You are on page 1of 13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA………..

KỲ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN


HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2020-2021

Đề tài bài tập lớn:


Phân tích sự sáng tạo, tiến bộ của Hồ Chí Minh được thể hiện trong bản Tuyên
ngôn độc lập 2/9/1945

Họ và tên sinh viên:


Mã sinh viên:
Lớp:
Tên học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo viên hướng dẫn:

Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2021


MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU................................................................................................................................. 2
NỘI DUNG.............................................................................................................................. 3
1. Bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với những bản tuyên ngôn đầu tiên của
Việt Nam, các nước Pháp Mỹ...................................................................................................3
1.1. Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh so với nước Pháp, Mỹ...........................................3
1.2. Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh so với những bản tuyên ngôn đầu tiên của nước
Việt Nam.............................................................................................................................. 4
1.3 Bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh..........................................................5
2. Tầm vóc tư tưởng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh..........................................................8
3. Trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay................11
KẾT LUẬN........................................................................................................................... 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................12

2
MỞ ĐẦU
“Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước
Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm
nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân
tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Dân tộc đó còn có quyết tâm
sắt đá “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy!” Đây là trích dẫn nội dung trong bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập thực sự là một mốc son trong
lịch sử của dân tộc Việt Nam, cũng như trong cuộc đấu giải phóng của các dân thuộc
địa.
Sau một thế kỷ, nhìn lại ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, mỗi chúng ta càng thấy tầm vóc lớn lao và ý nghĩa lịch sử vĩ đại của sự
kiện này. Tiếp cận với các chủ nghĩa đế quốc lớn là Pháp, Mỹ. Trong những năm ở
nước Mỹ và nước Pháp, Người dành nhiều thời gian tìm hiểu về các cuộc cách mạng
nổi tiếng thế giới là cách mạng Mỹ (1776) với bản “Tuyên ngôn Độc lập” và cách
mạng tư sản Pháp (1789) bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền”. Người rất
khâm phục tinh thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con
đường của họ được. Bởi vì, như Người đã nói: “Kách mệnh Mỹ cũng như kách mệnh
Pháp là kách mệnh tư bản, kách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ
thực trong thì nó tước đoạt công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Bằng nhãn quan
chính trị sắc sảo, một quá trình dài tổng hợp những kiến thức, những phân tích, tìm tòi,
lý giải khoa học, những nhân tố thuận nghịch của bối cảnh trong nước và tình hình thế
giới tác động, những yếu tố chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử để lựa chọn
cho mình một hướng đi đúng nhất.
Với hành trang ban đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi ra nước ngoài là tri thức về văn
hóa phương Đông kết hợp phương Tây, lòng yêu nước nhiệt thành, sự tiếp thu có chọn
lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước đi trước và với chủ đích rõ ràng lớn lao.
Người thanh niên yêu nước đã ra đi tìm đường cứu nước và viết lên bản “Tuyên ngôn
độc lập” của nước Việt Nam. Từ đây ta cũng thấy rõ được “sự sáng tạo tiến bộ của Hồ
Chí Minh được thể hiện trong bản tuyên ngôn độc lập”.

3
NỘI DUNG

1. Bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với những bản tuyên
ngôn đầu tiên của Việt Nam, các nước Pháp Mỹ

1.1. Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh so với nước Pháp, Mỹ
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều
sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi". Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791 cũng nêu rõ: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và
phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam, từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí
Minh đã trích dẫn những câu nổi tiếng nhất trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử đó với
thái độ rất trân trọng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xuất
phát từ những giá trị nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở,
mục tiêu cho cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt Nam cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng,
thiêng liêng không ai có thể xâm phạm, là sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc, giải
phóng con người mà các cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ đã giương cao.
Một điểm đáng chú ý nữa là từ quyền của con người, Hồ Chí Minh đã suy rộng ra
quyền dân tộc “các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Từ quyền con người, Người suy rộng
ra quyền dân tộc cũng là quyền tự nhiên, thiêng liêng “là lẽ phải không ai chối cãi
được”. Nếu như trong bản Tuyên ngôn của nước Mỹ đã đề cập đến cả quyền con
người, quyền dân tộc, thì đến bản Tuyên ngôn của Việt Nam đã gắn kết hai phạm trù
pháp lý cơ bản này trong mối liên hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau. Dân tộc độc lập là

4
điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người và ngược lại thực hiện quyền con
người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.
Quyền con người cao nhất chính là được sống trong đất nước tự do, là công dân của
một nước độc lập.

