You are on page 1of 203

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN ANH THƯỜNG

PHẠM THỊ LOAN

LOGIC HỌC

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2

LỜI NÓI ĐẦU


Logic học ra đời từ rất sớm, đóng vai trò quan trọng trong nhận thức cũng như
đời sống xã hội. Có thể nói, nó vừa là một khoa học lý thuyết, vì nó có đối tượng và
phương pháp nghiên cứu rõ ràng, kiểm định được giá trị đúng sai, giúp con người có
thao tác tư duy hợp lý để đạt được tri thức chân lý; đồng thời nó cũng được xem như
một nghệ thuật vì nó giúp con người nâng cao khả năng ứng xử và sáng tạo trong
cuộc sống. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, tri thức logic học được coi là công cụ
cần thiết để tiếp cận, giải quyết các vấn đề trong khoa học cũng như trong cuộc sống
nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hơn. Để đáp ứng nhu cầu thiết thực của đông đảo
sinh viên và quý bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu logic học, giáo trình logic học này được
biên soạn dựa trên sự tổng hợp kết quả nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy trong
nhiều năm ở đại học của các tác giả. Giáo trình có đặc điểm vừa bám sát chương trình
khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đồng thời cập nhật được các tài liệu logic mới
của các trường đại học tiên tiến trên thế giới.

Giáo trình được kết cấu thành 6 chương:

Chương 1: Dẫn luận vào logic học

Chương 2: Các quy luật cơ bản của tư duy

Chương 3: Khái niệm

Chương 4: Phán đoán

Chương 5: Suy luận

Chương 6: Giả thuyết, chứng minh và bác bỏ ngụy biện

Mặc dù các tác giả đã cố gắng rất nhiều song không tránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được góp ý của các nhà khoa học, quý bạn đọc
để tài liệu học tập này được tốt hơn.
3

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. DẪN LUẬN VÀO LOGIC HỌC

1. Khái niệm, đối tượng và phân loại logic học ................................................. 6

1.1. Thuật ngữ logic và logic học ....................................................................... 6

1.2. Phân loại logic học ...................................................................................... 7

2. Lược sử về logic học ...................................................................................... 9

3. Logic học với các giai đoạn trong quá trình nhận thức ................................ 13

3.1. Nhận thức cảm tính ................................................................................... 13

3.2. Nhận thức lý tính với tư cách là đối tượng nghiên cứu của logic học ...... 14

4. Ý nghĩa của logic học ................................................................................... 17

4.1. Ý nghĩa khoa học ....................................................................................... 17

4.2. Ý nghĩa thực tiễn ....................................................................................... 20

CÂU HỎI ÔN TẬP .......................................................................................... 23

CHƯƠNG 2. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY

1. Quy luật đồng nhất ....................................................................................... 24

1.1. Định nghĩa và ký hiệu ............................................................................... 24

1.2. Yêu cầu của quy luật đồng nhất ................................................................ 25

1.3. Ý nghĩa của quy luật đồng nhất ................................................................. 26

2. Quy luật phi mâu thuẫn ................................................................................ 26

2.1. Định nghĩa và ký hiệu ............................................................................... 26

2.2. Phân biệt khái niệm mâu thuẫn hình thức và mâu thuẫn biện chứng ......... 27

2.3. Yêu cầu của quy luật phi mâu thuẫn ......................................................... 27

2.4. Ý nghĩa của quy luật phi mâu thuẫn .......................................................... 28


4

3. Quy luật triệt tam .......................................................................................... 28

3.1. Định nghĩa và ký hiệu ............................................................................... 28

3.2. Yêu cầu của quy luật triệt tam ................................................................... 28

3.3. Ý nghĩa của quy luật triệt tam ................................................................... 29

4. Quy luật túc lý .............................................................................................. 29

4.1. Định nghĩa và ký hiệu ............................................................................... 29

4.2. Yêu cầu của quy luật túc lý ....................................................................... 29

4.3. Ý nghĩa của quy luật túc lý ........................................................................ 30

CÂU HỎI ÔN TẬP .......................................................................................................... 30

CHƯƠNG 3. KHÁI NIỆM

1. Khái quát về khái niệm ................................................................................. 34

1.1. Khái niệm là gì? ........................................................................................ 34

1.2. Kết cấu của khái niệm ............................................................................... 34

1.3. Phân loại khái niệm ................................................................................... 36

1.4. So sánh khái niệm với từ ........................................................................... 39

1.5. Mối quan hệ của các khái niệm ................................................................. 41

2. Các thao tác logic đối với khái niệm ............................................................ 45

2.1. Chuyển dịch khái niệm .............................................................................. 45

2.2. Định nghĩa khái niệm ................................................................................ 47

2.3. Phân chia khái niệm .................................................................................. 54

CÂU HỎI ÔN TẬP .......................................................................................... 59

CHƯƠNG 4. PHÁN ĐOÁN

1. Khái quát về phán đoán ................................................................................ 63


5

1.1. Phán đoán là gì? ........................................................................................ 63

1.2. Phán đoán với câu ..................................................................................... 63

1.3. Phân loại phán đoán .................................................................................. 64

2. Nội dung và quy tắc của các loại phán đoán ................................................ 66

2.1. Nội dung và quy tắc của phán đoán đơn ................................................... 66

2.2. Nội dung và quy tắc của các loại phán đoán phức .................................... 76

2.3. Cách xác định giá trị chân lý của phán đoán phức bằng bảng chân trị hoặc
bảng ngữ nghĩa .......................................................................................................... 87

3. Chuẩn hóa phán đoán ................................................................................... 89

3.1. Chuẩn hóa phán đoán là gì? ...................................................................... 89

3.2. Chuẩn hóa về nội dung và hình thức ......................................................... 89

4. Tính đẳng trị của các phán đoán ................................................................... 91

CÂU HỎI ÔN TẬP .......................................................................................... 92

CHƯƠNG 5. SUY LUẬN

1. Khái quát về suy luận ................................................................................... 96

1.1. Suy luận là gì? ........................................................................................... 96

1.2. Cấu tạo logic của phép suy luận ................................................................ 96

1.3. Suy luận, phán đoán và khái niệm ............................................................. 97

1.4. So sánh suy luận với suy ý ........................................................................ 97

1.5. Nguyên tắc chung của suy luận ................................................................. 97

1.6. Các loại suy luận ....................................................................................... 99

2. Nội dung và quy tắc của các loại suy luận .................................................. 99

2.1. Suy luận diễn dịch ..................................................................................... 99

2.2. Suy luận quy nạp ..................................................................................... 123


6

2.3. Suy luận tương tự .................................................................................... 135

CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................ 137

CHƯƠNG 6. GIẢ THUYẾT, CHỨNG MINH VÀ BÁC BỎ NGỤY BIỆN

1. Giả thuyết .................................................................................................. 147

1.1. Giả thuyết là gì? ..................................................................................... 147

1.2. Cấu trúc của giả thuyết ........................................................................... 148

1.3. Các loại giả thuyết .................................................................................. 149

1.4. Quy trình xác nhận giả thuyết ................................................................ 151

1.5. Các phương pháp xác nhận giả thuyết ................................................... 152

1.6. Giả thuyết và lý thuyết khoa học ............................................................ 153

2. Chứng minh ................................................................................................ 155

2.1. Chứng minh là gì? ................................................................................... 155

2.2. Cấu trúc của phép chứng minh ................................................................ 155

2.3. Phân loại chứng minh ............................................................................. 158

2.4. Quy tắc chứng minh ................................................................................ 161

3. Ngụy biện và bác bỏ nguỵ biện ................................................................. 163

3.1. Ngụy biện là gì? ...................................................................................... 163

3.2. Phân loại ngụy biện ................................................................................. 163

3.3. Phương pháp bác bỏ ngụy biện ............................................................... 174

CÂU HỎI ÔN TẬP ........................................................................................ 177

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM ÔN TẬP ........................................................... 183

