You are on page 1of 15

Chương 16

Tại văn phòng Lục quân Trừ bị ở kho quân dụng, phi vụ ăn hối lộ đang ngày càng phát đạt.
Lần đầu tiên trong đời công chức, tôi được xếp hạng “Ưu”. Để giúp những người đút lót, tôi
phải dụng công nghiên cứu tất cả các quy định mới mẻ, phức tạp, qua đó đã trở thành một
nhân viên đắc lực, một “chuyên gia đầu ngành”.

Với vốn kiến thức chuyên sâu, tôi nghĩ ra một hệ thống con thoi cho các khách hàng. Sau
sáu tháng hiện dịch, quân nhân Trừ bị sẽ trở về đơn vị, hằng tuần phải đi họp một lần, và
tập trung hai tuần vào mùa hè, song tôi giúp họ “tàng hình”. Nhờ hệ thống pháp lý hoàn hảo
của tôi, họ không cần thực hiện nghĩa vụ. Trên thực tế, tôi có thể cung cấp cho họ gói dịch
vụ đặc biệt, giúp khách hàng chỉ phải đi lính sáu tháng, sau đó biến thành một cái tên trong
danh sách Trừ bị. Trừ trường hợp chiến tranh xảy ra, họ sẽ không bao giờ bị gọi nữa. Khỏi
phải họp hành, khỏi phải tập trung. Vì thế, họ phải trả nhiều tiền hơn. Thêm một cái lợi nữa:
bởi đã phù phép khiến họ biến mất, tôi có thêm chỗ trống đem bán.

Một buổi sáng, tôi mở tờ Daily News, thấy ngay trang nhất tấm hình thật to chụp ba thanh
niên. Hai trong số đó,

CHUONG 16

tôi mới cho nhập ngũ hôm trước. Giá hai trăm đô-la mỗi đứa. Tim tôi giật thót. Tôi hơi run
run. Có chuyện gì đây? Ắt hẳn phi vụ đã bị vạch trần? Đi đem cho lắm, đã đến ngày gặp ma.
Rồi tôi cố đọc tiêu đề. Hóa ra anh chàng ở giữa là con của vị chính khách lớn số một tiểu
bang New York. Tiêu đề ca ngợi con trai nhà chính khách có lòng ái quốc, đã xin tòng quân,
gia nhập lực lượng Trừ bị. Chỉ có thế thôi.

Tuy vậy, tấm hình trên báo vẫn làm tôi hoảng. Tôi nghĩ đến việc bị tống vào tù, khiến Vallie
và lũ trẻ phải trơ trọi một thân. Đương nhiên, tôi biết vẫn còn ông bà ngoại chăm lo cho họ,
nhưng tôi thì không có mặt, tôi sẽ mất cả gia đình. Khi tới văn phòng, tôi kể Frank nghe câu
chuyện. Y chỉ cười, và nghĩ đó là chuyện hay. Hai khách hàng đút lót cho tôi lại xuất hiện
trên trang nhất tờ Daily News. Quá tuyệt còn gì. Frank cắt tấm hình, dán lên bản tin đơn vị
của y. Việc đùa tếu ấy, chỉ riêng hai chúng tôi hiểu. Thiếu tá chỉ huy nghĩ Frank làm thế để
nâng cao sĩ khí đơn vị.

Nỗi sợ hão đã phần nào đánh động tôi, bởi cũng như Frank, tôi bắt đầu tin thủ đoạn làm tiền
của mình có thể kéo dài mãi mãi. Nó có thể kéo dài thật, nếu vụ khủng hoảng Berlin' không
bùng nổ, buộc tổng thống Kennedy phải ra quyết định huy động hàng trăm ngàn quân nhân
Trừ bị. Một quyết định mới xúi quẩy làm sao.

1. Thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Đức bị chia làm hai nước là Tây Đức và Đông Đức. Thành phố
Berlin cũng bị chia làm Tay Berlin và Đông Berlin. Năm 1961, lãnh tụ Liên Xô ra tối hậu thư,
đòi quân đội phương Tây phải rút khỏi Tây Berlin.

2. John F. Kennedy (1917–1963): tổng thống đời thứ ba mươi làm của Hoa Kỳ.

235
236

DẠI THÌ CHẾT

Kho quân dụng loạn cả lên, khi theo tin tức lan truyền, các đơn vị Trừ bị ở chỗ chúng tôi sẽ
bị gọi vào quân ngũ, phục vụ một năm. Những kẻ đã trốn quân dịch, đã bày trò đút lót để gia
nhập chương trình sáu tháng, nay tức phát khùng. Họ điền tiết cả lên. Điều đau đớn nhất ở
đây là họ, đường đường những thanh niên thông thái nhất đất nước, những luật sư đang
chớm nở tài năng, những nhà điều hành Phố Wall thành đạt, những thiên tài trong ngành
quảng cáo, vậy mà lại bị đánh lừa bởi quân đội Hoa Kỳ, cái lũ ngu si nhất trần đời. Cái
chương trình sáu tháng đã bịp họ, phỉnh họ, bán đứng họ. Họ đã không để ý đến cái khả
năng nhỏ nhoi rằng mình có thể bị huy động quay lại quân đội. Thị dân khôn lỏi như họ mà
lại thua trí tụi nhà quê. Bản thân tôi cũng không vui, dù tôi vẫn tự chúc mừng mình đã không
ham cái lợi dễ dàng trước mắt mà đăng ký làm lính Trừ bị. Trò mánh của tôi tan thành mây
khói. Thu nhập miễn thuế mỗi tháng một ngàn từ nay còn đâu. Lại đúng lúc tôi sắp dọn vào
nhà mới ở Long Island mới khổ. Tuy nhiên, tôi không thể dự liệu vấn đề này sẽ dẫn tới cái
tai họa mà bản thân vẫn thấy trước từ lâu. Tôi quá bận rộn xử lý mớ giấy tờ bề bộn, hầu
đưa các đơn vị do mình phụ trách chính thức đi làm nghĩa vụ.

Biết bao nhiêu lệnh huấn luyện đang cần phát, rồi biết bao thứ đồ tiếp liệu và quân phục cần
trưng dụng. Đó là chưa kể cuộc giẫm đạp hỗn loạn để khỏi phải đi lính một năm. Ai nấy đều
biết quân đội có quy định đặc biệt dành cho những trường hợp khó khăn. Mấy cậu đã ở
trong lực lượng Trừ bị ba hoặc bốn năm, phục vụ gần xong thời hạn, là những người bàng
hoàng nhất. Suốt mấy năm đấy, sự nghiệp họ đã thăng hoa, họ đã lấy vợ, có con. Họ tưởng
mình đã

CHUONG 16

qua mặt được tụi chóp bu quân đội Hoa Kỳ. Rốt cuộc tất cả trở thành ảo ảnh.

