phía
bờ hữu ngạn, với "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Người lái
đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người
lái đò dày dạn kinh nghiệm. Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy
luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ông lái đò cũng thay đổi chiến thuật, nhanh tay,
nhanh mắt, bắt đầu cuộc tấn công bằng cách "nắm chặt được cái bờm sóng đúng
luồng rồi" ông cho con thuyền"phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo
về phía cửa đá ấy". Bọn “thủy quân” đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì
bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến" (động từ => hành động chính
xác, linh hoạt điêu luyện). Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại thảm hại
đưa cái mặt "tiu nghỉu, xanh lè thất vọng".

~ kinh nghiệm dày dạn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện
trong chi tiết “ông nhớ mặt từng đứa...” để có cách ứng phó phù hợp

~ những động tác linh hoạt uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi “lái
miết một đường chéo”, khi “tránh mà rảo bơi chèo lên”, khi “đè sấn, chặt
đôi mở đường tiến”

=> đây có thể coi là những biến pháp kì diệu của một tay lái ra hoa - trí
tuệ và tài hoa của con người đã chiến thắng cả thần sông thần đá

+ Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết cả". Đã vậy, SĐ còn bố
trí "bọn đá hậu vệ" canh cửa hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng
thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi khéo léo điều khiển con thuyền "vút
qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên
nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu
văn ngắn, cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ, danh từ nối tiếp “vút,
vút...” “cửa ngoài, cửa trong...” đã thể hiện sự điêu luyện và khéo léo, sức
mạnh của ông lái đò

~ tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa
lượn của ông lái đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái
gợi hình và biểu cảm “vút vút...”, qua hình ảnh so sánh “như một mũi tên
tre”, làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua => con thuyền không còn
lướt trên mặt nước mà thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt sóng

=> tài năng của ông lái đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, kinh nghiệm, sức
mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt
tới mức phi phàm, kì diệu

=> Qua đó, ta thấy ông lái đò vừa oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí
dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng, vừa hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa.

Nhất là vẻ đẹp nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, với
tay lái ra hoa của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi hết
lời.

=> Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa
dạng, biến ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so
sánh ngầm, nhân hóa, cường điệu … => Cảnh vượt thác là bài ca chiến
trận hào hùng, một bức tranh hòanh tráng.

=> cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông thọat đầu tưởng như không
cân sức, nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự
thông minh và dũng cảm, tài hoa của người lái đò.

=> Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm
thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, trở
thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

tâm mà chiến thắng sức mạnh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng
mười đã qua thử lửa của nhân dân Tây Bắc.

- Đặc biệt, phong thái cốt cách nghệ sĩ còn thể hiện ở sự ung dung, khiêm
nhường, bình dị của ông khi cuộc chiến sinh tử đã hoàn thành

+ Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong
cuộc sống của ông.

Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu
bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng
sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân
mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Vào trận mạc, ông
thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan
của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác =>
phẩm chất cần có của nghệ sĩ, chứng tỏ sự điêu luyện, thành thục...

+ Không những thế, khi vượt qua gian nguy, thì sóng nước lại tan xèo xèo trong
trí nhớ “sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống
cơm lam , và tòan bàn tán về cá anh vũ , cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn
thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua ”.

Giọng văn nhẹ nhàng, nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài
cùng nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ.

Cũng qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái
đò. Đó là sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái
sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ … ”. Cái phi
thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài
tử, nghệ sĩ .

Thái độ bình thản của người lái đò càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao
của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

việc chiến đấu và chiến thắng SĐ dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ
những cửa tử của ghềnh thác SĐ chỉ là chuyện thường ngày.

3. Nhận xét chung

- Qua việc vượt qua thạch trận với 3 cửa ải trên thác đá sông Đà, ông lái đò sừng
sững hiện lên với sức mạnh, bản lĩnh phi thường, tri thức phong phú, với tư thế của
người tướng trận tài ba, dũng mãnh và với phong cách của một người nghệ sĩ tài hoa,
điêu luyện.

- Qua hình tượng NLĐ, ta thấy được sự thay đổi quan niệm về người anh hùng,
người nghệ sĩ của NT. Nếu trước cm tháng 8 ông quan niệm chỉ có trong chiến đấu
mới có anh hùng, chỉ có trong nghệ thuật mới có nghệ sĩ, thì sau cm tháng 8- nhất là
trong NLĐSĐ- ông khẳng định: những người lao động bình thường như ông lá đò kia
cũng có thể trở thành anh hùng, nghệ sĩ trong công việc của mình.

- Đằng sau hình ảnh ông lái đò dũng cảm, tài hoa ta bắt gặp 1 niềm tự hào, sự trân
trọng của NT đối với con người VN trong thời đại mới. Nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự
hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con
người mà nhàvăn gọi là “chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái
đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong
cuộc sống tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí
dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật. Họ là đối tượng của cái đẹp,
của ánh sáng thẩm mĩ hiện đại.

- Qua hình tượng ông lái đò, người đọc còn thấy rõ phong cách nghệ thuật
độc đáo của NT:

+ NT vốn thích những gì phi thường, xuất chúng, thì ông lái đò kia là một minh
chứng tuyệt vời. Nếu không có bản lĩnh, sức mạnh và khí phách phi thường người lái
đò ấy sao có thể vượt qua những cửa ải chết người hàng ngày, hàng giờ để giành sự
sống “từ tay nó về tay mình”;
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

+ NT thường khám phá phát hiện đối tượng ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ- nếu
là con người sẽ là một nghệ sĩ tài hoa; ông lái đò kia cũng là một nghệ sĩ tài hoa đang
thầm lặng đề thơ trên sóng nước Đà giang.