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 203


7

Chương 1
DẪN LUẬN VÀO LOGIC HỌC

1. Khái niệm, đối tượng và phân loại logic học

1.1. Thuật ngữ logic và logic học

Thuật ngữ logic được sử dụng hiện nay trong tiếng Việt bắt nguồn từ thuật ngữ
logos (λόγος) trong tiếng Hy Lạp với nhiều nghĩa khác nhau: lời nói, diễn thuyết, ý
nghĩa, lý tính, trật tự, quy luật, chân lý, hữu thể, suy tưởng nội tại… Từ nghĩa suy
tưởng nội tại, Aristote đã gọi khoa học mà mình sáng lập nên là Episteme logike. Về
sau, thuật ngữ logike được dùng một mình để chỉ khoa học nghiên cứu về các quy
luật và các thao tác của tư duy trong quá trình truy tìm và chứng minh chân lý. Thuật
ngữ này khi Latinh hóa, thành logica. Logica là nguồn gốc của hàng loạt từ trong
ngôn ngữ châu Âu như: logique trong tiếng Pháp, logic trong tiếng Anh, logik trong
tiếng Đức…

Thuật ngữ logic trong tiếng Việt hiện nay là sự tiếp biến của thuật ngữ logique
trong tiếng Pháp và logic trong tiếng Anh: viết như tiếng Anh - logic, nhưng phát âm
gần như tiếng Pháp - logique.

Thuật ngữ logic trong tiếng Việt mang nhiều nghĩa:

- Thứ nhất, tính chặt chẽ, nhất quán, hợp lý của lập luận. Chẳng hạn như: “Lập
luận của vị diễn giả rất logic, vì vậy thuyết phục được hầu hết mọi người tham dự”.
Với ý nghĩa này, logic được hiểu là tính hợp lý trong tư duy.

- Thứ hai, trong những trường hợp nhất định, thuật ngữ logic còn được hiểu như
tính quy luật, tính tất yếu của thế giới hiện thực khách quan. Chẳng hạn như, “Logic
của quá trình phát triển xã hội loài người là sự thay thế các hình thái kinh tế tiến bộ
hơn”. Với nghĩa này, logic được hiểu là tính tất yếu, quy luật khách quan.

Thuật ngữ logic học trong tiếng Việt hiện nay dùng để chỉ khoa học nghiên cứu
về các quy luật và các hình thức của tư duy trong quá trình truy tìm và chứng minh
chân lý. Cụ thể là logic học nghiên cứu các quy luật cơ bản của tư tuy như: quy luật
đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam, quy luật túc lý và các hình thức
tư duy: khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh và bác bỏ ngụy biện.
8

1.2. Phân loại logic học

Dựa trên những tiêu chí khác nhau, người ta có thể chia logic học ra nhiều loại
khác nhau. Nếu căn cứ trên quá trình phản ánh của nhận thức, logic học được chia
thành hai loại: logic học hình thức và logic học biện chứng.

1.2.1. Logic học hình thức (formal logic)

Logic học hình thức là khoa học nghiên cứu về hình thức, về kết cấu của tư duy
trong quá trình nhận thức chân lý với những đặc trưng cơ bản như:

Thứ nhất, không chú trọng đến nội dung. Logic học hình thức chỉ chú trọng đến
hình thức của khái niệm, phán đoán và suy luận. Chẳng hạn, phán đoán: tất cả người
mù đều thính tai. Logic học hình thức không quan tâm đến nội dung của các khái
niệm người mù là gì, thính tai là gì, người mù đều thính tai đúng hay sai? mà chỉ quan
tâm đến các khái niệm trong phán đoán đó là chung hay riêng, khái niệm nào đầy đủ,
khái niệm nào không đầy đủ, phán đoán này là phán đoán phủ định hay khẳng định,
phán đoán chung hay phán đoán riêng…

Thứ hai, logic học hình thức là logic phản ánh thế giới trong trạng thái tĩnh tại.
Trên thực tế, không có sự vật nào đứng yên tuyệt đối. Thế nhưng, khi phản ánh vào
trong tư duy logic hình thức nó được tĩnh tại hóa, vì vậy, một khái niệm khi đã phản
ánh một đối tượng luôn luôn được đồng nhất với chính nó. Chẳng hạn, khái niệm Dân
tộc Việt Nam. Mặc dù qua nhiều thời kỳ khác nhau, Dân tộc Việt Nam biến đổi rất
nhiều, nhưng khái niệm Dân tộc Việt Nam vẫn luôn luôn đồng nhất với chính nó,
không có gì thay đổi.

1.2.2. Logic học biện chứng (dialectical logic)

Logic học biện chứng là khoa học nghiên cứu về các quy luật, các thao tác của
tư duy trong quá trình vận động và biến đổi. Logic học biện chứng vừa là học thuyết
về sự vận động phát triển của tư duy và tư duy biện chứng, vừa là lý luận về sự phát
triển lý thuyết khoa học và phong cách tư duy khoa học. Nội dung của khái niệm
logic học biện chứng được hiểu rất rộng. Nó không chỉ là khoa học về những hình
thức và quy luật vận động của tư duy, nhận thức sự vật trong tính tất yếu, trong những
mối quan hệ toàn diện, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, mà còn là logic nghiên
9

cứu của khoa học. Có thể nhận thấy logic học biện chứng với một số đặc trưng cơ
bản như:

Thứ nhất, logic học biện chứng nghiên cứu các quy luật và thao tác của tư duy
trong trạng thái vận động biến đổi. Một đối tượng khi được phản ánh nó vừa là nó lại
vừa không phải là nó. Nghĩa là không gian thay đổi, thời gian thay đổi, mối quan hệ
thay đổi, sự vật đó không thể là nó trong mọi nơi mọi lúc nên khái niệm, phán đoán,
suy luận về nó cũng phải biến đổi theo.

Chẳng hạn, đối tượng A ở không gian S1, thời gian T1 thì nó là A1 nhưng khi
ở không gian S2, thời gian T2 thì nó là A2.

Thứ hai, logic học biện chứng không chỉ nghiên cứu hình thức, kết cấu của tư
duy mà còn quan tâm đến nội dung của các khái niệm, phán đoán, suy luận. Chẳng
hạn, trước suy luận “Mọi loài chim đều biết bay. Chim cánh cụt cũng là loài chim.
Vậy, chim cánh cụt biết bay”, logic học biện chứng xác định nội dung của phán đoán
“Mọi loài chim đều biết bay” là không chân thực, phán đoán này không phù hợp với
hiện thực khách quan, vì vậy, dẫn đến kết quả suy luận này sai vì đại tiền đề là một
phán đoán sai.

1.2.3. So sánh logic học hình thức và logic học biện chứng

Logic học hình thức xét mọi sự vật trong sự riêng rẽ và trạng thái tĩnh, còn logic
học biện chứng xét mọi sự vật trong mối quan hệ lẫn nhau và trong quá trình vận
động, phát triển của chúng. Logic học hình thức căn cứ trên nguyên lý đồng nhất,
logic học biện chứng căn cứ trên nguyên lý mâu thuẫn. Một đằng xét một khía cạnh
của đối tượng; còn một đằng xét đối tượng một cách toàn diện và trong mối quan hệ
với các sự kiện, hiện tượng khác. Logic học hình thức chú trọng tới hình thức hơn là
nội dung, logic học biện chứng chú trọng tới cả hình thức lẫn nội dung. Logic học
hình thức từ những khái niệm, phán đoán, suy luận đi tới những kết luận đúng phù
hợp giữa tư tưởng với tư tưởng; logic học biện chứng xây dựng những phạm trù,
những hình thức cơ bản của tư duy, những lý thuyết khoa học phản ánh đúng thực tại
biến đổi.
10

Khi nhận thức cần khảo sát các sự vật, hiện tượng một cách tĩnh tại, rời rạc,
phân tích, tổng hợp chúng mà không xét chúng trong quá trình vận động, phát triển
thì logic học hình thức rất cần thiết. Tới khi nhận thức xét mọi vật, hiện tượng trong
quá trình vận động, phát triển và trong mối liên hệ lẫn nhau, những mối quan hệ nội
tại, những mâu thuẫn bên trong… thì logic học biện chứng lại đóng vai trò quan trọng.
Thực chất, đó chỉ là hai mặt, hai công đoạn, hai công cụ của quá trình nhận thức,
không thể tuyệt đối hóa công cụ này mà xem thường công cụ kia.

