You are on page 1of 18

VẬN DỤNG

1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


- Vật chất quyết định ý thức:
Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về công nghệ thông tin còn
rất yếu. Nguyên nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu
đáp ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba
của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì ý thức
cũng như vậy.
- Ý thức tác động lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn
Ví dụ 1. Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C, người
ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương
pháp thủ công cổ xưa.
Ví dụ 2. Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng ta
chuyển nền kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm
bộ mặt nước ta đã thay đổi hẳn.
Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn
Ví dụ 1: Trước khi thực hiện một trận đánh chúng ta làm quyết tâm thư; thực hiện tự phê
bình và phê bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. Thực
hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ địa phương
và đạo đức giả.
Hay, giữa vật chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức
luận. Bên ngoài lĩnh vực đó, sự phân biệt là tương đối. Vì vậy một chính sách đúng đắn là
cơ sở để kết hợp hai điều này.
Ví dụ 2: Thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng gắn với đề cao lợi ích vật chất như: Đạt
danh hiệu thi đua; khen thưởng.
2. Hai nguyên lí của phép biện chứng duy vật (a. Nguyên lý về MLHPB; b. nguyên lý
về sự phát triển)
- Tính chất của mối liên hệ phổ biến
+ Tính khách quan:
VD: Một cái cây muốn tồn tại phát triển thì có mối liên hệ với nước, ánh sáng, độ ẩm,
không khí và chính trong bản thân cái cây cũng có mối liên hệ với nhau qua quá trình trao
đổi chất và những cái mối liên hệ ấy thì không do con người tạo nên. Nếu cái cây ấy tách
rời ra khỏi những mối liên hệ ấy thì cây koong thể phát triển không vận động, không tồn
tại.
- Tính phổ biến:
VD: Trong tự nhiên thì động vật và thực vật có mối liên hệ với nhau, trong nền kinh tế
chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục ở một địa phương hay quốc gia đều có mối liên hệ mật
thiết, chặt chẽ với nhau.
- Tính đa dạng, phong phú:
VD: Mối liên hệ giữa con người và tự nhiên thì khác nhau, hay động vật với đọng vật
cũng khác nhau
 Nguyên lý về sự phát triển:
- Tính chất của sự phát triển:
Tính khách quan:
VD: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người
nhưng nó vẫn phát triển.
Tính kế thừa:
VD: • Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là kế thừa của các thành tựu đã có của chế độ trước
đó mà trực tiếp là của tư bản chủ nghĩa
• Hình thành được đường lối, tư tưởng HCM đã được kế thừa ít nhiều từ văn hóa Phương
Đông và Phương Tây.
 Tính đa dạng, phong phú:
VD: •Sự phát triển nền kinh tế của 2 quốc gia khác nhau là khác nhau hoàn toàn hay sự
phát triển của một quốc gia từ thế kỉ này sang thế kỉ khác cũng khác nhau.
• Đứa trẻ khác nhau về điều kiện sống, phương pháp giáo dục sẽ có tư tưởng khác nhau.
3. Quy luật lượng – chất
Ví dụ như một sinh viên A tốt nghiệp ngành Luật, khi ra trường A xin vào làm thực tập
sinh pháp chế cho 1 công ty sản xuất B. Sau khi trải qua 3 tháng làm thực tập sinh, A
được công ty xét duyệt lên vị trí chuyên viên pháp chế, sau khi làm chuyên viên pháp chế
được 5 năm, A được bổ nhiệm lên chức giám đốc pháp chế của công ty.
Như vậy qua ví dụ trên có thể thấy A từ 1 sinh viên mới ra trường chập chững bước vào
nghề, qua quá trình làm việc chăm chỉ, học hỏi và trau dồi kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng A đã dần trở tích lũy đủ cho mình một lượng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm
trong công việc. Đó là quy trình chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất. Khi A đã dần bước qua những vị trí từ thấp đến cao trong công việc của mình.
Khái niệm về chất:
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083đvC,
nhiệt độ sôi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất riêng của đồng để
phân biệt nó với các kim loại khác
 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của
học sinh, sinh viên
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng
không biết mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa
từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy
lượng (kiến thức) cho mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà,
đọc thêm sách tham khảo,…thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những
bài kiểm tra, những bài thi học kỳ và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức
cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang một cấp học mới cao hơn.
Như vậy, quá trình học tập, tích lũy kiến thức là độ, các bài kiểm tra, các kì thi là điểm
nút và việc học sinh được sang một cấp học cao hơn là bước nhảy. Trong suốt 12 năm
học, học sinh phải thực hiện nhiều bước nhảy khác nhau. Trước hết là bước nhảy để
chuyển từ một học sinh trung học lên học sinh phổ thông và kỳ thi lên cấp 3 là điểm nút,
đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu mới trong việc tích lũy lượng mới (tri thức mới) để
thực hiện một bước nhảy vô cùng quan trọng trong cuộc đời: vượt qua kì thi đại học để
trở thành một sinh viên. Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy
đủ khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan
trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt
qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng,
nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua
điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt,
mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Sau khi thực hiện dược bước nhảy trên, chất mới trong mỗi người được hình thành và tác
động trở lại lượng. Sự tác động đó thể hiện trong lối suy nghĩ cũng như cách hành động
của mỗi sinh viên, đó là sự chín chắn, trưởng thành hơn so với một học sinh trung học
hay một học sinh phổ thông. Và tại đây, một quá trình tích lũy về lượng (tích lũy kiến
thức) mới lại bắt đầu, quá trình này khác hẳn so với quá trình tích lũy lượng ở bậc trung
học hay phổ thông. Bởi đó không đơn thuần là việc lên giảng đường để tiếp thu bài giảng
của thầy cô mả phần lớn là sự tự nghiên cứu, tìm tòi, tích lũy kiến thức, bên cạnh những
kiến thức trong sách vở là những kiến thức xã hội từ các công việc làm thêm hoặc từ các
hoạt động trong những câu lạc bộ. Sau khi đã tích lũy được một lượng đầy đủ, các sinh
viên sẽ thực hiện một bước nhảy mới, bước nhảy quan trọng nhất trong cuộc đời, đó là
vượt qua kì thi tốt nghiệp để nhận được tấm bằng cử nhân và tìm được một công việc. Cứ
như vậy, quá trình nhận thức (tích lũy về lượng) liên tục diễn ra, tạo nên sự vận động
không ngừng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi con người, giúp con người
ngày càng đạt đến trình độ cao hơn, tạo động lực cho xã hội phát triển.
Phần 2 : Vận dụng quy luật lượng – chất vào quá trình học tập và rèn luyện của
sinh viên:
Việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng – chất trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh
viên Thương Mại nói riêng và của học sinh, sinh viên cả nước nói chung có ý nghĩa vô
cùng to lớn. Cụ thể với cá nhân tôi-một sinh viên khóa K56 của Đại học Thương Mại:
Trong chất sinh viên Đại học Thương Mại kéo dài từ năm 2020 đến năm 2024, khi đó
lượng không ngừng được tăng lên, đó chính là kiến thức. Cũng như học sinh phổ thông,
sinh viên Đại học muốn có được tấm bằng Đại học phải tích lũy đủ số tín chỉ học phần.
Tuy nhiên việc tích lũy kiến thức ở Đại học có nhiều khác biệt, đó là sinh viên không thể
thụ động tiếp thu kiến thức mà còn phải tự tìm tòi, nghiên cứu từ những kiến thức mới
qua những chỉ dẫn của giảng viên. Nó không chỉ bao gồm những kiến thức cơ bản trong
giáo trình mà kiến thức còn đến từ việc trải nghiệm các tình huống ngoài xã hội. Kiến
thức còn vô cùng phong phú từ đa dạng đến chuyên sâu, từ cơ bản đến nâng cao, từ ít đến
nhiều. Do vậy, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng được
thay đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn qua từng giai đoạn.
Tuy nhiên qúa trình đó chưa đủ để làm thay đổi về chất. Chất của sinh viên Thương Mại
chỉ có thể được thay đổi khi lượng kiến thức của sinh viên đó đủ để vượt qua các điểm
nút tức là những kì thi, các kì kiểm tra. Trong đó điểm nút quan trọng nhất là sau khi viết
luận văn, luận án, đến ngày nhận bằng tốt nghiệp. Đó chính là điểm nút lớn nhất đánh dấu
“bước nhảy” từ một sinh viên Thương Mại trở thành một cử nhân Thương Mại. Điều đó
chứng minh rằng lượng (kiến thức) được tích lũy qua 4 năm học đã đủ để làm chất sinh
viên Thương Mại thay đổi. Ngoài ra, là một sinh viên Thương Mại, ta phải tự trang bị cho
mình tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực. Trong một kì thi, nếu gian lận để một
kết quả tốt thì dù ta có thể qua được kì thi, nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến
đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu
được. Và vì thế dù có trải qua 4 năm đào tạo hệ đại học với tấm bằng loại Giỏi hay Xuất
sắc thì ta vẫn không đáp ứng được yêu cầu công việc sau này.
Bên cạnh đó, sau khi thay đổi chất mới cũng tác động ngược lại đến lượng. Đó là khi trở
thành cử nhân Thương Mại việc tiếp thu kiến thức chuyên ngành hay kĩ năng xử lý các
tình huống và khả năng giao tiếp, ứng xử cũng trở nên tốt hơn khi còn là sinh viên. Điều
này thúc đẩy cử nhân Thương Mại tiếp tục tiếp thu những tri thức mới ở cấp độ cao hơn
để hoàn thiện bản thân.
4. Vận dụng quy luật mâu thuẫn vào quá trình học tập của bản thân: (quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập)
Học là một quá trình phát triển tri thức, tư duy và áp dụng chúng vào trong đời sống thực
tế. Vậy nên quá trình học cũng tồn tại sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập để
tạo nên những cái mới, những kiến thức nhằm phát triển năng lực mỗi cá nhân.
Và trong sự nghiệp học tập của mình, em đã vận dụng quy luật này như sau:

