Professional Documents
Culture Documents
HANDBOOK FinalVer
HANDBOOK FinalVer
HUMANITIES
FACULTY OF ENGLISH LINGUISTICS AND
LITERATURE
INTERPRETING 3
HANDBOOK
TOPIC: HOW TO BECOME AN EFFECTIVE
INTERPRETER
Group: 01
Group members:
Các nguyên tắc ngôn ngữ của phiên dịch và biên dịch
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, chúng hiếm khi
được thực hiện bởi cùng một cá nhân. Rất ít người có thể thực
hiện thành công cả hai việc ở cấp độ chuyên môn do sự khác
biệt đáng kể về khả năng, quá trình đào tạo, năng khiếu và thậm
chí cả khả năng hiểu ngôn ngữ.
“Diễn đạt thông điệp được nói hoặc ký hiệu sang ngôn
ngữ nói hoặc ký hiệu khác, duy trì giọng điệu và ý nghĩa của
nội dung ngôn ngữ nguồn.”
1
“Quá trình đầu tiên là phải hiểu đầy đủ, phân tích và xử
lý một thông điệp được nói hoặc ký hiệu, sau đó chuyển nó sang
ngôn ngữ nói hoặc ký hiệu một cách trung thực. ”
Nói cách khác, vai trò của phiên dịch viên là dịch ý
nghĩa từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ mục tiêu trong khi vẫn
giữ được mục tiêu và thông điệp của người nói. Phiên dịch viên
lắng nghe người nói bằng một ngôn ngữ, hiểu những gì đang
được nói và sau đó sử dụng các quy tắc ngữ pháp của ngôn ngữ
mục tiêu để diễn giải những gì họ đã xác định là ý nghĩa. Nhưng
cũng giống như bạn không thể dịch hoặc diễn giải điều gì đó
trừ khi bạn là chuyên gia về chủ đề được truyền đạt, bạn không
thể hiểu đầy đủ một ý tưởng và sau đó mô tả nó cho người khác.
Cùng với khả năng nói trước công chúng vượt trội, phiên dịch
viên còn phải có khả năng tư duy để dịch nhanh các thành ngữ,
từ thông tục và các tài liệu tham khảo cụ thể về văn hóa khác
thành các câu tương đương mà khán giả sẽ hiểu.
2
Loại “Được chứng nhận”: bao gồm Thông dịch viên
tạm thời được chứng nhận, Thông dịch viên được chứng nhận,
Thông dịch viên chuyên nghiệp được chứng nhận (có sẵn cho
lĩnh vực Y tế và Pháp lý) và Thông dịch viên hội nghị được
chứng nhận. Các chứng chỉ này thường có sẵn giữa tiếng Anh
và Ngôn ngữ không phải tiếng Anh (LOTE) mà NAATI đánh
giá tất cả các năng lực quan trọng một cách trực tiếp và khách
quan. Tương ứng với mức độ chứng nhận, phiên dịch viên sẽ
làm việc trong một số lĩnh vực, tình huống và phương thức
phiên dịch điển hình nhất định.
3
Chứng chỉ hành nghề được công nhận không có giá trị
ngang bằng với chứng chỉ và cũng không quy định mức năng
lực chuyển giao cụ thể.
Sau khi có bài kiểm tra cho ngôn ngữ mà người hành
nghề có Chứng chỉ hành nghề được công nhận, thì chứng chỉ
Hành nghề được công nhận sẽ không thể được chứng nhận lại
nữa. Người hành nghề phải làm bài kiểm tra (Thông dịch viên
tạm thời được chứng nhận hoặc Phiên dịch viên được chứng
nhận) nếu họ muốn duy trì chứng chỉ hiện tại.
Thông dịch viên tạm thời được chứng nhận chuyển các
thông điệp không phức tạp, không chuyên ngành từ ngôn ngữ
nguồn sang ngôn ngữ mục tiêu và phản ánh chính xác ý nghĩa.
Phiên dịch viên được chứng nhận có thể làm việc với
nội dung phức tạp nhưng không chuyên ngành trong hầu hết
các tình huống.
4
CSLI là những người sử dụng ngôn ngữ có năng lực
cao, hiểu các thuật ngữ chuyên ngành và có kiến thức sâu rộng
về lĩnh vực pháp lý. CSLI có hiểu biết sâu sắc về vai trò của họ
trong môi trường pháp lý, ví dụ như với tư cách là quan chức
của tòa án. Họ có kiến thức và hiểu biết đầy đủ, chi tiết về cách
văn hóa và ngôn ngữ tương tác với nhau cũng như các quy tắc
đạo đức và tiêu chuẩn nghề nghiệp liên quan trong lĩnh vực
pháp lý.
Phiên dịch viên hội nghị được chứng nhận chuyển các
thông điệp chuyên biệt, phức tạp từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn
ngữ mục tiêu. Họ phiên dịch trong các tình huống như bài phát
biểu và thuyết trình tại các buổi giao lưu quốc tế cấp cao, như
hội nghị, hội nghị thượng đỉnh, các cuộc họp và đàm phán quốc
tế (ví dụ: hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc, đàm phán hiệp
ước song phương), trên nhiều lĩnh vực.
5
3. Các loại hình phiên dịch
Nghề dịch nói bao gồm hai loại hình chủ yếu: dịch đuổi
và dịch song song.
Trong hình thức phiên dịch song song phổ biến nhất là phiên
dịch viên ngồi trong một căn phòng cách âm, đeo tai nghe và
nói vào micro. Điều này cho thấy rõ nhiệm vụ của một phiên
dịch viên khó khăn như thế nào: họ cần dịch sang ngôn ngữ
đích đồng thời vừa nghe và hiểu được câu nói tiếp theo.
Trong quá trình dịch đuổi, diễn giả sẽ dừng lại sau mỗi
1-5 phút (thường là ở cuối mỗi đoạn văn hoặc kết thúc 1 ý hoàn
chỉnh) và sau đó phiên dịch viên sẽ chuyển những gì được nói
sang ngôn ngữ đích. Một kỹ năng quan trọng liên quan đến
phiên dịch liên tục là ghi chú vì rất ít phiên dịch viên có thể ghi
nhớ toàn bộ đoạn văn cùng một lúc mà không bỏ sót chi tiết
nào.
Trong phiên dịch, người ta chia ra làm nhiều loại hình nhỏ,
thể hiện chức năng và bản chất công việc.
6
A. Dịch toàn bộ văn bản.
Loại hình thứ nhất gọi là whole speech Interpreting (dịch
toàn bộ văn bản). Trong loại hình này người nói nói hết bài của
mình, sau đó phiên dịch bắt đầu làm việc. Loại hình này thường
xảy ra trong những trường hợp như giới thiệu một chủ đề nhỏ
nào đó. Ví dụ: trình bày kế hoạch triển khai mặt hàng mới của
một công ty, có tính chất định hướng, hoặc giới thiệu ngắn gọn
về nội dung một cuốn sách, hoặc một series sách. Điều thách
thức nhất đối với loại hình dịch toàn bộ lời phát biểu là trí nhớ
(memory) và năng lực ghi chép (note-taking).
7
lời khai của nhân chứng hoặc phiên dịch đồng thời toàn bộ quá
trình tố tụng, bằng phương tiện điện tử, cho một người hoặc tất
cả những người tham dự.
Court interpreting lại bao gồm hai loại, một là dịch cho các
phiên toà (courtroom interpreting) và hai là dịch về luật pháp
nhưng ngoài phiên tòa (non-courtroom interpreting). Trong loại
hình sịch cộng đồng người phiên dịch thường phải dịch hai
chiều, hoặc là dịch mặt đối mặt, hoặc là dịch qua điện thoại.
Vai trò của người dịch cộng đồng là làm cho hai bên hiểu nhau
để giải quyết công việc, vì thế chức năng của nó vừa là người
trung gian về ngôn ngữ, vừa là người trung gian về xã hội
(linguistic and social immediate). Điều đòi hỏi cao của người
phiên dịch cộng đồng là không bao giờ được để tình cẩm
nghiêng về phía bên nào, đặc biệt là phiên dịch cho những phiên
tòa. Nguyên tắc này gọi là the principle of neutrality (nguyên
tắc trung tinh).
