You are on page 1of 6

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỖI NGỮ DỤNG


VÀ VIỆC DẠY HỌC NGOẠI NGỮ
CẨM TÚ TÀI
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN

TÓM TẮT
Nội dung bài viết luận bàn về lỗi ngữ dụng trong giao tiếp liên văn hóa. Trong một số tình huống cụ thể
cho thấy, hiểu nhầm dụng ý của người phát ngôn, sự chuyển di gây ra ảnh hưởng tiêu cực từ tiếng mẹ
đẻ, khái quát hóa, suy luận dập khuôn một cách máy móc trong ngữ đích, không hiểu rõ đặc trưng văn
hóa tâm lý dân tộc là những nguyên nhân gây ra các lỗi sai về mặt ngữ dụng. Trên cơ sở này, chúng tôi
nêu ra những gợi ý liên quan đến dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại.
Từ khóa: dạy học ngoại ngữ, giao tiếp liên văn hóa, lỗi ngữ dụng

1. ĐẶT VẤN ĐỀ nhau [4]. Ngữ dụng học giao tiếp liên văn hóa
phân tích chi tiết qua các nội dung sau đây:
Hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ không đạt tới
ngưỡng chuẩn do một phần nguyên nhân xuất 2.1. Lỗi ngữ dụng trong sự khác biệt tương tác
phát từ lỗi ngữ dụng. Về bản chất, lỗi ngữ dụng ngôn ngữ
không phải là lỗi sai của cấu trúc ngữ pháp gây
ra, chủ yếu là do sự thiếu hụt về tính chuẩn mực, Trong giao tiếp ngôn ngữ, người phát ngôn
không phù hợp với ngữ cảnh, phong cách và thói thường căn cứ theo ngữ cảnh, tình huống để lựa
quen diễn đạt trong giao tiếp giữa các cộng đồng chọn ngôn từ nhằm diễn đạt chuẩn xác dụng ý
của mình. Nếu người phát ngôn sử dụng từ ngữ
ngôn ngữ gây ra. Nội dung bài viết bàn thảo sơ
thiếu chính xác, hoặc sử dụng từ ngữ gây ra
bộ về một số lỗi ngữ dụng và việc dạy học ngoại
những cách hiểu khác nhau, sẽ khiến cho người
ngữ, nhằm góp phần giúp người sử dụng ngoại
nghe có thể hiểu nhầm ý nghĩa của phát ngôn.
ngữ có thêm sự cảm nhận về tính chuẩn mực và
Cũng có những trường hợp do người nghe hiểu
tính hiệu quả của việc vận dụng ngôn từ trong
nhầm dụng ý, ý tại ngôn ngoại của người phát
giao tiếp. ngôn, dẫn đến lỗi ngữ dụng trong giao tiếp. Ví dụ:
2. BIỂU HIỆN CỦA LỖI NGỮ DỤNG TRONG (1) Sorry, I haven’t finished it yet. *Could you wait for
GIAO TIẾP a while?
Lỗi ngữ dụng thường xảy ra trong giao tiếp xã hội (Xin lỗi thày em vẫn chưa làm xong. *Thày có thể
và sử dụng ngôn ngữ, liên quan đến tính chuẩn đợi thêm một lát được không ạ?)
mực trong sự khác biệt và sự ảnh hưởng tương
tác ngôn ngữ, cùng các yếu tố văn hóa dân tộc Trong phát ngôn trên, người nói dường như muốn
và thói quen giao tiếp trong các ngôn ngữ khác thỉnh cầu đối phương chờ thêm một lát để hoàn