Nhưng nên nhớ, họ cũng là những thanh niên khôn nhất Hoa Kỳ, những ông trùm công
nghiệp giải trí, những vị thẩm phán, những doanh nhân đại gia trong tương lai. Dễ gì họ chịu
nằm yên. Có một anh chàng, người ngồi chung ghế với cha mình trong sở giao dịch chứng
khoán Phố Wall, nghĩ cách đưa vợ vào bệnh viện tâm thần, sau đó làm đơn xin miễn nghĩa
vụ, viện dẫn lý do gia cảnh là vợ bị suy nhược thần kinh. Tôi chuyển lên trên tất cả hồ sơ do
anh ta nộp, bao gồm giấy tờ xác nhận chính thức của bệnh viện và bác sĩ. Vô ích.
Washington tiếp nhận hàng ngàn hồ sơ như vậy, nên dù gia cảnh khó khăn cũng đừng hòng
thoát thân. Anh chàng đáng thương nhận được bức thư trả lời rằng cứ phải đi lính cái đã,
rồi Hội Chữ thập đỏ sẽ xác minh gia cảnh. Hội Chữ thập đỏ hẳn phải làm việc tốt lắm, bởi
một tháng sau, khi đơn vị chàng ta được thuyên chuyển tới Fort Lee, cô vợ suy nhược thần
kinh Virginia bỗng xuất hiện ở văn phòng tôi, hỏi xin những giấy tờ cần thiết để vào trại thăm
chồng. Trông cô vui vẻ, rõ ràng là khỏe mạnh. Chắc vì khỏe quá, cô không thể giả ốm, tiếp
tục ở lại bệnh viện. Cũng có thể bác sĩ bệnh viện thấy cái trò này quá lộ liễu, không muốn
kéo dài thêm.

Ông Hiller gọi cho tôi, bàn chuyện cậu Jeremy con ông. Tôi bảo chịu, tôi cũng hết cách. Ông
cứ cố nài, rốt cuộc tôi nói đùa nếu con ông đồng tính, có thể quân đội sẽ không nhận, không
phải đi lính. Bên kia đầu dây im lặng hồi lâu, rồi ông Hiller cám ơn tôi và cúp máy. Hẳn rồi,
hai ngày kế đó, Jeremy Hiller liền tới văn phòng, nộp đủ loại đơn từ xin xuất ngũ,

237

DẠI THÌ CHẾT

với lý do đồng tính luyến ái. Tôi cảnh báo Jeremy rằng thông tin đồng tính luyến ái sẽ mãi
mãi nằm trong lý lịch cậu ta, mai sau có hối thì cũng đã muộn. Cậu ta ngần ngại ra mặt,
song cuối cùng vẫn nói, “Bố em bảo thế còn hơn bị giết ngoài chiến trường”

Tôi gửi đơn đi. Đơn bị Tổng hành dinh Đệ nhất quân ở đảo Governors gửi trả. Binh nhất
Hiller vẫn bị triệu tập, và sẽ có một ủy ban thuộc quân đội Chính quy thẩm định trường hợp
cậu ta. Lại thêm một đứa “lên thớt”.

Tôi thấy ngạc nhiên vì Eli Hemsi không gọi điện. Paul Hemsi, con trai nhà đại gia may mặc,
thậm chí không thò mặt đến kho quân dụng, kể từ ngày thông báo tái ngũ được gửi đi.
Nhưng bức màn bí ẩn tan biến, khi thông qua đường bưu điện, tôi nhận được một số giấy
tờ gửi từ một vị bác sĩ nổi tiếng, từng viết nhiều sách về tâm thần học. Bác sĩ xác nhận trong
ba tháng vừa qua, Paul Hemsi mắc chứng thần kinh, phải chữa trị bằng liệu pháp sốc điện;
với tình trạng sức khỏe hiện tại của Paul, việc tái ngũ sẽ là một thảm họa. Kiểm tra lại
những quy định có liên quan, tôi nhận ra ông Hemsi đã đi đúng hướng để thoát khỏi quân
đội. Hẳn những người ở cấp cao hơn tôi đã cho ông ta lời khuyên. Tôi gửi hồ sơ đến đảo
Governors, quả nhiên hồ sơ được trả về, kèm theo quân lệnh đặc biệt, cho phép Paul
Hemsi xuất ngũ, rời lực lượng Lục quân Trừ bị. Chẳng biết phi vụ này đã ngốn của ông
Hemsi bao nhiêu tiền.

Những ai muốn nại lý do gia cảnh, nộp đơn xuất ngũ, tôi đều cố giúp. Tôi bảo đảm tất cả
giấy tờ đều được nộp lên tổng hành dinh ở đảo Governors, và toi còn gọi điện, hỏi thăm tình
hình xét duyệt. Nói cách khác, tôi phục vụ hết mức

238

CHƯƠNG 16

có thể, đối với mọi khách hàng. Nhưng Frank Alcore thì ngược lại.

Frank cũng bị gọi tái ngũ. Y chấp nhận đi, bởi đó là vấn đề danh dự với y. Y khong viện cớ
khó khăn, dẫu y có vợ, có con, có cha mẹ già, tức là “gia cảnh” thật. Y không thông cảm gì
cho những người tìm cách trốn việc đi lính một năm trong đơn vị. Với tư cách thượng sĩ tiểu
đoàn kiêm nhân viên công vụ, trưởng bộ phận hành chính, y trì hoãn mọi hồ sơ gia cảnh. Y
làm khó dễ mọi người tới mức tối đa. Lính đơn vị y, không ai thoát quân dịch, kể cả những
người có lý do chính đáng. Khối kẻ bị y dìm hồ sơ, trước kia từng đút lót y bộn tiền để gia
nhập chương trình sáu tháng. Thời điểm Frank và đơn vị rời kho quân dụng, chuyển đến
Fort Lee, thiên hạ đã cay cú y lắm.

Mọi người vẫn đùa tôi, bảo tôi chắc biết thông tin gì đó, nên không gia nhập Lục quân Trừ
bị, không bị dính chấu. Nhưng bên cạnh những lời đùa, tôi được họ kính trọng, bởi tôi là
người duy nhất trong kho quân dụng biết cách cư an tư nguy, không bị mờ mắt trước số tiền
dễ kiếm. Tôi cũng có phần tự hào về mình. Từ nhiều năm trước, tôi đã tính hết cả. Món lợi
vật chất tuy có đấy, song đau đủ để bù vào cái nguy cơ nho nhỏ luôn luôn hiển hiện. Dù khả
năng bị gọi nhập ngũ trở lại chỉ là một ngàn ăn một, tôi vẫn cương quyết kháng cự cám dỗ.
Hoặc là tôi có tài biết trước tương lai thật. Điều oái oăm là trong số các cựu binh Thế chiến
II, rất nhiều người dính bẫy. Họ không tin nổi chuyện ấy. Họ đã đi lính, đã chiến đấu ba, bốn
năm, vậy mà bây giờ lại phải mặc quân phục xanh. Nói cho cùng thì thời Thế chiến, hầu hết
bọn họ có bao giờ ra đến mặt trận, đối diện hiểm nguy, song họ vẫn