=> có người đã gọi tay lái điêu luyện của ông chính là 1 tay lái ra hoa- mỗi hành
động cử chỉ đều đạt tới mức điêu luyện tinh tế giống như của một người nghệ sĩ.

+ Nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của NT là sự tài hoa, uyên bác.

Nét tài hoa thể hiện trong việc dùng từ, sáng tạo hình ảnh, viết câu văn. Chẳng
hạn khi NT viết “Nhưng ông cố nén vết thương...như luồng sóng” thì 2 từ “méo bệch”
vừa tả được nỗi đau như méo mó cả gương mặt giống như từ “méo xệch”, đồng thời
còn miêu tả được sắc mặt tái nhợt đi vì đau của ông lái; hoặc khi NT viết “Nắm chặt
được cái bờm sóng...”- 2 từ “bờm sóng”, “cương lái” của NT dùng thật lạ, thật hay.
Nó khiến sóng nước và việc lái thuyền giống như đang điều khiển một con ngựa bất
kham, người điều khiển phải thật cao tay mới có thể thuần phục được.

Những hình ảnh so sánh mà NT tạo ra cũng thật độc nhất vô nhị. Để so sánh việc
vượt thác của ông lái đò, NT viết “cưỡi lên sóng thác sông Đà phải...”, hoặc “thuyền
như một mũi tên tre...”- những hình ảnh so sánh này đã làm nổi bật sự hung dữ, nguy
hiểm của thác nước và tốc độ phi thường của con thuyền dưới sự điều khiển của ông
lái đò.

Cách viết câu văn của NT cũng rất độc đáo, có khi ông dùng câu ghép, câu trùng
điệp tầng tầng lớp lớp, nhưng cũng có lúc ông lại viết “Thế là hết thác”. Câu văn đột
ngột giống như một tiếng thở phảo nhẹ nhõm của người lái đò khi đã vượt hết những
cửa ải nguy hiểm.

Sự uyên bác của NT được thể hiện trong việc ông dùng tri thức của nhiều ngành,
nhiều môn trong trang văn của mình. Với kiến thức quân sự, võ thuật, thể thao...
phong phú ông đã biến cuộc vượt thác kia thành cuộc chiến đấu giáp lá cà đầy khốc
liệt. Có rất nhiều từ ngữ, thuật ngữ quân sự xuất hiện trong đoạn văn như: cửa sinh,
cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, đòn tỉa, đòn âm... có thể nói nhà văn đã trở thành một
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

nhà chỉ huy ngôn ngữ để lấy trong kho ngôn ngữ của nhà võ, nhà binh vốc hào phóng
lên những trang viết, để mỗi dòng chữ đều ngồn ngộn hơi thở và sức sống.

KẾT LUẬN

NT đặc biệt yêu thích, trân trọng những người tài hoa nghệ sĩ, điều đặc biệt là các
nhân vật của ông, nhất là những nhân vật trong các tác phẩm viết sau cm tháng 8, dù
làm bất cứ nghề gì cũng thành nghệ sĩ trong công vệc của mình- điều đó thật đúng với
ông lái đò. Qua hình tượng người lái đò SĐ, NT không chỉ bộc lộ được niềm tự hào
trân trọng của mình với con người VN mà còn truyền được niềm tự hào trân trọng ấy
cho nhiều thế hệ bạn đọc.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)


I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện
đại. Ông có sở trường đặc biệt về thể bút ký, tùy bút.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và
chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn
kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý… Lối hành văn hướng nội,
súc tích, mê đắm
2. Tác phẩm
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài tùy bút suất sắc viết tại Huế năm 1981, rút
từ tập bút ký cùng tên.
- Tập bút ký: gồm 8 bài ký, viết ngay sau năm 1975, trong đó thấm đẫm lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh hùng. Những cảm hứng ấy được thể hiện rõ
nét trong tình yêu, lòng tự hào sâu sắc của nhà văn đối với vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ
của thiên nhiên đất nước, với truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời của dân tộc, với
những phẩm chất cách mạng kiên cường của con người Việt Nam thời đại mới. Những
nội dung ấy được truyền đạt bởi một ngòi bút tài hoa với những hiểu biết sâu rộng, lối
hành văn hướng nội, đẹp sang trọng, súc tích và tinh tế.
- Cảm hứng: dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế. Dòng sông quê hương
được soi chiếu từ nhiều góc độ của lịch sử, địa lý, văn hóa… Qua những suy tư và liên
tưởng, dòng sông đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của đất cố đô với trang sử vẻ
vang, với cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn
con người xứ Huế. Bài tùy bút mang đậm phong cách tùy bút bởi giọng văn phóng
túng và sự bộc lộ cái “tôi” suy tư, trữ tình của nhà văn.
II. PHÂN TÍCH