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


Số 2 - 7/2016 23
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY

thành nốt công việc sắp sửa kết thúc. Tuy nhiên, khách thứ hai, “when” đã gây ra cách hiểu khác
trong tình huống người nói là học sinh chưa hoàn nghĩa, khiến lái xe hiểu nhầm dụng ý. Nếu hành
thành bài tập, mong muốn xin giáo viên gia hạn khách thứ hai dùng cách nói “what time” (mấy
cho một vài ngày nữa làm xong để nộp, đã diễn giờ), sẽ tránh gây ra cách hiểu nhầm này.
đạt nhầm ý “extend the deadline a few days” (gia
hạn thêm một vài ngày nữa) thành “*wait for a Trong ví dụ (1), (2) và (3) đều xảy ra lỗi ngữ dụng
while” (*đợi thêm một lát), gây ra lỗi ngữ dụng về sử dụng từ ngữ trong những tình huống giao tiếp
mặt từ ngữ. cụ thể. Nguyên nhân phát sinh lỗi sai là do người
phát ngôn nhận định chủ quan cho rằng người
Trong tình huống của giờ dạy, giáo viên đưa ra thụ ngôn có thể hiểu được lời nói của mình, hoặc
yêu cầu sau: bản thân người thụ ngôn hiểu nhầm dụng ý của
người phát ngôn.
(2) Giáo viên: Who would like to answer the
question? - Thuc? 2.2. Lỗi ngữ dụng trong giao tiếp xã hội

(Ai sẵn sàng trả lời câu hỏi này? - Thục trả lời được chứ?) Lỗi ngữ dụng trong giao tiếp xã hội chủ yếu xuất
phát từ sự thiên lệch về những khác biệt trong
Thục: No, I wouldn’t. (Không ạ, em chưa sẵn sàng) qui ước, chuẩn mực nghi thức, phong tục tập
quán khi tiến hành giao tiếp liên văn hóa giữa
Dụng ý ngữ vi của giáo viên là đề nghị đích danh
hai cộng đồng ngôn ngữ. Ví dụ, trong tình huống
Thục, chứ không phải là người khác trả lời câu
một người phương Tây khen cô gái là người Á
hỏi, nhưng Thục lại hiểu nhầm, cho rằng giáo viên
Đông mặc bộ trang phục đẹp:
chỉ đơn thuần hỏi có thích hay không thích trả lời
câu hỏi. (4) Người khen: That’s a lovely dress you have on!
(Trang phục bạn đang mặc rất đẹp)
Chúng ta tiếp tục quan sát đối thoại trong tình
huống lái xe taxi đang chở khách trên đường đến Cô gái: No, no. It’s just a very ordinary dress. (Ồ
Hà Nội. Theo yêu cầu của hành khách thứ nhất, không. Chỉ thường thôi mà)
hành khách thứ hai đã truyền đạt tới lái xe như sau:
Câu nói phù hợp với tình huống giao tiếp này
(3) Hành khách 1: Ask the drive what time we get của cô gái phải là “Thank you” (xin cảm ơn bạn).
to Hanoi. Rõ ràng lời đáp của cô gái chịu sự chi phối của
tính cách khiêm nhường, hay có thói quen hạ
(Hỏi tài xế xem mấy giờ chúng ta sẽ đến Hà Nội)
thấp bản thân theo phong cách giao tiếp người
Hành khách 2: Could you tell me when we get to Á Đông, dẫn đến lỗi ngữ dụng. Điều này có thể
Hanoi, please? khiến cho người phương Tây hiểu thành hàm ý
ám chỉ, diễu cợt họ thiếu kiến thức về thẩm mỹ,
(Khi nào đến Hà Nội xin hãy nói cho chúng tôi được biết) không phân biệt được thế nào là trang phục đẹp.

Láixe:Don’tworry,it’sabigandcrowdedcity,I’lltellyou. Sự khác biệt về bối cảnh văn hóa, đặc trưng văn
hóa, tâm lý dân tộc có lúc cũng gây ra lỗi ngữ
(Các ông đừng lo, Hà Nội là thành phố lớn và đông dụng trong giao tiếp. Ví dụ nếu người bán hàng
đúc. Khi tới nơi tôi sẽ bảo các ông) theo thói quen hỏi khách hàng là người phương
Tây đến mua hàng bằng câu hỏi:
Trong giao tiếp trên, hành khách thứ nhất muốn
được biết vào lúc mấy giờ (what time) sẽ đến Hà (5) What do you want? (Anh/ chị cần mua thứ gì?)
Nội, nhưng lái xe lại hiểu yêu cầu của hành khách
thứ hai là “lúc nào đến Hà Nội hãy nói với họ một Người phương Tây cho rằng câu hỏi như vậy
tiếng để được biết”. Trong phát ngôn của hành không được lịch sự. Thông thường người phương