239

DẠI THÌ CHẾT

bức xúc. Bất công quá. Chỉ riêng Frank Alcore có vẻ chẳng để tâm. “Tớ đã được ăn thịt béo,
bây giờ phải trả giá thôi” y nói và cười với tôi. “Merlyn, tớ vẫn nghĩ cậu cù lần, giờ mới thấy
cậu khôn ra phết.” alut you how bl

Vào cuối tháng, khi các đơn vị chuẩn bị rời đi, tôi mua quà tặng Frank. Đó là một chiếc đồng
hồ đeo tay với đủ phụ kiện linh tinh, vừa chỉ giờ vừa chỉ hướng la bàn, đảm bảo chống mọi
va đập. Đồng hồ tốn đến hai trăm, nhưng tôi mến Frank thật tình. Tôi đoán mình cảm thấy
hơi tội lỗi vì y phải đi, trong khi mình ở lại. Cảm động trước món quà, y quàng một tay ôm tôi
thân tình. “Hễ gặp vận đen, cứ đem đi cầm, tôi dặn. Cả hai cùng cười.

Trong vòng hai tháng tiếp theo, kho quân dụng trở nên yên tĩnh, trống vắng lạ thường. Một
nửa số đơn vị đã phải đi nghĩa vụ. Chương trình sáu tháng từ nay đi tong, chẳng hấp dẫn
được ai nữa. Do không còn ai móc nối, tôi đây cũng hết việc làm. Nhân thể ngồi không, tôi
mang tiểu thuyết vào văn phòng để viết. Ông thiếu tá dạo này cứ ở ngoài suốt. Viên sĩ quan
Chính quy cũng vậy. Do Frank đã đi nghĩa vụ, nên hầu hết thời gian, chỉ có mình tôi trong
văn phòng. Cho đến một hôm, một thanh niên bỗng bước vào, ngồi xuống chỗ bàn tôi. Tôi
hỏi liệu tôi có giúp được gì cho cậu chăng. Cậu hỏi lại tôi có nhớ cậu không. Quả thật tôi
thấy cậu hơi quen. Cậu xưng danh, Murray Nadelson, và nói, “Anh từng làm ơn cho em. Em
là người có vợ bị ung thư ấy mà.”

Thoi tôi nhớ rồi. Câu chuyện xảy ra gần hai năm trước. Một khách hàng vui vẻ đã sắp xếp
cho tôi gặp Murray Nadelson. Ba người chúng tôi dùng bữa trưa cùng nhau. Tay khách
hàng nói trên tên là Buddy Stove, một người da trắng thượng lưu

240

241

CHUONG 16

theo đạo Tin Lành, kiêm nhà môi giới chứng khoán Phố Wall lợi hại. Một chuyên gia bán
hàng dẻo miệng thượng thừa. Theo lời kể của Stove, vợ Murray Nadelson mắc chứng ung
thư, chữa trị rất tốn kém, nên Nadelson không đủ tiền đút lót để xin vào Lục quân Trừ bị.
Đứng trước viễn cảnh phải đi lính hai năm, đóng quân ở nước ngoài, cậu sợ chết khiếp. Tôi
hỏi nếu vợ bị bệnh, tại sao không nộp đơn xin miễn quân dịch vì gia cảnh khó khăn. Cậu nói
đã nộp, nhưng đơn bị bác.

Tuy lời giải thích có phần lấn cấn, tôi vẫn cho qua. Buddy Stove bảo một trong những thuận
lợi lớn nhất của chương trình nghĩa vụ sáu tháng là Murray Nadelson sẽ được thực hiện
nghĩa vụ ngay tại Hoa Kỳ, dù cậu có thuyên chuyển đến trại huấn luyện nào, vợ cậu cũng có
thể đi theo, và ở gần trại. Sau sáu tháng, cậu muốn được chuyển về nhóm kiểm soát, để
khỏi đi họp hằng tuần. Cậu cần dành thời gian cho vợ càng nhiều càng tốt.

Tôi gật đầu. Được, chuyện ấy tôi làm tất xong. Đến lúc này, Buddy Stove mới ném đường
bóng lắt léo. Anh ta muốn mọi chuyện miễn phí. Khỏi lấy tiền. Anh bạn Murray chẳng có xu
nào cả.

Trong lúc đó, Nadelson không nhìn vào mắt tôi, đầu cứ cúi gằm. Tôi nghĩ chắc chúng lừa
mình đây. Nhưng tôi lại không tưởng tượng được có ai lại trù ẻo vợ, bảo vợ bị ung thư, chỉ
để khỏi phải trả tiền. Thế rồi trong đầu tôi hiện lên một viễn cảnh. Nếu như mai mốt đường
dây bị lộ, các báo đồng loạt đăng tin tôi đã vòi tiền một người có vợ bị bệnh ung thư rồi mới
giúp cậu ta, liệu sự thể sẽ sao? Ngay trong con mắt chính tôi, tôi cũng trở thành một tên

DẠI THÌ CHẾT

bất lương bậc nhất trên đời. Vậy là tôi nói được thôi, tôi sẽ giúp, đồng thời cầu chúc vợ
Nadelson khỏi bệnh. Bữa trưa kết thúc ở đó.

Kể ra tôi hơi bực mình. Chủ trương của tôi là hễ gặp người nào than không có tiền đút lót,
tôi sẽ giúp đưa người ấy vào chương trình sáu tháng. Chuyện này đã xảy ra nhiều lần. Xem
như thay vì lấy tiền, thì tôi làm việc thiện vậy thôi. Nhưng việc chuyển về nhóm kiểm soát,
trốn nghĩa vụ Trừ bị năm năm rưỡi, là một dịch vụ đặc biệt, giá cả rất cao. Đây là lần đầu
tiên có người nhờ tôi làm miễn phí. Chính Buddy Stove, ngoài hai trăm tiền mua một chỗ
trong chương trình, đã phải trả thêm năm trăm để lấy đặc ân.

Dù sao đi nữa, tôi cũng đã thực hiện mọi việc cần thiết một cách hiệu quả, trơn tru. Murray
Nadelson phục vụ sáu tháng, sau đó biến vào nhóm kiểm soát, trở nên một cái tên trong
bảng phân công. Vậy mà cậu ta còn đến tìm tôi làm quái gì đây? Tôi bắt tay cậu và chờ đợi.

“Buddy Stove gọi điện cho em,” Nadelson nói. “Người ta kéo nó từ nhóm kiểm soát ra. Họ
cần chuyên môn MOS của nó cho một đơn vị đang đi hiện dịch.”

“Rủi cho Buddy quá,” tôi đáp. Giọng tôi không mấy cảm thông. Tôi không muốn tạo nơi
Nadelson cái ảo tưởng rằng tôi sẽ ra tay giúp đỡ.