I. Hình tượng sông Hương


MB
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Nhắc đến Huế là nhắc đến dòng SH hiền hòa thơ mộng. Dường như dòng sông
ấy đã trở thành biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, SH đã từ lâu trở thành nguồn thi
cảm, nguồn cảm xúc của biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn để rồi những cảm xúc ấy
hiện lên thành những trang tuyệt bút.
- Một trong những tác phẩm viết thành công về Huế, SH là tùy bút “Ai đã đặt
tên...” của HPNT. Tp là cái nhìn toàn diện về vẻ đẹp phong phú, đa dạng về SH. Qua
vẻ đẹp nhiều sắc thái, nhièu khía cạnh của SH, HPNT cũng thể hiện một ngòi bút bút
kí phóng khoáng, tài hoa uyên bác.
TB
* Được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cố đô, HPNT sớm mang trong mình một
tình yêu thiết tha, sâu nặng với SH. Trong các tác phẩm của ông thì những tp viết về
Huế và SH có một vị trí vô cùng quan trọng. Bài bút kí “Ai...” được ông viết vào
tháng 1 năm 1981, là kết quả của một quá trình trải nghiệm, khám phá, tìm hiểu và
cũng là kết quả của mộtt ình yêu lớn mà ông dành cho SH và xứ Huế.
1. Dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý
Vẻ đẹp thiên nhiên của SH được khám phá theo chiều dài của không gian với
nhiều dáng vẻ, nhiều nét đẹp phong phú, sinh động
a) Dòng sông nơi thượng nguồn
– Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng
sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến,
hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
+ Nhận xét này không chỉ đem đến cảm giác sở hữu đầy thương mến cho
dòng sông quê hương
+ mà còn thể hiện niềm tự hào sâu sắc khi đặt sông Hương ngang hàng
với các dòng sông đẹp trên thế giới, thậm chí còn kiêu hãnh khẳng định
sự độc đáo của dòng sông quê hương => thể hiện tình yêu đặc biệt của
HPNT với sông Hương và xứ Huế.
– Nói tới sông Hương xứ Huế, người ta thường có ấn tượng về sự phẳng lặng, êm
đềm của dòng sông trong khung cảnh thanh bình yên ả của xứ Huế. Riêng Hoàng Phủ
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Ngọc Tường, nhà văn đã không ngừng lại ngắm nhìn “khuôn mặt kinh thành” với vẻ
đẹp sang trọng cổ kính của sông Hương trong thành Huế, ông đã khao khát ngược
dòng không gian, tìm về cội nguồn của rừng đại ngàn, khám phá những vẻ đẹp bí ẩn,
những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm” của dòng
sông trước khi nó về tới Huế.
– Với trí tưởng tượng và niềm say mê, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả dòng
sông Hương ở khúc thượng lưu trong những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính
+ Hình ảnh so sánh SH với “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện
ra với cả chiều dài rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm
say mê của nhà văn,
bởi “trường ca” là áng văn chương có dung lượng lớn thường mang đậm
cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng
đại ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mông => hình ảnh gợi lên một sông
Hương hoang dại nơi thượng nguồn.
+ Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất cả
những sắc thái phong phú, đa dạng của rừng già khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”,
khi “mãnh liệt qua những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
bí ẩn”, và có khi lại “dịu dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa
đỗ quyên rừng”…
~ Nhà văn đã viết những câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp, gợi dậy
cái dư vang của trường ca, cái âm vang của rừng núi
~ các danh từ cho thấy sự hoang sơ, bí ẩn
~ phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái
hiện được âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh
rừng đại ngàn
~ những hình ảnh đối lập đã giúp nhà văn làm hiện lên hình ảnh dòng
sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả sức mạnh và vẻ đẹp.
=> Dòng sông với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của
thác ghềnh sóng gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

vực sâu, những miên man da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn; do
đó sông Hương vừa tràn đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, vừa khơi gợi
những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ đẹp kiêu sa, rực rỡ.
+ Không dừng lại trong những miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân
hóa khiến dòng sông được miêu tả như một “cô gái Digan khóng khoáng và man dại”,
“bản lĩnh gan dạ”, “tâm hồn tự do và trong sáng”,
~ “cô gái di gan” - cái mạnh mẽ phóng khoáng của một bộ tộc yêu thích
cuộc sống tự do lang thang nay đây mai đó được gắn cho dòng chảy
hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ
đắm say.
+ Sắc thái nhân hóa càng đậm nét khi nhà văn lý giải sự tương phản của sông
Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không phải bằng những kiến thức địa lý
thông thường. Trong cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái
vốn mang sức mạnh hoang dã của rừng già nay đã được chế ngự để nhanh chóng tạo
cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ” khi về đến Huế
– sự dịu dàng như một cái bến bình yên người ta thường mong sau những
thác ghềnh bão táp, sự trí tuệ của những con người từng trải và đầy bản
lĩnh để có thể giấu kín gian truân sóng gió trong vẻ êm đềm, bình lặng,
tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt
và vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn.
+ Trong cảm nhận của nhà văn, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở
thành người mẹ phù sa của “một vùng văn hóa xứ sở”
những thét gào man dại, những phóng túng tự do nay đằm lắng trong sự
bồi đắp dịu dàng, thương mến của đồng bằng châu thổ.
=> Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp
nhân hóa đặc sắc đã làm hiện lên dòng sông Hương khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của
một sức sống mãnh liệt đầy cá tính, qua đó cho thấy cách cảm nhận suy tư có bề sâu
trí tuệ của nhà văn.
b) Sông Hương về tới đồng bằng
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

– Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô, sông Hương
đã trải qua một hành trình đầy gian truân thử thách. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn
của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của sông Hương từ thượng nguồn về tới Huế
giống như một “cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình đích thực của cô gái đẹp trong
một câu chuyện cổ tích về tình yêu.
~ Mỗi chặng đường của SH gắn liền với một địa danh cụ thể, thân thuộc
của Huế được nhà văn miêu tả theo một cách cảm nhận riêng, độc đáo;
hành trình về xuôi của SH không chỉ được tái hiện chân thực theo dòng
chảy tự nhiên trên bản đồ địa lý mà còn thấm đượm chất trữ tình khi hình
dung đó là một cuộc tìm kiếm bến bờ của tình yêu của người con gái đẹp
~ trong chính thủy trình gian truân ấy, qua cách miêu tả tài hoa và cái
nhìn tình tứ của nhà văn, SH lại có cơ hội phô khoe tất cả những vẻ đẹp
của mình, từ những đường cong tuyệt mĩ trên thần hình mềm mại, kiều
diễm cho đến những âu yếm, nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang
khao khát, đắm say tìm đến với tình yêu.
- Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, sông Hương hiện ra như một “cô gái
đẹp mơ màng”. Ra khỏi vùng núi trầm mặc, thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ
trung và niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng đột ngột”, “uốn
mình theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cong thật tròn… ôm lấy đồi
Thiên Mụ, vượt qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”.
=> Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ
với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ
tính trong những khúc lượn vòng mềm mại.
=> Hành trình tìm kiếm của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng “dịu dàng, trí
tuệ” đã cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường, giấu mình
trong vẻ dịu dàng, duyên dáng.
– Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong cảm
nhận độc đáo của nhà văn, dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp phong phú
của cảnh vật đôi bờ:
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu
“xanh thẳm”;
~ sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu
Bảo để trở nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản quang của những
ngọn đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” để rực rỡ, kiêu sa;
~ thấm vào lòng mình vẻ đẹp “u tịch” của rừng thông, vẻ đẹp “trầm
mặc… như triết lý, như cổ thi” và niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc
ngủ nghìn năm” của những vua chúa trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ.
~ Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành
quách”, những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, cái nhìn
trìu mến và lãng mạn của nhà văn đã thấy dòng sông đã như bừng sáng
tươi tắn khi gặp mênh mang “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận
bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
=> Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm
áp của tiếng gà nơi thôn quê đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực,
giữa đạo và đời, như thực, như mơ…
=> Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kỳ
diệu vẻ đẹp của quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế – thiên nhiên Huế như nguồn
phù sa tuyệt vời bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương, “người con gái dịu
dàng” của mình.
=> Sự kết hợp tài hoa hai bút pháp kể và tả trong cảm quan cắt nghĩa đã làm nổi
bật vẻ đẹp của sông Hương trong sự phối cảnh kỳ thú giữa dòng sông và cảnh sắc
phong phú, đa dạng của thiên nhiên xứ Huế.
c) Sông Hương khi về tới Huế: sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng bởi những
đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị.
– Trước tiên, sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm” khi vào
đến thành Huế,
~ cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa đã đem đến cảm giác
thanh thản, bình yên của một dòng sông khi tìm thấy chính mình, tìm
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

thấy tình yêu của mình khi về với thành phố hình như chỉ dành riêng cho
nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, luôn tin vào dòng sông thân
yêu từ miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi.
~ Nghệ thuật nhân hóa đã khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với
mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.
– Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự
duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ.
~ Đó là việc “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ nhàng đến Cồn
Hến”, với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường cong ấy làm
dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”.
=> câu văn miêu tả vẻ đẹp của SH khi về tới thành phố Huế nghe thật nhẹ
nhàng, lãng mạn, tình tứ => gợi hình Thúy Kiều và Kim Trọng ‘tình
trong như đã mặt ngoài còn e”
~ Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông bỗng trở thành người tình
dịu dàng, e ấp mà vẫn thật tình tứ, đắm say của Huế.
- Tác giả so sánh với các dòng sông nổi tiếng trên thế giới để thấy được vai trò
của SH trong đời sống tâm hồn của người dân xứ Huế. SH là nên nét đẹp riêng cho
Huế,
~ SH giống như sông Xen, sông Đa nuýp cùng chảy qua những thành phố
thân yêu của nó, làm nên nét đẹp riêng của Huế “những nhánh sông đào
mang nước SH tỏa đi khắp phố thị...” => chảy chậm thực chậm, cơ hồ
chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh => SH như muốn ở lại lâu hơn, gắn bó
hơn với mảnh đất và con người cố đô (càng yêu thì người ta lại càng có
xu hướng hòa quyện vào nhau, muốn ở lại bên nhau mãi mãi)
~ Trong tổng thể, Huế “vẫn giữ nguyên dạng của một đô thị cổ, trải dọc
hai bờ sông”, “xóm thuyền u sầm xúm xít...” “những ánh lửa thuyền
chài” “không một thành phố hiện đại nào có thể có được” => Trải qua
bao thăng trầm, SH hòa mình vào Huế để làm nên nét đẹp riêng cho Huế,
tình yêu giữa SH và Huế như đang thăng hoa để ton lên nét đẹp của nhau.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