Thừa nhận và tôn trọng mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn là những thuộc tính vốn có của sự vật, chúng ta cần phải luôn luôn tìm
hiểu để phát hiện mâu thuẫn, từ đó nắm bắt bản chất và khuynh hướng phát triển của các
mặt đối lập.
- Đối với em, tôn trọng mâu thuẫn trong học tập chính là phải tìm hiểu đầy đủ các
thông
tin cần thiết để phục vụ cho quá trình học của mình. Chẳng hạn để chuẩn bị trở thành
một sinh viên năm nhất, em đã tìm hiểu đầy đủ chương trình học của mình, xác định
định hướng và mục tiêu của bản thân để chọn ra những môn học phù hợp, vạch ra kế
hoạch học tập, rèn luyện cho bốn năm đại học của mình và thực hiện kế hoạch đó để
đạt được đích đến mà bản thân đề ra.
 Không né tránh mâu thuẫn mà phải đối diện, khắc phục nó.
- Khi gặp bất cứ vấn đề nào, sợ hãi và lẩn trốn sẽ không giúp được gì cho chúng ta,
vậy nên ta không thể tránh né mâu thuẫn mà phải xem xét, phân tích cụ thể nó để tìm ra
phương án giải quyết. Từ đó ta mới có thể có thêm kinh nghiệm để phát triển bản thân.
- Trong việc học cũng vậy, khi gặp một bài toán khó hoặc những bài tập không thể
giải được, em thường nỗ lực tìm tòi trên các trang mạng, các diễn đàn học tập hoặc trực
tiếp hỏi giảng viên, anh chị, bạn bè cách làm. Việc không từ bỏ trước khó khăn giúp em
có thể nâng cao vốn kiến thức, biết được mình nên làm gì nếu gặp lại dạng bài đó và
hình thành thói quen tìm tòi, học hỏi cho bản thân.

Phải liên tục tìm tòi, đổi mới, sáng tạo trong tri thức.
- Mâu thuẫn là nguyên nhân làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời, sự tồn tại của
mâu thuẫn khiến chúng ta nhận thức được rằng kiến thức không bao giờ là đủ. Khi ta giải
quyết được một vấn đề cũ thì sẽ tiếp tục gặp được rất nhiều vấn đề mới khác nên bắt
buộc chúng ta phải luôn đổi mới, sáng tạo.
- Là một sinh viên trong xã hội hiện đại, em nhận thức được kho tàng kiến thức
không chỉ nằm trong những bài giảng của thầy cô, trong giáo trình mình học mà còn liên
quan đến rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Vậy nên em không cho phép mình ngủ
quên trên một vài kiến thức nhất định nào mà thay vào đó em phải đi tìm tòi, học hỏi
thêm những điều mới. Sau khi học xong trên lớp, em phải xem lại bài hôm đó và tìm
thêm những bài tập có liên quan để tiếp thu thêm những điều không được dạy.
- Ngoài ra, việc thường xuyên đọc sách cũng khiến em mở mang đầu óc và nâng cao
tính sáng tạo của mình hơn.
- Bên cạnh việc học lý thuyết, em cũng nỗ lực trau dồi thêm kỹ năng mềm cho bản
thân để thích ứng kịp với xã hội đang ngày càng phát triển và hội nhập.