Song cậu ta nhìn thẳng vào mắt tôi, như thể đang thu hết can đảm để nói một điều khó nói.
Thấy vậy, tôi ngồi dựa lưng xuống ghế, cho ghế ngả về phía sau và nói, “Tôi không thể giúp
gì Buddy đâu.”

“Nó hiểu mà,” Nadelson quả quyết lắc đầu.

242
CHUONG 16

Cậu ngừng một lát rồi tiếp. “Anh biết đấy, em chưa bao giờ cám ơn anh đàng hoàng vì
những gì anh đã làm cho em. Anh là người duy nhất giúp đỡ em. Nay em muốn nói một lần
cho xong. Em không bao giờ quên điều đó. Chính vì thế, hôm nay em tới đây. Có lẽ em sẽ
giúp được anh.

Đến lượt tôi bối rối. Tôi không muốn tới giờ phút này, cậu ta lại đưa tôi tiền. Chuyện đã xong
rồi thì thôi. Trong bảng hành trạng đời mình, tôi muốn có những việc chỉ đơn thuần là việc
thiện.

“Thôi cậu ạ,” tôi nói. Tôi vẫn thận trọng, không hỏi vợ cậu dạo này ra sao. Câu chuyện vợ
Nadelson, tôi chưa bao giờ tin cả. Tôi cảm thấy không thoải mái khi cậu biết ơn đến thế vì
tôi đã cảm thông, trong khi tất cả chỉ là giao tế xã giao.

“Buddy bảo em tới tìm anh,” Nadelson nói. “Nó muốn cảnh báo anh rằng tụi FBI đang quần
thảo khắp Fort Lee, thẩm vấn binh sĩ trong các đơn vị của anh. Anh biết đó, về chuyện đút
lót để đi lính. Họ hỏi về anh và Frank Alcore. Alcore bạn anh có vẻ đang gặp rắc rối to.
Khoảng hai mươi người đã đứng ra làm chứng, cho biết đã từng hối lộ lão. Buddy nói trong
vài tháng nữa, đại bồi thẩm đoàn sẽ nhóm họp tại New York để nghe luận tội Alcore. Về anh
thì nó không biết. Nó chỉ nhờ em dặn anh phải cẩn thận lời nói, việc làm. Nếu như anh cần
luật sư, nó sẽ tìm cho

Trong một thoáng, tôi không thấy cả người trước mặt. Thế giới quanh tôi tối sầm, theo đúng
nghĩa đen. Tôi nôn nao, choáng váng đến độ muốn mửa. Chiếc ghế tôi ngồi như lao về phía
trước. Đầu óc tôi quay cuồng những cảnh tượng ô nhục, nào là tôi bị bắt; Vallie kinh hoàng;
nhạc phụ tôi giận dữ; anh Artie thất vọng, xấu hổ vì tôi. Công cuộc báo thù

243

DẠI THÌ CHẾT

xã hội của tôi chẳng còn là trò đùa vui vẻ nữa rồi. Nhưng Nadelson vẫn đứng đợi tôi lên
tiếng.

“Trời đất ơi,” tôi nói. “Làm sao họ biết? Từ ngày có lệnh huy động, có ai chung chi nữa đau.
Điều gì khiến họ ra tay lúc này?”

Nadelson dường như cảm thấy có lỗi thay cho những kẻ đút lót như cậu. “Vì bị gọi tái ngũ,”
cậu trả lời, “một số đứa tức giận, viết thư nặc danh lên FBI, tố cáo chuyện hối lộ tiền để
được vào chương trình sáu tháng. Chúng nó đổ tội, muốn gây rắc rối cho lão Alcore. Hồi
chúng tìm cách trốn lệnh, lão Alcore chống đối, nên có mấy đứa cáu lắm. Đến khi tập trung
ở trại, lão là thượng sĩ huấn luyện, tỏ ra rất hùng hổ, chúng lại càng không ưa. Chúng nó
muốn chơi lão, và rốt cuộc đã làm thật.”

Tôi tính nhanh mọi việc trong đầu. Từ dạo tôi đi Vegas gặp Cully và cất giấu tiền đến nay đã
gần một năm. Trong thời gian đó, tôi tích lũy thêm được mười lăm ngàn đô-la, và tôi sắp
sửa dọn vào căn nhà mới ở Long Island tới nơi rồi. Lộ chuyện đúng vào thời điểm hiện tại,
thật tệ không còn gì tệ hơn. Nếu FBI thẩm vấn tất cả binh sĩ tại Fort Lee, ít nhất họ cũng lấy
lời khai của hơn một trăm người từng hối lộ tôi. Bao nhiêu trong số ấy sẽ thừa nhận?
“Stove có chắc rằng đại bồi thẩm đoàn sẽ nhóm họp để xử Frank?” tôi hỏi.

“Chắc là phải có,” Nadelson đáp. “Trừ phi chính quyền muốn im đi, anh biết đấy, che giấu
toàn bộ sự vụ.” VERON oén puda

“Chuyện che giấu có khả năng không?”

244

CHUONG 16

“Không” Nadelson lắc đầu. “Nhưng Buddy nghĩ anh có thể thoát. Ai từng làm ăn với anh đều
nghĩ anh là người tử tế. Anh không bao giờ vòi tiền như lão Alcore. Chẳng ai muốn anh gặp
rắc rối cả. Ở dưới trại, Buddy đang truyền tai mọi người, bảo họ đừng đả động đến anh.”

“Cám ơn cậu ấy hộ tôi.”

Nadelson đứng dậy bắt tay tôi. “Em chỉ muốn cám ơn anh lần nữa. Nếu anh cần một nhân
chứng xác nhận, hoặc muốn FBI hỏi gì ở em, em luôn sẵn sàng và sẽ làm tận sức.”

Tôi bắt tay cậu, thực sự cảm thấy biết ơn. “Tôi giúp gì được cậu không? Có khi nào họ cũng
sẽ kéo cậu khỏi nhóm kiểm soát?”

“Không đâu. Chắc anh vẫn nhớ em có một đứa con trai còn thơ. Vợ em mới mất hồi hai
tháng trước, nên em an toàn.”