- Khi so sánh với dòng Nê - va, HPNT muốn khẳng định: đến với SH mỗi
người được sống hòa mình với thiên nhiên, với những cảm xúc thật sự
trong tâm hồn mình mà không phải nuối tiếc bất cứ điều gì.
=> Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình
khiến SH, khi chảy vào thành phố, hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê
hương, vừa dịu dàng mềm mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say
như một bản nhạc êm đềm.
~ chất họa: Bức tranh sông Hương như còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sỹ tài hoa
trong nghệ thuật phối màu. Màu sắc của dòng sông là màu “xanh thẳm” của chính nó,
màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong đêm hội trên sông, lung linh
sắc màu phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc
của núi đồi “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đến những “biền bãi xanh biếc của ngoại
ô Kim Long”; từ màu thanh khiết nõn nà của “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”,
nhỏ nhắn như những vầng trăng non đến sắc “u trầm” của những vầng cổ thụ, ánh
“lập lòe” của lửa thuyền chài, rồi lại là màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ
cùng sắc “mơ màng sương khói” của Cồn Hến… Sông Hương đã hiện ra như một bức
tranh tuyệt đẹp trong thành Huế với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
~ chất nhạc: Qua cách cảm nhận của nhà văn, sông Hương đẹp và êm đềm như một
điệu slow chậm rãi, trữ tình, sâu lắng. Chất âm nhạc của dòng sông hiện ra ở chính âm
hưởng, nhịp điệu của văn bản ngôn từ. Đó là một nhịp điệu êm đềm, tĩnh lặng, được
tạo ra bởi những câu văn dài nối tiếp, với rất ít dấu ngắt và rất nhiều thanh bằng, bởi
sự giãn cách trong nhịp trầm tư sâu lắng của những suy ngẫm, những liên tưởng mênh
mang trong không gian, thăm thẳm trong thời gian. Chất liệu miêu tả đã làm hiện hữu
sinh động đối tượng miêu tả, nhịp điệu ngôn từ đã mô phỏng tài hoa nhịp điệu êm
đềm, yên ả của dòng sông.
d. Sông Hương lưu luyến rời khỏi kinh thành : Dù lưu luyến bịn rịn đến
mấy, nhưng theo quy luật của muôn đời của dòng sông, SH cũng đã đến lúc phải
giã từ Huế để về với biển.
- Sông Hương theo hướng chính bắc ôm lấy đảo cồn Hến để lưu luyến ra đi giữa
màu xanh của tre trúc, của hàng cau và của khói sương VD.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

Hình ảnh SH huyền ảo mơ màng, hư thực như trong cõi mộng. Nhà thơ
HMT cũng đã từng viết về vẻ đẹp ấy của VD:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh (Đây thôn Vĩ Dạ)

- SH cứ mơ màng như thế giữa sắc màu tươi xanh của VD, để rồi có khoảnh khắc
nó thảng thốt giật mình khi nhận ra mình sắp không còn được gần Huế. SH như “sực
nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”, nó đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu
lần cuối.

~ SH đã làm một cuộc ngược dòng ngoạn mục, nó muốn kéo dài những
giây phút bên người tình, nó đã quay ngoặt lại bằng sức mạnh của tình
yêu để gặp thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.

~ Sự lưu luyến này gợi liên tưởng đến sự bịn rịn của đôi tình nhân trước
giờ li biệt. Giây phút này chẳng khác nào khoảnh khắc của Thúy Kiều và
Kim Trọng trong đêm khi Thúy Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một
mình” sang nhà KT để tiếp tục tình tự.

~ Bởi thế, HPNT đã gọi khúc ngoặt bất ngờ của sông Hương là một “nỗi
vương vấn” “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

=> Cái nhìn đắm say và đa tình của người viết khiến sông Hương hiện ra
như một người tình dịu dàng, say đắm mãnh liệt, vừa chung thuỷ của đất
cố đô. Nó đã sống trọn vẹn với tình yêu bằng cả một trái tim yêu say
đắm.

2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc


Nhìn từ góc độ địa lý, sông Hương khúc thượng nguồn là “bản trường ca của
rừng già”; về tới Huế, sông Hương mang âm hưởng của một điệu slow chậm rãi sâu
lắng, một bản tình ca tình tứ ngọt ngào; nhưng nếu đặt trong quan hệ với lịch sử dân
tộc, sông Hương lại là bản anh hùng ca hào hùng, bi tráng, là chứng nhân nhẫn nại,
kiên cường của cuộc đời qua bao thăng trầm trong lịch sử.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

– Là một trong số những dòng sông có mặt từ thuở đầu lập nước, sông Hương đã
chứng kiến và tham gia hầu hết những biến cố quan trọng vừa oanh liệt vừa đau
thương trong suốt chiều dài của lịch sử của dân tộc.
~ Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò một dòng sông
biên thùy của đất nước các vua Hùng, thuở còn mang tên Linh Giang –
dòng sông thiêng;
~ trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng sông “viễn
châu”, dòng sông ở chốn xa xôi của Tổ quốc đã cùng con người tham gia
vào những trận chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ quyền nước Đại Việt
thân yêu.
~ Dòng sông cũng đã từng “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ” trong thế kỷ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của
thế kỷ XIX với máu của bao cuộc khởi nghĩa”.
~ Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỷ XX, sông Hương
lại đóng góp sức mạnh của mình để làm nên chiến thắng, từ Cách mạng
Tháng Tám 1945 đến mùa xuân Mậu Thân năm 68, sông Hương kiên
cường chịu đựng nỗi đau của những mất mát không thể bù đắp khi thành
phố Huế bị bom Mỹ tàn phá, khi những di sản văn hóa bị hủy hoại. Cũng
vì thế, sông Hương đã trở thành một “nét son” trong lịch sử Đảng, lịch sử
dân tộc.
– Đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước của các vua Hùng
tới thời đánh Mỹ, nhà văn đã thể hiện không chỉ tình yêu mà còn là niềm tự hào sâu
sắc về dòng sông quê hương.
~ Tác giả coi sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang” –
sông Hương đã mang trong mình nó những âm vang hào hùng, bi tránh
của dòng thời gian lịch sử với cả những chiến công và những đau thương.
~ Sông Hương còn được coi là dòng sông “của sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc” – nghệ thuật ẩn dụ đã làm hiện lên vai trò của một chứng nhân
lịch sử, cách miêu tả tinh tế lại gợi ra những sắc thái khác nhau cùng tồn
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