Phải tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống.
- Kiến thức luôn rất đa dạng và phong phú nên ta buộc ta phải dần bài trừ những cái
cũ, không còn phù hợp và tiếp thu cái mới. Thế nhưng, quá trình này không thể diễn ra
nóng vội và bảo thủ. Chúng ta không thể vội vã tiếp thu những điều mới mà không chọn
lọc cũng như không thể cứ khư khư làm theo những quy tắc cũ, lỗi thời. Quy luật mâu
thuẫn cho chúng ta nhận thức rằng phải dựa trên những cái cũ, duy trì những điều tốt của
cái cũ để phát triển ra những cái mới và làm việc một cách có trình tự, hệ thống.
- Để có thể bước chân được vào đại học là một quá trình em phải học tập tích lũy
kiến thức từ bậc tiểu học đến hết bậc trung học cơ sở, lấy cơ sở kiến thức của lớp trước để
tiếp thu những kiến thức mới của lớp sau.
- Là một sinh viên, em cần phải hiểu sự tương tác giữa các môn học trong ngành học
của mình, qua đó đánh giá và chọn lọc khối lượng kiến thức mà bản thân cần tích lũy
để thêm vào CV, loại bỏ những môn học không phù hợp với mục đích của bản thân.
Em cũng nhận thức được phải tích lũy kiến thức trong bốn năm đại học một cách hợp
lý, không học dồn khi không có khả năng mà phải tìm ra phương pháp học tập đúng
đắn để có thể ra trường với thành tích mong muốn.
 Như vậy, việc vận dụng nhuần nhuyễn quy luật mâu thuẫn vào đời sống nói chung và
việc học tập nói riêng là cực kì quan trọng đối với sinh viên. Điều đó giúp em xác định
được năng lực bản thân, lập ra kế hoạch để hoàn thành mục tiêu mình đặt ra. Để có thể
ngày càng phát triển bản thân và thành công trong cuộc sống, em sẽ cố gắng áp dụng
những điểm có lợi của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
5. Quy luật phủ định và phủ định vậy ta nên vận dụng phương pháp luận này
vào hoạt động thực tiễn của bản thân như thế nào ?
Đối với bản thân tôi là sinh viên thì việc học tập và tiếp thu kiến thức trong và ngoài
trường là việc được ưu tiên hàng đầu. Trước hết , ta cần phải nhận thức đúng đắn được
mục đích của việc học và học tập làm sao cho hiệu quả nhất. Vị tiến sĩ triều Lê , Thân
Nhân Trung đã từng nói :”Hiền tài là nguyên khí quốc gia “,quả thực là vậy , chỉ có người
tài người nắm vững kiến thức mới có thể góp phần phát triển đất nước. Đảng và Nhà
nước ta xác định: giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu chính vì mục tiêu của giáo
dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo
những người lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo
đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ta cần coi học tập là quyền và nghĩa vụ như là một
cách để thực hiện công bằng xã hội , và trên hết cần trau dồi tích cực rèn luyện , chủ động
bổ sung tiếp thu kiến thức xã hội và kiến thức trong quá trình học tập trong nhà trường.
Đó chính là cách mà chúng ta vận dụng phương pháp luận này vào trong quá trình học
tập. Không chỉ vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào trong học tập mà sinh viên
chúng ta cần phải vận dụng cả về hoạt động thực tiễn trong cuộc sống. Thứ nhất chính là
rèn luyện cho mình tính luôn lạc quan, kiên nhẫn trong mọi việc , đứng trên quan điểm
duy vật biện chứng thì thất bại không phải là chấm hết mà khi thất bại thì một cánh cửa
mới sẽ mở ra với chúng ta. Cần phải quan niệm rằng hai từ thất bại không đáng sợ như ta
vẫn thường nghĩ, thất bại là một điều rất bình thường , một lẽ tất yếu trong cuộc sống đời
thường. Không quan trọng chúng ta thất bại ra sao mà quan trọng là cách chúng ta nhìn
nhận thất bại ấy như thế nào. Ta cần phải có niềm tin vào tri thức của mình để có vực
dậy, đứng lên từ thất bại để vươn tới thành công .Như người xưa từng quan niệm :”thất
bại là mẹ thành công”, ta cần phải nhìn nhận, phân tích nguyên do mình thất bại thì khi
ấy thất bại sẽ chỉ là bàn đạp trên con đường vươn tới đỉnh cao. Khi ấy thì ta sẽ cảm nhận
được thất bại thật sự nhỏ nhoi, tầm thường. Không có con đường tắt để vươn tới thành
công, không có con đường nào trải đầy hoa hồng , chỉ có đi trên con đường chính trực,
con đường của tri thức mới có thể đến được vạch đích thành công. Vận dụng ngay trong
việc học thì chỉ khi nào ta thực sự cố gắng thì mới có thể có được điểm số như mong
muốn, mới xứng đáng với danh nghĩa là sinh viên đại học. Từ đó ta mới thấy được giá trị
của tri thức khoa học trong đó có triết học nói chung và giá trị của quy luật phủ định của
phủ định nói chung. Kết luận lại, ta cần nâng cao sự hiểu biết và vận dụng đúng đắn ,phát
huy tối đa quy luật phủ định của phủ định vào trong hoạt động thực tiễn của bản thân, để
từ đó đạt được hiệu quả cao trong học tập rèn luyện và trong cuộc sống thường ngày.
6. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Ví dụ về thực tiễn?
Ví dụ: Người công nhân vệ sinh dùng chổi và hót rác để thu quét những đống rác bên vệ
đường làm sạch môi trường; hay hoạt động lao động của người công nhân trong nhà máy,
xí nghiệp tác động vào máy móc trên những dây chuyền sản phẩm để tạo ra những sản
phẩm đưa ra thị trường phục vụ con người...
Ví dụ: Hoạt động lấy ý kiến cử tri tại địa phương, tiến hành Đại hội Đoàn thanh niên
trường học, Hội nghị công đoàn.
Hoạt động sản xuất vật chất: Ví dụ: Người nông dân dùng máy gặt để thu hoạch lúa
trên đồng; người ngư dân dùng lưới để đánh bắt cá trên biển...
Hoạt động chính trị - xã hội: Ví dụ: Nhân dân ta đấu tranh đánh đuổi chế độ thực dân,
đế quốc để giành độc lập dân tộc.
Hoạt động thực nghiệm khoa học: Ví dụ: Con người nghiên cứu cơ chế hoạt động của
virut corona để điều chế ra vaccine ngừa Covid -19 tiêm chủng cho con người