Khuôn mặt Nadelson lúc nói lên câu ấy, tôi sẽ không bao giờ quên được. Nó đượm vẻ chán
ghét, tủi hổ; còn giọng nói thì đong đầy cay đắng, nghe như oán trách bản thân. Nadelson
trách chính mình vì cậu còn sống. Nhưng cậu đâu thể làm gì khác hơn, ngoài việc men theo
con đường mà cuộc sống đã sắp đặt sẵn. Sáng sáng đi làm, ngày ngày chăm sóc con thơ,
nghe lời người bạn nhờ vả mà đến đây để cảnh báo tôi, đồng thời cám ơn tôi vì điều tôi đã
làm cho cậu, cái điều năm xưa cậu cho là quan trọng, nhưng nay chẳng còn ý nghĩa gì. Tôi
bảo tôi rất tiếc khi hay tin vợ cậu qua đời. Giờ thì tôi tin thật. Tôi tin cậu trung thực. Tôi thấy
mình thật tệ vì đã nghĩ sai về cậu. Có lẽ cậu cố tình đợi đến giây phút cuối mới nhắc đến vợ
mình, bởi mấy năm về trước, giữa lúc Buddy Stove xin xỏ hộ, còn cậu cúi gằm đầu, ắt hẳn
cậu cũng biết

245

DẠI THÌ CHẾT

tôi nghĩ cả hai nói dối. Nên nay cậu báo thù tôi, một cuộc báo thù nho nhỏ, và cậu có lý do
chính đáng hoàn toàn.
Tôi trải qua một tuần lo sợ, trước lúc thanh gươm trảm thủ chính thức bổ xuống. Hôm ấy là
thứ Hai, tôi ngạc nhiên khi mới đầu tuần, viên thiếu tá chỉ huy đã đi làm sớm (sớm đối với
ông ta). Ông ném cho tôi cái nhìn là lạ, rồi đi thẳng vào văn phòng riêng.

Đúng mười giờ, có hai người đàn ông bước vào, hỏi gặp thiếu tá. Tôi biết ngay đó là ai, bởi
họ ăn mặc gần giống y trong phim và trong truyện; cũng áo vest, cà vạt truyền thống, cũng
mũ phớt thượng lưu rất ngầu. Một người lớn tuổi hơn, độ bốn mươi lăm, với khuôn mặt
phong trần, điềm tĩnh đến phát chán. Người kia nhìn không ăn rơ lắm với đồng đội. Anh ta
trẻ hơn nhiều, thân hình cao dong dỏng, không ra dáng kẻ hay vận động. Bên dưới lớp áo
có độn lót, anh sở hữu một khung xương khẳng khiu. Mặt anh hơi non tơ, nhưng điển trai,
có vẻ rất đôn hậu. Toi đưa cả hai vào văn phòng thiếu tá. Họ ở đấy khoảng ba mươi phút rồi
bước ra, đứng trước bàn tôi. Người lớn tuổi lên tiếng hỏi, giọng trịnh trọng, “Ông là John
Merlyn?”

"Vang."

“Ta có thể vào phòng riêng nói chuyện được không? Chúng tôi đã được phép của sĩ quan
chỉ huy”

Tôi đứng lên, dẫn họ vào một trong những phòng họp buổi tối của đơn vị. Khi nào có buổi
họp, phòng này được xem như tổng hành dinh. Cả hai nhanh chóng mở ví, chìa cho tôi xem
tấm thẻ nhận diện màu xanh. Người lớn tuổi hơn giới thiệu, “Tôi là James Wallace, nhân
viên Cục Điều tra Liên bang. Kia là Tom Hannon.h

246

CHUONG 16

Hannon nở nụ cười thân thiện. “Chúng tôi muốn hỏi anh vài câu. Anh có quyền tham vấn
luật sư trước khi trả lời. Trường hợp anh trả lời ngay, bất cứ điều gì anh nói cũng có thể
được dùng để chống lại anh. Anh hiểu chứ?”

“Tôi hiểu.” Tôi ngồi xuống một đầu bàn. Họ ngồi xuống theo, mỗi người một bên, kẹp tối ở
giữa.

Ông Wallace lớn tuổi hơn hỏi trước, “Anh có biết vì sao chúng tôi đến đây không?”

“Không” tôi đáp. Tôi quyết định sẽ không tự nguyện nói ra một lời nào hết, sẽ không tinh
tướng bình phẩm. Tôi sẽ không làm ra hành động gì cả. Chắc chắn họ nghĩ tôi biết lý do họ
mò tới sở, nhưng thế thì đã sao?

Đến lượt Hannon nói, “Trên cơ sở hiểu biết cá nhân, liệu anh có thể cung cấp thông tin cho
chúng tôi hay không, về việc Frank Alcore nhận hối lộ từ lính Trừ bị, vì bất cứ lý do nào?”

“Không” Khuôn mặt tôi không biểu lộ cảm xúc. Như đã nói, tôi sẽ không diễn trò, không
ngạc nhiên, không cười, tóm lại là không làm bất kỳ điều gì để họ nhân cơ hội tấn công hay
hỏi tiếp. Cứ để họ nghĩ tôi đang bao che cho bạn. Bao che là chuyện bình thường, ngay cả
khi tôi không có tội.
Hannon lại hỏi, “Anh có bao giờ nhận tiền từ lính Trừ bị, vì bất cứ lý do gì?”

“Không”

Wallace cố tình nói thật chậm rãi. “Anh thừa biết mà. Trong số thanh niên ở độ tuổi quân
dịch, các anh chỉ ghi danh những người nào chịu trả tiền. Anh biết rằng anh và Frank Alcore
đã phù phép danh sách Trừ bị. Nếu anh phủ nhận

247

DẠI THÌ CHẾT

điều ấy, tức là anh đang nói dối nhân viên liên bang, đang phạm tội hình sự. Bây giờ tôi hỏi
anh lần nữa, anh có bao giờ nhận tiền hay các hình thức hối lộ khác để ghi danh người này
thay vì người nọ hay không?”

“Không”

Hannon chợt cười to. “Gã Frank Alcore, chiến hữu của anh, đã bị chúng tôi nắm thóp.
Chúng tôi sở hữu bằng chứng các anh thông đồng với nhau. Cùng hội ăn hối lộ với các anh,
có thể còn có những nhân viên công vụ khác, thậm chí cả sĩ quan trong tòa nhà này. Sẽ tốt
hơn nhiều cho anh, nếu anh chịu hợp tác, khai ra tất cả mọi điều anh biết.”

Hannon chẳng hỏi gì tôi, nên tôi chỉ nhìn anh ta, im lặng không nói.

Bỗng nhiên Wallace lên tiếng, với giọng đều đều, điềm tĩnh, “Chúng tôi biết trong đường
dây, anh chính là kẻ đầu têu” Lần đầu tiên từ khi nói chuyện, tôi tự phá vỡ quy tắc. Tôi phá
lên cười, một tràng cười rất tự nhiên, không khiến hai người kia phật lòng. Thật ra tôi thấy
Hannon cũng hơi cười theo.

Sở dĩ tôi cười là do hai chữ “đầu têu”. Giờ tôi mới thấy toàn bộ vụ này chỉ như một kịch bản
phim hạng B. Tôi cười, cũng vì tôi đã trông đợi Hannon, cái anh chàng mặt mũi non tơ, nói
ra câu ấy. Tôi cứ tưởng Wallace nguy hiểm thế nào, có thể là vì ông ta luôn tỏ ra là người
cầm trịch.