tại trong một dòng sông, vì sử thi còn được gọi là anh hùng ca, là thể loại
gắn với những chiến công, gợi đến chiến tranh; nhưng “màu cỏ lá xanh
biếc” lại là sắc màu mang chất trữ tình của cuộc sống, của tình yêu và sự
bình yên => Sông Hương vì thế vừa sử thi, vừa trữ tình, vừa là thiên anh
hùng ca hào tráng, vừa là khúc tình ca tươi mát, dịu dàng.
3. Sông Hương với những vẻ đẹp văn hóa
* SH là dòng sông âm nhạc
- Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của chính
dòng sông và cảnh sắc đôi bờ.
Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc vủa “tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của
“những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, âm thanh không lời của một
tình yêu e ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái
chèo khua đập nước”…; và chất nhạc đặc biệt được hiện ra trong những
liên tưởng tới “nền âm nhạc cổ điển Huế”
- Qua cách cảm nhận độc đáo và lãng mạn, nhà văn đã coi sông Hương là cội
nguồn sinh thành của nền âm nhạc cổ điển xứ Huế.
~ Sự thơ mộng của sông Hương trong đêm, tiếng nước rơi trầm bổng từ
những mái chèo khuya thánh thót khiến nhà văn liên tưởng đến “phiến
trăng sầu” của Nguyễn Du trong những đêm dạo thuyền trên sông Hương,
~ nhớ đến giai điệu du dương của Tứ đại cảnh, một bản nhạc cổ về Huế
tương truyền do Tự Đức sáng tác.
=> Theo cảm nhận chủ quan với rất nhiều thiên vị của tình yêu, Hoàng
Phủ Ngọc Tường cho rằng có lẽ vẻ đẹp buồn lãng mạn của sông Hương
là nguyên nhân của nhiều liên tưởng về mối quan hệ kỳ diệu giữa dòng
sông đêm, bản nhạc và câu thơ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay
qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

=> Sông Hương thực sự trở thành nguồn cảm hứng vô tận của âm nhạc và
thi ca, và chính dòng sông cũng là bản nhạc êm đềm, những khúc tình ca
xao xuyến lòng người.
– Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả dòng chảy của sông Hương:
~ “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ
yên tĩnh”, trong đó từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều góp
phần làm đậm thêm nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông;
~ có lúc nhà văn không giấu được tình yêu thiên vị của mình khi so sánh
dòng chảy băng băng của sông Nêva lúc xuân về với “điệu chảy lặng tờ”
của dòng sông xứ Huế, nhà văn còn cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy
mới giúp con người cảm nhận được tâm hồn dịu dàng, đa cảm của một
dòng sông “ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước
như những vấn vương của một nỗi lòng”.
* SH là dòng sông của thi ca
– Nhà văn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không bao
giờ lặp lại mình, mỗi thi nhân đều tìm cho mình một cảm hứng mới mẻ, độc đáo về
dòng sông. Điều đó không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan của thi sỹ mà còn vì
những vẻ đẹp phong phú, biến ảo của dòng sông. Người con gái – sông Hương ấy khơi
gợi những cảm hứng khác nhau cho các nhà thơ,
~ khi là “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan,
~ khi mang vẻ đẹp hùng tráng như “kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao
Bá Quát,
~ khi lại là “sức mạnh phục sinh tâm hồn” trong những bài thơ Tố Hữu.
=> Khi nhắc đến sức mạnh phục sinh tâm hồn của sông Hương, nhà văn
đã ngưỡng mộ ngợi ca: “Dòng sông quả thực là Kiều, rất Kiều” – niềm
trân trọng thân yêu đã biến một danh từ chỉ tên người được tính từ hóa,
khẳng định vẻ đẹp đa đoan say lòng người của một dòng sông “trong
veo” có thể cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời: “Không gian sặc sụa
mùi ô uế Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi”
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

* Sông Hương là dòng sông của những phong tục tập quán, lưu giữ những nét
văn hóa ngàn đời của mảnh đất cố đô: là những xóm thuyền u sầm xúm xít với những
cây đa cây cừa cổ thụ; là dòng sông gắn với những điệu hò mênh mang, da diết, là
những đêm rằm tháng 7 với lễ hội hoa đăng, là màu sương khói trên sông Hương như
màu áo cưới của các cô dâu trong tiết sương giáng. Dòng sông có cả huyền thoại về
tên sông...
– Đoạn trích kết lại bằng câu hỏi của một nhà thơ: “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”, câu hỏi bâng khuâng này cũng là nhan đề của bài bút ký, đã làm rõ cảm hứng
cắt nghĩa, cảm hứng của tình yêu và niềm ngưỡng mộ say mê với dòng sông bởi tình
yêu đích thực luôn khát khao đi đến tận cội nguồn. Dòng sông được ai đó gọi là sông
Hương – cái tên gợi cảm nhận thơm tho thanh quý, vừa lãng mạn vừa quý giá, gợi đến
những ẩn dụ của nhà văn về người con gái sông Hương có chút “lẳng lơ kín đáo” mà
vẫn thật “dịu dàng”, “mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
* Nhận xét chung: Đoạn trích bài bút ký mang đậm phong cách của thể tùy bút
vì chất tự do phong túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và
những xúc cảm sâu lắng.
– Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú
về văn hóa, lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác
nhau của sông Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc
nhận ra tình yêu và sự gắn bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê
hương và lịch sử dân tộc.
Nét nổi bật trong phong cách của HPNT qua hình tượng SH là phóng túng, tài
hoa, lãng mạn, giàu chất thơ và giaù vốn tri thức:
+ Nét phóng túng, lãng mạn, tài hoa, giàu chất thơ:
~ Nét phóng túng trong ngòi bút của HPNT thể hiện ở điểm nhìn trần thuật rất
linh hoạt, chủ động. Chính thể văn bút kí đã cho phép người viết thoải mái, linh hoạt
trong cách trần thuật, miêu tả để bộc lộ cách nhìn, cách cảm của mình về đối tượng.
HPNT đã khéo léo dẫn dắt người đọc đi theo bước chân và dòng cảm xúc của mình để
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