9
E. Dịch tiếp sức
Trong một cuộc họp hội nghị có nhiều hơn ba ngôn ngữ (ví
dụ: Anh – Lào – Campuchia – Việt Nam) được sử dụng, ban tổ
chức sắp xếp cabin và thiết bị để tất cả mọi người nghe được
ngôn ngữ họ mong muốn. Một thông dịch viên ngôn ngữ sẽ
chuyển thông điệp sang một ngôn ngữ chung cho mọi thông
dịch viên, sau đó họ sẽ chuyển thông điệp sang ngôn ngữ đích
cụ thể của mình. Ví dụ: ngôn ngữ nguồn tiếng Nhật trước tiên
được chuyển dịch sang tiếng Anh cho một nhóm phiên dịch,
sau đó nó được phiên dịch sang tiếng Ả Rập, tiếng Pháp và
tiếng Nga, và các ngôn ngữ đích khác.
Các vai trò của một phiên dịch viên như sau:
1. Đóng vai trò là cầu nối để truyền đạt ý tưởng một cách
hiệu quả - giữa một người không nói ngôn ngữ mà
những người khác đang cố gắng giao tiếp.
2. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp giữa các bên
không nói cùng một ngôn ngữ.
3. Diễn giải ý nghĩa và khái niệm từ ngôn ngữ gốc sang
ngôn ngữ đích mà không bỏ hay thêm bất cứ điều gì
vào thông điệp.
4. Để cung cấp sự tương đương về mặt ngữ nghĩa giữa
ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích và bảo tồn mọi yếu
tố thông tin có trong thông điệp gốc về mặt văn phong,
cú pháp mà không đơn giản hóa, làm rõ hoặc bỏ sót.
Công việc của phiên dịch viên đòi hỏi sự nhạy bén về hình
thức và nội dung, mỗi người trong số họ đều nhấn mạnh những
12
khía cạnh khác nhau của thông điệp gốc. Truyền tải nội dung
bằng cách thu hút sự chú ý đến kỹ năng, kỹ thuật đáng kể có
liên quan đến quy trình mà không bỏ sót, chỉnh sửa hoặc thêm
nội dung hay thông tin vào. Vai trò của Phiên dịch viên là tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giao tiếp giữa hai bên.
II. Tiêu chí, quy tắc, và đạo đức của người phiên dịch
1. Tiêu chí (Năng lực chuyên môn)
Phiên dịch viên cần chuẩn bị cho bản thân năng lực nghiệp
vụ tập trung vào hai bình diện: kiến thức và kỹ năng.
Khi làm phiên dịch viên, điều hiển nhiên người phiên
dịch phải có kiến thức về ngôn ngữ mà họ đang sử dụng. Tuy
nhiên, câu hỏi chính ở đây là liệu kiến thức này có được hiểu
thấu đáo hay không. Kiến thức này liên quan đến cả ngôn ngữ
nguồn và ngôn ngữ đích cũng như văn hóa của các ngôn ngữ
tương ứng.
Trước hết, phiên dịch viên cần có sự hiểu biết kỹ càng
về từ vựng cũng như cách sử dụng vốn từ vựng đó ở cả hai ngôn
ngữ. Cụ thể thì họ cần trang bị một lượng lớn từ vựng, đặc biệt
là từ vựng tích cực, tức là loại từ vựng dùng để sản sinh phát
ngôn. Ví dụ, một người cần ít nhất 3500 từ để có thể giao tiếp
thoải mái với người khác về các chủ đề thông dụng (chưa đi sâu
vào các chủ đề chuyên ngành). Để hiểu các chủ đề như chính
trị, kinh tế, xã hội, v.v., người ta phải mở rộng vốn từ vựng của
bằng các từ chuyên ngành trong lĩnh vực đó. Hơn nữa, kiến
thức văn hóa cũng là một phần quan trọng trong quá trình phiên
dịch. Kiến thức về văn hóa bao gồm ba bình diện: hành vi (cử
chỉ), phong tục tập quán và những yếu tố văn hóa tiềm ẩn trong
13
ngôn ngữ đang sử dụng. Có nhiều hành vi đối với dân tộc này
mang hàm ý tốt nhưng đối với dân tộc khác lại mang hàm ý
xấu. Vì vậy, phiên dịch viên cần phải nhạy cảm với sự khác biệt
về văn hóa để có những bản dịch hiệu quả hơn.
Một yêu cầu về kiến thức nữa của người phiên dịch là
sự hiểu biết về những nét xã hội. Ví dụ như người Anh khi đã
biết nhau thường ít khi xưng hô là Mr/Mrs/Miss trước tên mà
gọi thẳng tên dù đối phương là người lớn tuổi hơn, trong khi
người Việt Nam không bao giờ gọi thẳng tên người lớn tuổi
hơn. Đối với người Anh, trong nhà con cái cũng gọi cha mẹ
bằng tên riêng.
Đôi khi, người phiên dịch đòi hỏi phải có kiến thức
tương đối sâu về một số chủ đề chuyên môn. Trong bất cứ một
hội thảo, một đợt làm việc nào đó, chủ đề đều tương đối sâu
vào một ngành, người phiên dịch phải đương đầu với những
kiến thức chuyên ngành tương đối sâu. Chẳng hạn khi chúng ta
phải dịch một hội thảo về xây dựng luật và những người đến dự
đều là những chuyên gia về luật, thì điều hiển nhiên là khi nói
với nhau họ không nói theo kiểu giải thích nội hàm của các khái
niệm mà sử dụng chúng như những đơn vị đúc sẵn, những đơn
vị được mặc nhiên công nhận. Trong trường hợp này, người
phiên dịch không chỉ cần biết nghĩa của từ mà còn phải hiểu cả
định nghĩa của từ đó. Những bài phát biểu trong hội nghị quốc
tế về một lĩnh vực chuyên ngành, thường không dành cho
những người ngoài nghề. Khi chuẩn bị bài nói, diễn giả không
có ý thức viết cho phiên dịch dịch, mà viết để trình bày những
điều mình muốn tranh luận, muốn thuyết phục về quan điểm
chuyên ngành. Do vậy nội hàm của vấn đề đôi khi không bộc
lộ. Những quan điểm đưa ra không giải thích mà tranh luận. Vì
14
vậy người phiên dịch muốn thành công phải phát hiện được cả
những ý tưởng bộc lộ và những hàm ý.
Trong nói năng, người phiên dịch phải nói lưu loát về
cả SL và TL. Nói lưu loát ở đây không có nghĩa là phải là nói
nhanh, mà phải thể hiện được những đặc thù của ngôn ngữ đang
nói, khi nói tiếng Anh phải đảm bảo bốn yếu tố cơ bản: âm tốt,
trọng âm và nhịp điệu, ngữ điệu và tốc độ tự nhiên. Năng lực
nghe hiểu là yếu tố quan trọng nhất đối với người phiên dịch.
Trên thực tế, người phiên dịch không phải lúc nào cũng đi dịch
cho người bản ngữ, nhất là tiếng Anh. Chẳng hạn khi dịch cho
người Ấn Độ nói tiếng Anh, cách phát âm của tiếng Anh- Ấn
nổi tiếng về độ khó nhận biết. Mỗi người không phải người bản
ngữ đều có một sắc thái riêng về giọng điệu do sự can thiệp của
tiếng mẹ đẻ. Đấy là không kể những từ vựng quen dùng trong
một cộng đồng phi bản ngữ, gọi là localised forms, không có
trong tiếng Anh chuẩn, ví dụ bed-tea của Ấn Độ (cốc chè sữa
nóng uống vào lúc vừa ngủ dậy buổi sáng).
Ngay cả đối với người bản ngữ Anh, mỗi vùng cũng có
giọng địa phương của nó. Người vùng Sussex đọc các âm /au/
thành /eu/. Người Đông London có giọng nổi tiếng của mình
gọi là giọng Cockney, họ có cách nói riêng gọi là rhyming
slang, cách nói bí mật chỉ có người Cockneys mới hiểu. Người
Birmingham cũng có cách phát âm khác hẳn với RP (phát âm
15
chuẩn), gọi là phương ngữ Brummy. Ví dụ: thay cho lời chào
How do you do?, người Birmingham nói là "Adoo", hoặc phát
âm từ always là /'aʊwɪz/. Hãy tưởng tượng nếu người phiên
dịch gặp diễn giả là người Birmingham nói câu sau đây thì sẽ
hiểu ra sao: "Yow'd think boi now it woz time the rest ov the
Wairld spowk roit loik us, wudden cha? (You'd think by now it
was time the rest of the world spoke right like us, wouldn't
you?).
Khả năng thích nghi nhanh với giọng địa phương của
dịch giả là yếu tố quan trọng tạo khả năng dịch thành công, tức
là đáp ứng tiêu chí dịch đúng và chính xác.
16
yêu cầu rèn luyện kỹ năng, sự cẩn thận và siêng năng của một
người bình thường khi thực hiện công việc tương tự.