Giờ thì tôi biết chắc họ đã điều tra nhầm hướng, nên tôi mới cười. Họ đang tìm kiếm một âm
mưu phức tạp, một đường dây có “tổ chức”, với một người “chủ mưu”. Nếu không như thế
thì đau cần các cao thủ FBI phải mất thời gian ra tay. Họ không ngờ đường dây chỉ bao gồm
mấy thằng công chức

248

249

CHUONG 16
hạng bét, giở trò điểm để kiếm tí tiền còm. Họ đã quên, họ không hiểu thành phố này là New
York, nơi trong cuộc sống hằng ngày, chẳng ai lại không phá luật, dưới hình thức nọ hay
hình thức kia. Họ không thể hình dung ra chuyện mọi người đều có gan, dám làm điều bất
chính mà không cần vây cánh. Nhưng nhằm bảo đảm họ không bực vì tôi đã cười, tôi nhìn
thẳng mắt Wallace, nói bằng một giọng hối lỗi, “Tôi cũng ước gì mình được làm đầu têu một
phi vụ nào đó, thay vì chỉ là anh thư ký quèn.”

Wallace nhìn tôi chăm chú, đoạn nói với Hannon, “Cậu muốn hỏi gì nữa không?” Hannon
lắc đầu. Wallace bèn đứng dậy. “Cám ơn đã trả lời những câu hỏi của chúng tôi.” Cùng lúc
ấy Hannon cũng đứng lên, và tôi làm theo, cả ba đứng sát bên nhau. Không nghĩ ngợi gì, tôi
bất giác đưa tay ra. Wallace bắt tay tôi, rồi tới Hannon. Chúng tôi bước khỏi phòng, cùng đi
dọc hành lang, đến văn phòng tôi. Hai người họ gật đầu chào tôi, tiếp tục đi đến chỗ cầu
thang dẫn xuống dưới lầu, ra khỏi kho quân dụng, còn tôi trở vào văn phòng.

Tôi hoàn toàn bình tĩnh, không hề căng thẳng, dù chỉ tí ti. Tôi ngạc nhiên vì hành động mình
chìa tay ra bắt. Có lẽ chính hành động đó đã đánh tan căng thẳng trong tôi, nhưng vì sao tôi
lại làm vậy? Chắc rằng tôi thấy biết ơn, bởi hai nhân viên FBI đã không cố hạ nhục, đe nẹt
tôi, mà luôn duy trì giới hạn lịch sự khi thẩm vấn. Tôi cũng thấy mình có phần được họ
thương hại. Có tội thì rõ ràng tôi có tội, song chỉ nhỏ thôi. Tôi chẳng qua là thằng nhân viên
nghèo hèn, xoay xở kiếm thêm vài đồng. Dĩ nhiên, nếu có thể, họ sẽ tống tôi vào tù, nhưng
họ chẳng chú tâm lắm.

DẠI THÌ CHẾT

Hoặc họ cho tôi là phường cắc ké, không đáng nhúng tay. Hoặc cái tội tôi phạm khiến họ
không nhịn được cười. Người ta hối lộ để vào quân đội. Thế rồi bản thân tôi cũng cười. Bốn
mươi lăm ngàn có phải vài đồng đau. Tôi đã để lòng tự thán đẩy đi xa quá.

Tôi vừa quay lại văn phòng, viên thiếu tá đã xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng trong, ra hiệu
gọi tôi vào. Thiếu tá mặc quân phục, đeo đầy đủ huân chương. Trên ngực ông có ít nhất hai
mươi huân chương, thu thập trong những năm trận mạc của Thế chiến II và chiến tranh
Triều Tiên.

“Cậu ứng biến ra sao?” Ông hỏi, miệng tủm tỉm cười. “Chắc cũng tàm tạm ạ.” Toi nhún vai.

Thiếu tá lắc đầu, vẻ mặt sửng sốt. “Họ bảo tôi việc ấy đã kéo dài hàng năm trời. Các cậu
làm thế quỷ nào hay thế?” Ông lại lắc đầu lần nữa, lần này là ngưỡng mộ.

“Chuyện tào lao thôi ạ,” tôi nói. “Em chưa bao giờ thấy Frank nhận xu nào của ai. Chỉ là có
một số đứa bất mãn vì bị gọi tái ngũ.”

“Ừ. Nhưng ở Fort Lee, người ta đang ra lệnh cho cả trăm đứa bay lên New York để làm
chứng trước đại bồi thẩm đoàn. Cái đấy thì không tào lao.” Thiếu tá cứ cười cười, đứng
nhìn tôi một chặp. “Hồi đánh nhau với Đức, cậu thuộc đơn vị nào?”

“Sư đoàn Bốn Thiết giáp ạ.”


“Theo hồ sơ thì cậu có huân chương Sao Đồng. Chưa cao quý lắm, nhưng cũng là thành
tích.” Trên ngực thiếu tá có huân chương Sao Bạc và Tử Tam. indo gener

250

251

CHUONG 16

“Vang, chẳng có gì đâu. Em giúp sơ tán dân Pháp dưới làn

đạn pháo. Em không nghĩ mình từng giết một tên Đức nào.” “Chưa thấm vào đâu,” thiếu tá
gật đầu đồng ý. “Song vẫn hơn mấy thằng nhóc kia. Nếu tôi giúp được điều gì, hãy cho tôi
biết nhé. Được chứ?”

“Cám ơn thiếu tá”

Khi tôi đứng dậy để ra ngoài, thiếu tá thốt lên giận dữ, gần như tự nói với chính mình, “Hai
thằng khốn kiếp dám truy cả tôi. Tôi bảo chúng cút con mẹ nó đi. Chúng nghĩ tôi cũng dính
líu vụ đó.” Ông lắc lắc đầu. “Thôi được rồi, cậu liệu mà cẩn thận.”

Làm thân tội phạm nghiệp dư thật chẳng sướng tí nào. Tôi bắt đầu hành xử hệt như những
tên giết người trong phim, suốt ngày bị mặc cảm tội lỗi hành hạ. Mỗi lần tiếng chuông cửa
căn hộ reo lên nhằm giờ giấc bất thường, tim tôi lại đập thình thịch. Tôi tưởng cảnh sát hoặc
FBI đã đến. Dĩ nhiên, đó chỉ là người láng giềng, hoặc bạn của Vallie, ghé sang nhà tôi tán
gẫu hoặc hỏi mượn thứ gì đấy. Tại sở làm, nhân viên FBI cứ đều đặn một tuần ghé vài lần,
mỗi lần thường dắt theo một chàng trai trẻ, rõ ràng để nhận diện tôi. Tôi đoán mấy đứa này
đều là lính Trừ bị, từng chung chi để vào chương trình sáu tháng. Có lần Hannon tới nói
chuyện, tôi xuống quán nhỏ dưới lầu, mua cà phê và bánh mì sandwich lên mời anh ta và
thiếu tá. Ba người chúng tôi ngồi quanh, đàm đạo cùng nhau. Hannon nói với tôi, bằng cái
giọng tử tế nhất có thể hình dung, “Anh thật dễ thương, Merlyn ạ. Tôi chẳng muốn tống anh
vào tù đầu.