1.2. Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh so với những bản tuyên ngôn đầu tiên
của nước Việt Nam
Nước Việt Nam đã phải trải qua rất nhiều rất nhiều lần bị các nước khác xâm lược.
Lịch sử dân tộc Việt Nam với truyền thống hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước
đã từng được chứng kiến sự ra đời của nhiều bản Tuyên ngôn độc lập. Trong đó có ba
bản Tuyên ngôn tiêu biểu, tương ứng với mỗi giai đoạn khác nhau, qua đó khẳng định
mạnh mẽ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc
- Nam quốc sơn hà dưới triều vua Lý Nhân Tông. Bản Tuyên ngôn lịch sử bằng thơ
này ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Trước sự xâm lược của nhà Tống,
trước tình thế khó khăn, nhằm khích lệ tinh thần của binh sỹ và tỏ rõ chí khí của ta, Lý
Thường Kiệt đã đọc bài thơ “thần”; bài thơ có bốn câu bằng chữ Hán nói là của thần
linh mách bảo để động viên, cổ cũ quan quân dốc lòng đánh giặc: Đêm khuya, các
chiến sĩ nghe đọc mấy câu thơ đó ai nấy đều phấn chấn nên ra sức đánh giặc rất hăng
làm cho quân Tống phải rút lui. Các nhà nghiên cứu sử đều cho rằng bài thơ với tầm
vóc của một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, “Nam quốc sơn hà” vừa khẳng định chủ
quyền lãnh thổ vừa thể hiện niềm tin tất thắng dựa vào chân lý và chính nghĩa. Đó
cũng chính là sự thăng hoa của tâm hồn dân tộc được hun đúc nên từ lịch sử của những
cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Nó còn nói lên khí phách, tư thế và quyết tâm của cả
dân tộc lúc bấy giờ.
- Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai là bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi soạn để báo
cáo (công bố) cho thiên hạ biết sau khi Bình Định Vương Lê Lợi tổ chức thành công
cuộc kháng chiến mười năm chống giặc ngoại xâm nhà Minh (1418-1427). Nếu như
trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền của dân tộc bằng
một niềm tin nhuốm màu huyền thoại thì hơn 3 thế kỷ sau Nguyễn Trãi đã chứng tỏ
điều đó bằng những luận cứ khoa học và sự thật lịch sử đầy tính thuyết phục. “Bình
Ngô đại cáo” cho đến nay vẫn được xem là áng “thiên cổ hùng văn” bởi sự kết hợp,
hoà quyện nhuần nhuyễn giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật. nhấn mạnh
những điều chứng tỏ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc: Nước ta đã có một nền văn

5
hiến lâu đời, có bờ cõi riêng, có phong tục riêng, có các triều đại sánh ngang với
phương Bắc.
- Bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên đọc
ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – thủ đô Hà Nội khai sinh ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng
bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái
chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là
đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông
Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ
những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai
mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ
thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm
ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.

1.3 Bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt quốc dân đồng bào đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Bản Tuyên
ngôn Độc lập ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ, không chỉ có giá trị
lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Hơn thế nữa,
Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ
nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Tuyên
ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của
nước ta. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở
pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam
trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.
Phần đầu, bản Tuyên ngôn nêu lên những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Chủ
tịch Hồ Chí Minh viện dẫn hai bản Tuyên ngôn của hai quốc gia lớn, văn minh hàng
đầu thế giới là bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của Mỹ và bản “Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền” năm 1791 của Cách mạng Pháp. “Tất cả mọi người đều
sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”;

6
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi”.
Với lập luận này, Người đi đến khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do” và “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ việc
đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm
phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách
mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ
về quyền của các dân tộc. Và vì thế, mỗi người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam
đều có những quyền chính đáng ấy; không ai có thể tước đoạt được; và nếu bị tước
đoạt, cả dân tộc sẽ kiên cường, đoàn kết, kiên trì chiến đấu để giành lại và quyết tâm
bảo vệ.
Tác giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản Tuyên ngôn Độc lập
của Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp là có dụng ý sâu sắc.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ ra đời sau khi nước Mỹ đấu tranh giành độc lập
thành công. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền cũng ra đời trong chiến thắng
của cách mạng Pháp, cuộc cách mạng của những thị dân và nông dân chống áp bức,
bất công. Lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn trên tự thân đã nêu lên những chân lý, là kết
quả của những cuộc cách mạng có. Sử dụng hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại
và của hai cường quốc lớn trên thế giới đang có âm mưu thôn tính nước ta một mặt
Bác muốn tăng sức thuyết phục của bản tuyên ngôn độc lập nước nhà. Mặt khác, thể
hiện sự khéo léo, trí tuệ của người viết. Bác vừa đề cao truyền thống bình đẳng, tự do,
nhân đạo, tinh thần tự do tiến bộ của nhân dân hai nước Mỹ và Pháp lại vừa có tác
dụng ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng. Đó là nghệ thuật "gậy ông đập lưng
ông”. Người cũng sử dụng những lý luận sắc bén nhất, lời văn ngắn gọn, súc tích
giọng văn sang sảng mà hùng hồn. Đó là tiếng nói khẳng định đầu tiên cuộc đấu tranh
chính nghĩa của dân tộc. Tính chất tiên phong của những nước có ảnh hưởng lớn trên
thế giới, khiến cho không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Ta có thể thấy
sự hiểu biết và cân nhắc kỹ càng của vị Chủ tịch khi trích dẫn những chân lý đó.
Phần thứ hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên
đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng tước đoạt tự do

