You are on page 1of 14

+Nội dung chương trình môn Toán ở chương trình phổ thông mới sẽ tinh giản nhiều so

với chương trình hiện hành, chú trọng tính ứng dụng thiết thực, gắn kết với đời sống thực
tế.
+Nội dung chương trình môn Toán được tích hợp xoay quanh ba mạch kiến thức: Số và
Đại số; Hình học và Đo lường; Thống kê và Xác suất và có cấu trúc dựa trên sự phối hợp
cả cấu trúc tuyến tính với cấu trúc “đồng tâm xoáy ốc” (đồng tâm, mở rộng và nâng cao
dần).
+ Hướng tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề: Đặt nhiều sự chú trọng vào việc phát triển
tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề cho học sinh. Môn Toán không chỉ là việc
học thuộc lòng, mà còn đề cao việc học sinh tự mình suy nghĩ, đưa ra giải pháp, và áp
dụng kiến thức vào thực tế.
+Sử dụng công nghệ: Chương trình thúc đẩy việc sử dụng công nghệ trong việc học và
giảng dạy Toán. Học sinh được khuyến khích sử dụng máy tính và các phần mềm Toán
học để thực hành và thực hiện các phép tính phức tạp.
+Tự học và tư duy tự nhiên: Khuyến khích học sinh tự học và phát triển tư duy tự nhiên.
Họ được đặt vào vai trò chủ động trong quá trình học, thúc đẩy khả năng tự quản lý học
tập.

Việc tập trung vào việc xây dựng kiến thức cơ bản và phát triển kỹ năng toán học ở mức
cao hơn đã giúp học sinh hiểu sâu hơn về các khái niệm Toán và sử dụng chúng trong
thực tế. Không chỉ là việc học thuộc lòng các công thức, mà còn là việc áp dụng chúng
vào việc giải quyết các vấn đề phức tạp.

Chương trình giáo dục 2018 cũng tạo ra môi trường học tập đa dạng hơn thông qua việc
tích hợp công nghệ và sử dụng tài liệu giảng dạy đa dạng. Điều này giúp học sinh tiếp
xúc với nhiều phương pháp học tập khác nhau và thúc đẩy sự sáng tạo.

Tóm lại, chương trình giáo dục 2018 đã đem lại nhiều điểm mới tích cực cho môn Toán,
tạo ra một môi trường học tập phù hợp cho học sinh phát triển toàn diện và phát huy tối
đa tiềm năng Toán học của họ. Điều này sẽ có lợi cho sự phát triển của học sinh và đóng
góp vào xã hội thông qua kiến thức và kỹ năng Toán học mà họ sẽ áp dụng trong cuộc
sống hàng ngày.

Tính truyền thống: Kiểm tra và đánh giá Tính ứng dụng cao: Kiểm tra và đánh giá có thể
có thể có tính chất truyền thống hơn, tập trung nhiều hơn vào khả năng áp dụng kiến
thường tập trung vào việc đánh giá kiến thức Toán vào các tình huống thực tế và giải
thức cơ bản và tính toán. quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.

Bậc CT môn Toán tiểu học hiện hành xác CT môn Toán Tiểu học mới, mạch
TH định 4 mạch kiến thức cốt lõi: Số Giải toán tích hợp vào các mạch
học; Đại lượng và đo đại lượng; Các kiến thức còn lại thông qua hoạt
yếu tố hình học; Giải toán. động thực hành giải quyết vấn đề.

Bậc - Tính cơ bản: Có thể tập trung nhiều - Tăng cường thêm một số nội
THCS hơn vào việc đảm bảo học sinh có dung về thống kê và xác suất gắn
kiến thức cơ bản về đại số, hình học, với ứng
và các khái niệm Toán học cốt lõi. dụng trong đời sống thực tiễn;
- Phân cấp ít hơn: Có thể có ít sự - Coi trọng việc sử dụng phương
phân cấp hơn trong chương trình, và tiện dạy học hiện đại, phần mềm
các khái niệm phức tạp hơn có thể dạy học;
được đưa vào giai đoạn học sau.
- Tăng cường thực hành, luyện tập
- Chuyên sâu ít hơn: Có thể không và ứng dụng toán học vào thực
tập trung nhiều vào việc phát triển tiễn.
các kỹ năng chuyên sâu trong các
lĩnh vực Toán học cụ thể.