*VD: + Nghiên cứu cây lúa phải bám sát quá trình gieo mạ và tiến trình sinh trưởng, phát
triển của cây lúa trực tiếp trên cánh đồng, đồng thời kết hợp với những tri thức đã có về
cây lúa trong những tài liệu chuyên ngành. Ta không thể nghiên cứu về cây lúa chỉ bằng
việc đọc sách, báo, tài liệu.
+ Nghiên cứu về cách mạng xã hội thì cũng không thể chỉ dựa vào sách, báo, tài liệu, mà
cần phải có cả quá trình tiếp xúc, tìm hiểu đời sống của các giai cấp, tầng lớp…
7. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là một
quá trình lâu dài và đầy khó khăn. Từ năm 1986 đến nay tình hình kinh tế nước ta đã có
sự biến đổi về lực lượng sản xuất. Cụ thể như sau:
Người lao động nước ta không ngừng được nâng cao về cả chất lượng và số lượng. Năm
2005, dân số lao động hoạt động kinh tế ở nước ta là 42,53 triệu người, chiếm 51,2 tổng
số dân, mỗi năm nước ta có thêm khoảng 1 triệu lao động. Về chất lượng lao động, nếu
như năm 1996, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo là 12,3% thì đến năm 2005 là
25%, như vậy số lao động đã qua đào tạo tăng 2,5 lần,…
Số lao động có chuyên môn kĩ thuật đang làm việc trong các đơn vị sản xuất kinh doanh
chiếm khoảng 21% so với tổng số lao động trong cả nước. Đội ngũ trí thức tăng nhanh,
chỉ tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Số trí thức có trình
độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh. Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên
nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thông, 226
trường dân tộc nội trú được mở.
Mặc dù chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển của đất nước. So với yêu cầu hiện nay lực lượng lao động
có trình độ vẫn còn mỏng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật lành
nghề còn thiếu nhiều, 75% lao động nước ta vẫn là lao động chưa qua đào tạo
Các loại máy móc, trang thiết bị được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế, nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên nhìn chung công cụ lao động của nước ta vẫn
còn lạc hậu so với thế giới. Máy móc phục vụ cho sản xuất vẫn còn chậm cải tiến, chủng
loại máy móc nhìn chung khá nghèo nàn.
Như vậy, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển song ở các trình độ không đều khiến
cho nền kinh tế ước ta mặc dù đã phát triển theo hướng tích cực hơn trước nhưng vẫn
chưa ổn định và còn nhiều hạn chế.
Thực trạng các quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Trước hết cần khẳng định: quan hệ sản xuất chúng ta thiết lập và xây dựng là quan hệ sản
xuất trong nền kinh tế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính xác hơn là
quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì chúng ta chưa thực sự có chủ nghĩa
xã hội mà mới đang trên đường xây dựng nó.
Sự sở hữu tư liệu sản xuất còn chưa đồng đều trong nhân dân dẫn đến sự phân hóa giàu
nghèo càng trở nên sâu sắc, tạo nên sự phân tầng xã hội về mặt kinh tế trong đó tầng lớp
trên chiếm tỉ trọng lớn tài sản và các ưu thế kinh tế và tầng lớp dưới chiếm một tỉ trọng
nhỏ các tài sản và một phần nhỏ các ưu thế kinh tế.
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa dạng, phát
huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà
nước kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân , kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan
hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ sản xuất phong kiến… được công nhận.
Quan hệ sản xuất được xây dựng và hoàn thiện bao gồm cả Quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa đại diện cho định hướng đi lên Chủ nghĩa xã hội trình độ cao, Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa – thấp hơn…
Kết luận về sự vận dụng này
Như vậy, trong thời kỳ này, nhà nước ta đã biết áp dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại nhiều tín hiệu tích cực cho
nền kinh tế nước nhà, đó là sự tăng nhanh về năng suất, chất lượng sản phẩm, khiến cho
Tổng sản phẩm trong nước mỗi năm tăng cao, Việt Nam từ một nước thiếu ăn với nền
kinh tế chậm phát triển đã vươn lên thành một nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế
giới cũng như là một nước có nền kinh tế đang phát triển.
Các quan hệ sản xuất ở trình độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng bước tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển
không đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất.
Mặc dù quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đem lại cho ta những lợi ích, hiệu quả lớn trong sự phát triển kinh tế của đất nước nhưng
nếu áp dụng không đúng cách sẽ gây sai lầm. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu biết rõ quy
luật để biết áp dụng một cách đúng đắn.
8. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta
hiện nay:
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và
thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao
hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và
tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao
động, không còn chế độ bóc lột.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính
chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế
xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu
tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang
tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần
kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác
nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì
vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh
tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước
đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất
nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh,
kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng,
tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn
cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử
dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh
tế là quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp
theo hướng kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành
nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp
lý.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt
lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con
người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương
ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ :
”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản
lãnh đạo”.
Những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại một lần nữa chứng minh
một sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng. Không thể nào có được một đất nước mà cơ sở hạ tầng phát triển song kiến
trúc thượng tầng, ngược lại không có sự phát triển thích ứng với cơ sở hạ tầng và cũng
như không có được một kiến trúc thượng tầng được coi là hoàn hảo mà lại đứng trên một
cơ sở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta không thể coi đó như là một sự phát triển bình thường
mà là một sự phát triển sai lệch.
Mỗi chúng ta tự hào về công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song
chúng ta hiểu rõ rằng vẫn còn nhiều thiếu sót mà chưa giải quyết hết được. Đó là những
tác động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế độ quan liêu bao cấp đã xâm nhập vào
tổ chức bộ máy và hoạt động của nhà nước trong một thời gian dài. Đặc quyền, đặc lợi,
tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây nên những tổn thất nặng
nề về kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh thần và đạo đức trong xã hội ta.
Cho dù đâu đó vẫn còn những thiếu sót mà chúng ta chưa làm được, song chúng ta tin
rằng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước ta mà nền tảng của nó là chủ nghĩa
Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta sẽ thành công. Bởi chúng ta có niềm tin
và biết vận dụng linh hoạt đúng đắn quy luật phát triển của xã hội mà Mác – Lê Nin là
những người tiên phong vạch ra con đường đi theo nhân loại.
10. Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện
nay
Liên hệ trách nhiệm sinh viên trong cuộc đấu tranh giai cấp ở VN hiện nay
Là sinh viên của Trường Đại học Sư phạm TPHCM nói riêng, của đất nước CHXHCN
VN nói chung, chúng ta mang trong mình trách nhiệm đối với cuộc đấu tranh giai cấp của
nước ta hiện nay. Vậy trách nhiệm đó là gì?
Thứ nhất, mỗi sinh viên cần biết nhìn nhận khách quan và có nhận thức đúng đắn tình
hình đấu tranh giai cấp của nước ta. Bởi lẽ, các bạn muốn hành động đúng thì các bạn
phải nhận thức đúng.
● Tuy nhiên nhiều sinh viên còn chưa hiểu sâu về chính trị, lập trường tư tưởng chưa
vững vàng, song khả năng phân tích và chọn lọc còn có những hạn chế nên khi tiếp thu
các thông tin mới, cũng như những luồng tư tưởng mới trong xã hội, dễ dao động, dễ bị
lôi kéo, dễ trở thành đối tượng mà các thế lực thù địch hướng tới, thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình”, nhằm mục tiêu chống phá cách mạng trong hiện tại và tương lai.