đến với SH, khi ngược thượng nguồn, khi xuôi hạ lưu, lúc về thành phố. Ông còn phát
hiện vẻ đẹp SH qua nhiều góc độ từ cảnh sắc thiên nhiên đến văn hóa, lịch sử. Đang
ngắm SH lặng lờ trôi qua kinh thành HPNT lại đưa người đọc theo dòng hoài niệm
của một chàng nghệ sĩ lãng du để tới Lêningrat ngắm dòng Nêva nước chảy băng
băng. Đang ôn lại những chiến công của SH ông lại khéo léo đưa ra lời nhận xét phẫn
nộ của một nhóm giáo sư trong một tp khoa học về cuộc chiến tranh không quan ở
Đông dương và lời phát biểu đầy xúc động của Đại tướng VNG trong hội nghị tổng
kết chiến tranh ở Huế. NT từng nhận xét “tùy bút là lối chơi độc tấu”, trong bài tùy bút
này, HPNT giống như người nhạc trưởng hướng dẫn người đọc đi theo những giây
phút thăng hoa của mình.
~ Nét tài hoa, lãng mạn, giàu chất thơ trong ngòi bút của HPNT được thể hiện
trong việc sáng tạo hình ảnh, sử dụng ngôn từ và viết câu
Thế mạnh của HPNT là sáng tạo những hình ảnh so sánh độc đáo và tài hoa, có
lúc ông ví SH như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại, có khi lại như người
mẹ phù sa dịu dàng, trí tuệ, có lúc là người tài nữ đánh đàn lcú đêm khuya, lúc là nàng
Kiều trong đêm tình tự. Từ thượng nguồn đến hạ lưu khi miêu tả SH ông luôn so sánh
với hình ảnh người con gái đẹp với nhiều sắc thái, nhưng tất cả đều toát lên vẻ đẹp
mãnh liệt mà dịu dàng, sâu sắc, đa tình mà kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình.
Khi ví SH với người đẹp, với giai nhân chính là lcú HPNT bộc lộ nét lãng mạn, đa
tình và rất đỗi tài hoa của mình.
~ HPNT còn rất nhiều hình ảnh giàu chất thơ: khi miêu tả cầu Trường Tiền nhìn
từ phía ngoại ô Kim long tg đã so sánh như “vành trăng non”- đó là so sánh vừa chính
xác vừa gợi cảm. Chính xác bởi cầu Trường tiền được kiến trúc theo kiểu vòng cung.
Gợi cảm vì vành trăng non gợi lên một vể đẹp mềm mại, thanh tao, duyên dáng. Hơn
thế, hình ảnh vành trăng non còn gợi một vẻ đẹp khuất lấp mà càng nhìn càng thấy say
đắm, là vành trăng non đầu tháng, e ấp đợi chờ, khát khao sự tròn đầy viên mãn. Khi
miêu tả khúc quanh của SH tác giả viết “đường cong ấy làm cho SH như mềm hẳn đi
như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”- hình ảnh so sánh này vừa tả được cái
dáng vừa bắt được cái hồn của con sông. Hai tiếng “đường cong” gợi dáng hình một
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

người con gái đẹp, quyến rũ, còn tiếng “vâng” không nói ra kia diễn tả sự thuật tình, e
ấp khi người con gái tìm được người tình muôn thuở... thật là độc đáo, tài hoa.
~ Trong cách sử dụng ngôn ngữ: nếu tùy bút của NT thiên về gây ấn tượng mạnh
với rất nhiều động từ thì ngôn ngữ của HPNT lại dịu ngọt êm đềm giáu chất thơ, tạo
cảm xúc bay bổng, lâng lâng. Ông sử dụng rất nhiều tình từ gợi cảm để tả SH như: dịu
dàng, say đắm, cong, mềm, chậm, ngập ngừng, lặng lờ, yên tĩnh, u tịch, vẫn vương...
Ông sử dụng hàng loạt những cụm danh từ để gọi SH một cách trìu mến như:
người tình mong đợi, người gái đẹp, người tài nữ, điệu slow tình cảm, người con gái
dịu dàng... Cách dùng ngôn từ như thế tạo cho tp một chất thơ đậm đà.
HPNT chủ yếu sử dụng những câu văn trùng điệp có sự kết hợp hài hòa giữa
bằng, trắc, nhịp ngắn, nhịp dài đan xen, khi đọc lên có lúc như âm điệu 1 bài thơ trữ
tình, có khi kéo dài mãi như một điệu hò Huế vang xa...
+ Giàu vốn tri thức: 1 yêu cầu không thể thiếu với người viết tùy bút là vốn tri
thưucs phải uyên bác. Qua việc khác họa hình tượng SH, HPNT đã đáp ứng xuất sắc
yêu cầu này. Ông đã vận dụng tri thức của nhiều bộ môn, lĩnh vực để khám phá, phát
hiện SH ở nhiều khía cạnh.
~ Kiến thức địa lý: với vốn tri thức địa lý thực tế sâu sắc, phong phú, tg đã đưa
người đọc qua nhiều điểm mà SH chảy qua, từ rừng già Trường Sơn đến núi Kim
Phụng, Ngọc Trản... Cồn Hến... ngoại ô Vĩ Dạ...; ông còn cho biết SH đổi dòng ở đâu,
với sự trải nghiệm ông còn đưa người đọc đến với nhiều dòng sông trên thế giới như
sông Xen của Pari, sông Đa nuyp của Bu đa pét... để thấy rằng điệu chảy lững lờ của
SH ít dòng sông nào có được.
~ Kiến thức lịch sử: với vốn lịch sử sâu sắc, HPNT cho ta thấy SH là dòng sông
của những chiến công vang dội, ghi lại những khoảnh khắc chói lọi của dân tộc.
~ Với kiến thức âm nhạc HPNT đã đưa ta đến với những điệu hò Huế, với nên âm
nhạc cổ điển của Huế để thấy rằng đó là nền âm nhạc mang nét đặc sắc riêng của Huế
gắn liền với SH.
~ Với cái nhìn của một họa sĩ, tg thấy SH biến ảo lung linh với những gam màu
rực rỡ thay đổi theo nhịp thời gian: sớm xanh...
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