Bậc Tính cơ bản: Tập trung nhiều hơn - Tăng cường thêm các nội dung về
THPT vào kiến thức cơ bản về đại số và thống kê và xác suất gắn với ứng
hình học Euclid truyền thống. dụng trong đời sống thực tiễn;
- Coi trọng việc sử dụng phương
tiện dạy học hiện đại, phần mềm
dạy học;
- Tăng cường thực hành luyện tập
và ứng dụng toán học vào thực
tiễn;
- Các chuyên đề học tập ở mỗi lớp
10, 11, 12 có nội dung giáo dục
dành cho
những học sinh có định hướng
nghề nghiệp cần sử dụng nhiều
kiến thức toán học.

Các điểm mới liên quan đến: Quan điểm, mục tiêu của Chương trình GDPT; nội dung và
thời lượng giáo dục; phương pháp dạy học; vai trò sách giáo khoa; vai trò của giáo viên;
yêu cầu với học sinh; yêu cầu đối với cha mẹ học sinh; vai trò chủ động của cơ sở giáo
dục; điều kiện về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; trách nhiệm của địa phương.
Quan điểm, mục tiêu của Chương trình GDPT

Chương trình GDPT 2006 Chương trình GDPT 2018

- Quan điểm: Theo định hướng phát triển năng lực


và phẩm chất. Các năng lực, phẩm chất này đều
được cụ thể hóa bằng những yêu cầu cần đạt ở từng
môn học, cấp học.
Sự đổi mới toàn diện và đồng bộ, từ chương trình,
sách giáo khoa, phương pháp dạy học và kiểm tra
- Quan điểm: Theo định hướng nội dung, dạy học đánh giá.
theo mức độ cần đạt về kiến thức, kĩ năng. - Chỉ đạo theo hướng tăng quyền tự chủ cho địa
- Chỉ đạo theo hướng tập trung, thống nhất. phương, cơ sở giáo dục và giáo viên.
- Mục tiêu: Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo - Mục tiêu: Giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng
tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và
hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính,
công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó
hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực
và bảo vệ Tổ quốc. vào sự phát triển của đất nước và nhân loại.

Nội dung và thời lượng giáo dục

Chương trình GDPT 2006 Chương trình GDPT 2018

- Có 14 nội dung giáo dục: Giáo dục ngôn ngữ và


văn học; Giáo dục toán học; Giáo dục khoa học xã
hội; Giáo dục khoa học tự nhiên; Giáo dục công
nghệ; Giáo dục tin học; Giáo dục công dân; Giáo
- Có 14 nội dung giáo dục: Giáo dục ngôn ngữ; Giáo dục quốc phòng và an ninh; Giáo dục nghệ thuật;
dục toán học; Giáo dục đạo đức; Giáo dục tự nhiên Giáo dục thể chất; Giáo dục hướng nghiệp; Các
và xã hội; Giáo dục khoa học; Giáo dục nghệ thuật; chuyên đề học tập; Hoạt động trải nghiệm và Hoạt
Giáo dục kĩ thuật; Giáo dục thể chất; Giáo dục Tin động trải nghiệm, hướng nghiệp và Nội dung giáo
học; Giáo dục quốc phòng và an ninh; Giáo dục tập dục của địa phương.
thể; Giáo dục ngoài giờ lên lớp; Giáo dục hướng - Nội dung giáo dục, môn học mới: Hoạt động trải
nghiệp; Giáo dục nghề phổ thông. nghiệm, hướng nghiệp; Giáo dục địa phương