7
chính trị, “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Kế đó là
“chúng thi hành những luật pháp dã man, ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để
ngăn cản dân tộc ta đoàn kết...” Cả đoạn dày đặc những câu liệt kê định tội rắn rỏi, tố
cáo toàn diện tội ác của bọn cướp nước. Từng câu, từng chữ đã nêu bật bản chất bọn
xâm lược. Vạch trần tội ác của Pháp trên các khía cạnh kinh tế- văn hoá- chính trị;
chúng cướp đi tự do của dân ta, tuyệt đối không cho ta chút tự do nào. Rồi chúng thi
hành những đạo luật vô cùng dã man tàn ác với nước ta, ngăn cản việc thống nhất đất
nước, ngăn cản các hoạt động yêu nước, đưa ra nhiều thuế má làm dân ta nghèo đói.
Phần cuối của bản tuyên ngôn là lời tuyên bố. Lời tuyên bố này là với Pháp, với Đồng
minh, với nhân dân Việt Nam và thế giới. Đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm giữ
vững độc lập tự do của nhân dân ta: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy."
Tuyên ngôn độc lập không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất,
tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do mà còn khẳng định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; đồng thời
khích lệ nhân dân các nước thuộc địa, các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập dân tộc. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ gắn liền với Hồ
Chí Minh mà còn mở ra thời đại Hồ Chí Minh lịch sử gắn liền với hành trình nhân dân
Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

2. Tầm vóc tư tưởng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Qua nội dung của bản Tuyên ngôn độc lập, chúng ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung và tư tưởng Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản nói riêng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Từ đó đã làm
phong phú và sâu sắc thêm nội dung của thời đại - thời đại các cuộc cách mạng vô sản
và cách mạng giải phóng dân tộc hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Tư tưởng sáng tạo, độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn
độc lập được thể hiện trên ba nội dung; cụ thể:
Tư tưởng về độc lập, tự chủ, sáng tạo
Tư tưởng về độc lập trong Tuyên ngôn độc lập thể hiện sự gắn liền với xoá bỏ chế độ
bóc lột tàn bạo của các thế lực phản cách mạng; giải phóng nhân dân lao động và các
giai cấp tầng lớp khác thoát khỏi chủ nghĩa tư bản ngoại bang. Mọi suy nghĩ của Hồ

8
Chí Minh đều lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát. Việt Nam là một dân tộc có
truyền thống yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Lịch sử Việt Nam đã trải qua
nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập của dân tộc.
Trong lịch sử nhân loại, có lẽ ít có dân tộc nào phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc như dân tộc Việt Nam. Chính điều đó đã hình
thành nên trong tính cách, đặc trưng của con người Việt Nam lòng yêu nước nồng nàn,
chủ nghĩa dân tộc, khát khao hòa bình, độc lập, tự do cháy bỏng.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân bị áp bức, bóc
lột bởi chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Trong xã hội Việt Nam đan xen, tồn tại nhiều
mâu thuẫn, nhưng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân xâm lược; do vậy, nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
là yêu cầu cấp bách nhất. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người là mục tiêu lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi. Và trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình, mọi suy nghĩ, hành động của Người đều hướng tới mục
tiêu đó.
- Không phải ngẫu nhiên mà Người có được tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo. Ngoài
yếu tố thiên bẩm thuộc về tư duy, tố chất, ngay từ nhỏ đến lúc cuối đời, Hồ Chí Minh
luôn không ngừng nghỉ học tập, nghiên cứu để bổ sung tri thức, năng lực tư duy và
hiểu biết cho mình; lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ, kiến
thức văn hóa. Người nghiên cứu rất kỹ tiểu sử, tư tưởng của các nhà cách mạng tiền
bối của dân tộc cũng như tư tưởng của các nhà văn hóa, chính trị ở phương Đông và
phương Tây; không ngừng đọc, suy ngẫm, chiêm nghiệm, so sánh, lựa chọn, tiếp thu
những cái hay, cái tốt của những vĩ nhân đó để bổ sung kiến thức văn hóa cho bản
thân. Người tiếp thu nền văn hoá từ chính các nước đang xâm nước mình, học tập tìm
hiểu về đất nước họ. Người đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ các nước lớn của phương
Tây, như Mỹ, Anh, Pháp để tạo nên mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước.
Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã trở thành một con người có trí tuệ uyên bác, mẫn tiệp,
vượt thời đại.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và mở rộng, phát triển vượt bậc những giá trị
của các bản Tuyên ngôn trước đó trong thời đại mới. Trong Tuyên ngôn độc lập của
nước Mỹ, nguyên bản câu “tất cả mọi người” là “tất cả đàn ông”. Nguyên bản của câu