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


24 Số 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

Tây sẽ hỏi: “Can I help you?” (Tôi có thể giúp được gì Người phương Tây thường cho rằng, phương
cho ông/ bà?) hoặc “What can I do for you?” (Tôi có thức giao tiếp (7) và (8) trên đây không phù hợp
thể hỗ trợ gì cho ông/ bà?) với chuẩn mực giao tiếp, nhưng để đảm bảo
nguyên tắc hợp tác về lượng trong giao tiếp, họ
Hoặc khi gặp người bạn phương Tây mua về khá thường yêu cầu người phát ngôn giải thích tường
nhiều đồ, theo thói quen chúng ta thường nói: tận hơn: “So what?” (Sao vậy?) hoặc “Then do you
want me to do something for you?”(Sau đây em cần
(6a) Oh, you’ve bought so much! (Ồ, bạn mua được
tôi làm gì cho em?)
nhiều đồ nhỉ!)
Lỗi ngữ dụng trong giao tiếp còn xảy ra trong tình
(6b) What a lot you have bought! (Bạn mua được
khá nhiều đồ đấy nhỉ!) huống người phát ngôn không lưu ý đến thân
phận và địa vị của người thụ ngôn, như chú trọng
Tuy nhiên người bạn phương Tây sẽ không cho quá mức tới nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp,
rằng đây là những câu nói mang hàm ý ngưỡng ngay cả đối tượng giao tiếp là người thân quen. Ví
mộ. Do vậy, câu nói (6a) và (6b) đều không phù dụ, khi mượn sách của bạn thân, không cần thiết
hợp với tâm lý tiếp nhận của người bạn phương phải diễn đạt quá mức trịnh trọng, khiến cho đối
Tây này. phương cảm thấy giao tiếp bị gò bó, khuôn sáo:

Người Á Đông thường có lối nói vòng vo, rào (9) Would you be kind enough to lend it to me? (Bạn sẽ
đón, đưa đẩy, tránh ngay lập tức đi thẳng vào vấn không cảm thấy phiền toái gì khi cho tôi mượn chứ?)
đề chính, và coi đây cũng là một trong những
nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp. Ví dụ trong tình Hoặc khi đề nghị người lái xe tắc xi đưa ra sân bay,
huống đối đáp lời mời của người phương Tây, chỉ cần nói: “Airport, please” (Hãy chở tôi đến sân
xuất phát từ phép lịch sự, theo thói quen, chúng bay) thay cho lối diễn đạt dập khuôn, dài dòng
ta thường đưa ra những câu trả lời mang hàm ý dưới đây:
mơ hồ, không rõ ràng. Ví dụ:
(10) Excuse me, would you mind taking me to the
(7) A: Will you have a cup of coffee? (Bạn sẽ dùng airport? (Xin lỗi, anh không cảm thấy phiền hà khi
một tách cà phê chứ?) chở tôi ra sân bay chứ?)