Trên thực tế, trong những ngày chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, có sinh viên bị kích động đã lập các
blog cá nhân đăng tải nội dung cổ xúy cho các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch,
từ đó có các bình luận xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Thế nên, mỗi sinh viên chúng ta cần tự giác tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc đấu tranh giai
cấp ở Việt Nam qua việc nghiêm túc học tập các môn như: triết học Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước… ở giảng đường đại học. Kết hợp với quá trình học tập là thảo luận, trao đổi với
thầy cô, bạn bè để nhận thức tri thức khoa học cả về lý luận và thực tiễn.
● Bên cạnh đó, sinh viên nên liên tục cập nhật các quan điểm mới của Đảng, tình hình
chính trị - xã hội trong và ngoài nước qua những kênh thông tin quốc gia uy tín như báo
chính phủ, tạp chí giáo dục, thời sự…
=> Và từ những nội dung, kiến thức đó, mà chúng ta nâng cao nhân sinh quan, thế giới
quan và đạo đức cộng sản: các giá trị truyền thống dân tộc, lý tưởng, niềm tin vào Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa để cuối cùng, chúng ta có cái nhìn khách quan,
chính xác về đấu tranh giai cấp ở VN, nhận ra cuộc đấu tranh đang diễn ra rất gay go,
phức tạp; các thế lực thù địch phản động không ngừng chống phá; rằng đấu tranh giai cấp
là tất yếu của đất nước, cũng như tránh tình trạng nhận thức sai về đấu tranh giai cấp mà
mất cảnh giác hay không dám thay đổi; sau cùng là nhận ra trách nhiệm đối với mọi công
dân nước Việt Nam trong đó có cả sinh viên: phải học tập, rèn luyện, sáng tạo vì lợi ích
của chủ nghĩa xã hội và có những hành động cụ thể, đúng đắn đối với đấu tranh giai cấp
Thứ hai, như các bạn đã biết; học tập, rèn luyện, sáng tạo,nâng cao đạo đức vì đất nước là
trách nhiệm quan trọng nhất đối với một người sinh viên như chúng ta. Sinh viên trường
ĐH Sư phạm TPHCM nói riêng hay lớp trẻ ngày nay luôn phải đặt việc học tập và rèn
luyện lên hàng đầu bởi giáo dục luôn là quốc sách hàng đầu để phát triển và gầy dựng đất
nước phát triển.
+ Tích cực học tập và phát triển tại nhà trường thông qua chương trình giáo dục đã được
nhà trường xây dựng để phù hợp với yêu cầu ngày nay của đất nước. Tất cả các môn học
tại nhà trường chắc chắn sẽ cung cấp lượng kiến thức mà mỗi sinh viên cần để phát triển
bản thân. Không nên hình thành thói quen chỉ học tập và nghiên cứu các môn chuyên
ngành mà quên mất tầm quan trọng của môn chung. Học tập tích cực nhưng không có
tính chọn lọc về phương pháp và tài liệu học cũng làm lệch lạc tư duy và suy nghĩ của
sinh viên.
+ Học tập phải đi chung với rèn luyện và sáng tạo, đặc biệt khi ta phải tiếp thu với lượng
kiến thức càng ngày càng nhiều như ngày nay thì phải rèn luyện mỗi ngày mới có thể vận
dụng một cách có hiệu quả lượng kiến thức đó. Kiến thức tiếp thu được qua sách vở và
nhà trường chỉ là trên lý thuyết, nếu ta không vận dụng và thực hành vào thực tế đời sống
thì kiến thức đó sẽ không mang lại hiệu quả. Vậy, chúng ta phải tích cực tham gia các
cuộc thi học thuật đối với các môn chuyên ngành lẫn môn chung, cuộc thi nghiên cứu
khoa học để vận dụng kiến thức đã học thành những công trình khoa học - công nghệ,
những bài luận án, luận văn về giải pháp hay cách thức mới cải thiện một vấn đề nhỏ
trong cuộc sống. Từ đó, nhận ra điểm thiếu sót của bản thân mà sửa chữa, khắc phục,
thay đổi và ngày một hoàn thiện.
+ Học tập và rèn luyện phải đi chung với rèn luyện đạo đức và nhân cách. Việc tu dưỡng
phẩm chất đạo đức theo năm điều Bác dạy cũng là một phương pháp học tập. Một con
người hoàn mĩ phải hội tụ hai yếu tố tài năng và phẩm chất đạo đức. Hình thành đạo đức
tốt thông qua lòng yêu nước và có tinh thần học tập phát triển đất nước giàu mạnh luôn
phải được trau dồi mỗi ngày
Sinh viên phải đặt việc học làm yếu tố trọng tâm, là trách nhiệm và nghĩa vụ để xây dựng
đất nước chống lại các thế lực thù địch, đấu tranh giai cấp gây cản trở quá trình phát triển
của nước ta. Tụt hậu về trí thức sẽ là trở ngại lớn, làm nước ta rơi vào sự dòm ngó của
các thế lực thù địch, uy hiếp đến nền độc lập của Việt Nam ta. Vận dụng tốt kiến thức đã
học vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước để thực hiện tốt cuộc công
nghiệp 4.0 trong thời đại thế giớiphát triển mạnh công nghệ thông tin. Phải học tập và rèn
luyện chân chính, học bằng khả năng của mình. Bước vào thời đại công nghiệp hoá, hiện
đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất nước, chèo lái chiếc thuyền
số phận của non sông Tổ quốc, đưa đất nước ta từng bước phát triển về mọi mặt, ổn định
xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, ngăn chặn được mọi âm mưu, chống phá của
kẻ thù, đưa cuộc đấu tranh giai cấp đi đến thành công là trở thành một nước XHCN dân
giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Và nhiệm vụ của chúng ta phải học, học
nữa, học mãi. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thì
tương lai dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào quang.
Thứ ba, song song với việc học tập trở thành một người có tri thức đóng góp cho sự phát
triển của đất nước, sinh viên cũng cần có những hành động cụ thể góp phần vào cuộc đấu
tranh giai cấp của nước VN ta.
Đầu tiên, chúng ta phải tích cực hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
và Hội Sinh viên trong các học viện, đại học, cao đẳng. Chính những nội dung phong
phú, thiết thực, sinh động của hoạt động Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội
Sinh viên là điều kiện thuận lợi để chúng ta bồi đắp lập trường tư tưởng chính trị vững
vàng, trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, giản dị, ý chí
vươn lên trong cuộc sống cũng như trong học tập, nghiên cứu khoa học, có uy tín và tích
cực trong công tác Đoàn, công tác Hội và gần gũi với quần chúng. Mà quan trọng hơn hết
là chúng ta sống và làm việc theo pháp luật, theo bản sắc văn hóa dân tộc; làm cho bản
thân thấm nhuần truyền thống dân tộc, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, truyền thống của học viện, nhà trường; định hướng đạo đức
nghề nghiệp; từ đó ta sẽ trở nên kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng, nhân dân và cả dân tộc Việt Nam lựa chọn
Bên cạnh đó, trên không gian mạng (thông qua các website, các diễn đàn trên Internet,
các nền tảng mạng xã hội), các thông tin được lan truyền với tốc độ chóng mặt nên các
thế lực thù địch luôn tìm cách tranh thủ chớp lấy thời cơ để xuyên tạc, bịa đặt thông tin.
Thế nên sinh viên chúng ta phải biết phát hiện, nhận diện, xử lý, phân tích, dự báo tác hại
của các thông tin xấu độc, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động trên không gian
mạng. Đồng thời hết sức cảnh giác trước những thông tin bịa đặt, xuyên tạc đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khi sử dụng mạng xã hội và
trang bị các “kỹ năng mềm” trong ứng xử, thực hành trên môi trường mạng, để tùy từng
tình huống, vấn đề cụ thể mà sinh viên biết cách xử lý phù hợp, tránh vì vô tình hay cố ý
mà phát tán hay tiếp tay cho những thông tin, hành vi xấu.
Cuối cùng, ca dao có câu: Một cây là chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Thật vậy, đoàn kết chính là nhân tố quan trọng trong cuộc đấu tranh giai cấp. Có thể
chúng ta xuất thân từ các giai tầng khác nhau của mọi miền đất nước, với mức thu nhập
của gia đình rất khác nhau nhưng chúng ta đều là sinh viên của nước VN, đều mong
muốn được sống trong một xã hội phát triển hạnh phúc. Vậy, giữa sinh viên chúng ta phải
tự xóa bỏ những định kiến về xuất thân, hoàn cảnh gia đình của nhau mà giúp đỡ nhau
trong học tập, nghiên cứu; trong làm việc tạo ra lợi ích cho bản thân và xã hội; cùng xây
dựng tình bạn tốt đẹp; cùng tích cực tham gia thiết kế, truyền tải các thông tin, thông điệp
thiết thực, hấp dẫn về chủ nghĩa Mác - Lênin, về tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những tấm gương người tốt việc
tốt… tác động đến nhiều bạn trẻ hơn, đồng thời lan tỏa ra toàn xã hội.
=> Bằng những hành động nghĩa tình, chung sức đó, chúng ta có thể bắt đầu từ vạch xuất
phát cách xa nhau, điều kiện kinh tế khác nhau nhưng giờ, chúng ta đang thu hẹp khoảng
cách phân hóa giàu - nghèo, phát huy hết mọi tiềm năng trong bản thân chúng ta mà khai
thác mọi tiềm lực của kinh tế, chính trị, xã hội, kết quả là cùng nhau sánh bước trên con
đường xây dựng một xã hội công bằng, phát triển phồn vinh.
Tóm lại, trách nhiệm của sinh viên chúng ta trong cuộc đấu tranh giai cấp ở VN là không
nhỏ, vì chúng ta là thế hệ tiếp theo nắm giữ chìa khóa vận mệnh tương lai của đất nước.
Thế nên, mỗi sinh viên phải tự rèn giũa bản thân về cả nhận thức, tư tưởng lẫn hành động
để trở thành người con đất Việt luôn hướng về Tổ quốc, trung thành với Đảng và Nhà