~ Với vốn văn hóa dân gian sâu sắc, tg còn giúp ta hiểu hơn về tên gọi SH, cái tên
ấy gắn liền với một huyền thoại, đó là người làng Thành trung ...- cách giải thích này
khiến SH trở nên đẹp hơn, huyền diệu hơn, bí ẩn hơn. Nó khiến những người yêu SH,
yêu Huế muốn tìm kiếm, khám phá hơn nữa.
KẾT LUẬN
Bài tùy bút này đã đưa người đọc đến với SH để khám phá những nét đẹp phong
phú, đa dạng. Đồng thời thưởng thức một ngòi bút bút kí tài hoa uyên bác của tác giả.
Qua tác phẩm, ta thấy 1 HPNT giàu trải nghiệm, có tâm hồn phong phú, có tình yêu
sâu nặng, thiết tha với quê hương xứ sở. Chình tình yêu ấy đã truyền cho HPNT 1 cảm
xúc mãnh liệt để rồi hiện lên thành những trang viết tài hoa, giúp người đọc có thêm
cái nhìn về SH, thêm yêu và tự hào về non sông gấm vóc VN.

II. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?”

1. Một cái “tôi” uyên bác với vốn tri thức, vốn sống phong phú, đa
dạng, sâu sắc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức, hiểu biết từ nhiều lĩnh vực,
nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, thơ ca, âm nhạc… cùng với vốn sống,
sự trải nghiệm thực tế để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương, của mảnh đất, con
người xứ Huế. (Ví dụ: vốn tri thức về địa lí trong cách miêu tả tỉ mỉ, chính xác dòng
chảy của Hương Giang qua những địa danh khác nhau ; vốn kiến thức về lịch sử khi
viết về sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử từ thời xa xưa khi còn là đất nước
các vua Hùng…; vốn văn hóa khi khám phá vẻ đẹp của sông Hương và xứ Huế ở
phương diện văn hóa….).

2. Một cái “tôi” tài hoa, tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng bay bổng

– Cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã trở thành niềm cảm
hứng, đề tài của nhiều người nghệ sĩ: Sông Hương được khám phá từ nhiều góc nhìn,
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

trong các mối quan hệ với địa lí, lịch sử, văn hóa, trong mối quan hệ với cuộc đời…
Từ đó, dòng sông hiện lên với vẻ đẹp phong phú: Khi thì mãnh liệt, phóng khoáng,
man dại, hừng hực sức sống; khi thì dịu dàng, đắm say, mơ màng; lúc lại trầm mặc cổ
kính, sâu lắng…Đặc biệt, dòng sông luôn được hình dung như một người con gái đẹp
với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.

– Tài năng nghệ thuật khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương và cảnh sắc, con người
xứ Huế: Trí tưởng tượng với những liên tưởng phong phú, bay bổng thể hiện qua các
biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ…; ngôn ngữ giàu chất thơ; lối hành văn
hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa…

3. Một cái “tôi” gắn bó máu thịt với sông Hương, xứ Huế, với quê
hương, đất nước

– Tác giả miêu tả sông Hương bằng một tình yêu đắm say; hiểu thấu nỗi niềm của
nó trong từng khúc, từng đoạn của dòng chảy; đưa sông Hương đến với mọi người với
tất cả vẻ đẹp của nó…Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là “người tình mong đợi” của
sông Hương.

– Từ tình yêu sông Hương, tác giả cũng thể hiện tình yêu, sự gắn bó thiết tha với
con người và văn hóa xứ Huế.

– Trách nhiệm, lòng tự hào của một công dân đối với đất nước khiến Hoàng Phủ
lật từng trang lịch sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông
Hương. Những trang văn của ông chảy vào tâm hồn người đọc tình yêu mê say với
dòng sông, với văn hóa, con người xứ Huế để người đọc thêm yêu hơn non sông, đất
nước mình.

4. Đánh giá

Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích là sự hội tụ cái tài, cái tâm
của nhà văn. Đó là cái “tôi” mang nặng tình cảm yêu thương với dòng sông Hương,
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

với Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cũng là cái “tôi” uyên bác, tài hoa trong
nghệ thuật thể hiện của thể bút kí.
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM
Page: ÔN THI VĂN 9&10&11&12- @VUTHIQUETAM

* Tài liệu được soạn để GV dạy và HS tự ôn tập trước kì thi. Tài liệu được soạn
với sự tham khảo từ nhiều nguồn, trong đó có những bài giảng hay của đồng nghiệp,
bài văn hay của học sinh nhiều khóa học, đặc biệt là cuốn “Hướng dẫn ôn thi THPT
QG môn Ngữ văn” của cô Trịnh Thu Tuyết (các bạn có thể mua để tham khảo thêm)

- Vũ Thị Quế Tâm -

You might also like