Các quy tắc đạo đức nhìn chung có liên quan đến các
nguyên tắc đạo đức cơ bản tương tự nhau. Các nguyên tắc
chung có trong các quy tắc đạo đức yêu cầu phiên dịch viên
phải:
• tôn trọng quyền riêng tư và bảo mật của khách hàng
• tiết lộ bất kỳ xung đột lợi ích thực sự hoặc được nhận thấy
• từ chối đảm nhận công việc vượt quá năng lực hoặc mức độ
công nhận của họ
• chuyển tiếp thông tin một cách chính xác và khách quan giữa
các bên
• duy trì sự tách biệt nghề nghiệp và kiềm chế việc tự quảng bá
bản thân không phù hợp
• đề phòng việc lạm dụng thông tin nội bộ vì lợi ích cá nhân.
Một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình đào
tạo phiên dịch là triết học của nghề nghiệp, trong đó phải kể
đến các quy tắc về đạo đức, những quy tắc dịch, và hàng loạt
những thủ pháp có liên quan đến vai trò khác nhau của một
người phiên dịch trong công việc hàng ngày.
Khi bước vào nghề phiên dịch, người phiên dịch luôn
luôn phải được đào tạo và tự rèn luyện một cách chu đáo. Có
như vậy trong cuộc đời phiên dịch, người phiên dịch mới luôn
luôn đảm bảo được ba bước khi nhận bất cứ nhiệm vụ dịch nào.
17
Đó là: trước khi, trong khi và sau khi dịch.
Chuẩn bị kỹ
Khi nhận nhiệm vụ đi dịch cho một sự kiện nào đó, người phiên
dịch cần chuẩn bị kỹ kiến thức về chủ đề dịch. Việc này bao
gồm rất nhiều bình diện như đọc có tính chất nghiên cứu về chủ
đề dịch, thu thập và chọn lọc thông tin quan trọng về hội nghị
tạo cho mình sự chủ động khi thực
hiện nhiệm vụ. Đối với những cuộc
dịch đàm phán, cần chuẩn bị những
ý chính, những điểm cần đàm phán,
quan điểm của mình về những điểm
ấy, và đặt ra mục tiêu hai bên cần
đạt được qua đàm phán. Khi đã có
tài liệu trong tay người phiên dịch cần phải đọc kỹ tài liệu bằng
cả hai thứ tiếng.
18
Ngoài ra, khái niệm mang tính văn hóa đặc cũng là một yếu tố
phiên dịch viên cần lưu tâm.
Người phiên dịch không nên nhận quà của bất cứ bên
nào, nhất là nhận tiền hoặc một lời hứa hẹn nào đó về quyền
lợi. Trong quá trình đi dịch, nếu một bên nào đó mời đi ăn uống,
người phiên dịch chỉ nên chấp nhận khi nó thuộc về phong tục
tập quán văn hoá của họ: không nhận lời sẽ làm người mời phật
ý.
Đúng giờ
Đúng giờ nghĩa là phải đến sớm ít nhất 10 phút, nếu
không cần chuẩn bị về mặt kỹ thuật. Đôi khi còn phải gặp gỡ
diễn giả hoặc phải sắp xếp lại bàn ghế, thử máy,... Trong những
trường hợp này người phiên dịch nên có mặt trước giờ khai mạc
15-30 phút.
19
Tự giới thiệu mình
Trước khi bắt đầu dịch, hãy xin phép hội nghị hoặc hai
bên đàm phán một phút để tự giới thiệu mình bằng một hai câu
ngắn. Không giới thiệu dài dòng về bản thân, nhất là không nên
nói bất cứ một câu nào có tính khoe khoang khả năng dịch của
mình.
20
Từ chối
Ở các nước tiên tiến, người phiên dịch từ chối
không nhận dịch những ngôn ngữ mà họ không được
đào tạo, không được kiểm định (accreditated) và cấp
bằng. Ở nước ta do chưa có chuyên ngành đào tạo phiên
dịch như một nghề nghiệp nên đòi hỏi này chưa thể thực
hiện được. Để giữ thể diện cho mình, bảo toàn tín nhiệm
và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, người phiên dịch
nên từ chối không nhận việc trong trường hợp chủ đề
mời dịch vượt quá tầm hiểu biết của mình.
Sự hợp tác
Người phiên dịch phải có tinh thần hỗ trợ người chủ trì.
Trong một số trường hợp, người phiên dịch phải sẵn sàng "làm
bia đỡ đạn" khi diễn giả phát biểu những điểm khiến khán giả
phản ứng không tốt.
Bảo vệ bí mật
Người phiên dịch
cần nhận thức rằng tất cả
những ý tưởng, những sự
kiện, hay nói cách khác là
toàn bộ nội dung một cuộc
hội đàm hoàn toàn không
phải là kiến thức của mình.
Bản quyền trí tuệ này thuộc
về những người có liên quan
trong hội nghị, hội đàm. Như vậy mình không được phép công
21
bố ra nơi khác, không được sử dụng với bất cứ mục đích nào
nếu không được phép của (các) đương sự. Không được làm lộ
thông tin đặc biệt nào đó ví dụ bí mật của ngành, bí mật quốc
gia, kể cả bí mật của cá nhân, hoặc những chi tiết về đời riêng
của người khác.
III. Những kỹ năng/ kỹ thuật phiên dịch viên giỏi cần học
22
Có thể nói một trong những khía cạnh quan trọng nhất
trong phiên dịch chính là nắm vững kiến thức về cả ngôn ngữ
nguồn lẫn ngôn ngữ đích. Tuy nhiên, một số yếu tố khác cũng
có thể chi phối quá trình dịch, bao gồm năng lực nghe hiểu tốt.
Bà Seleskovitch (thông dịch viên hội nghị, giáo viên và nhà văn
học thuật người Pháp có nhiều kinh nghiệm về các nghiên cứu
dịch thuật) nhấn mạnh rằng đây chính là yếu tố hết sức quan
trọng trong phiên dịch bởi lẽ trước khi chuyển một thông điệp
thể hiện bằng lời sang ngôn từ ở ngôn ngữ khác thì cần thiết
phải hiểu rõ phát ngôn đó trước. Và khi phiên dịch, do ý nghĩa
quan trọng hơn cấu trúc câu trong ngôn ngữ gốc nên bản dịch
thường là câu hoặc thông điệp thay vì dịch đơn từ.
Nói tóm lại, phiên dịch viên phải chuyển tải rõ ràng
thông điệp đưa ra và cần có khả năng sắp xếp thông tin để
không vướng phải việc dịch từng từ. Vì thế, phiên dịch viên cần
phải thực hiện một quá trình gồm ba bước: hiểu (bước quan
trọng nhất), giải mã, và diễn đạt lại.
Bởi vì việc hiểu ý phụ thuộc vào khái niệm “hiểu” vừa đề
cập, có rất nhiều kỹ thuật hữu ích mà phiên dịch viên có thể áp
dụng, phụ thuộc vào mục đích nghe. Chú trọng đến kỹ thuật
nghe hiểu, có 2 kỹ thuật chính sau đây: nghe trọng âm đoán
nghĩa và mường tượng hình ảnh. Với kỹ thuật đầu tiên, có thể
thấy rằng thông thường người Anh sẽ phát âm những từ quan
trọng to, rõ và cao hơn, vì vậy phiên dịch viên có thể dễ dàng
đoán nghĩa của cả câu dựa trên đó. Kỹ thuật thứ hai là nghe và
mường tượng hình ảnh, nghĩa là “thấy những gì nghe được.”
Trong kỹ thuật thứ hai, phiên dịch viên cần phải hình dung ra
trong đầu những gì mà diễn giả đang nói, thông thường theo
những bước sau:
● Nhắm mắt lại để nghe.
● Hít thở sâu và toàn thân buông lỏng
● Tập trung tư tưởng khi nghe.
23
● Nhìn và nghe những điều một người nào đó đang nói.
● Tưởng tượng như ngửi thấy những điều người nói nói
đến.
● Hãy tưởng tượng mình đang ở đó, tức là ở nơi xảy ra
sự kiện.
Cùng với những kỹ thuật trước đã đề cập, phiên dịch viên
cũng có thể thực hành một số bài tập và cách xử lý khi nghe
không hết thông điệp, bao gồm:
- Nghe để lấy thông tin chính (lọc ra thông điệp mà
diễn giả muốn nói)
- Nghe để lấy các thông tin chi tiết (xem xét các
thông tin quan trọng) Nghe để lây thông tin mình
cần đến (xem xét ngữ cảnh để quyết định những
thông tin nào là cần thiết)
- Nghe ghi ý
- Nghe chép chính tả (chép lại chính xác từ và câu
trong bài nói gốc)
- Nghe để lấy tất cả các thông tin của thông điệp
- Không đoán bừa (Không đoán khi không hiểu)
2. Trí nhớ
24
Tính chính xác hay trung thành với bản dịch phụ thuộc
nhiều vào giai đoạn ghi nhớ, trong đó phiên dịch viên sử dụng
cả trí nhớ ngắn hạn (short-term memory) và trí nhớ dài hạn
(long-term memory).