DẠI THÌ CHẾT

Nhưng chắc anh cũng biết, tôi đã tống nhiều người dễ thương vào tù rồi. Tôi luôn luôn nghĩ
đó là điều đáng tiếc. Giá mà họ chịu giúp bản thân một chút.”

Thiếu tá ngả người ra sau ghế, quan sát xem tôi phản ứng thế nào. Tôi chỉ nhún vai, tiếp tục
ăn bánh mì. Chủ trương của tôi là mặc anh ta nói, chẳng việc gì phải trả lời. Hễ trả lời, thể
nào câu chuyện cũng bắt sang vụ ăn hối lộ. Cử bàn luận chung chung thì tôi có thể lỡ miệng
nói ra gì đó tiếp tay cho bọn họ điều tra. Thế nên im miệng là hơn. Tôi hỏi thiếu tá sắp tới
đây, liệu tôi có thể nghỉ hai ngày, để đi mua sắm Giáng sinh với vợ được không. Công việc
dạo này không nhiều. Vả lại trong văn phòng đã có một nhân viên mới, thay thế cho Frank
Alcore, đủ sức “trông tiệm” khi tôi vắng mặt. Thiếu tá bảo được thôi. Về phần Hannon, anh
ta dại quá. Có dại mới nói cái câu “đã tống nhiều người dễ thương vào từ”. Chẳng cần biết
người ta dễ thương hay dễ ghét, nhưng anh còn trẻ măng, làm gì đã tống được ai. Anh là
tân binh, một tân binh tốt, song tôi không cho rằng anh sẽ tóm nổi tôi. Ví thử có nổi, thì tôi sẽ
là người đầu tiên anh tóm.

Sau một hồi chuyện gẫu, Hannon ra về. Thiếu tá nhìn tôi, với vẻ nể nang hơn trước. “Ngay
cả nếu bọn họ không làm gì được cậu,” ông nói, “tôi cũng khuyên cậu nên tìm việc mới”

Với Vallie, Giáng sinh luôn là một sự kiện trọng đại. Nàng thích đi mua sắm, lựa chọn quà
cáp cho cha mẹ nàng, cho tôi và lũ trẻ, và cho các em nàng. Đặc biệt, dịp Giáng sinh này,
nàng có nhiều tiền chi tiêu hơn hẳn mọi năm. Quà của hai thằng cu con là hai cái xe đạp,
đang giấu trong tủ.

252

253

CHƯƠNG 16

Quà của cha nàng là chiếc áo len to, cài nút, nhập từ Ireland; còn quà của mẹ nàng là chiếc
khăn choàng đăng ten, cũng từ Ireland và đắt không kém. Tôi không biết nàng mua gì cho
tôi. Năm nào nàng cũng giữ bí mật, và bắt tôi giữ bí mật món quà của tôi cho nàng. Với tôi
thì chẳng có gì phải đắn đo, tôi đã mua bằng tiền mặt một chiếc nhẫn kim cương nhỏ. Đây
là món nữ trang thực thụ đầu tiên tôi tặng vợ, bởi ngày xưa tôi không sắm nhẫn đính hôn.
Cái thời xa xưa ấy, hai vợ chồng tôi không ai màng mấy thứ đồ chơi tư sản. Sau mười năm,
Vallie đã đổi thay, vậy mà tôi chẳng chút để tâm. Nhưng nay đã có nhẫn rồi, ắt hẳn nàng sẽ
rất vui.

Đêm trước ngày Giáng sinh, trong khi lũ trẻ giúp mẹ trang cây thông, tôi ngồi dưới bếp làm
việc. Vallie vẫn chưa biết những chuyện rắc rối tôi gặp ở sở. Tôi viết vài trang tiểu thuyết, rồi
ra chiêm ngưỡng cái cây. Từ trên xuống dưới, cây thông Noel lấp lánh ánh bạc, điểm xuyết
những chiếc chuông vàng, xanh và đỏ, quấn thêm dây kim tuyến lung linh. Trên chóp cây
gắn một ngôi sao rực rỡ. Vallie ghét đèn điện nhấp nháy, nên không bao giờ dùng nó để
trang trí.

Lũ trẻ háo hức quá, mãi mới chịu vào phòng đi ngủ. Vào phòng rồi, nhưng thỉnh thoảng
chúng lại lén ra. Tôi và Vallie không rầy la, vì ai lại là con trong đêm thánh. Cuối cùng mấy
đứa cũng mệt và ngủ thiếp đi. Tôi bước vào kiểm tra lần cuối. Đứa nào đứa nấy đều đã tắm
rửa sạch sẽ, tóc chải dàng hoàng, mặc bộ đồ ngủ mới để đợi ông già Noel. Trong chúng
đẹp quá chừng, đến nỗi tôi không dám tin đấy là con mình, và thuộc về mình. Giữa lúc ấy,
tôi thấy yêu Vallie hết sức. Tôi thấy bản thân thực sự may mắn.

DẠI THÌ CHẾT

Khi tôi trở ra phòng khách, Vallie đang xếp quà Noel ben dưới cây thông. Những món quà
được gói trong giấy sặc sỡ, dán thông điệp Giáng sinh rạng ngời. Sao mà nhiều món thế
này. Tôi đi tìm hộp quà mua tặng nàng, cũng để vào dưới cây.

“Anh chẳng mua được gì nhiều,” giọng tôi vờ vĩnh. “Chỉ có chút quà nho nhỏ cho em.” Bên
trong nó là chiếc nhẫn kim cương thật, tôi biết nàng sẽ không bao giờ ngờ tới.
Vallie cười và trao tôi một nụ hôn. Nàng không bao giờ quan tâm mình có những quà gì.
Nàng chỉ thích mua quà cho người khác, nhất là cho con, rồi tới tôi và gia đình nàng, tức
cha mẹ và các em. Lũ trẻ được tới bốn hay năm món quà. Món khiến tôi buồn nhất là chiếc
xe đạp hai bánh cực xịn dành cho cậu con trai cả. Buồn, bởi tôi phải ra tay lắp ráp, mà lắp
thế nào tôi có biết đâu.