- Cấp Tiểu học có 11 môn học bắt buộc, gồm: Tiếng


Việt, Toán, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội, Âm nhạc, - Cấp Tiểu học có 10 môn học bắt buộc, gồm: Tiếng
Mĩ thuật, Thể dục, Thủ công, Kĩ thuật, Khoa học, Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Đạo đức, Tự nhiên và Xã
Lịch sử và Địa lí; hội, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Tin học và Công
Hoạt động giáo dục bắt buộc: Giáo dục tập thể, Giáo nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật;
dục ngoài giờ lên lớp. Hoạt động giáo dục bắt buộc: Hoạt động trải
Ngoài ra còn có môn học tự chọn (Tin học, Tiếng nghiệm.
Anh, Tiếng dân tộc). Thời lượng giáo dục tối thiểu Ngoài ra còn có môn học tự chọn: Tiếng dân tộc
35 tuần/1 năm học và 23 - 26 tiết/1 tuần. Thời lượng thiểu số, Ngoại ngữ 1.
mỗi tiết học là 35 phút. Thời lượng giáo dục 35 tuần/1 năm học và 25-30
- Cấp THCS có 13 môn học bắt buộc: Ngữ văn, tiết/1 tuần. Thời lượng mỗi tiết học là 35 phút.
Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Lịch sử, Địa - Cấp THCS có 10 môn học bắt buộc: Ngữ văn,
lí, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Công nghệ, Tin học, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Khoa học
Giáo dục thể chất, Nghệ thuật; Tự nhiên, Lịch sử và Địa lí, Công nghệ, Tin học,
Hoạt động giáo dục bắt buộc: Hoạt động giáo dục Giáo dục thể chất, Nghệ thuật.
tập thể, ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp. Hoạt động giáo dục bắt buộc (Hoạt động trải
Ngoài ra còn có môn học tự chọn: Tiếng dân tộc nghiệm, hướng nghiệp); Nội dung giáo dục của địa
thiểu số, Ngoại ngữ 2. phương.
Thời lượng giáo dục là 35 tuần/1 năm học và 27-29 Ngoài ra còn có môn học tự chọn: Tiếng dân tộc
tiết/1 tuần. Thời lượng mỗi tiết học là 45 phút. thiểu số, Ngoại ngữ 2.
- Cấp THPT có 13 môn học bắt buộc: Ngữ Văn, Thời lượng giáo dục 35 tuần/1 năm học và 29-29,5
Toán, Ngoại ngữ 1, Lịch sử, Địa lí, Vật lí, Hóa học, tiết/1 tuần. Thời lượng mỗi tiết học là 45 phút.
Sinh học, Giáo công dân, Giáo dục quốc phòng và - Cấp THPT có 6 môn học bắt buộc: Ngữ Văn,
an ninh, Công nghệ, Tin học, Giáo dục thể chất; Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục
Hoạt động giáo dục bắt buộc: Hoạt động giáo dục quốc phòng và an ninh, Lịch sử.
tập thể, ngoài giờ lên lớp, hướng nghiệp. 4/9 môn học lựa chọn: Địa lí, Giáo dục kinh tế và
Ngoài ra còn có môn học tự chọn (Tiếng dân tộc pháp luật, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Công nghệ, Tin
thiểu số, Ngoại ngữ 2. học, Âm nhạc, Mĩ thuật.
Thời lượng giáo dục là 35 tuần/1 năm học và 29,5 Hoạt động giáo dục bắt buộc (Hoạt động trải
tiết/1 tuần. Thời lượng mỗi tiết học là 45 phút. nghiệm, hướng nghiệp); Nội dung giáo dục của địa
* Tất cả các trường, lớp đều thực hiện kế hoạch giáo phương.
dục do Bộ GD&ĐT ban hành. Ngoài ra còn có môn học tự chọn (Tiếng dân tộc
thiểu số, Ngoại ngữ 2.
Thời lượng giáo dục là 35 tuần/1 năm học và 28,5
tiết/1 tuần. Thời lượng mỗi tiết học là 45 phút.
* Địa phương và nhà trường được trao quyền chủ
động và trách nhiệm trong việc lựa chọn, bổ sung
một số nội dung giáo dục và triển khai kế hoạch
giáo dục phù hợp với đối tượng giáo dục và điều
kiện của địa phương, của nhà trường.