Trước hết phải nói rằng phiên dịch hầu hết dựa vào trí
nhớ ngắn hạn. Thông tin đầu vào được truyền tới các cơ quan
cảm giác và tồn tại trong 1 phần giây. Sau khi được giải mã
dưới dạng dữ liệu ngữ nghĩa, hình ảnh hay âm thanh thì thông
điệp chuyển đến trí nhớ ngắn hạn và tồn tại trong khoảng thời
gian dưới 30 giây. Theo một số học giả, thông điệp nên được
dịch ra trong vòng 10 giây (Smith, 1985). Sau giai đoạn này,
thông tin sẽ được lưu trữ trong trí nhớ dài hạn, và tồn tại ở đó
vô thời hạn. Như vậy, việc thông điệp có được mã hóa, truy
xuất hoặc thực hiện hay không sẽ quyết định điều này, nếu
không ta sẽ quên đi thông điệp. Trong trường hợp phiên dịch
viên gặp phải một phát ngôn mang nghĩa hàm ý thì việc cần làm
làm truy xuất lại dữ liệu trong trí nhớ để hiểu ý niệm, tránh việc
dịch từng từ đơn lẻ.
Sau đây là một số phương pháp phiên dịch viên có thể
áp dụng để cải thiện trí nhớ: kể lại câu chuyện trong ngôn ngữ
nguồn; áp dụng phương pháp shadowing (nhại lại âm, nhấn
nhá, ngữ điệu của bài nói tiếng Anh); thực hành các bài tập
luyện trí nhớ ngắn hạn liên quan đến suy luận; dịch các bài báo
và bài phát biểu.
25
Bên cạnh đó, để luyện trí nhớ, phiên dịch viên có thể
thử ghi nhớ số điện thoại, các tác phẩm văn học và thi ca, các
công thức khoa học và các thông tin khác. Mặc dù thời gian bị
giới hạn, quá trình mã hóa và giải mã diễn ra nhanh chóng
nhưng việc hiểu rõ chủ đề thảo luận và nắm bắt các cụm từ quan
trọng có thể giúp phiên dịch viên ghi nhớ thông điệp. Nếu
không quen với chủ đề hay thuật ngữ thì sẽ gây khó khăn cho
phiên dịch viên trong quá trình nhớ lại nội dung của bản gốc,
vì vậy đây sẽ là những phương pháp rất hữu ích giúp ghi nhớ
những gì mới học được.
Ngoài ra, một số loại thực phẩm như sô-cô-la đen hay
cá hồi cũng tốt cho việc tăng cường trí nhớ của phiên dịch viên.
26
3. Ghi chép
Việc rèn luyện kỹ năng ghi chép sẽ giúp phiên chuyển tải
được đầy đủ hơn, trọn vẹn hơn nội dung của diễn giả.
Kỹ năng ghi chép của phiên dịch sẽ phát huy được tối đa
tác dụng trong các cuộc họp làm việc có tính chất kỹ thuật,
nhiều thông tin chuyên môn, nhiều số liệu đòi hỏi phiên dịch
phải truyền tải được đầy đủ và chính xác nội dung trao đổi.
Đó không phải là việc chép lại nguyên văn mọi câu từ diễn
giả nói ra. Đó cũng không giống như việc các sinh viên ghi lại
bài giảng trong các giờ dạy lý thuyết tại trường đại học với mục
đích sau đó khi có thời gian, họ có thể nghiên cứu lại bài giảng
trên lớp. Đó càng không phải là việc ghi chép biên bản để viết
báo cáo sau cuộc họp.
Ghi chú là một kỹ thuật rất quan trọng đối với người phiên
dịch. Quy trình này bắt đầu bằng sự nghe hiểu thông điệp rồi
phân tích thông điệp và cuối cùng là tái tạo văn bản. Để làm
được điều này, người phiên dịch cần viện đến khả năng ghi chú
27
và ghi nhớ. Ghi chú là một kỹ thuật hỗ trợ, giúp người dịch
nhớ một lượng thông tin chủ yếu.
Ý: Ý là nội dung cốt lõi của bài nói. Do vậy, ghi chép của
phiên dịch cần giúp lưu giữ và thể hiện được nội dung cốt lõi
bài nói của diễn giả thông qua một loạt các ký hiệu, biểu tượng,
từ khóa, hình vẽ.... Những ký hiệu này sẽ giúp phiên dịch nhớ
được ý tác giả muốn truyền tải và diễn đạt lại theo cách của
mình.
Các thuật ngữ: nếu như đối với các ý, phiên dịch có thể
dùng muôn vàn cách để diễn đạt mà vẫn truyền tải được nội
dung cốt lõi, với các thuật ngữ, từ tương ứng chỉ có một. Do đó,
phiên dịch cần ghi lại các từ kỹ thuật để tìm từ tương ứng trong
ngôn ngữ đích.
Trước khi thực hành kỹ năng ghi dịch, phiên dịch cần tự
xây dựng cho mình hệ thống các chữ viết tắt, ký hiệu, biểu
tượng, hình vẽ... của riêng mình. Dưới đây là một số phương
pháp thường được sử dụng trong ghi dịch:
● Ghi tắt,
● Gạch phân tách ý chính, ý phụ,
● Ghi câu đầu tiên và cuối cùng của 1 ý,
● Ghi theo cột dọc,
28
● Ghi bằng ngôn ngữ đích.
Trong quy trình dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ, các nhà
giáo học pháp rất quan tâm đến xu hướng đơn giản hoá
(simplification). Đây là xu hướng sử dụng một lượng nhỏ từ
vựng, một số cấu trúc câu cơ bản để diễn đạt những vấn đề phức
tạp. Xu hướng này áp dụng cả trong quy trình dạy học trên lớp
và công tác biên soạn sách cho người học.
Đối với quy trình dạy trên lớp, các tác giả viết sách giáo
khoa thường quy định cho giáo viên sử dụng một lượng từ vựng
nào đấy, một số mẫu câu nào đấy để luyện cho người học nghe,
nói, đọc, viết tiếng Anh. Chẳng hạn sách học What to say của
BBC English chỉ sử dụng 500 từ cơ bản để luyện người học
nghe nói về những chủ đề giao tiếp hàng ngày.
Chúng ta hãy so sánh một đoạn nguyên bản của tiểu thuyết
The Thorn Bird của nữ văn sĩ Australia, Colleen McCullough
và cùng một đoạn đó trong hệ chuyện viết dễ lại để so sánh.
29
existence the price.. But the whole world stills to listen, and
God in His heaven smiles. For the nest is only bought at the
cost of great pain... Or so says the legend.
There is a story about a bird that sings only once. From the time
it is born it
searches for a thorn tree and, when it finds one, it flies at the
Inngest, sharpest thorn.
Người phiên dịch cũng phải vận dụng kỹ thuật này khi
" diễn giả trình bày vấn để vượt quá tầm hiểu biết của thính giả,
tức là diễn giả khi nói chuyện sử dụng văn phong và nội dung
không thích hợp với người không chuyên môn. Nếu người dịch
30
dịch trung thành với diễn giả thì sẽ làm cho thính giả lúng túng,
khó hiểu. Với kỹ thuật này người phiên dịch đã cố gắng lấp
được khoảng trống giao tiếp". (Roderic Jones: 98)
Kỹ thuật này thường sử dụng khi dịch cho hai bên đối
thoại trực tiếp với nhau, một bên hỏi, bên kia trả lời.
Hai là, "* nhận diện được cốt lõi hoặc vấn đề chính của một
thông điệp, rồi chuyển tải nó (sang ngôn ngữ TL), mặc dù
không hiểu tất cả các chi tiết mà diễn giả trình bày. Hoặc người
phiên dịch có thể hiểu được, nhưng không nghĩ ngay ra được
từ tương đương.
31
5. Kỹ năng trình bày
Kỹ năng trình bày là một kỹ năng rất quan trọng đối với
nhiều đối tượng: nhà khoa học, thầy cô giáo, sinh viên, thương
nhân, v.v. Một văn bản được trình bày mang tính mục đích rất
cao. Mỗi bản trình bày đều phải bộc lộ rõ ý định của người trình
bày (presenter). Nhìn chung một bản trình bày thường thuộc về
một trong hai mục đích: (1) truyền đạt thông tin (information
giving), và (2) thuyết phục người nghe (persuasion). Trong hoạt
động học thuật như báo cáo khoa học (scientific report), bài
giảng (lecture), v.v. thông thường mang nặng tính thông tin.