2. Lược sử về logic học

Trong lịch sử tư tưởng phương Đông, nhiều triết gia cổ đại cũng đã bàn đến
logic học. Ở Trung Quốc, các trường phái bàn đến vấn đề này có Danh gia, Mặc gia.
Thông qua những cuộc tranh luận về danh - thực, các triết gia của hai trường phái
này đã thể hiện tư tưởng logic của mình. Tuy nhiên, những tư tưởng đó chưa mang
tính chất hệ thống và chưa có phương pháp tiếp cận nên nó chưa thể xem là một khoa
học được. Ở Ấn Độ cổ đại, cũng có những trường phái nghiên cứu khá sâu sắc về
logic học. Trong đó, trường phái Nyaya đã xây dựng được những nguyên tắc về kết
cấu của suy luận, quy tắc xác định giá trị của ngũ đoạn luận… Về sau, những nguyên
tắc và quy tắc đó được các học giả Phật giáo xây dựng thành một môn học, gọi là
Nhân minh học, gần giống với môn logic học của phương Tây.

Ở phương Tây, tư tưởng về logic học đã có từ rất sớm, song với tư cách là một
khoa học, logic học được hình thành vào thế kỷ IV TCN ở Hy Lạp cổ đại. Aristote
(384-322 trước Công nguyên) là người đã có công hệ thống hóa, chuẩn mực hóa,
nguyên tắc hóa những tư tưởng logic trước đó để chính thức xây dựng logic học thành
một khoa học thật sự. Sự hình thành và phát triển của logic học đã trải qua nhiều thời
kỳ lịch sử:

Vào thời cổ đại, ở Hy Lạp, logic học đã nảy sinh từ nhu cầu giải thích về sức
mạnh to lớn của lời nói, về những phương tiện giúp cho lời nói có sức thuyết phục.
Việc nghiên cứu những mối liên hệ mang tính quy luật giữa các tư tưởng trong quá
trình suy luận đã làm nảy sinh ở Hy Lạp cổ đại Logic học Aristote - hệ thống logic
học được đánh giá là tương đối hoàn thiện đầu tiên trong lịch sử. Trong tác phẩm
Organon (công cụ nhận thức, gồm 6 tập), một công trình nền tảng về logic học, Aristote
11

đã phân tích sâu sắc về ba quy luật cơ bản của tư duy (quy luật đồng nhất, quy luật
phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam), về khái niệm, phán đoán, suy luận diễn dịch với
tiền đề là phán đoán đơn (tam đoạn luận đơn), chứng minh và ngụy biện. Như vậy,
ngay từ Aristote, hệ vấn đề của logic học đã được định hình khá rõ ràng. Những mối
quan hệ giữa các phán đoán về điều kiện chân thực của chúng vốn cho phép chuyển
giá trị chân thực từ một phán đoán này sang số khác mà không cần phải kiểm tra thực
nghiệm đã là đối tượng nghiên cứu chính của khoa học này. Việc nghiên cứu các mối
quan hệ đó cho phép xây dựng lý thuyết suy luận hình thức, là suy luận mà ở đó để
nhận được kết luận xác thực hay xác suất, không nhất thiết phải thâm nhập vào nội
dung các tiền đề mà chỉ cần tuân thủ các quy tắc đã biết do lý thuyết này xác lập.
Logic học do Aristote sáng lập trong thời cổ đại chính là logic hình thức cổ điển với
ba quy luật cơ bản là quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn và quy luật bài
trung.

Sau Aristote, các nhà triết học trường phái Khắc kỷ (Stoicisme 206 trước Công
nguyên) đã kế thừa và bổ sung logic mệnh đề vào hệ thống logic học của Aristote.
Cụ thể, trường phái Khắc kỷ đã đóng góp cho khoa học logic bốn nguyên tắc suy luận
với tiền đề là phán đoán phức (logic mệnh đề):

1) Nếu có A thì có B, mà có A, vậy có B.

2) Nếu có A thì có B, mà không có B, vậy không có A.

3) Nếu không thể tồn tại cả A và B, có A, vậy không có B. Có B, thì không có A.

4) Nếu A hoặc B phải tồn tại, A không tồn tại, vậy B tồn tại. Hay, B không tồn
tại, vậy A tồn tại.

Đến thế kỷ III sau Công nguyên, Gallien (218-268) bổ sung thêm một hình thức
kết cấu nữa của tam đoạn luận đơn, gọi là hình IV, hay còn gọi là hình Gallien.

Vào thời trung cổ, trong giai đoạn đầu, người ta tiếp tục phát triển logic học của
Aristote, đi sâu vào những vấn đề ngữ nghĩa và triết học. Ở giai đoạn sau, người ta
khảo sát những dạng thức và logic của các phán đoán có điều kiện1.

1
Theo Nguyễn Đức Dân, Giáo trình Nhập môn logic học hình thức, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2009.
12

Từ thời kỳ phục hưng tới thế kỷ XIX, logic học cổ điển với ý nghĩa chứng minh
bằng phương pháp diễn dịch từ những chân lý đã có lúc này không còn đáp ứng được
những nhu cầu không ngừng của con người trong khám phá, sáng tạo, phát minh khoa
học. Để khắc phục những hạn chế của logic học cổ điển, F. Bacon (1561-1626) với
tác phẩm Novum Organum (Công cụ mới) đã đưa vào một công cụ mới để nhận thức
và khám phá thế giới, đó là suy luận quy nạp mở rộng khoa học. Với quan niệm cho
rằng, suy luận quy nạp mở rộng có phương pháp sẽ giúp con người khởi đầu có được
những giả thuyết để khám phá những cái mới trong thế giới hiện thực, và như vậy,
logic học không chỉ là công cụ để chứng minh mà còn là công cụ của sáng tạo, khám
phá, phát minh, F. Bacon đã thiết lập nên Phương pháp ba bảng (bảng có mặt, bảng
vắng mặt và bảng xác định) để xác định mối quan hệ nhân quả trong phép quy nạp.
Phương pháp ba bảng này về sau được J. Stuart Mill (1806-1873) kế thừa và xây dựng
thành Phương pháp xác định nguyên nhân, gồm: Phương pháp tương đồng, phương
pháp khác biệt, phương pháp đồng biến và phương pháp thặng dư của phép quy nạp
mở rộng khoa học.

Để phương pháp diễn dịch phong phú và có tính ứng dụng nhiều hơn, Réne
Déscartes (1596-1650), một nhà triết học, một nhà toán học giải tích và cũng là nhà
logic học ứng dụng đã bổ sung thêm Phương pháp diễn dịch toán học và trực giác
diễn dịch. Ông đã phát minh ra hình học giải tích, một môn học thuộc hình học sử
dụng những nguyên lý của đại số. Ông đưa logic vào trong ứng dụng nghiên cứu khoa
học. Tư tưởng logic ứng dụng đó được thể hiện khá đầy đủ và chi tiết trong tác phẩm
nổi tiếng của ông: Phương pháp luận (Discours de la méthode). Có thể nói, logic học
hình thức dưới thời của F. Bacon và R. Déscartes không còn thuần túy là logic học
hình thức nữa vì nó đã quan tâm đến nội dung của các thao tác trong suy luận. Vì vậy,
người ta cũng gọi logic học ở giai đoạn này là logic học ứng dụng (logique applique).