B: Thank you! (Cảm ơn!) Trong giao tiếp thường nhật có sự khác biệt trong
văn hóa phương Đông và phương Tây. Với người
Với tình huống này, A sẽ cảm thấy rất khó nắm lạ hay mới quen biết, người phương Tây không
bắt được ý muốn của bạn để tiếp tục xử lý, quyết
có thói quen đưa ra những câu hỏi liên quan tới
định chuẩn bị, hoặc gọi cà phê cho bạn. Câu trả lời
vấn đề riêng tư của đối phương, như về thu nhập,
rõ ràng cho A thông thường phải là “Yes, please”
tuổi tác, tôn giáo, quan điểm chính trị, tình trạng
(Vâng, xin sẵn lòng), hoặc là “No, thanhk you” (Tôi
hôn nhân. Ở Việt Nam và một số nước Á Đông
không dùng đâu, cảm ơn bạn!).
khác lại cho rằng, những câu hỏi như vậy thuộc
Có tình huống học sinh muốn nhờ thày giáo về các chủ điểm giao tiếp thông thường, thể hiện
người phương Tây chữa giúp bài viết, đã diễn đạt: sự thân thiện, quan tâm tới đối phương [2]. Do
vậy, những lời chào hỏi theo thói quen giao tiếp
(8) I wonder if you are free or not. I’ve never written Á Đông trong ví dụ (11) và (12) dưới đây với người
such an essay before, so I’ve probable made lots of phương Tây có thể gây ra những phiền muộn, khó
mistakes. chịu, dường như tự do cá nhân đang bị xâm phạm:

(Em không rõ là thày có thời gian hay không? Từ (11) Where are you going? (Bạn đi đâu đấy?)
trước tới giờ em chưa từng viết bài luận nào như
vậy, chắc là sẽ có rất nhiều lỗi sai) (12) Have you had your meal? (Bạn ăn cơm chưa?)