Nhưng ngược lại một cuộc nói chuyện của một thương nhân
hoặc một buổi giới thiệu sản phẩm (sales), bản trình bày thường
nhằm vào mục tiêu thuyết phục.
Đối với người phiên dịch, năng lực trình bày có những đòi
hỏi khác nhiều so với những đối tượng nêu trên. Trước hết
người phiên dịch không phải là diễn giả (speaker) mà chỉ là
người truyền đạt sự diễn giải của diễn giả từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác, và phải trung thành với tác giả cả về nội dung
lẫn văn phong. Quy trình này có thể gọi là diễn giải lại (re-
expressing). Quy trình diễn giải lại cũng đòi hỏi kỹ thuật diễn
giải, nhưng ở thế bị động và bị hạn định vào ý tưởng của người
khác, chứ không phải ý tưởng của mình. Vậy khi diễn giải lại,
người phiên địch đã được cung cấp mục tiêu (objectives) và nội
dung (the message). Việc còn lại là xây dựng cấu trúc cho lời
dịch (structure) và diễn (perform) nội dung ấy bằng ngôn ngữ
mục tiêu.
Vậy người phiên dịch cần rèn luyện năng lực trình bày theo
32
hướng nào? Những vấn đề một người trình bày cần xác định và
chuẩn bị kỹ
1.Tại sao lại trình bày (mục đích):
Why.
2.Trình bày cho ai nghe (thính giả):
Who.
3. Trình bày cái gì (nội dung):
What.
4. Trình bày như thế nào (kỹ thuật trình bày):
How.
Ở bốn điểm này người phiên dịch đã được cung cấp hai
điểm: Why và What, Cho nên trước khi bắt đầu nhiệm vụ dịch
người phiên địch phải xác định rõ đối tượng nghe là ai (Who).
Phân tích được người nghe là ai sẽ cho người phiên dịch một ý
tưởng rõ ràng: làm thế nào để thông điệp đi được vào thỉnh giả.
Nó tác động quyết định đến việc sử dụng ngôn ngữ như dùng
nhiều từ chuyên ngành hay từ thông dụng, dùng văn phong
khoa học (academic) hay văn học (literary), ... và quyết định
những kỹ thuật cần viện đến trong khi dịch như có cần thiết
phải dùng kỹ thuật giải thích (explanution), hoặc đơn giản hoá
(simplification), v.v. hay không. Một trong những nhược điểm
nhiều phiên dịch thường mắc phải là không "lựa" theo đối
tượng (not talloring one's presentation to par- ticular audience).
Lý tưởng nhất là người phiên dịch phải trả lời được sâu câu hỏi
sau đây trước khi làm nhiệm vụ:
AUDIENCE PROFFILE
1. Who are they?
2. How many will be there?
3. Why are they coming?
4. What do they know about the topic?
33
5. Why are they interested in the subject?
6. What is their relationship to you?
Sáu câu hỏi trên nhằm phân tích thính giả. Sau khi đã
xác định được người nghe, người phiên dịch cần tìm phương án
thể hiện nội dung của diễn giả. Trong phương án thể hiện, người
phiên dịch cần làm tốt hai nhiệm vụ sau đây:
(1). Tổ chức thông tin (tức là nội dung vừa nghe được
của diễn giả bằng SL) (to organise the information). Những kỹ
thuật như listen for gist, listen for detail giúp người phiên dịch
tổ chức tốt lượng thông tin bằng TL.
(2). Tạo ra sự hấp dẫn đối với người nghe (to create
interest), hay nói cách khác là lỗi cuốn người nghe (involving
the audience). Đây là một yêu cầu cao vì nó đòi hỏi phối hợp
nhiều tiêu chí như sử dụng chất giọng (lúc trầm, lúc bổng), sử
dụng kỹ thuật nhấn mạnh vào những điểm trọng yếu
(emphasis), cách nói rõ ràng, gẫy gọn (be a clear speaker), v.v.
Để thực hiện được yêu cầu thứ hai, Mark (Mark Ellis,
1992:14) đưa ra 7 yêu cầu sau đây cho người trình bày:
3. Dùng những đại từ như you, your, us, our để gây cho
thính giả cảm giác có mình trong vấn đề này.
34
4. Chú ý đến những minh hoạ sinh động.
5. Lôi kéo người nghe vào một vài hoạt động nào đó.
(Ask the audience to do something).
6. Đưa ra một vài câu hỏi cho thính giả trả lời. (Ask the
audience questions to involve them in the
presentation).
7. Nếu thính giả đông, đưa ra những câu hỏi gợi ra vấn
đề, thính giả suy nghĩ nhưng không trả lời mà mình sẽ
trả lời.
Đối với người phiên dịch, yêu cầu thứ nhất và thứ hai
rất quan trọng. Khi nghe diễn giả nói người phiên dịch cần ngay
lập tức nắm bắt được những sự kiện đặc biệt. Có như vậy khi
diễn đạt lại bằng TL, người phiên dịch mới sử dụng một cách
có hiệu quả các kỹ thuật như nhấn mạnh (emphasis). Yêu cầu
thứ hai chính là yêu cầu của các kỹ thuật paraphrase,
simplification và summary. Những yêu cầu từ 3-7 không phù
hợp với nhiệm vụ của người phiên dịch. Nhưng nếu diễn giả
tạo ra những tình huống như lôi kéo khán giả vào hoạt động,
đặt câu hỏi cho thính giả, thì người phiên dịch cũng cần phát
huy khả năng điều khiển linh hoạt để tăng cường tính hấp dẫn
của diễn giả.
Theo sự phân loại của Tiseliu (2015), tính chính xác trong
35
phiên dịch được đánh giá bằng hai cách bổ sung cho nhau, thứ
nhất, là sự tổng hợp của các yếu tố khác nhau tạo nên bản dịch
( ví dụ : sự thiếu sót,thêm thắt thừa thải, v.v.); và thứ hai, sự
xem xét phiên dịch như một thực thể hoàn chỉnh.
Đối với phương pháp đánh giá tính chính xác đầu tiên của
Tiselius đó là sự phân tích các yếu tố ,các thông dịch viên luôn
cố gắng đạt được độ chính xác trong quá trình diễn giải . Điều
này có nghĩa là tránh thiếu sót hoặc bổ sung bất kỳ phần nào
của bài diễn thuyết gốc vào bản dịch sang ngôn ngữ cần dịch
một cách liền mạch Tuy nhiên, các thông dịch viên dịch song
song chuyên nghiệp không bao giờ bỏ sót ngôn ngữ gốc, mà họ
học cách cung cấp cùng thông tin trên ngôn ngữ cần dịch. Ngay
cả khi phiên dịch tại tòa án, việc lược bỏ bất kỳ thông tin nào
từ ngôn ngữ gốc đều không được chấp nhận, dù người phát biểu
nói nhanh đến đâu, bởi do độ chính xác là không chỉ nguyên tắc
chủ yếu đối với các thông dịch viên, mà còn là bắt buộc. Sự
thay đổi kể cả một từ duy nhất có thể gây hiểu lầm và hậu quả
nghiêm trọng các thành viên hội đồng xét xử.Do vậy,yếu tố
quan trọng nhất cho để đạt được tính chính xác trong phiên dịch
là sử dụng một nhóm hai hoặc nhiều thông dịch viên trong
khoảng thời gian dài, và một người đảm nhận việc thông dịch
và người thứ hai giám sát để đạt được độ chính xác cao hơn.
Trái với nghiên cứu của Tiseliu, ông Kopczynski đã phát
hiện các thông dịch viên có thể lược bỏ một số thành phần dựa
vào nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình phiên dịch. Vì thế,
ông ấy đã chia sự thiếu sót thành hai loại đó là chức năng và
phi chức năng, do bởi không phải hầu hết các sự lược bỏ đều
ảnh hưởng đến tính chính xác trong quá trình thông dịch. Sự
lược bỏ đôi khi cần thiết trong việc tạo ra tính chính xác và có
thể được chấp nhận, giúp tối ưu hóa quá trình diễn giải và tránh
sự lặp lại không cần thiết. Một ví dụ về phương pháp của
Kopczynski, thu thập từ dữ liệu đã được phân tích,đó là:
36
Văn bản gốc trong phiên dịch song song:
“I would like to request your permission to leave the meeting
early if possible.”
Học sinh phiên dịch ( Người Việt Nam):“ Tôi xin phép
dời cuộc họp sớm nếu có thể.”