Phương pháp dạy học

Chương trình GDPT 2006 Chương trình GDPT 2018

- Học sinh tự lực chiếm lĩnh kiến thức để phát triển


năng lực, phẩm chất (qua hoạt động học và vận dụng
- Định hướng trang bị kiến thức, kĩ năng. kiến thức).
- Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) chuyển từ - Thực hiện PPDH tích cực: tích cực hóa hoạt động
PPDH truyền thống sang PPDH tích cực nhưng về học tập; chú trọng tổ chức hoạt động học nhằm hình
cơ bản vẫn còn nặng về trang bị kiến thức và kĩ thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh;
năng làm bài tập theo yêu cầu thi cử. thực hiện phương châm “Học qua làm”.
1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh
Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng
một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình
giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát
triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động
tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý
chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong
những điều kiện cụ thể.
Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực
cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng
khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và
thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với
các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là
biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ
năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học
tập của học sinh.
Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ
năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ
năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học
sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa
phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những
kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình,
cộng đồng và xã hội) để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn
thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả
năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác,
đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học
như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái
độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực
học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.
Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và
đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:
Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung (kiến thức, kĩ năng) và đánh
giá tiếp cận năng lực
Đánh giá theo hướng Đánh giá theo hướng
STT
tiếp cận nội dung tiếp cận năng lực
Các bài kiểm tra trên giấy được thực Nhiều bài kiểm tra đa dạng (giấy, thực
1 hiện vào cuối một chủ đề, một hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm…)
chương, một học kì,... trong suốt quá trình học tập
2 Nhấn mạnh sự cạnh tranh Nhấn mạnh sự hợp tác
Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng Quan tâm đến đến phương pháp học tập,
3
của việc dạy học phương pháp rèn luyện của học sinh
Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm,
4 Chú trọng vào điểm số chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi
tiết của sản phẩm để nhận xét
Tập trung vào năng lực thực tế và sáng
5 Tập trung vào kiến thức hàn lâm
tạo
Đánh giá được thực hiện bởi các cấp
Giáo viên và học sinh chủ động trong
quản lí và do giáo viên là chủ yếu,
6 đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và
còn tự đánh giá của học sinh không
đánh giá chéo của học sinh
hoặc ít được công nhận
Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn
đến việc chấp hành nội quy nhà diện, chú trọng đến năng lực cá nhân,
7
trường, tham gia phong trào thi khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và
đua… năng lực bản thân
2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng và thái độ
Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát
triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có
được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có
thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm
được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối
cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng
quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có
cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính
người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ
đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn
ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt
mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.
Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến
thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen
thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải
nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động
nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc
đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ
năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ
và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.
3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung
vào các định hướng sau:
(i) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá tổng
kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường
xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều
chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);
(ii) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học.
Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá
năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các
năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;
(iii) Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc
tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;
(iv) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần
mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ
giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.
Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục
của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:
- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn
học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ
năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp học.
- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên
và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng
đồng.
- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy
những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả
năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua
một số đặc trưng cơ bản sau:
a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của
học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng
chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.
b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập
thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều
chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:
(i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng
nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự
đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và
trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu
mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...) căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng;
sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học
tập, bài tập về nhà,...); thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải
đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay
tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...); tổ chức thu thập được các thông tin
chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi
nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.
(ii) Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu
được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu
chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng
qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo
đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung
bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.
(iii) Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề,
cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ
thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá
trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình
cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của
học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh (lên lớp, thi lại, ở lại lớp,
khen thưởng,…); thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan (Học
sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý và kiến
nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế
hoạch giáo dục,...
Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả
quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không
giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong
việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.
Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp
giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và
trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính
lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy
nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả
kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm
khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm,
số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc
chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho
kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm
của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng
biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa
chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy
được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.
Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh? Đổi mới kiểm
tra đánh giá năng lực học sinh?
Đổi mới phương pháp dạy học đang thự hiện từng bước từ chuyển chương trinh giáo dục
tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lự của người học. Nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc
học sinh học được cái gì sang việc để ý xem học sinh vận dụng được những gì thông qua
việc học. Để thực hiện được phương pháp này, đòi hỏi các giáo viên phải có một quy
trình dạy học rõ ràng và chỉn chu. Bài viết dưới đây xin giới thiệu 5 bước trong dạy học
và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
1. Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh:
Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực học sinh hay còn được gọi là dạy
học đính hướng kết quả đầu ra, là việc các giáo viên thông qua kỹ năng nghiệp vụ của
mình, cùng các phương pháp dạy học ưu việt để dạy và định hướng việc học cho học
sinh, nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn
diện của học sinh, từ phẩm chất, năng lực, đồng thời chú trọng năng lực vận dụng tri thức
trong những tình huống thực tiễn nhằm trang bị cho các em những kỹ năng để xử lý các
vấn đề trong cuộc sống và nghề nghiệp.
Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối
cảnh cụ thể. Theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018, năng lực là thuộc tính
cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện,
cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân
khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định,
đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.
Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực
cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng
khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và
thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với
các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là
biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ
năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học
tập của học sinh.
– Dạy học thông qua việc tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập giúp học sinh có thể chủ
động tiếp thu kiến thức chứ không hề bị động như trước kia, từ đó, tạo cho học sinh cách
phản ứng trước mọi vấn đề. Để làm được như vậy, đòi hỏi giáo viên phải là một người
biết điều phối quá trình dạy học.
– Rèn luyện cho học sinh cách khai thác và sử dụng tài liệu trong học tập. Đồng thời,
giúp học sinh thực hiện các kỹ năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, tương tự, … để
dần hình thành và phát triển tài năng sáng tạo.
– Tăng cường sự phối hợp, làm việc giữa cá nhân và tập thể để học sinh có thể làm quen
với kỹ năng làm việc nhóm từ đó vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân
và tập thể để giải quyết nhiệm vụ học tập chung.
2. Đổi mới kiểm tra đánh giá năng lực học sinh:
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung
vào các định hướng sau:
 Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá
tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh
giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích
phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);
 Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người
học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang
đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú
trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;
 Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang
việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương
pháp dạy học;
 Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các
phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ
phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải
kết quả đánh giá.
Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục
của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:
 Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng
môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến
thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp
học.
 Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo
viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia
đình, cộng đồng.
 Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm
phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.
 Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có
khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.
Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua
một số đặc trưng cơ bản sau:
a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của
học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng
chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.
b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập
thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều
chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:
 Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và
bằng nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm
học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,…); lựa chọn được những nội dung đánh
giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định
đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,…) căn cứ
vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề
kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,…); thiết kế các công
cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của
chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề
kiểm tra khoa học và phù hợp,…); tổ chức thu thập được các thông tin chính xác,
trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm
tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.
 Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập
thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,… được phân tích theo nhiều mức
độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông
tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm –
hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm
tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp
loại ban hành.
 Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề,
cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng
cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả
đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và
hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo
viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với
học sinh (lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…); thông báo kết quả học tập của
học sinh cho các bên có liên quan (Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục
nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng
chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,…
Phương pháp giáo dục môn Toán đổi mới trong chương trình giáo dục đã tạo ra nhiều ảnh
hưởng đáng kể đối với việc kiểm tra và đánh giá môn học. Đầu tiên, đặt nhiều tập trung
vào việc phát triển kỹ năng tư duy, giải quyết vấn đề và khám phá. Điều này đã tạo ra
một nhu cầu cho các kiểu kiểm tra mới, thường đánh giá khả năng của học sinh trong việc
áp dụng kiến thức vào các tình huống thực tế hơn là việc ghi nhớ thông tin. Thứ hai, tạo
ra không gian cho các hình thức kiểm tra linh hoạt hơn, bao gồm cả bài tập thực hành, dự
án, và đánh giá quá trình học tập. Điều này giúp học sinh thể hiện sự hiểu biết sâu rộng
hơn và khả năng áp dụng kiến thức vào nhiều tình huống khác nhau. Tiếp đến, đánh giá
quá trình học tập của học sinh, không chỉ kết quả cuối cùng. Điều này thúc đẩy sự tham
gia tích cực của học sinh trong quá trình học tập và khuyến khích họ tập trung vào việc
hiểu sâu về kiến thức. Hay, cung cấp phản hồi cá nhân hóa cho học sinh, giúp họ hiểu rõ
hơn về điểm mạnh và điểm yếu của mình trong môn Toán. Điều này tạo cơ hội cho học
sinh tự cải thiện và điều chỉnh học tập của họ theo cách phù hợp. Cuối cùng, khuyến
khích sự tư duy sáng tạo và khám phá trong việc giải quyết các bài toán. Điều này đã thúc
đẩy sự đa dạng trong kiểm tra, bao gồm cả việc sử dụng các bài toán phức tạp và yêu cầu
học sinh tạo ra giải pháp độc đáo.
Sự đổi mới về phương pháp giáo dục trong chương trình giáo dục 2018 đã làm thay đổi
cách kiểm tra và đánh giá môn Toán, từ việc tập trung vào hiểu biết sâu rộng và kỹ năng
sáng tạo đến việc đánh giá liên tục và cá nhân hóa. Điều này nhằm mục đích đảm bảo
rằng học sinh phát triển đầy đủ tiềm năng của họ trong môn Toán.
Sự đổi mới về nội dung môn Toán trong CTGDPT 2018 đã tạo ra những ảnh hưởng to
lớn đối với việc kiểm tra và đánh giá môn học. Những thay đổi này mang lại nhiều cơ hội
và thách thức mới cho quá trình đánh giá, từ đánh giá học sinh đến việc đánh giá hiệu quả
của giáo dục.
Đầu tiên, chính là sự đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá. Trong quá khứ, kiểm
tra môn Toán thường bao gồm các bài kiểm tra giữa kỳ và cuối kỳ, với tính chất tương
đối đơn giản, tập trung vào kiến thức cơ bản và kỹ năng tính toán. Sự đổi mới trong nội
dung môn Toán của CTGDT 2018 đã tạo điều kiện cho sự đa dạng hóa trong hình thức
đánh giá. Ngoài bài kiểm tra truyền thống, các hình thức đánh giá khác như dự án, bài tập
thực hành, thảo luận lớp học, và phản hồi liên tục thường được sử dụng. Điều này đồng
nghĩa với việc kiểm tra không chỉ tập trung vào việc nhớ kiến thức mà còn vào khả năng
áp dụng và hiểu biết sâu rộng hơn.
Thứ hai, hướng đến khả năng thực hành. Nội dung môn Toán đã được điều chỉnh để tập
trung vào khả năng thực hành và áp dụng kiến thức vào thực tế. Điều này đòi hỏi các hình
thức kiểm tra phải thúc đẩy khả năng giải quyết vấn đề và ứng dụng kiến thức trong các
tình huống thực tế, thay vì chỉ đo kiến thức lý thuyết.
Tiếp đến, công nghệ trong việc kiểm tra. Sự phát triển của công nghệ đã cho phép sử
dụng các công cụ trực tuyến và phần mềm đánh giá để tạo ra các bài kiểm tra tương tác
và đa dạng. Học sinh có thể hoàn thành các bài kiểm tra trực tuyến, và phản hồi có thể
được tự động hóa để cung cấp kết quả nhanh chóng.
Như vậy, sự đổi mới nội dung môn Toán trong CTGD 2018 đã thúc đẩy việc đánh giá
môn học theo một cách linh hoạt và cập nhật hơn, tập trung vào khả năng thực hành và
ứng dụng kiến thức trong thực tế. Điều này giúp chuẩn bị học sinh cho thế giới thay đổi
nhanh chóng và đánh giá năng lực của họ theo các tiêu chuẩn cao cấp hơn.
Việc đổi mới mục tiêu môn Toán trong CTGDPT 2018 đã có những ảnh hưởng quan
trọng đối với việc kiểm tra và đánh giá môn học. Mục tiêu đổi mới tập trung vào việc
phát triển kỹ năng toán học tổng hợp, khả năng giải quyết vấn đề và ứng dụng kiến thức
vào thực tế. Điều này đã thúc đẩy sự đa dạng hóa trong các hình thức kiểm tra và đánh
giá. Thay vì chỉ kiểm tra khả năng tính toán, các bài kiểm tra giờ đây thường đòi hỏi học
sinh áp dụng kiến thức vào các tình huống phức tạp và giải quyết vấn đề thực tế. Điều
này làm cho các bài kiểm tra trở nên phong phú và phản ánh khả năng toán học thực sự
của học sinh. Tập trung vào việc phát triển khả năng tư duy logic, sáng tạo và phân tích.
Do đó, các bài kiểm tra thường đánh giá khả năng của học sinh trong việc tìm ra các cách
tiếp cận khác nhau đối với các vấn đề toán học. Điều này khám phá và đánh giá khả năng
sáng tạo và tư duy toán học của học sinh.thúc đẩy sự phát triển của các hình thức kiểm tra
trực tuyến. Các bài kiểm tra trực tuyến thường cho phép học sinh tương tác với các bài
tập và hoạt động một cách trực quan và thú vị. Điều này giúp cung cấp phản hồi tức thì
và làm cho quá trình đánh giá trở nên linh hoạt hơn.
Tóm lại, mục tiêu môn Toán đổi mới trong chương trình giáo dục đã tạo điều kiện cho
việc đánh giá và kiểm tra môn học theo một cách đa dạng hóa và hiện đại hơn, phản ánh
khả năng toán học thực sự của học sinh và khuyến khích sự phát triển toàn diện của họ.

You might also like