nước XHCN mà góp phần đưa cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng thành công.

Một số giải pháp xây dựng lối sống văn hóa sinh viên trong giai đoạn hiện nay

Hiện nay, toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan, có tác động sâu rộng đến tất cả
các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam có
những cơ hội đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trên thế giới.
Tuy nhiên, những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đặc biệt là sự thay đổi về lối
sống của con người cũng đứng trước những nguy cơ, thách thức không nhỏ. Chính vì
vậy, xây dựng lối sống văn hóa cho các tầng lớp nhân dân nói chung và sinh viên nói
riêng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.

Lối sống được biểu hiện thông qua hoạt động sống của con người trên mọi lĩnh vực, được
quy định bởi phương thức sản xuất của xã hội, nên con người trong mỗi xã hội có lối
sống khác nhau. Lối sống văn hóa là những thói quen hành xử đẹp đẽ của cá nhân hoặc
cộng đồng; là yếu tố quan trọng để xây dựng xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh; là nền tảng để xã hội phát triển bền vững… Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cốt
lõi của lối sống văn hóa chính là nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng, tiến bộ, nó
được thể hiện trong lao động sản xuất, trong cuộc sống hằng ngày như, cách ăn mặc, cách
ở, việc đi lại, khi làm việc, truyền thống coi trọng đạo lý, nghĩa tình…”. Thấm nhuần sâu
sắc lời dạy của Bác, trong Nghị quyết trung ương 9, khóa XI về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta
khẳng định: “Xây dựng và phát huy lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi
người; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật, bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã
hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn
vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
Đây chính là những định hướng quan trọng trong xây dựng lối sống văn hóa cho các tầng
lớp nhân dân nói chung và sinh viên nói riêng của Đảng hiện nay. Bởi, xây dựng lối sống
văn hóa cho nhân dân không những có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới của Đảng mà còn là mục tiêu, yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng.