Leibniz (1646-1716) có ý định đưa logic học qua một gia đoạn mới với những
nguyên tắc như: xét những tư tưởng thành tố cơ bản cấu tạo nên tư tưởng nhân loại;
ký hiệu hóa toàn bộ khái niệm, phán đoán dưới hình thức toán học; kết hợp các ký
hiệu đơn giản thành những mệnh đề, những suy luận với những quy luật logic chặt
chẽ. Những ý tưởng về logic ký hiệu của Leibniz được nhà toán học G. Boole (1815-
1864) hiện thực hóa. Với tác phẩm Đại số của logic học, G. Boole chính là người đầu
13

tiên đưa logic học thâm nhập và ứng dụng trong nhiều ngành khoa học hiện đại như
điện toán, điều khiển học, công nghệ tự động, kỹ thuật số…

Sau Boole, một loại các nhà toán học nổi tiếng đã có công trong việc phát triển
Logic toán như Frege (1848-1925), Russell (1872-1970), Whitehead (1861-1947)
v.v… làm cho logic toán có được bộ mặt như ngày nay.

Logic toán học là giai đoạn hiện đại trong sự phát triển của logic hình thức. Về
đối tượng của nó, logic toán học là logic học, còn về phương pháp thì nó là toán học.
Logic toán học có ảnh hưởng to lớn đến chính toán học hiện đại, ngày nay nó đang
phát triển theo nhiều hướng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như
toán học, ngôn ngữ học, máy tính v.v…

Ngày nay, logic hiện đại có rất nhiều chuyên ngành hẹp như logic mờ, logic đa
trị, logic tuyến tính, logic vị từ, logic không đơn điệu, logic thời gian… Sự phát triển
đó đang làm cho logic học ngày càng thêm phong phú, mở ra những khả năng mới
trong việc ứng dụng logic học vào các ngành khoa học và đời sống.

Về logic học biện chứng, Hégel (1770-1831) là người chính thức hệ thống hóa
tư tưởng biện chứng của các nhà tiền bối như Héraclite, Parménide, Thomas D’Aquin,
I. Kant… để xây dựng nên khoa học logic biện chứng. Nếu như logic hình thức cho
rằng tư duy không thể chứa mâu thuẫn, thì logic học biện chứng cho rằng tư tưởng
đúng là tư tưởng phản ánh được mâu thuẫn của thực tại khách quan. Thực tại khách
quan luôn chứa đựng mâu thuẫn, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng, do đó tư tưởng phản ánh nó cũng phải chứa đựng
mâu thuẫn mới hợp lý. Tư tưởng không tiến từ cái đồng nhất đến cái đồng nhất nữa
mà phải đi từ cái chính đề (thèse) đến cái phản đề (antithèse) và rồi trở lại cái hợp đề
(synthèse). Mâu thuẫn không phải là sai lầm của tư tưởng mà là động cơ của tư tưởng,
là điều kiện của tiến bộ.

Logic học biện chứng của Hégel (1770-1831) được K. Marx (1818-1883), F.
Engels (1820-1895) và Lénine (1870-1924) kế thừa và phát triển thành khoa học về
quá trình nhận thức thế giới. Logic biện chứng không bác bỏ logic hình thức, mà chỉ
vạch rõ ranh giới của nó, coi nó như một hình thức cần thiết nhưng không đầy đủ của
14

tư duy logic. Logic biện chứng của chủ nghĩa Marx không tách biệt khỏi phép biện
chứng duy vật và học thuyết về lý luận nhận thức.

3. Logic học với các giai đoạn trong quá trình nhận thức

Nhận thức là một quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào đầu óc của con
người, từ cụ thể đến trừu tượng, từ những dấu hiệu bề ngoài đến xác định bản chất
bên trong của đối tượng, từ cảm tính đến lý tính.

Vậy nhận thức không phải là một sự sao chép đơn điệu của bộ óc đối với hiện
thực khách quan mà là một quá trình phức tạp qua nhiều mức độ: cảm tính, so sánh,
phân tích… nhận thức lý tính, đối chiếu lý tính với thực tiễn.

3.1. Nhận thức cảm tính

Nhận thức cảm tính là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức; nó phản ánh thế
giới hiện thực vào bộ não của con người một cách trực tiếp thông qua các giác quan,
sự phản ánh đó có tính cụ thể, phong phú nhưng chưa có tính hệ thống và chưa sâu
sắc. Nhận thức cảm tính có ba hình thức cơ bản: cảm giác, tri giác và biểu tượng:

- Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, quá
trình trong thế giới hiện thực khi chúng trực tiếp tác động lên các giác quan của con
người. Mặc dù nguồn gốc của cảm giác là thế giới hiện thực khách quan, nhưng không
phải con người phản ánh một cách thụ động, sao chép thuần tuý mà là một sự phản
ánh một cách chủ động, độc lập, sáng tạo. Vì tính chất này, nên không phải bất cứ khi
nào có thế giới hiện thực khách quan là con người bắt đầu quá trình nhận thức. Con
người chỉ cảm giác khi đã có chọn lựa. Cảm giác giữ một vai trò quan trọng trong
quá trình nhận thức, vì nó là khởi điểm của quá trình nhận thức. Nếu cảm giác không
chuẩn xác thì nhận thức cũng sẽ sai lầm.

- Tri giác là sự phản ánh nhiều mặt, nhiều thuộc tính của đối tượng khi chúng
trực tiếp tác động vào bộ não con người thông qua các giác quan. Nhờ tri giác, con
người có một sự hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về đối tượng nhưng vẫn chỉ hiểu biết
những tính chất sơ đẳng, bề ngoài. Mỗi chủ thể có khả năng tri giác khác nhau. Sự
khác nhau có thể do tri thức, do khả năng cảm nhận, do tâm tư tình cảm… của mỗi
người khác nhau.
15

- Biểu tượng là hình ảnh của đối tượng được lưu giữ lại trong não. Biểu tượng
thực chất là khâu trung gian giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhờ có
biểu tượng, nhận thức con người dần dần tách khỏi đối tượng trực tiếp để khái quát
hóa đối tượng.

Chẳng hạn, khi con người gặp một động vật lạ, các giác quan con người tập
trung phản ánh con vật về hình dáng, về màu lông,… Sau khi có được những dữ liệu
của cảm giác về con vật lạ ấy, con người có thể có tri giác về con vật đó, biết con vật
đó thuộc về họ linh trưởng. Hình ảnh con vật đó sẽ được lưu lại trong đầu, nhờ có
hình ảnh đó con người so sánh với những con vật đã biết để xác định con vật đó là
con vật gì.

Đặc trưng của giai đoạn nhận thức cảm tính là trực tiếp, cụ thể, phong phú, sống
động nhưng chưa xác định được bản chất. Chẳng hạn, chiêm ngưỡng một người đẹp,
xem một con trăn gấm, nếm một ly rượu vang,... tất cả những điều đó rất cụ thể, sống
động và phong phú nhưng chưa thấu hiểu gì bản chất bên trong của các đối tượng ấy.
Vì vậy, tri thức ở giai đoạn này về đối tượng còn lờ mờ, lẫn lộn, chưa phân biệt được
rõ ràng giữa đối tượng này và đối tượng kia.

3.2. Nhận thức lý tính với tư cách là đối tượng nghiên cứu của logic học

Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng là giai đoạn nhận thức phản
ánh đối tượng vào trong bộ não con người một cách gián tiếp, khái quát, trừu tượng.
Nhận thức lý tính là đặc trưng riêng có của con người. Nhờ có khả năng nhận thức lý
tính, con người có được tri thức hoàn chỉnh về đối tượng. Nhận thức lý tính cũng có
ba hình thức cơ bản: khái niệm, phán đoán, và suy luận.

- Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng, nó phản ánh những
thuộc tính bản chất của một đối tượng. Sau giai đoạn nhận thức cảm tính, con người
còn có một giai đoạn trung gian với các thao tác như ghi nhớ, liên tưởng, so sánh,
phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa để đi đến thành lập khái niệm. Có
thể nói đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng; vì hầu hết mọi người đều có nhận thức
cảm tính, thế nhưng không phải ai cũng có khả năng tạo khái niệm. Vì vậy, trong
nghiên cứu, giai đoạn trung gian cực kỳ quan trọng. Nếu không có giai đoạn trung
gian, chúng ta thuần tuý chỉ có tri thức cảm tính về đối tượng. Ví dụ, sau khi cảm
16

giác, tri giác, biểu tượng một đối tượng có hình thù mình nhỏ như con giun đất, da
trơn như da rắn, đầu như đầu rắn… con người phải chú ý, ghi nhớ hình ảnh đối tượng,
liên tưởng so sánh với các đối tượng khác để đặt cho đối tượng đó và các đối tượng
cùng loài một khái niệm: rắn giun. Khái niệm rắn giun là kết quả của quá trình nhận
thức cảm tính và quá trình thao tác phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, trừu tượng
hóa và khái quát hóa.

- Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng phản ánh có hay không có tình
trạng xác định nào đó ở sự vật, hiện tượng. Phán đoán giúp con người liên kết các
thuật ngữ lại với nhau để xác định tính chất của đối tượng. Chẳng hạn, từ hai khái
niệm: rắn giun, động vật có nọc độc, cần thêm một hệ từ là nữa, chúng ta sẽ có được
phán đoán về một tính chất của rắn giun là: rắn giun là động vật có nọc độc.

- Suy luận là hình thức của tư duy trừu tượng phản ánh mối liên hệ giữa các
phán đoán. Suy luận giúp con người chứng minh, phát hiện một cái mới được rút ra
từ những phán đoán đã biết trước đó. Chẳng hạn, từ các phán đoán đã biết: Mọi dạng
vật chất đều vận động. Plasma là một dạng vật chất. Tất yếu ta rút ra được một phán
đoán mới: Plasma cũng vận động. Hay, từ các phán đoán: Ông A bị nhiễm chất độc
da cam và sau đó sinh con bị dị dạng. Ông B bị nhiễm chất độc da cam và sau đó sinh
con bị dị dạng. Ông C bị nhiễm chất độc da cam và sau đó sinh con bị dị dạng… Từ
các phán đoán đã biết ấy, có thể rút ra một phán đoán mới: Mọi người bị nhiễm chất
độc da cam sinh con ra sẽ có thể bị dị dạng.

Trên cơ sở các suy luận, người ta xây dựng, thiết lập các hệ thống lý thuyết, các
học thuyết về tự nhiên, về xã hội, về con người… Chúng ta gọi đó là tri thức của con
người.

Đặc trưng của nhận thức lý tính là: gián tiếp, trừu tượng, khái quát, bản chất,
tương đối và gắn liền với ngôn ngữ.

Ở mức độ nhận thức cảm tính, con người phản ánh trực tiếp sự vật hiện tượng
bằng giác quan của mình, trên cơ sở đó ta có hình ảnh cảm tính về sự vật hiện tượng.
Đến nhận thức lý tính, con người không nhận thức thế giới một cách trực tiếp mà có
khả năng nhận thức nó một cách gián tiếp. Vì nhận thức lý tính là nhận thức đối tượng
17

thông qua hệ thống ký hiệu về đối tượng và dựa trên những quy luật logic nhất định
chứ không trực tiếp căn cứ trên sự tác động của các giác quan.

Tư duy có tính chất trừu tượng và khái quát. Trong thế giới sự vật cụ thể vô
cùng phong phú các thuộc tính, con người phải trừu tượng hóa đối tượng, chỉ quan
tâm đến những thuộc tính cơ bản của đối tượng và khái quát hóa những thuộc tính cơ
bản đó vào trong một khái niệm để chỉ một đối tượng hoặc một nhóm đối tượng. Do
vậy, tư duy trừu tượng có tính chất sâu sắc, bản chất, giúp con người đi sâu vào bản
chất của đối tượng, xác định được những đặc trưng và quy luật vận động của đối
tượng, giúp con người trao đổi thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp với người khác.

Tư duy trừu tượng có tính chất tương đối. Vì tư duy trừu tượng càng ngày càng
đi xa đối tượng cụ thể, nên tư duy con người có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm:
có thể sai lầm trong quá trình phản ánh, cũng có thể sai lầm trong quá trình thao tác.
Chính vì tư duy trừu tượng có tính tương đối, nên con người không thể xem tư duy
trừu tượng là mục đích, là tri thức chân lý; mà phải lấy thực tiễn làm tiêu chí để đánh
giá tư duy lý luận. Nếu thực tiễn kiểm nghiệm đúng, tức là tri thức phù hợp với hiện
thực khách quan. Khi đó, tri thức trở thành chân lý.

Sở dĩ tư duy mang tính gián tiếp, tính trừu tượng, khái quát, bản chất và tương
đối vì nó gắn chặt với ngôn ngữ. Tư duy và ngôn ngữ có mối liên hệ mật thiết với
nhau. Nếu không có ngôn ngữ, các quá trình tư duy của con người không diễn ra được
đồng thời sản phẩm của tư duy cũng không được người khác tiếp nhận. Đây là một
đặc điểm khác biệt giữa tâm lý người và tâm lý động vật. Tâm lý hành động bao giờ
cũng dừng lại ở tư duy hành động trực quan, không có khả năng vượt qua khỏi phạm
vi đó. Mối liên hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối liên hệ biện chứng. Tư duy không
thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào khác ngoài ngôn ngữ. Ngôn ngữ cố định lại các
kết quả của tư duy, là vỏ vật chất của tư duy và là phương tiện biểu đạt kết quả của
tư duy, do đó có thể khách quan hóa kết quả của tư duy người khác cũng như cho
chính bản thân chủ thể tư duy. Và ngược lại, bất kỳ ý nghĩ, tư tưởng nào cũng đều
nảy sinh phát triển gắn liền với ngôn ngữ. Nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là
sản phẩm của chuỗi âm thanh vô nghĩa. Tuy nhiên ngôn ngữ không phải là tư duy,
ngôn ngữ chỉ là phương tiện của tư duy. Đó là mối liên hệ giữa nội dung và hình thức.
18

Ví dụ như trong quá trình tư duy giải bài tập toán thì phải sử dụng các công thức, ký
hiệu, khái niệm được biểu hiện dưới dạng ngôn ngữ, nếu không có ngôn ngữ thì chính
bản thân người đang tư duy cũng không thể giải được bài tập.

Tóm lại, logic học không nghiên cứu giai đoạn nhận thức cảm tính, không
nghiên cứu giai đoạn kiểm nghiệm của thực tiễn mà chỉ nghiên cứu các thao tác và
các quy luật của giai đoạn tư duy trừu tượng. Logic học có vai trò giúp nhận thức
phản ánh đối tượng chính xác hơn, giúp nhận thức tránh được những thao tác sai lầm
trong quá trình chứng minh chân lý.