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


Số 2 - 7/2016 25
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY

Phân tích các ví dụ trong những tình huống cụ ngữ chủ yếu chỉ chú trọng tới khâu truyền đạt,
thể trên cho thấy, hiểu nhầm dụng ý của người tiếp thu kiến thức ngôn ngữ, đặt biệt là từ vựng
phát ngôn, sự chuyển di gây ra ảnh hưởng tiêu và ngữ pháp. Người học tiếp thu từ vựng, sau
cực từ tiếng mẹ đẻ, việc khái quát hóa, suy luận đó dập khuôn, lắp ghép vào các cấu trúc ngữ
dập khuôn một cách máy móc trong ngữ đích, pháp và luyện tập mẫu cấu trúc. “Trong dạy học
nắm không vững đặc trưng văn hóa tâm lý dân ngoại ngữ thường tồn tại khuynh hướng đánh
tộc là những nguyên nhân gây ra các lỗi sai về đồng giữa hình thức ngôn ngữ và chức năng giao
mặt ngữ dụng trong giao tiếp. tiếp… khiến cho người học suy luận nhầm là, muốn
ra lệnh thì nhất định phải sử dụng câu cầu khiến;
3. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ LỖI NGỮ DỤNG muốn hỏi thì nhất nhất phải dùng câu nghi vấn”
TRONG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ [1]. (In foreign language teaching the tendency is
to assume an equation between linguistic form and
Mục đích của việc dạy học ngoại ngữ là sử dụng communicative function… learners are commonly
được ngữ đích một cách thành thạo và đúng misled into thinking that commands are general
chuẩn trong giao tiếp. Bên cạnh kiến thức ngôn associated with imperative sentences and questions
ngữ nói chung, người học càng cần nắm vững with interrogative sentences). Thực tế giao tiếp có
kiến thức ngữ dụng. Trong quá trình sử dụng những tình huống cần xử lý linh hoạt, sử dụng
ngoại ngữ, lỗi sai về kiến thức ngôn ngữ thuộc phương thức diễn đạt rút gọn là đã đảm bảo về
về bề nổi, dễ nhận diện và chỉnh sửa. Người học lượng thông tin trong giao tiếp. Nếu quá máy
có thể mắc lỗi sai về ngữ pháp, dùng sai từ, phát móc vận dụng cấu trúc đầy đủ đã học sẽ phát
âm và ngữ điệu chưa chuẩn xác. Người thụ ngôn sinh ra lỗi ngữ dụng như ví dụ (9) và (10) nêu trên,
dễ dàng nhận ra và thường có thái độ đối xử bao hoặc gây ra những cách hiểu khác nhau về dụng
dung, tha thứ. Vì đa phần người thụ ngôn hiểu ý của người phát ngôn. Ví dụ:
được, với người học, đây chỉ là ngoại ngữ, ngôn
ngữ thứ hai. Lí do phát sinh lỗi có thể là do người (13) Have you seen Binh lately? (Gần đây anh có
học chưa nắm vững, đầy đủ và thành thạo ngoại gặp Bình đấy chứ?)
ngữ. Kiến thức này có thể bổ khuyết và thông qua
thực hành, rèn luyện để đạt chuẩn. Tuy nhiên, với (14) Seen Binh lately? (Gần đây anh có gặp Bình chứ?)
lỗi sai về mặt ngữ dụng, sẽ gây ra hiệu ứng tiêu
cực khó đoán định hậu quả trong giao tiếp. Nếu Trong câu (13) người thụ ngôn có thể hiểu theo
không chú ý đến ngữ cảnh giao tiếp, sử dụng nhiều ý khác nhau như hỏi, thỉnh cầu, phản vấn
ngôn từ không phù hợp, thiếu chuẩn mực, dễ gây tu từ hoặc cảm thán. Tuy nhiên, trong câu rút gọn
ra hiện tượng đường đột, thất thố, mạo phạm (14) người thụ ngôn sẽ chỉ hiểu theo hàm ý thỉnh
đến đối phương, gây ra sự phản cảm, khó chấp cầu: “người phát ngôn thỉnh cầu đối phương
nhận từ đối phương. Thậm chí đối phương còn cung cấp tình hình gần đây về Bình”.
có thể nhận định người phát ngôn có những ý đồ
không lành mạnh, thiếu tư chất. Hậu quả dẫn đến Phương pháp dạy học ngoại ngữ truyền thống
giao tiếp khó diễn ra một cách thuận lợi, hơn nữa thường ít chú ý tới giá trị giao tiếp của ngôn ngữ,
còn có thể thất bại. chưa nhấn mạnh cho người học nắm bắt được
phương pháp phát ngôn như thế nào? Nói lúc
3.1. Nhận định sơ bộ về lỗi sai ngữ dụng của nào là phù hợp? Nói với đối tượng nào? Nói về nội
người học dung gì? Lựa chọn những ngôn từ nào? Ví dụ có
những tình huống do không nắm bắt được đặc
Quan sát và phân tích lỗi ngữ dụng của người trưng tâm lý độ tuổi, khen ngợi đối phương là
học, chúng tôi nhận thấy lỗi sai của người học phụ nữ chưa đến tuổi 40 ăn mặc trông trẻ và đẹp,
ngoại ngữ có liên quan tới vấn đề tăng cường bồi nhưng kết quả lại gây ra hiệu ứng ngược:
dưỡng kiến thức ngữ dụng và nâng cao năng lực
giao tiếp liên văn hóa trong dạy học. Trong một (15) You look nice and younger wearing this dress.
khoảng thời gian khá dài, việc dạy học ngoại (Bạn trông trẻ hơn và rất xinh khi mặc bộ đồ này)