Trong ví dụ này, thông dịch viên có thể rút bỏ từ "your
permission" (sự cho phép của bạn) vì nó là thông tin được ngầm
hiểu và không cần thiết trong bản dịch.
Phần thứ hai của Tiselius -sự xem xét phiên phiên dịch như
thực thể hoàn chỉnh. Điều này ngụ ý rằng các thông dịch viên
cần chú ý xem xét các yếu tố khác nhau như ngôn ngữ cơ thể,
giọng điệu của người nói, tham chiếu văn hóa, và nhiều yếu tố
khác. Họ cố gắng truyền đạt đầy đủ ý nghĩa và hàm ý đằng sau
cuộc giao tiếp thay vì chỉ tập trung vào từng từ và cụm từ riêng
lẻ. Phương pháp toàn diện này giúp đảm bảo ý nghĩa thông điệp
của văn bản gốc mà không gây quá tải nhận thức.
Sự thông thạo ngôn ngữ là một yếu tố không thể thiếu trong
việc thông dịch. Nó đảm bảo rằng một thông dịch viên có khả
năng cung cấp sự hỗ trợ ngôn ngữ thành thạo cho người biết
tiếng Anh. Tầm quan trọng của sự thông thạo ngôn ngữ nằm ở
khả năng truyền đạt thông tin chính xác. Sự thông thạo ngôn
ngữ cần dịch là một quá trình phức tạp, không chỉ đòi hỏi tốc
độ truyền tải dữ liệu ,mà còn yêu cầu nhận thức về các yếu tố
giúp nâng cao sự thông thạo trong phiên dịch. Do đó ,theo kết
quả từ các cuộc khảo sát giữa các thông dịch viên và người sử
dụng từ Buhler năm 1986 và Kurz năm 1993-2002, sự thông
thạo trong việc truyền đạt đã được xác định là một trong những
tiêu chí quan trọng nhất đối với chất lượng của thông dịch.
Trong nghiên cứu của Towell vào năm 1996, sự thông thạo có
37
thể được đo bằng năm chỉ số thời gian, bao gồm tỷ lệ thời gian
phát âm, tốc độ nói, tốc độ phát âm, độ dài trung bình của đoạn
diễn đạt và độ dài trung bình của các khoảng im lặng.
Tỷ lệ thời gian phát âm: Chỉ số này đề cập đến tỷ lệ thời
gian mà thông dịch viên dành để nói hoặc sản xuất âm thanh
giọng nói so với tổng thời gian của phần diễn đạt. Nó đánh giá
tỷ lệ giữa lời nói và các khoảng thời gian không nói (khoảng
im lặng) trong quá trình thông dịch.
• Độ dài trung bình của chuỗi từ: Chỉ số độ dài trung bình
của chuỗi từ đo lường số từ hoặc âm tiết trung bình được nói
liên tiếp mà không có khoảng im lặng. Nó đánh giá tính liên tục
và dòng chảy của lời nói trong quá trình thông dịch.
Bằng việc phân tích các chỉ số thời gian này,các nhà nghiên
cứu có thể đánh giá một cách định lượng các khía cạnh khác
38
nhau về sự trôi chảy trong thông dịch. Các chỉ số này cung cấp
dữ liệu khách quan có thể được so sánh giữa các thông dịch
viên khác nhau hoặc giữa các phần diễn đạt thông dịch để đánh
giá mức độ trôi chảy.
3. Độ hoàn thiện
Dưới đây là một số yếu tố góp phần vào sự hoàn thiện trong
thông dịch:
a. Truyền đạt thông điệp chính: Thông dịch viên nên truyền
đạt chính xác và đầy đủ các điểm chính và ý tưởng được diễn
đạt bởi người nói. Điều này bao gồm việc nắm bắt bản chất và
ý định của thông điệp của người nói, đảm bảo rằng ý nghĩa tổng
thể được bảo tồn.
b. Bao gồm tất cả chi tiết: Thông dịch viên nên cố gắng bao
gồm tất cả các chi tiết liên quan do người nói cung cấp. Điều
này bao gồm các thông tin cụ thể, con số, tên, ngày tháng và
bất kỳ thông tin nào quan trọng để hiểu bối cảnh hoặc nội dung
của bài diễn thuyết.
c. Phiên dịch các thành ngữ và tham chiếu văn hóa: Thông
dịch viên nên có kỹ năng phiên dịch các thành ngữ và tham
chiếu văn hóa từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích. Điều này
đảm bảo rằng ý nghĩa dự định được truyền đạt chính xác, ngay
39
cả khi phiên dịch đen tưởng chừng không có ý nghĩa trong ngôn
ngữ đích.
e. Phiên dịch các gợi ý phi ngôn từ: Thông dịch viên cũng
nên chú ý đến các gợi ý phi ngôn từ như cử chỉ cơ thể, giọng
điệu và biểu hiện khuôn mặt. Những gợi ý phi ngôn từ này có
thể cung cấp ngữ cảnh và ý nghĩa bổ sung cho thông điệp của
người nói, và thông dịch viên nên truyền đạt chúng một cách
thích hợp trong ngôn ngữ đích.
Tổng thể, sự hoàn thiện trong thông dịch phụ thuộc vào kỹ
năng của thông dịch viên trong việc truyền đạt ý nghĩa một cách
chính xác, bắt kịp tất cả các chi tiết liên quan và giao tiếp thông
điệp một cách hiệu quả trong ngôn ngữ đích. Bằng cách ưu tiên
sự hoàn thiện, thông dịch viên có thể đảm bảo rằng thông điệp
dự định được hiểu đầy đủ bởi khán giả.
Tính phù hợp trong thông dịch đề cập đến khả năng của
thông dịch viên thích nghi thông dịch của mình với ngữ cảnh
40
cụ thể, khán giả và mục đích của giao tiếp. Điều này bao gồm
việc xem xét các yếu tố như nhạy cảm văn hóa, ngữ cảnh và
cách diễn đạt để đảm bảo rằng sự thông dịch là phù hợp và hiệu
quả.
Dưới đây là một số khía cạnh quan trọng về tính phù hợp
trong thông dịch:
a. Nhạy bén văn hóa: Thông dịch viên nên nhận thức và
tôn trọng các quy tắc, giá trị và phong tục tập quán văn hóa của
cả ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ đích. Họ nên xem xét sự khác
biệt văn hóa và thích nghi thông dịch của mình để tránh hiểu
lầm hoặc gây xúc phạm.
b. Cử chỉ và cách diễn đạt: Thông dịch viên nên phù hợp
với cử chỉ và cách diễn đạt của người nói. Điều này bao gồm
điều chỉnh mức hình thức, lịch sự và phong cách ngôn ngữ để
phù hợp với cách giao tiếp của người nói và các kỳ vọng của
khán giả.
c.Hiểu biết ngữ cảnh: Thông dịch viên nên hiểu rõ ngữ cảnh
trong đó giao tiếp diễn ra. Điều này bao gồm nhận thức về mục
đích của bài nói, lý lịch và mong đợi của khán giả, và các yêu
cầu hoặc hạn chế cụ thể của tình huống.
d.Thích nghi với các môi trường khác nhau: Thông dịch
viên cần linh hoạt và thích nghi với các môi trường thông dịch
khác nhau, chẳng hạn như hội nghị, phiên tòa, tư vấn y tế hoặc
các sự kiện cộng đồng. Họ nên quen thuộc với các quy ước và
kỳ vọng của mỗi môi trường và điều chỉnh thông dịch của mình
tương ứng.
41
e. Xử lý các chủ đề nhạy cảm: Trong các tình huống nơi các
chủ đề nhạy cảm hoặc gây tranh cãi được thảo luận, thông dịch
viên nên tiếp cận việc thông dịch một cách khôn ngoan và
chuyên nghiệp. Họ nên có khả năng truyền đạt thông điệp một
cách chính xác trong khi duy trì tính trung lập và tôn trọng đối
với tất cả các bên liên quan.
f. Thông dịch cho các cấp độ ngôn ngữ khác nhau: Thông
dịch viên nên có khả năng thích nghi thông dịch của mình với
các cấp độ ngôn ngữ của khán giả. Điều này bao gồm điều chỉnh
sự phức tạp ngôn ngữ, lựa chọn từ vựng và cấu trúc câu để đảm
bảo sự hiểu được của tất cả người nghe.
g. Hạn chế thời gian: Thông dịch viên cần nhận thức về
hạn chế thời gian và cung cấp thông dịch một cách hiệu quả.
Họ nên có khả năng truyền đạt thông điệp trong thời gian quy
định mà không gấp rút hoặc bỏ sót thông tin quan trọng.