4. Ý nghĩa của logic học

4.1. Ý nghĩa khoa học

Trải qua hơn hai nghìn năm, từ thời Aristote đến nay, logic hình thức đã là công
cụ đắc lực góp phần hình thành và phát triển nhiều ngành khoa học khác nhau. Nó cũng
là công cụ nhận thức, tư duy hợp lý trong mọi mặt của đời sống con người. Ngày nay,
ở giai đoạn mà con người đang có tham vọng dùng máy móc để từng bước tự động
hóa các hoạt động trí tuệ của chính mình, logic không chỉ là công cụ để nghiên cứu
mà bản thân nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu. Từ đó, nhiều vấn đề mới nảy
sinh mà việc nghiên cứu chúng chắc chắn sẽ đưa đến những hiểu biết phong phú hơn
về hoạt động tư duy và nhận thức của con người.

Logic hình thức là công cụ của tư duy trừu tượng, do đó, cũng là công cụ quan
trọng của mọi nhận thức khoa học. Hệ thống các quy luật của logic hình thức được
sử dụng suốt hơn hai nghìn năm đến nay vẫn giữ nguyên hiệu lực và khẳng định giá
trị tự thân của nó. Nhờ việc tách khỏi nội dung cụ thể của tư duy, logic hình thức áp
dụng rộng rãi các phương pháp hình thức vào nghiên cứu tư duy, xây dựng các lý
thuyết suy luận, chứng minh logic... Tuy logic hình thức có giới hạn sử dụng của mình
và không phải thích hợp để ứng dụng trong mọi trường hợp song nó thực sự là một
công cụ đắc lực của tư duy để phát triển khoa học. Nếu hạ thấp giá trị của logic hình
thức, vi phạm các quy luật và quy tắc của nó, ta sẽ tự mình đánh mất đi một trong
những chìa khóa để đi tới chân lý. Việc hiểu biết và áp dụng logic hình thức có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong khoa học và đời sống xã hội.
19

Hình thức biểu hiện bên ngoài của tư duy là ngôn ngữ. Trong logic hình thức cổ
điển thì đó là ngôn ngữ tự nhiên. Nếu ta dùng ngôn ngữ tự nhiên mà thiếu hiểu biết
về logic hình thức thì sẽ dễ sa vào lập luận và nhận thức sai lầm. Trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên, ngôn ngữ toán học và logic toán đã hoàn toàn ngự trị, song chúng cũng
có những hạn chế riêng, không có khả năng bao quát hết mọi lĩnh vực khoa học và đời
sống xã hội. Ngôn ngữ tự nhiên của logic truyền thống do phản ánh trực tiếp thế giới
khách quan nên có khả năng tác động trực tiếp đến thế giới quan, từ đó tác động đến
nhân sinh quan và lối sống của con người. Bởi thế logic hình thức cổ điển với ngôn
ngữ tự nhiên chiếm một vị trí rất quan trọng trong nhận thức khoa học và thực tiễn đời
sống mà các ngôn ngữ đặc thù khác khó mà thay thế được. Mặt khác, để phổ biến các
kết quả khoa học mới từ một lĩnh vực này sang một lĩnh vực khác hay vào đời sống
xã hội, các nhà khoa học phải làm nhiệm vụ chuyển đổi các kết quả từ ngôn ngữ
chuyên môn sang ngôn ngữ tự nhiên. Điều này không chỉ đòi hỏi họ phải hiểu biết sâu
sắc chuyên môn của mình mà còn phải nắm vững các kiến thức của logic hình thức và
vận dụng chúng một cách nhuần nhuyễn.

Đặc trưng cơ bản của tư duy logic là tính chặt chẽ và tính chính xác. Tính chính
xác phản ánh đúng đắn những đặc điểm bản chất của các đối tượng vào trong các dấu
hiệu cơ bản của khái niệm, là sự xác định được giá trị của tư tưởng ở trong phán đoán,
suy luận, bác bỏ, chứng minh. Tính chính xác của tư duy logic đòi hỏi phải có sự lập
luận rõ ràng, ràng mạch, khúc chiết để hiểu đúng nội dung mà tư duy phản ánh. Vì
vậy, việc học tập và nghiên cứu logic học giúp chúng ta thiết lập, sử dụng chính xác
khái niệm, phán đoán, suy luận; chứng minh một cách mạch lạc và hợp lý. Từ đó giúp
chúng ta nâng cao hiệu quả trong quá trình tư duy, giao tiếp, trình bày tư tưởng của
mình chặt chẽ, nhất quán hơn. Logic học giúp chúng ta phân biệt được đâu là lập luận
đúng, đâu là lập luận sai; đồng thời giúp phát hiện lập luận ngụy biện của những
người cố tình đánh tráo vấn đề.

Logic học là khoa học đặc biệt. Nếu trong các khoa học tự nhiên và xã hội, tư
duy chỉ là phương tiện nhận thức hiện thực, thì trong logic học, nó lại là mục đích
trực tiếp của nhận thức. Vì thế, trong khi vạch ra những tính quy luật của tư duy như
là một trong những lĩnh vực nghiên cứu quan trọng nhất cùng với tự nhiên và xã hội,
thì khoa học này góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
20

là quan hệ tư duy với tồn tại. Theo nghĩa đó, logic học có ý nghĩa như thế giới quan
khoa học.

Cũng như mọi học thuyết nói chung, lý thuyết logic, trong khi là kết quả của
nhận thức trước đó về khách thể của mình, trở thành phương tiện, và do vậy, trở thành
phương pháp của việc tiếp tục nhận thức nó. Logic học đảm bảo cho khoa học phương
pháp nhận thức xác định với tư cách là một lý thuyết rộng nghiên cứu quá trình tư
duy biểu hiện trong mọi khoa học. Điều này không chỉ đúng đối với logic học hình
thức truyền thống, có trọng tâm là lý thuyết suy luận và chứng minh, cung cấp cho
các khoa học phương pháp để thu được tri thức lý luận, mà còn đúng với logic toán
đang vạch thảo ra những phương pháp toán riêng ngày càng mới hơn để giải quyết
các nhiệm vụ nhận thức. Điều này càng đặc biệt đúng hơn với logic biện chứng, mà
những đòi hỏi của nó, về thực chất, là những yêu cầu của phương pháp biện chứng
đang được nhiều khoa học sử dụng. Như vậy, tri thức logic học đóng vai trò là cơ sở
phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học

4.2. Ý nghĩa thực tiễn

Không chỉ là cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học, tri thức logic
học còn là cơ sở phương pháp luận trong chuyên môn nghiệp vụ. Nắm vững tri thức
logic học, con người có thể rút ngắn quá trình nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết vấn
đề trong cuộc sống. Với tri thức logic học, con người có thể đạt được mục đích nhanh
nhất, hiệu quả tối ưu nhất, nhưng lại ít tốn kém nhất. Logic học trang bị cho con người
phương pháp suy luận logic, một mặt, nó được dùng như là phương thức nhận thức
quá khứ, những điều đã xảy ra và đã không còn có thể quan sát trực tiếp được nữa.
Mặt khác, suy luận logic cũng càng quan trọng hơn để hiểu tương lai, dự báo, phỏng
đoán về những điều vốn dĩ chưa xảy ra trên cơ sở của những kết luận xác định về quá
khứ và hiện tại. Suy luận logic giúp cho con người nhận được những tri thức mới một
cách trung gian từ những tri thức đã biết dựa trên cơ sở logic nhất định để rút ra những
tri thức mới đáng tin cậy. Với việc cung cấp cho con người những nguyên tắc, phương
pháp nhằm có được suy luận đúng đắn, logic học có vai trò vô cùng quan trọng trong
lĩnh vực của đời sống xã hội.
21

Trong thực tiễn chính trị, luật pháp, logic học đã chứng tỏ sự cần thiết đối với các
nhà hoạt động trong lĩnh vực chính trị, lập pháp và hành pháp, đặc biệt trong thời kỳ
hội nhập và xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. Ở lĩnh vực này, trình độ tư duy
bằng khái niệm đối với các vấn đề liên quan đến chính trị, pháp luật thể hiện trước hết
ở yêu cầu phải nhận thức đúng bản chất của vấn đề cần khái quát, đưa ra những khái
niệm chuẩn xác và đúng đắn cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội đang đặt ra và đòi
hỏi được điều chỉnh bằng các quy định pháp luật. Việc vi phạm các quy tắc logic của
một thao tác khái niệm như thao tác định nghĩa khái niệm, phân chia khái niệm,
chuyển dịch khái niệm có thể dẫn đến việc thực hiện và áp dụng luật pháp thiếu chuẩn
xác, thậm chí dẫn tới nhiều hệ lụy xã hội. Logic hình thức truyền thống giúp các nhà
lập pháp soạn thảo các văn bản hành chính, chính trị, luật pháp vừa có tính khái quát
cao vừa đảm bảo tính đúng đắn, chính xác, rõ ràng cụ thể, dễ hiểu.

Trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là trong hoạt động tố tụng hình sự, logic học
có ý nghĩa quan trọng và cần thiết hơn hết. Bởi lẽ, tố tụng hình sự hay quá trình giải
quyết vụ án hình sự thường phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như: khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, do ba cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là: cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ở bất cứ một giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ
án hình sự cũng đều cần sử dụng đến phán đoán, suy luận logic để đưa ra những kết
luận đúng đắn, kịp thời trên cơ sở tiền đề là những căn cứ pháp lý do luật định và
những chứng cứ, bằng chứng dấu vết, hành vi phạm tội được thu thập một cách cẩn
thận, xác thực trong quá trình điều tra, phá án. Logic học trang bị cách thức, phương
pháp, tư duy logic chặt chẽ, có cơ sở cho những người thi hành nhiệm vụ, giúp phục
vụ cho công tác điều tra, xét hỏi, tố tụng đạt được hiệu quả cao nhất.

Trong lĩnh vực y học, logic học cung cấp phương pháp suy luận đúng đắn, giúp
cho các chuyên gia, các y, bác sĩ đưa ra những lập luận chặt chẽ, làm tăng hiệu quả
và tính chính xác trong chẩn đoán, tiên lượng, điều trị và phòng ngừa bệnh tật. Việc
nắm vững các thao tác, các quy tắc, quy luật của tư duy logic còn giúp cho các nhà
quản lý hay các cán bộ y tế nhanh chóng xác định được vấn đề ưu tiên can thiệp cũng
như phân tích các nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp
để có thể cải thiện vấn đề đó. Đây là bước rất quan trọng quyết định việc thành công
của chiến lược can thiệp trong quá trình điều trị và chăm sóc sức khỏe. Trong lĩnh
22

vực giáo dục, việc nghiên cứu logic hình thức sẽ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động học tập
và nghiên cứu khoa học, hình thành con đường tìm kiếm những tri thức khoa học mới,
tạo ra cách thức sử dụng các khái niệm, thuật ngữ giúp diễn đạt nội dung tư tưởng rõ
ràng; xây dựng phương pháp trình bày vấn đề khúc chiết, mạch lạc; tăng hiệu quả thuyết
phục của thông tin truyền đạt. Đối với giáo viên, logic học giúp họ có cơ sở lý luận và
phương pháp hữu hiệu để phân tích chương trình của môn học mà mình giảng dạy;
tìm ra mối liên hệ và quan hệ logic giữa các khái niệm, phạm trù, quy luật của môn
học ấy. Từ đó, người dạy có thể sử dụng các thủ thuật, phương pháp sư phạm phù hợp
nhằm hướng dẫn người học lĩnh hội tri thức tối ưu, nâng cao tư duy logic, hình thành
kỹ năng tư duy và phương pháp luận chứng khoa học cho người học, đáp ứng kịp thời
đòi hỏi bức thiết của sự nghiệp giáo dục, đào tạo con người mới của đất nước hiện
nay. Đối với người học, logic học đóng một vai trò quan trọng và cần thiết bởi nó giúp
phát triển tư duy logic của người học, tạo nền tảng cho việc phát triển não bộ toàn
diện, tăng khả năng sáng tạo và kỹ năng giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Điều
này giúp cho việc học trở nên dễ dàng, thoải mái, chủ động hơn.

Trong công tác nghiên cứu khoa học (đặc biệt là khoa học xã hội), logic hình
thức góp phần điều chỉnh tư duy, nhận thức, tìm ra con đường đúng đắn đi tới chân
lý, phát hiện và loại trừ sai lầm trong tư duy lý luận. Người nghiên cứu khoa học, một
mặt, phải rút ra kết luận khoa học trên cơ sở của các tri thức chân thực đã biết theo
các quy luật và quy tắc của tư duy. Mặt khác, phải dùng thực tiễn để kiểm nghiệm lại
lý luận. Hai mặt lý luận và thực tiễn phải gắn kết chặt chẽ với nhau. Bởi vậy, muốn
đạt kết quả cao trong nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn thì trước hết phải
nắm vững logic hình thức. Điều này sẽ giúp chúng ta xây dựng được thói quen tư duy
chính xác và năng lực phân tích một cách logic những vấn đề do thực tiễn đặt ra.Trong
cuộc sống hằng ngày, bất cứ ai cũng phải tư duy, phải trao đổi thông tin với người
khác, phải nhận thức về thế giới hiện thực khách quan như một nhu cầu tất yếu để tồn
tại và phát triển. Rèn luyện và phát triển tư duy logic là điều kiện cần thiết cho tất cả
mọi người. Áp dụng nó trong cuộc sống giao tiếp thường ngày có thể giúp ta soi sáng
tư duy của mình, phát hiện ra những thiếu sót và hạn chế của lối tư duy tự phát; tạo
thói quen suy nghĩ, lập luận chặt chẽ, có hệ thống, không mâu thuẫn, rõ ràng, mạch
lạc và có cơ sở, góp phần nâng cao trình độ tư duy logic để có thể đạt tới những tri
23

thức chính xác, khách quan và khoa học. Logic hình thức truyền thống trang bị cho
chúng ta công cụ nhận thức, đáp ứng những nhu cầu thiết thực của cuộc sống con
người.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Đối tượng của logic học là gì?

2. Phân biệt logic học hình thức và logic học biện chứng.

3. Trình bày khái quát các giai đoạn của quá trình nhận thức.

4. Phân tích các đặc điểm của tư duy trừu tượng.

5. Trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển của logic học.

6. Người sáng lập ra môn logic học hình thức là ai?

7. Người sáng lập ra môn logic học biện chứng là ai?

8. Ý nghĩa của logic học là gì?


24

Chương 2
CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA TƯ DUY

Quy luật là những mối liên hệ có tính tất yếu, cơ bản, phổ biến, lặp đi lặp lại
giữa các sự vật hiện tượng. Căn cứ vào phạm vi tác động, quy luật được phân chia
thành: quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư duy. Quy luật của tư duy hay
quy luật logic là quy luật chi phối sự vận động, phát triển của quá trình tư duy, tức là
những mối liên hệ tất yếu, phổ biến giữa các hình thức của tư duy trong quá trình
phản ánh thế giới hiện thực. Quy luật logic nào chi phối toàn bộ quá trình tư duy được
gọi là quy luật logic cơ bản, còn quy luật logic nào chỉ chi phối một lĩnh vực, một bộ
phận của quá trình tư duy được gọi là các quy luật logic không cơ bản.

Khác với logic học biện chứng, logic học hình thức khi xem xét tư duy, nó
không xem xét, không để ý đến các khía cạnh như đối tượng phản ánh, nội dung phản
ánh của nó, cũng như hình thức ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng, mà chỉ tập trung sự chú
ý đến “cấu tạo logic” của tư tưởng. Tức là chú ý tới phương thức liên kết, phương
thức tổ chức các bộ phận cấu thành nội dung tư tưởng đã định hình trong tư duy để
tạo nên một ánh phản xác định về đối tượng ở một phẩm chất nhất định, mà ta có thể
đánh giá được là ánh phản đó là chân thực hay giả dối.