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


26 Số 2 - 7/2016
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v

Đương nhiên khen người có độ tuổi 50 trở lên là Anh “Holiday” (ngày nghỉ, kỳ nghỉ), có nguồn gốc
trẻ sẽ khiến cho đối phương có tâm lý thích thú và từ Kinh thánh “holy+day” (ngày của Chúa), trong
hứng khởi. Tuy nhiên, với phụ nữ chưa đến 40 tuổi ngày này mọi người được nghỉ ngơi và đến nhà
lại đưa ra lời khen như vậy sẽ khiến họ nghĩ nếu thờ cầu nguyện. Như vậy, người học sẽ nắm bắt
bình thường không ăn vận như vậy sẽ trông già được cấu tạo từ và tín ngưỡng tôn giáo ở nước Anh.
và xấu, hoặc đây chỉ là câu khen chiếu lệ, không
thực chất. Nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hóa cho
người học
Trong một số tình huống, xuất phát từ nguyên tắc
lịch sự, sử dụng lối nói gián tiếp nhiều khi có hiệu Trong dạy học ngoại ngữ, cần có những phân
quả hơn là dùng lối nói trực tiếp: tích thấu đáo về lỗi ngữ dụng, giải thích rõ về các
nguyên tắc ngữ dụng nên lưu ý trong giao tiếp
(16a) Why don’t you come over? (Tại sao bạn lại liên văn hóa, phân tích những nhân tố văn hóa,
không đến đó?) tâm lý gây ảnh hưởng đến ngữ cảnh sử dụng
ngôn ngữ, đối chiếu, so sánh sự tương đồng và
(16b) Come over! (Đến đó đi!) khác biệt dụng học giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại
ngữ để giúp người học tránh được những lỗi
(17a) The door is open. (Cửa đang mở đấy) sai như các trường hợp đã nêu ở trên. Ví dụ, qua
đối chiếu, ta có thể thấy được sự tương đồng và
(17b) Close the door! (Đóng cửa lại!) những khác biệt về mặt giá trị của câu hỏi và lời
chào trong tiếng Việt và tiếng Anh.
Cách diễn đạt ở ví dụ (16a) và (17a) có hàm ý uyển
chuyển, lịch sự hơn trong biểu thức ngữ vi thể (18) Bạn đi học à ? (thay cho lời chào)
hiện sự cầu khiến và ra lệnh so với cách diễn đạt ở
ví dụ (16b) và (17b). (19) Are you going to school ? (Bạn đi học đấy à?) (là
câu hỏi)
3.2. Một số vấn đề liên quan trong dạy học
ngoại ngữ hiện nay Cơ chế chào hỏi như trong ví dụ (18) của người
Việt là một yếu tố mang đậm tính văn hóa. Người
Tăng cường bồi dưỡng kiến thức ngữ dụng cho Việt chào bằng cách hỏi hay nói một cách khác là
người học đặt một câu hỏi thay cho lời chào. Chính cơ chế
này đã làm cho câu hỏi trong tiếng Việt trở thành
Thực tế giao tiếp và hiện trạng dạy học ngoại ngữ một trong những phương tiện phổ biến để thực
cho thấy, cùng với dạy học kiến thức ngôn ngữ, hiện hành vi chào: các câu hỏi trong tiếng Việt,
cần tăng cường dạy học kiến thức, bồi dưỡng chỉ với một điều kiện duy nhất là phù hợp với tình
nâng cao kiến thức ngữ dụng cho người học. huống giao tiếp đều có thể trở thành biểu thức
Trong thực trạng dạy học ngoại ngữ trong nước chào hỏi [3]. Giá trị này không có trong câu hỏi
hiện nay, chúng ta đều có thể nhận thấy sự thiếu tiếng Anh, như ở ví dụ (19). Kết quả của công việc
hụt ngữ cảnh, tình huống giao tiếp ngôn ngữ đối chiếu này có thể tạo điều kiện giúp người học
thực tiễn. Chính vì vậy, trong thực tiễn dạy học, biết cách chào hỏi và đặt câu hỏi một cách phù
giáo viên có thể căn cứ theo yêu cầu về nội dung hợp trong giao tiếp với người bản ngữ tiếng Anh.
môn học, trình độ, giai đoạn học tập của người
học để lựa chọn, kết hợp thêm các phương pháp Năng lực và kỹ năng giao tiếp, ứng xử liên văn
và cách thức bổ sung kiến thức ngữ dụng qua hóa thường được cụ thể hóa qua việc giao tiếp
dạy học các nội dung về văn hóa, lịch sử, phong ngoại ngữ bằng lời nói và ngôn ngữ cử chỉ. Trong
tục tập quán, đặc điểm giao tiếp, tâm lí dân tộc... dạy học ngoại ngữ, giáo viên cần phân tích thấu
của đất nước ngữ đích. Ví dụ, khi dạy học từ vựng, đáo cho người học nắm được những nhân tố liên
giáo viên có thể kết hợp phương thức cấu tạo từ quan đến giao tiếp liên văn hóa. Ví dụ, trong quan
với việc truyền đạt kiến thức văn hóa: từ tiếng hệ công việc, việc áp dụng từ ngữ xưng hô thân