Bằng cách xem xét tính phù hợp trong thông dịch, thông
dịch viên có thể đảm bảo rằng thông dịch của họ được điều
chỉnh cho các nhu cầu cụ thể của tình huống và hiệu quả trong
việc tạo điều kiện giao tiếp giữa các bên có ngôn ngữ và nền
văn hóa khác nhau.
42
3. ISO. (n.d.). ISO 13611:2014 - Interpreting Guidelines for
community interpreting. Truy xuất từ
https://www.iso.org/standard/54082.html
4. Masduki, M. (2022). A textbook of interpreting. Truy xuất
từ https://www.researchgate.net/publication/355040768_
A_TEXTBOOK_Of_INTERPRETING
5. Movahedi, M. & Rahmatabadi, N, D. (2016). The
Importance of Listening and Short-Term Memory in
Interpreting. Truy xuất từ
https://translationjournal.net/April-2016/the-importance-
of-listening-and-short-term-memory-in-interpreting.html
6. NAATI. (2023). Skills and Competencies for Interpreting.
Truy xuất từ https://www.naati.com.au/resources/skills-
and-competencies-for-interpreting/
43
HOW TO BE AN EFFECTIVE
INTERPRETER?
44
I. Overview
1. Definition
The linguistic disciplines of interpreting and
translation are intimately intertwined. However, they are
seldom carried out by the same individuals. Few people
can successfully perform both on a professional level due
to the significant differences in abilities, training,
aptitude, and even language understanding.
The distinction between interpretation and
translation appears to be limited to the medium: a
translator interprets written text, whereas an interpreter
interprets spoken language. Deep understanding of
multiple languages and a passion for language are
prerequisites for both translation and interpreting.
According to Cambridge Dictionary, an interpreter
is “someone whose job is to change what someone else
is saying into another language.” This definition is not
wrong, but it is too simple compared to what a language
interpreter has to do.
Interpreting is often used — and misused — in the
English language. In the context of the language services
industry, here are two official definitions:
“Rendering a spoken or signed message into another
spoken or signed language, preserving the register and
meaning of the source language content.”
- International Organization for Standardization (ISO)
International Standard 13611: Interpreting: Guidelines
for Community Interpreting, 2014
“The process of first fully understanding, analyzing, and
processing a spoken or signed message and then
45
faithfully rendering it into another spoken or signed
language. ”
- ASTM International, F2089, Standard Practice for
Language Interpreting, 2015
Put differently, the role of an interpreter is to
translate meaning from the source language into the
target language while preserving the speaker's objectives
and messages. The interpreter listens to a speaker in one
language, understands what is being said, and then uses
the target language's grammar rules to paraphrase what
they have determined to be the meaning. But just as you
cannot translate or interpret something unless you are an
expert in the subject matter being conveyed, you cannot
fully comprehend an idea and then describe it to someone
else. Along with having exceptional public speaking
abilities, interpreters must also have the mental ability to
quickly translate idioms, colloquialisms, and other
culturally particular references into equivalent sentences
that the intended audience would comprehend.
2. Levels of interpreting
47
a test (either Certified Provisional Interpreter or Certified
Translator) if they wish to maintain a current
certification.
48
While CSLIs may work in the same institutions as
Certified Interpreters, they are competent to interpret
complex, highly specialised, expert-to-expert
communication in those institutions. For example:
sentencing remarks by a judge, expert witness statements
or testimony, or presentation of legal arguments
3. Types of interpreting
49
simultaneously listening to and comprehending the next
sentence.
51
Court interpreting includes two types: one is
translation for court hearings (courtroom interpreting), and
the other is translation about the law outside of court (non-
courtroom interpreting). In this type of community
interpreting, the interpreter often has to translate two-way,
either face-to-face or through the phone. The role of the
community interpreter is to help the two parties understand
each other to solve the problem, so its function is both a
linguistic and social mediator. The high requirement for
community interpreters is to never let bias take sides,
especially when interpreting for court hearings. This
principle is called the principle of neutrality.
C. Lecture Interpreting
52
makes short pauses, creating conditions for the interpreter
to remember and convey fully and accurately.
D. Escort Interpreting
53
E. Relay interpreting
F. Whispered Interpreting
54
G. Sign Language Interpreting
4. Roles of interpreters
57
aspects: body language, customs, and the hidden cultural
elements in the use of language. There are many
behaviors that have good connotations for one group of
people but have bad connotations for other groups.
Therefore, interpreters need to be sensitive to the cultural
differences to deliver a more effective work.
b. Background knowledge
Sometimes, interpreters are required to expertise on
the field of specialism. In conferences or working
sessions, the speech is relatively specialized in one field,
so interpreters must deal with specialized knowledge.
For example, there is a law making conference and all
attendants are expertised in this field, which makes them
implicitly assume all the definitions used are common
knowledge in that conference without further
explanation. In this case, the interpreters not only need
to know the meaning of the word but also the definition
itself. Technical papers in an international conference of
a specialized field are unlikely to be understood by a
non-expert. When preparing a speech, the speaker does
not consciously write for the interpreter to interpret, but
to present what he wants to debate or convince others
58
about a specialized point of view. Therefore, the inner
meaning of the problem is sometimes not explicitly
stated by the speaker. The given opinions are not for
explanation but for debate. Therefore, the interpreter
who wants to be successful must be able to detect both
the explicitly stated ideas and the implications.
61
When entering the interpreting profession, interpreters
must always be carefully trained and self-disciplined. So in
the life of a translator, a new translator can always ensure
three steps when accepting any translation task, which
includes before, during and after the assignment.
Be well-prepared
Before taking on a translation assignment for an event.
The interpreter must equip himself with knowledge about
the topic assigned carefully. This includes many aspects
such as research reading on the topic of translation,
collecting and selecting important information about the
conference, giving the interpreter the initiative
when performing tasks. For negotiations, you need
to prepare the main ideas, points that need to be
negotiated, your views on those points, and set
goals that both sides need to achieve through
negotiation. Once you have documents, you must
read thoroughly in both languages. There are two
tasks needed to be done:
- List new words in each speech (according to the text
given in advance by the speaker) without arranging
vocabulary alphabetically.
- Classify according to the needs of the conference and
arrange to suit your habits. You should arrange
documents into pairs of topics (in all two languages),
then arrange all documents in the order set up by the
conference or negotiation.
62
Equip yourself with linguistic competency
Interpreters should conduct research into new
concepts expressed in terms, try to memorize the more the
better and practice to be fluent when talking about the topic.
Moreover, cultural awareness is also a point that you should
pay attention to.
Be strictly on time
Interpreters should be present for at least 10
minutes if there is no need for them to prepare the
technical devices.
Sometimes, if there is
a need to meet the
presenter, to arrange
the tables, chairs, or
to test devices, then
you should arrive 15
to 30 minutes earlier.
63
Introduce yourself
Before interpreting, remember to ask for permission
from the conference or speakers for a minute to introduce
yourself with a short sentence or two. Don't say anything
that brags about your competency.
Be impartial
Interpreters should always follow the professional
demeanor although that person is your acquaintance or is in
a special relationship in life. When starting the job,
interpreters must always respect the speaker’s opinions as
they are your responsibilities. Remember not to express
your boredom, skepticism, opposition or irony towards the
job. When conveying a message from one language to
another, that message must be protected by the translator's
loyalty. Otherwise, this would lead to the phenomenon of
lopsided development, faulty vocational guidance.
64
Decline work
In advanced countries, interpreters refuse to
translate languages in which they are not trained,
accredited, or licensed. In Vietnam,however, because
there is no specialized training in interpreting as a
profession, this requirement cannot be fulfilled.
Interpreters should refuse to accept the job in case the topic
being translated is beyond his or her understanding of the
language to show your responsibility.
Cooperation
Interpreters should support the presenters. In some
cases, interpreters may “serve as a scapegoat” when
speakers present things that may annoy the audience.
Professional secrecy
Interpreters need to be aware that the ideas, events, or in
other words, the entire content of a conversation is not their
own knowledge. This intellectual copyright belongs to those
involved in conferences and talks. As such, interpreters are
not allowed to publish it
elsewhere, nor use it for
any purpose without the
permission. Interpreters
must not reveal
information of any major,
national secrets, even
personal secrets, or
details about other
people's private lives, etc.
65
2.3 After the assignment
66
emphasized that this component is crucial to interpretation
because it is necessary for a spoken message to be
comprehended before it can be effectively translated into
words of another language. When interpreting, meaning is
more important than form in the original language, and
sentences or messages are typically translated rather than
words.
In a word, it’s a must for an interpreter to convey a clear
message and to be able to organize the information without
translating word for word. Therefore, the interpreter should
follow three steps: understanding (the most important),
deciphering, and re-expressing.