Tính đến năm 2015, cả nước có khoảng 2,36 triệu sinh viên đại học, cao đẳng với 219
trường đại học, 217 trường cao đẳng. Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, đang trong quá
trình định hình nhân cách, đạo đức, lối sống. Đồng thời, họ tràn đầy sức sống, có hoài
bão, ước mơ, năng động, sáng tạo, được đào tạo một cách cơ bản, toàn diện theo tất cả
các chuyên ngành, nhạy bén với cái mới, tiếp thu nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật
hiện đại, nắm trong tay tri thức thời đại, chìa khóa cho sự phát triển bền vững của đất
nước. Nói về vị trí, vai trò của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng, Nghị quyết
Trung ương 7, khóa X đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân
tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, một
trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tuy nhiên, sự tác động toàn
cầu hóa, trong đó có sự thâm nhập lối sống phương Tây, đã làm cho sinh viên Việt Nam
cởi mở, năng động, tự lập, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm hơn. Song, sự thâm
nhập lối sống đó cũng mang lại những ảnh hưởng tiêu cực, làm cho lối sống con người
ngày càng xa dần các giá trị, đạo lý, thuần phong mỹ tục của dân tộc…

Trong những năm qua, việc xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên luôn được Đảng,
Nhà nước, gia đình, nhà trường và toàn xã hội quan tâm. Thông qua các hoạt động giáo
dục, các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa, đã tạo môi trường lành mạnh để sinh viên rèn luyện,
trưởng thành, góp phần hình thành lý tưởng cách mạng, đạo đức cao đẹp, lối sống nghĩa
tình, tuân thủ pháp luật, từng bước hoàn thiện nhân cách. Với tư cách là chủ nhân tương
lai của đất nước, các thế hệ sinh viên Việt Nam đã xung kích trên mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, tham gia các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, chăm sóc thiếu niên, nhi đồng;
tuyên truyền phổ biến pháp luật, phòng chống tệ nạn xã hội; giữ gìn trật tự an toàn giao
thông; tổ chức các hoạt động đền ơn đáp nghĩa… Những hoạt động đó phần nào đã thể
hiện được tâm hồn và lối sống đẹp của sinh viên Việt Nam. Đặc biệt, trong Chỉ thị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015 – 2030, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
nhấn mạnh: “Phần lớn thanh thiếu nhi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường
phát triển của đất nước, sống có trách nhiệm với tổ quốc, gia đình và bản thân, có ước
mơ, hoài bão, kiến thức, kỹ năng, sức khỏe tốt, tư duy năng động, sáng tạo, lạc quan, tự
tin, dám nghĩ, dám làm; có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”.

Tuy nhiên, dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường, lối sống sinh viên biểu hiện một
số lệch lạc, như: thực dụng, không có lý tưởng, ăn mặc phản cảm, ứng xử không hợp với
đạo lý truyền thống, ít tham gia vào các hoạt động cộng đồng… Về vấn đề này, trong Chỉ
thị nêu trên, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng nhấn mạnh: “Một bộ phận giới trẻ giảm
sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng, xa rời
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế lực thù địch lôi
kéo, kích động chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Tình trạng tội
phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức tạp”.

Mức độ toàn cầu hóa diễn ra ngày càng nhanh, vừa tạo ra thời cơ thuận lợi, vừa mang lại
những khó khăn, thách thức đối với việc xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên. Để
thực hiện tốt công tác xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên, nhà trường cần thực hiện
tốt những nội dung, biện pháp cơ bản sau:

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong xây dựng lối sống văn
hóa cho sinh viên. Đây là biện pháp giữ vị trí quan trọng hàng đầu đối với việc xây dựng
lối sống văn hóa cho sinh viên, bởi, cơ chế cấu trúc hành động của con người bao giờ
cũng đi từ nhận thức tới tình cảm, niềm tin, hình thành động cơ, ý chí quyết tâm. Mặt
khác, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giảng
viên, tạo sự thống nhất cao, tạo ra sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho quá trình xây dựng
lối sống văn hóa của sinh viên được tiến hành một cách tích cực, chủ động, khắc phục
được những hạn chế, thiếu sót. Nhà trường cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý giáo dục, đội ngũ giảng viên về vị trí, vai trò của
lối sống văn hóa trong đời sống hàng ngày cũng như trong hoàn thiện nhân cách sinh
viên. Để thực hiện được, nhà trường cần xây dựng hệ tiêu chí lối sống văn hóa, trong đó,
xác định rõ các giá trị, chuẩn mực. Trên cơ sở đó, xác định các cách thức, biện pháp giáo
dục để chuyển hệ giá trị, chuẩn mực trở thành những yêu cầu từ bên trong của mỗi sinh
viên. Đồng thời, công tác lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động giáo dục phải thực sự khoa học,
cụ thể, sát thực, bám sát các tiêu chí đã xác định; thường xuyên kiểm tra, uốn nắn, đảm
bảo cho quá trình xây dựng lối sống văn hóa của sinh viên diễn ra đúng định hướng. Bên
cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong
xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên. Mỗi cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên cần
học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức không ngừng, xây dựng cho mình lối sống trong
sạch, lành mạnh, thực sự là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo.

Gắn việc xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên với toàn bộ quy trình giáo dục đào tạo
của nhà trường. Đây là biện pháp cơ bản nhất, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa dạy chữ,
dạy nghề, dạy người trong quá trình giáo dục, đào tạo. Thực chất, quá trình này tạo ra sự
gắn kết chặt chẽ giữa việc bồi dưỡng, trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo với việc giáo
dục, định hướng những chuẩn mực, thói quen, hành vi của lối sống văn hóa cho sinh
viên. Để làm được điều đó, nội dung, chương trình giáo dục, đào tạo phải bảo đảm tính
cân đối, toàn diện, kết hợp giữa hệ giá trị mới với kế thừa, phát huy những giá trị truyền
thống. Khối kiến thức trang bị cho sinh viên cần được cân nhắc phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu giáo dục, đào tạo của từng trường về: quan điểm, lý tưởng sống; hệ giá trị, hành
vi lối sống văn hóa; kỹ năng ứng xử, giải quyết các mối quan hệ xã hội… Bên cạnh đó,
cần tích cực đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. Ngoài ra, trong quá trình thực hành giảng bài, giảng
viên cần căn cứ vào nội dung để xây dựng những tình huống sư phạm đa dạng, sát thực.