Vallie làm vài lát bánh sandwich và khui chai rượu. Tôi mở chiếc thùng các-tông lớn chứa
các bộ phận xe, đem trải hết ra trên sàn phòng khách, cùng với ba tấm sơ đồ hướng dẫn
cách lắp. Xem qua một lượt, tôi thốt lên, “Anh chịu thôi”

“Đừng ngốc thế chứ,” Vallie nói. Nàng ngồi xếp bằng, vừa nhấm nháp rượu vừa nghiên cứu
sơ đồ một lúc, sau đó bắt tay vào việc. Tôi đành đóng vai anh thợ phụ ngõ, chạy đi lấy tuốc-
nơ-vít và cờ-lê, rồi giúp giữ các bộ phận với nhau, để vợ bắt vít. Chúng tôi hì hục đến gần
ba giờ sáng mới xong cái xe quái quỷ. Xe ráp xong thì người cũng phế, rượu cạn sạch cả
chai. Hễ vừa thức giấc, lũ trẻ sẽ ra khỏi giường ngay, nên hai vợ chồng chỉ còn khoảng bốn
tiếng để ngủ, trước khi đánh xe về nhà cha mẹ Vallie, chuẩn bị đón một ngày lễ dài, tràn
ngập niềm vui.

254

CHƯƠNG 16

“Đi ngủ thôi nào,” tôi kêu.

Vallie nằm dài xuống đất. “Em ngủ luôn đây được rồi.” Tôi nằm xuống cạnh nàng. Cả hai
chúng tôi quay mình nằm nghiêng để có thể ôm nhau thật chặt, tuy mệt mà vui và hạnh
phúc. Ngay lúc ấy, thình lình có tiếng gõ mạnh ngoài cửa. Vallie bật dậy, khuôn mặt lộ vẻ
ngạc nhiên. Nàng nhìn tôi, không hiểu chuyện gì.

Trong một sát na, tâm thức tội lỗi của tôi dựng nên cả một kịch bản. Hẳn nhiên đó là FBI. Họ
đã cố tình đợi đến đêm trước ngày Giáng sinh, khi tâm lý tôi lơi việc đề phòng. Với lệnh lục
soát, bắt giữ trên tay, họ sẽ tìm ra mười lăm ngàn đô-la đang giấu trong nhà, và sẽ áp giải
tôi vào tù. Họ sẽ hứa cho tôi tận hưởng Giáng sinh bên vợ con, nếu như tôi thú tội. Trường
hợp không chịu thủ tội, thằng tôi sẽ phải mang nhục: Vallie sẽ ghét bỏ tôi, vì tôi bị bắt vào
giữa dịp Giáng sinh. Lũ trẻ sẽ khóc, sẽ mang thương tổn mãi mãi.

Chắc nhìn tôi bệnh lắm, nên Vallie hỏi, “Anh bị sao vậy?” Tiếng gõ cửa lại vang lên ầm ĩ.
Nàng rời phòng khách, bước ra hành lang trả lời. Nghe tiếng nàng nói chuyện cùng ai đó, tôi
đứng dậy đi lấy thuốc uống. Kìa từ hành lang, nàng đã về kia, và rẽ vào bếp, cầm theo bốn
chai sữa. giữa ý ch

“Người giao sữa đấy mà, nàng nói. “Bác ấy đi giao sữa sớm để kịp về với gia đình, trước
khi lũ con thức giấc. Thấy nhà mình sáng đèn, bác gõ cửa chúc mừng Giáng sinh. Thật là
dễ thương.” Nàng đi vào bếp.

Tối cũng xuống theo, và ngồi xuống ghế một cách ỉu xìu. Vallie ngồi lên đùi tôi. “Chắc anh
nghĩ có kẻ bất lương, hay tên hàng xóm khùng điền nào mò tới chứ gì,” nàng nói.
255

DẠI THÌ CHẾT

“Anh cứ luôn nghĩ những điều xấu nhất.” Đoạn nàng âu yếm hồn tôi. “Lên giường thôi nào.”
Nàng hơn tôi thêm lần nữa, dài hơn lần trước, rồi chúng tôi cùng lên giường làm việc ái ân.
Nàng thì thầm vào tai tôi, “Em yêu anh.” “Anh cũng vậy” tôi đáp, miệng mỉm cười trong bóng
tối. Trong cả thế giới Tây phương, có lẽ tôi là thằng trộm vặt vô dụng bậc nhất.

Nhưng ba ngày sau lễ Giáng sinh, một người lạ xuất hiện tại văn phòng tôi, hỏi tôi có đúng
là John Merlyn không. Khi tôi nói đúng, gã trao cho tôi một lá thư gập đôi. Trong khi tôi mở
thư, gã bước ra ngoài. Dòng đầu thư được in đậm, theo lối tiếng Anh cổ:

TÒA ÁN CẤP QUẬN HOA KỲ

Sau đó đến dòng chữ in hoa thông thường: QUẬN NAM NEW YORK

Rồi tên và địa chỉ của tôi, cùng chữ KÍNH GỬI ở lề giấy bên kia, tất cả đều viết hoa.

Nội dung thư như vầy:

“TÒA LỆNH CHO (CÁC) ĐƯƠNG SỰ, dù bận việc hay có lý do gì cũng phải gác sang bên,
để đem thân trình diện trước ĐOÀN HỘI THẨM Nhân dân Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ.” Sau
những chi tiết về thời gian, địa điểm, thư cho biết tôi “bị cáo buộc đã vi phạm điều 18 của
Pháp điển Hoa Kỳ; nếu tôi không trình diện, tức là chống lệnh tòa, sẽ phải chịu hình phạt
của pháp luật.

Ít nhất bay giờ tôi đã biết mình phạm luật gì. Điều 18, Pháp điển Hoa Kỳ. Tôi chưa nghe về
nó bao giờ cả. Đọc lại

256

CHUONG 16

lá thư, tôi bị cuốn hút bởi câu đầu tiên. Là một nhà văn, tôi thích lối viết như vậy. Có lẽ câu
này, họ đã chôm trong luật cổ của Anh đây. Kể cũng ngộ ghê, giới làm luật một khi đã muốn
chuẩn xác, rõ ràng rành mạch, thì họ viết chuẩn và rõ ràng đến lạ, không chừa chỗ cho
người khác hiểu nhầm. Tôi đọc thêm lần nữa: “TÒA LỆNH CHO (CÁC) ĐƯƠNG SỰ, dù
bận việc hay có lý do gì cũng phải gác sang bên, để đem thân trình diện trước ĐOÀN HỘI
THẨM Nhân dân Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ.”

Hay thế chứ. Không kém văn Shakespeare'. Ngạc nhiên thay, khi chuyện phải đến cuối
cùng đã đến, tôi lại thấy có phần phấn khởi, muốn nhanh nhanh giải quyết mọi sự cho xong,
bất kể thắng thua. Cuối ngày làm việc, tôi gọi văn phòng Cully ở Las Vegas, thông báo điều
vừa xảy ra, đồng thời cho nó hay trong vòng một tuần, tôi sẽ phải trình diện đại bồi thẩm
đoàn. Cully bảo tôi cứ yên tâm, không việc gì phải lo. Ngay ngày mai, nó sẽ bay sang New
York, và dùng điện thoại tại khách sạn New York để gọi tới nhà tôi.
1. William Shakespeare (1564–1616): đại văn hào Anh.

257

You might also like