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


Số 2 - 7/2016 27
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY

tộc của người Việt rõ ràng sẽ không phù hợp với 2. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng Học Việt Ngữ,
đối tượng người phương Tây. Với các đối tượng NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
giao tiếp khác nhau, cần lựa chọn các chủ điểm,
chuẩn mực ngôn từ, cử chỉ, thái độ giao tiếp phù 3. Nguyễn Việt Tiến (2010), “Ngữ dụng học với việc
hợp để đảm bảo nguyên tắc hợp tác, lịch sự, tránh dạy và học ngoại ngữ (trên cứ liệu tiếng Pháp)”,
xảy ra xung đột văn hóa có liên quan đến sự riêng Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ, 26, tr 157.
tư, tôn giáo, chính trị, pháp luật, kiêng kỵ, tuổi tác,
giới tính (xem ví dụ 15) [2]… 4. Thomas, J (1983), “Cross-cultural Pragmatic
Failure”, Applied Linguistic, vol 4 (2), tr 91-112.
Việc bồi dưỡng nâng cao năng lực giao tiếp liên
văn hóa cho người học có thể được tiến hành
qua nhiều hoạt động khác nhau, như thiết kế, tạo
PRAGMATIC FAILURES AND FOREIGN
dựng các ngữ cảnh mô phỏng thực tại; hướng
LANGUEGE TEACHING
dẫn người học đọc thêm các tài liệu, tác phẩm
văn học, xem các bộ phim tiêu biểu của quốc gia Abstract: This paper reports on the pragmatic
ngữ đích; bố trí giảng viên người nước ngoài tham failures in cross-cultural communication. In
gia dạy học ngoại ngữ, tổ chức các buổi tọa đàm some specific situations, the pragmatic failures
chuyên đề về kiến thức ngữ dụng và kỹ năng giao may result from misunderstanding of speaker’s
tiếp liên văn hóa; tổ chức các hoạt động ngoại intention, negative transfer from native language,
khóa, dạ hội, trại hè, câu lạc bộ ngoại ngữ, tổ chức generalizations, mechanical deduction into
giao lưu với sinh viên nước ngoài,… Trong từng target language, the cultural characteristics and
hoạt động, giáo viên sẽ đặt ra mục tiêu, thiết kế national psychology. This paper is concluded
nội dung, chọn lựa phương thức tiến hành phù by recommending some solutions for foreign
hợp với các đối tượng người học ngoại ngữ. language teaching in Vietnam.
4. KẾT LUẬN Keywords: foreign language teaching, cross-
cultural communication, pragmatic failure
Trong một số tình huống giao tiếp liên văn hóa
cụ thể, lỗi ngữ dụng phát sinh do người thụ ngôn Ngày nhận: 08/7/2016
hiểu nhầm dụng ý của người phát ngôn. Có những Ngày phản biện: 18/7/2016
lỗi xảy ra do sự chuyển di tiêu cực từ tiếng mẹ đẻ, Ngày duyệt đăng: 22/7/2016
hoặc do người sử dụng ngôn ngữ khái quát hóa,
suy luận dập khuôn một cách máy móc trong
ngữ đích, hoặc do sự lệch pha từ đặc trưng văn
hóa tâm lý dân tộc giữa các cộng đồng ngôn ngữ
khác nhau gây ra. Ngoài những vấn đề được đề
cập đến trong nội dung bài viết, trong thực tiễn
giao tiếp ngôn ngữ có thể còn xuất hiện nhiều lỗi
ngữ dụng khác. Chúng tôi hy vọng ở một mức độ
nhất định, bài viết có thể cung cấp thêm tài liệu
tham khảo trong nghiên cứu đối chiếu ngôn ngữ
và dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam./.

Tài liệu tham khảo:

1. Criper, C & Winddowson, H (1975),


Sociolinguistic and Language Teaching, In Allen,
J & Corder, S (eds.), Papers in Applied Linguistics 2.
London: Oxford University Press.

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ


28 Số 2 - 7/2016

You might also like