Xây dựng môi trường văn hóa học đường lành mạnh, tạo điều kiện để sinh viên học tập,
rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Muốn có
xã hội tốt phải có con người tốt. Muốn có con người tốt phải có môi trường tốt. Đây là
quan hệ biện chứng, thiên biến vạn hóa giữa xã hội và con người” (1). Môi trường văn
hóa lành mạnh có vai trò quan trọng đối với đời sống con người nói chung và đối với việc
xây dựng lối sống văn hóa nói riêng, làm cho văn hóa thực sự trở thành nhân tố tích cực
thúc đẩy con người hoàn thiện nhân cách, lối sống. Muốn vậy, trước hết, nhà trường cần
phải nâng cao nhận thức cho giảng viên, cán bộ, công chức và toàn thể sinh viên về vị trí,
vai trò của việc xây dựng môi trường văn hóa học đường trong sạch, lành mạnh đối với
việc xây dựng lối sống văn hóa. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng các hoạt động văn
hóa, như: thư viện, đọc sách báo, văn nghệ quần chúng, câu lạc bộ, thể dục, thể thao, vui
chơi giải trí, các cuộc thi tìm hiểu…, hướng tất cả các hoạt động đó vào nâng cao nhận
thức về lối sống văn hóa cho sinh viên. Đồng thời, mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động
giao lưu văn hóa giữa các lớp, các khóa trong trường, các trường với nhau; củng cố, xây
dựng, phát triển mối quan hệ văn hóa lành mạnh giữa thày trò, bạn bè, tập thể lớp với
nhau. Ngoài ra, cần tăng cường xây dựng nguồn lực, cơ sở vật chất cho các hoạt động
xây dựng môi trường văn hóa trong nhà trường, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, tổ
chức đoàn thể, nhân dân địa phương để quản lý, giáo dục, rèn luyện sinh viên.

Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong xây dựng lối sống văn hóa
cho sinh viên. Tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục (6 – 1957), Hồ Chí Minh
đã nói: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội
và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục
trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì
kết quả cũng không hoàn toàn” (2). Sự phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục
trên, một mặt, đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức, định hướng hoạt động giáo dục
theo một mục đích, tác động tổ hợp tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển
lối sống văn hóa của sinh viên; mặt khác, tránh sự tách rời, vô hiệu hóa lẫn nhau gây cho
các em tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động trong việc lựa chọn, định hướng các
giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Việc xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên là một quá
trình lâu dài, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan đến nhiều mối quan hệ xã
hội phức tạp, nên cần sự quan tâm, kết hợp chặt chẽ nhiều lực lượng xã hội. Trong đó,
nhà trường giữ vai trò định hướng, uốn nắn những hành vi của sinh viên theo chuẩn mực
giá trị xã hội; gia đình đóng vai trò quyết định đến việc hình thành đạo đức, lối sống cho
các em. Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình
thức, tất cả đều vì mục tiêu giáo dục, đào tạo sinh viên thành những công dân hữu ích.
Bên cạnh đó, cần phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc khi cho rằng: giáo dục đạo
đức, lối sống của sinh viên là công việc của riêng nhà trường.

Chủ động, tích cực đấu tranh ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực lối sống phương Tây và các
tệ nạn xã hội. Đây là biện pháp giữ vai trò quan trọng trong xây dựng lối sống văn hóa
cho sinh viên hiện nay. Bởi, lối sống là một phạm trù xã hội rộng lớn, bao hàm nhiều
mặt, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp, giai cấp xã hội. Mặt khác, dưới tác động của toàn cầu
hóa, mặt trái kinh tế thị trường, những ảnh hưởng tiêu cực của lối sống mới như tư tưởng
thực dụng, hiện sinh, chạy theo đồng tiền, sống ảo, sống thử, sống buông thả… đang len
lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội. Vì vậy, nhà trường cần tích cực, chủ động khắc phục
những tàn dư của lối sống cũ, tệ nạn xã hội, đấu tranh chống ảnh hưởng tiêu cực của lối
sống tư sản bằng nhiều biện pháp, hình thức như: tuyên truyền, giáo dục lối sống mới,
nêu gương cá nhân, tập thể điển hình.

Nhìn chung, xây dựng lối sống văn hóa là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, quan trọng của
toàn Đảng, toàn dân, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng nhằm tạo điều kiện
tối đa cho sinh viên học tập, lao động, cống hiến. Mỗi trường học phải trở thành một
trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối
sống.

Nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình hội nhập

Một là, phát triển nguồn nhân lực là nhu cầu tất yếu của thị trường lao động trên toàn
thế giới. Nguồn nhân lực là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo
vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Cần xác định rằng CMCN 4.0 và mở rộng hội nhập
quốc tế là xu thế tất yếu. Người lao động bắt buộc phải thích nghi bằng cách chủ động
học tập, rèn luyện để có đủ năng lực chuyên môn và kỹ năng mềm cần thiết để đón đầu
các kỹ thuật, công nghệ mới áp dụng vào nền kinh tế thông minh và công nghiệp hóa.
Hai là, phát triển tốt nguồn nhân lực sẽ tạo ra lợi thế quốc gia. Thực tế cho thấy, các
nước có nguồn nhân lực tốt đã và đang có lợi thế lớn trong việc phát triển bền vững
kinh tế - xã hội của đất nước. Từ một nước kém phát triển, Singapore vươn lên trở thành
một cường quốc công nghiệp là nhờ việc biết quan tâm đến giáo dục, trau dồi nguồn nhân
lực. Hay tại Mỹ, những cuộc chiến tranh đã giúp quốc gia này có NNLCLC, từ đó tăng
cường được địa vị kinh tế - chính trị - xã hội trên trường quốc tế. Hai điển hình trong số
hơn một trăm nước trên thế giới đã khẳng định vai trò quan trọng của việc phát triển
NNLCLC.
Ba là, đổi mới phương pháp giáo dục nhằm thích nghi với tình hình hội nhập trên thế
giới. Học tập chính là phương pháp quan trọng để tăng kiến thức, cải thiện khả năng
nguồn nhân lực. Chính vì vậy, cần đổi mới toàn diện về hệ thống kiến thức và phương
pháp đào tạo; Lấy người học làm trung tâm, đào tạo nhằm hướng tới phát huy năng lực
làm việc, tính sáng tạo của người lao động; Giảng dạy lý thuyết đi kèm với thực hành
thực tế để phát triển các kỹ năng mềm của người lao động, tăng tính thích ứng, thích nghi
với môi trường làm việc thực tế. Các cơ sở giáo dục cần phát triển hơn nữa vào các ngành
nghề chất lượng cao: như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, năng lượng, vật liệu
mới, công nghệ sinh học... để giúp người lao động có thể làm chủ khi cuộc cách mạng số
hóa bùng nổ như hiện nay.
Bốn là, tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển NNLCLC. Nhà nước cần
phải tạo ra những cơ chế tốt để giúp các doanh nghiệp với nhà trường có quan hệ để đào
tạo đúng và phù hợp, gần sát nhất với nhu cầu của thị trường. Đồng thời, cần nâng cao
chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục, gắn đào tạo kiến thức với thực tập, thực hành
nghề tại các cơ sở doanh nghiệp.

mối liên hệ ấy thì cây


không thể phát triển

You might also like