Since understanding the ideas is subject to the concept of
“understanding” as aforementioned, useful techniques
essential for interpreters are various, depending on the
purpose of listening. Taking that into consideration, there
are two main techniques: listening to sentence stress to
guess the meaning and visualization. In the first technique,
depending on the context, interpreters could easily guess the
meaning of the whole sentence based on important words
spoken more loudly, clearly, and at higher pitch. The
second, namely visualization, means “see what you hear.”
In this technique, interpreters are required to visualize in
their mind what is being said, following these steps:
● Close your eyes to listen.
● Take a few deep breaths and relax.
● Concentrate as you listen.
● See and hear the things someone talks about.
● Smell the things he/she mentions.
● Pretend you are there.
67
Couple with the earlier techniques, there are also
some exercises for interpreters to practice and practical
strategies toward the information gap, including:
- Listen for gist (filter what speakers want to say)
- Listen for supporting details (decide which details
are important)
- Listen for wanted information (consider the context
to get the necessary information)
- Listen and take notes
- Listen and dictate (recall exact words and sentences
in the original speech)
- Listen for everything
- Take no risk (don’t guess without understanding)
- Ask for repetition (ask speakers to repeat or
explain)
- Delay information (compensate missing
information in another part of the interpretation)
2. Memory
68
Loyalty or accuracy of the interpretation depends much
on the memory phase, in which short-term memory (STM)
and long-term memory (LTM) are used by interpreters.
69
Besides, to improve memory, interpreters can try to
memorize phone numbers, poetry, literary works, basic
scientific formulas, and other information. Though there is
a time limit and the encoding and decoding process happens
quickly, comprehending the topic of discussion and
important phrases can help you retain the message. It will
be challenging for the interpreter to recall the content if they
are unfamiliar with the topic and the important terminology
spoken. These methods are useful for retaining newly
learned material.
70
3. Note-taking
71
the interpreter needs to resort to the ability to take notes and
remember. Taking notes is a supporting technique that helps
the translator remember a key amount of information.
72
● Write the first and last sentence of an idea,
● Write in vertical columns,
● Record in the target language.
4. Simplification
73
singing among the savage branches, it impales itself upon
the longest, sharpest spine. And, dying, it rises above its
own agony to out-carol the lark and the nightingale. One
superlative song, exists the price.. But the whole world still
listens, and God in His heaven smiles. For the nest is only
bought at the cost of great pain... Or so says the legend.
74
(The expert is talking about the wrong register to laymen).
A faithful rendering would just leave the audience confused.
That is the interpreter is trying to bridge the communication
gaps.
This technique is often used when translating for two
parties to have a direct conversation with each other, one
party asks, the other party answers.
5. Presentation
75
presenter's intentions. In general, a presentation usually has
one of two purposes: (1) conveying information, and (2)
persuading the audience. Scientific reports, lectures, etc. are
usually very informative. On the contrary, in a business talk
or a sales presentation, the presentation is often aimed at
persuasion.
76
The interpreter has been provided with two points: Why
and What. Before starting the translation task, the interpreter
must clearly determine who the listener is (Who). Analyzing
who the audience is will give the interpreter a clear idea:
how to get the message across to the audience. It has a
decisive impact on the use of language such as using many
specialized or common words, using academic or literary
style, ... and deciding what techniques to use in interpreting
like explanation, simplification, etc. or not. One of the
shortcomings that many interpreters often make is not
tailoring one's presentation to a particular audience. Ideally,
the interpreter should be able to answer the following
questions before starting the task:
AUDIENCE PROFILE
77
(1). Organize information (ie the content just heard by
the speaker in SL). Techniques such as listen for gist and
listen for detail help interpreters organize information well
in TL.
78
The first and second requirements are very important.
When listening to a speaker , the interpreter needs to
immediately grasp special issues. Then the interpreter will
effectively use techniques such as emphasis. The second
requirement is for paraphrase, simplification and summary
techniques. Requirements 3-7 are not relevant to the
interpreter's duties. But if the speaker creates situations such
as engaging the audience in activities or asking the audience
questions, the interpreter also need to do something to
enhance the speaker's appeal.
79
material way can totally mislead the triers of fact. The most
important factor for this level of accuracy is the use of a
team of two or more interpreters during a lengthy process,
with one actively interpreting and the second monitoring for
greater accuracy.
80
meaning and intention behind the communication rather
than focusing solely on individual words and phrases. This
holistic approach helps ensure the core of the source text
message without the cognitive saturation.
2. Fluent (Fluency)
3. Complete (Completeness)
82
a. Conveying the main message: The interpreter
should accurately and fully convey the main points
and ideas expressed by the speaker. This includes
capturing the essence and intent of the speaker's
message, ensuring that the overall meaning is
preserved.
b. Including all details: The interpreter should aim to
include all relevant details provided by the speaker.
This includes specific facts, figures, names, dates,
and any other information that is crucial for
understanding the context or content of the speech.
c. Translating idiomatic expressions and cultural
references: Interpreters should be skilled in
translating idiomatic expressions and cultural
references from the source language to the target
language. This ensures that the intended meaning is
accurately conveyed, even if the literal translation
may not make sense in the target language.
d. Handling complex ideas and technical
terminology: In situations where the speaker
discusses complex ideas or uses technical
terminology, the interpreter should have the ability
to break down and explain these concepts in a clear
and understandable manner in the target language.
e. Interpreting non-verbal cues: Interpreters should
also pay attention to non-verbal cues such as body
language, tone of voice, and facial expressions.
These non-verbal cues can provide additional
context and meaning to the speaker's message, and
the interpreter should convey them appropriately in
the target language.
83
f. Providing clarifications or seeking clarification: If
there is any ambiguity or uncertainty in the
speaker's message, a good interpreter should seek
clarification from the speaker or provide
clarifications to the audience to ensure a complete
understanding of the message.
84
b. Register and tone: Interpreters should match the
register and tone of the speaker. This includes
adjusting the level of formality, politeness, and style
of language to align with the speaker's
communication style and the expectations of the
audience.
c. Contextual understanding: Interpreters should have a
good understanding of the context in which the
communication is taking place. This includes being
aware of the purpose of the speech, the audience's
background and expectations, and any specific
requirements or constraints of the situation.
d. Adapting for different settings: Interpreters need to be
versatile and adaptable to various interpreting
settings, such as conferences, legal proceedings,
medical consultations, or community events. They
should be familiar with the conventions and
expectations of each setting and adjust their
interpretation accordingly.
e. Handling sensitive topics: In situations where
sensitive or controversial topics are being discussed,
interpreters should approach the interpretation with
tact and professionalism. They should be able to
convey the message accurately while maintaining
neutrality and respect for all parties involved.
f. Interpreting for different linguistic levels:
Interpreters should be able to adapt their
interpretation to the linguistic levels of the audience.
This includes adjusting the language complexity,
choice of vocabulary, and sentence structure to ensure
comprehension by all listeners.
85
g. Time constraints: Interpreters need to be aware of
time constraints and deliver their interpretation
efficiently. They should be able to convey the
message within the allocated time without rushing or
omitting important information.
References
1. Astm. (n.d.). Standard practice for language interpreting.
Retrieved from https://www.astm.org/f2089-15.html
2. Hùng, N. Q. (2007). Hướng dẫn kỹ thuật phiên dịch Anh -
Việt, Việt – Anh. Ho Chi Minh City General Publishing
House. Retrieved from
https://dokumen.tips/documents/huong-dan-ki-thuat-
phien-dich-anh-viet-viet-anh-nguyen.html?page=19
3. ISO. (n.d.). ISO 13611:2014 - Interpreting Guidelines for
community interpreting. Retrieved from
https://www.iso.org/standard/54082.html
4. Masduki, M. (2022). A textbook of interpreting. Retrieved
from https://www.researchgate.net/publication/355040768
_A_TEXTBOOK_Of_INTERPRETING
5. Movahedi, M. & Rahmatabadi, N, D. (2016). The
Importance of Listening and Short-Term Memory in
Interpreting. Retrieved from
https://translationjournal.net/April-2016/the-importance-
of-listening-and-short-term-memory-in-interpreting.html
86
6. NAATI. (2023). Skills and Competencies for Interpreting.
Retrieved from https://www.naati.com.au/resources/skills-
and-competencies-for-interpreting/
7. Nghĩa, N. (2022). Phiên Dịch Viên Là Gì? Muốn Làm
Thông Dịch Viên Thì Học Ngành Gì? Retrieved from
https://glints.com/vn/blog/phien-dich-vien-la-
gi/#cac_hinh_thuc_phien_dich
87