9
đó là đặt trong bối cảnh nước Mỹ những năm cuối thế kỉ XVIII khi chế độ nô lệ còn
tồn tại, sự phân biệt và kỳ thị chủng tộc rất nặng nề, những người đàn ông có quyền
mà Tuyên ngôn đề cập đến chỉ là những người đàn ông da trắng. Như vậy, các quyền
cơ bản của con người, quyền vốn có ấy lại không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ
dành cho đàn ông da trắng. Còn với Hồ Chí Minh, Người khẳng định một cách rõ
ràng, quyền là dành cho “tất cả mọi người”, không phân biệt địa vị, thành phần, tôn
giáo, giới tính, sắc tộc. Đó là sự mở rộng tuyệt đối, đem lại những giá trị to lớn và phù
hợp với sự phát triển tiến bộ của nhân loại.
- Với tư duy khoa học, sáng tạo trong quyết định lựa chọn hướng xuất phát tìm đường
cứu nước đã dẫn dắt người thanh niên Nguyễn Tất Thành đến với con đường cách
mạng giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Người đã đi qua rất nhiều
nước ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra kết luận rằng: chủ nghĩa đế
quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các
nước chính quốc cũng như thuộc địa. Người nghiên cứu bản chất bóc lột tàn bạo của
chủ nghĩa đế quốc, thực dân; thấy rõ tính chất dân chủ giả hiệu của các cuộc cách
mạng tư sản. Vì thế, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản không phải là sự lựa
chọn đúng đắn của lịch sử. Từ đây, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến con
đường cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản, con đường cứu
nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn và khoa học nhất như một sự vận động
tất yếu của thời đại. Đồng thời, Người nhanh chóng tiếp thu, nắm bắt được “ánh sáng
lý luận” từ bản sơ thảo lần thứ nhất trong “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”
của V.I.Lênin.
Tư tưởng về mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, luận
điểm về giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng cá nhân với giải phóng xã hội.
Người nhấn mạnh, giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc phải được giải quyết trên lập
trường giai cấp vô sản. Nếu không giành được độc lập dân tộc thì không thể giải
phóng giai cấp, không thể nói đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cách
mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới
giành được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ có kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội,
gắn cuộc đấu tranh của nước mình với trào lưu cách mạng của thế giới mới tạo ra được
sức mạnh to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển tiến bộ xã hội. Giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp là một trong những nhân tố bảo đảm thành công của cách

10
mạng Việt Nam. Đó cũng là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào lý luận
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hoàn toàn đứng vững
trên lập trường mác-xít. Người đã phát triển và vận dụng hết sức sáng tạo lý luận mác-
xít vào cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là với cách mạng Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập vừa đặt ra quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đồng thời cho rằng
để đi tới các quyền tự do, bình đẳng của mỗi người trước hết phải giành lại quyền tự
do, độc lập cho dân tộc; tức là độc lập tự do của dân tộc được xem như là điều kiện
bao trùm và tiên quyết cho hạnh phúc của mỗi cá nhân. Trong Tuyên ngôn Độc lập
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa đặt ra quyền bình đẳng giữa các dân tộc, đồng thời cho
rằng để đi tới các quyền tự do, bình đẳng của mỗi người trước hết phải giành lại quyền
tự do, độc lập cho dân tộc; tức là độc lập tự do của dân tộc được xem như là điều kiện
bao trùm và tiên quyết cho hạnh phúc của mỗi cá nhân.

3. Trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay
Tuyên ngôn độc lập không chỉ có giá trị lịch sử mà xuyên qua lịch sử trong quá khứ,
hiện tại và tương lai. Mỗi lần đọc lại Tuyên ngôn độc lập, mỗi người dân Việt suy
ngẫm trách nhiệm của mình để khẳng định một cách chắc chắn nhất, chủ quyền quốc
gia, độc lập dân tộc, tự do của chúng ta. Để độc lập, chủ quyền đó làm đất nước ta
ngày càng mạnh hơn, để nhân dân ta có cuộc sống thanh bình, có đầy đủ các quyền
của mình như câu nói của Bác “nước độc lập tự do, dân ấm no hạnh phúc”, “ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia
không chỉ là trách nhiệm mà là quyền lợi. Bởi khi bảo vệ độc lập, tự do, mỗi chúng ta,
đặc biệt là giới trẻ đóng góp vào sự phát triển đất nước, cũng như thấy được ý nghĩa,
giá trị làm người của mình. Thế hệ trước đã đổ máu xương để viết nên Tuyên ngôn
độc lập, nay thế hệ trẻ cũng đóng góp bảo vệ độc lập, tự do “mọi người đều sinh ra
bình đẳng” là như vậy. Đặc biệt là ngày nay, khi đất nước chúng ta đang có hòa bình
sau bao nhiêu năm, nhiều thế lực thù địch sẵn sàng bịa đặt, nói xấu, đổi trắng thay đen,
suy diễn một cách vô căn cứ, phủ nhận công lao của Đảng, quy chụp mọi khuyết điểm,
sai lầm về cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là một lực lượng trẻ của đất nước, lòng yêu nước tại thời bình thể hiện qua nhiều khía
cạnh khác nhau, thể hiện bằng hành động. Trách nhiệm của bản thân là một bộ phận
thanh niên, sinh viên - lực lượng tri thức trẻ, năng động, sáng tạo, là trụ cột của nước
nhà, có vai trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Trong bất kỳ thời đại hòa bình
hay chiến tranh thì chúng ta luôn phải xây dựng, ý thức củng cố, vững mạnh hơn nữa
về Đoàn kết dân tộc, bảo vệ uy tín của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, về kiên cường
bất khuất chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập, không chịu làm nô
11
lệ. Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân
tộc, những hành vi xa rời văn hóa – đạo đức truyền thống của dân tộc ta. Trung thành
với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Cảnh giác trước âm mưu chia rẽ, xuyên tạc
của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối liên minh vững chãi của
nước nhà. Phê phán, đấu tranh với những thái độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh
quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ học tập đúng đắn, học tập
để mai sau xây dựng đất nước, hiếu học cũng là một việc yêu nước. Đồng thời cũng
phải quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, thực hiện tốt
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vận động mọi người
xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Rèn luyện ý thức của bản thân, tu dưỡng đạo đức thường xuyên, luôn luôn gương mẫu
rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn nhiệm vụ, học và làm theo tấm gương đạo đức
HCM. Sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã thân ái với mọi người, tác
phong lối sống lành mạnh. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, đồng thời tuyên
truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân
dân.
Ngày nay khi đất nước đã hòa bình lặp lại, chúng ta được sống trong môi trường tốt
hơn, mọi thứ đầy đủ và sung túc. Càng như vậy chúng ta càng phải thấm nhuần, biết
ơn những người đã hi sinh đi trước để Bảo vệ Tổ quốc mang lại cuộc sống bình yên.
Để cảm ơn những vị cha, anh, chị đã hi sinh thì chúng ta phải sống ý nghĩa và phải gia
sức bảo vệ Tổ quốc.

KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Ở Bác - một trong những tố chất quan trọng bậc nhất sáng ngời là tư tưởng nhân
văn, dòng hợp lưu trí tuệ của nhân loại, thể hiện đặc sắc trong bản Tuyên ngôn Độc
lập. Bản Tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam
“Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ.” Trải qua 76 năm, Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình
diện trong nước và quốc tế.
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu
sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại,
những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc. Quyền
độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ
12
bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những
quyền đó bị tước bỏ và chà đạp. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.”
Ngoài những giá trị to lớn đã nêu, Bản Tuyên ngôn độc lập còn thể hiện trí tuệ lỗi lạc
và thiên tài, tầm vóc sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã góp phần hình
thành phương pháp luận và tư tưởng Hồ Chí Minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
2. Mác - Ăng-ghen, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
3. Nguyễn Văn Út: 9 bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, Nxb. Văn hóa thông tin,
H, 2006,
4. Tuyên ngôn độc lập: Sự kế thừa, phát triển những giá trị tư tưởng tiến bộ của
thời đại, Tin tổng hợp, nhóm tác giả tin tổng hợp, 02/09/2021

13

You might also like