Trong logic học hình thức, có bốn quy luật cơ bản đó là quy luật đồng nhất, quy
luật phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam, và quy luật túc lý hay lý do đầy đủ. Ngoài ra
logic học hình thức còn có rất nhiều các quy luật logic không cơ bản khác, đó là các
quy tắc, các công thức… chi phối một bộ phận này hay một bộ phận khác của các
hình thức cơ bản của tư duy.
1. Quy luật đồng nhất

1.1. Định nghĩa và ký hiệu

Quy luật đồng nhất là quy luật của tư duy logic hình thức, khẳng định rằng một
khái niệm, một phán đoán khi phản ánh đối tượng vào trong tư tưởng thì luôn luôn
đồng nhất với chính nó. Nói cách khác, lập luận hợp logic là lập luận luôn đồng nhất
khái niệm, phán đoán, tư tưởng trong quá trình tư duy.
25

Quy luật đồng nhất phản ánh tính đứng im tương đối của thế giới hiện thực. Một
đối tượng trong một không gian, thời gian nhất định, không thể vừa là nó lại không
phải là nó. Nhờ tính đứng im tương đối đó mà con người phân biệt được đối tượng
này với đối tượng kia.

- Ký hiệu: P = P (Đọc là: P đồng nhất với P)

1.2. Yêu cầu của quy luật đồng nhất

- Một thuật ngữ trong một lập luận nhất định phải được xác định rõ ràng và
chỉ được sử dụng một khái niệm (một nghĩa) duy nhất.

Nếu trong lập luận, thuật ngữ được sử dụng khi nghĩa này, khi nghĩa khác thì tư
duy không nhất quán. Vi phạm yêu cầu này của quy luật đồng nhất, trong logic gọi là
đánh tráo khái niệm.

Ví dụ: Một anh chàng mượn của chủ quán một cái vạc (chảo nấu cơm). Khi ông
chủ quán đòi, anh ta mang đến hai con cò. Chủ quán bảo: anh mượn của tôi vạc tại
sao lại mang cò đến trả? Anh chàng liền nói: tôi mượn của ông một vạc mà tôi trả đến
hai cò thì hời quá chứ còn gì nữa! Chủ quán ngạc nhiên bảo nhưng mà vạc của tôi là
vạc đồng cơ mà! Anh chàng liền đáp: thì cò tôi cũng là cò đồng chứ sao!

- Khi thông tin hoặc trao đổi một chủ đề thì phải làm rõ và thống nhất về khái
niệm, ký hiệu, đơn vị, thuật ngữ…

Nếu không thống nhất khái niệm thì sẽ xảy ra tình trạng “ông nói gà bà nói vịt”,
hoặc trình bày một vấn đề nhưng người nghe không nắm được thông tin.

Ví dụ: Thông tin đại chúng thường vẫn đưa tin: giá vàng trên thế giới là 1900
dollars/ounce và vàng trong nước là 12 triệu một lượng.

- Hai phán đoán, hai tư tưởng đồng nhất thì không được xem là khác biệt.

Trong thực tế có những phán đoán về mặt hình thức dường như khác nhau;
nhưng thực chất chúng đồng nhất. Do đó, chúng không được xem là khác biệt.

- Hai khái niệm, hai phán đoán khác biệt không được xem là đồng nhất.

Có những từ, những câu xem qua thì đồng nhất với nhau nhưng thực chất là
khác biệt. Vì vậy không được cố tình hoặc vô ý đồng nhất chúng.
26

- Tư tưởng tái tạo phải đồng nhất với tư tưởng ban đầu.

Khi nhắc lại, tường thuật lại, hay dịch lại phải tái tạo đúng tư tưởng ban đầu;
không được thêm, bớt, xuyên tạc tư tưởng gốc.

Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh quy định: Không được chỉ mặc quần lót ở nơi
công cộng. Báo Tuổi trẻ (ngày 25 tháng 3 năm 2006) đưa tin rằng TP.HCM có quy
định: Không được mặc quần lót nơi công cộng.

1.3. Ý nghĩa của quy luật đồng nhất

Quy luật đồng nhất biểu thị tính xác định, rõ ràng, rành mạch của tư duy. Nghiên
cứu và nắm vững quy luật đồng nhất giúp tư duy chúng ta mạch lạc, chính xác, nhất
quán; biết tự giác hơn khi chọn từ, xác định khái niệm... trong quá trình lập luận. Để
tránh vi phạm luật đồng nhất, trong khoa học cần phải định nghĩa, chú thích rõ ràng
các khái niệm, các thuật ngữ, các ký hiệu. Nghiên cứu và nắm vững quy luật đồng
nhất giúp chúng ta phát hiện ra sự ngụy biện, thủ thuật vi phạm các yêu cầu của quy
luật đồng nhất.

Vận dụng quy luật đồng nhất có thể tạo ra những câu chuyện cười hóm hỉnh
bằng cách cho nhân vật vi phạm các yêu cầu của quy luật đồng nhất một cách ngây
thơ; hoặc tạo tình huống để người đọc, người nghe, người xem tự vi phạm các yêu
cầu của quy luật đồng nhất.

2. Quy luật phi mâu thuẫn

2.1. Định nghĩa và ký hiệu

- Định nghĩa: Quy luật phi mâu thuẫn là quy luật của tư duy logic hình thức
thể hiện rằng trong một lập luận nhất định, không thể tồn tại hai phán đoán, hai tư
tưởng trực tiếp hoặc gián tiếp loại trừ nhau. Hay nói cách khác, trong cùng một đối
tượng, trong cùng một không gian, thời gian, với cùng một quan hệ xác định, hai tư
tưởng trái ngược không thể cùng đúng.

Quy luật phi mâu thuẫn phản ánh hiện thực khách quan là: trong một không gian
nhất định, một thời gian cụ thể, với cùng một quan hệ xác định, một đối tượng không
thể chứa hai thuộc tính đối lập nhau hoặc mâu thuẫn nhau.
27

Ví dụ: Trong một không gian, thời gian nhất định, trong một mối quan hệ nhất
định thì: Một quan chức không thể vừa thanh liêm vừa tham nhũng, một vật không
thể vừa sống lại vừa chết, một sinh viên không thể vừa học logic vừa không học
logic… Tư duy con người phản ánh hiện thực ấy nên tư duy hợp logic là tư duy không
chứa mâu thuẫn.

Ký hiệu:  (P Ʌ  P)

(Không thể vừa P lại vừa không P)

2.2. Phân biệt khái niệm mâu thuẫn hình thức và mâu thuẫn biện chứng

Thuật ngữ mâu thuẫn mà phép biện chứng sử dụng là mâu thuẫn biện chứng
(dialectical contradictions): mâu thuẫn của các mặt đối lập cùng thống nhất, cùng tồn
tại và chuyển hóa cho nhau. Mâu thuẫn biện chứng được xem là nguồn gốc của sự
vận động và phát triển của thế giới khách quan.

Thuật ngữ mâu thuẫn mà logic hình thức sử dụng là mâu thuẫn của tư duy, của
lập luận (logical contradictions). Mâu thuẫn đó thể hiện tư duy lủng củng, thiếu nhất
quán mà dân gian gọi là tiền hậu bất nhất, dấu đầu hở đuôi.

2.3. Yêu cầu của quy luật phi mâu thuẫn

- Trong tư duy lập luận không được chứa mâu thuẫn trực tiếp: lập luận không
được có hai phán đoán trực tiếp loại trừ nhau; không thể khẳng định một vấn đề rồi
lại phủ định ngay chính vấn đề đó.

Ví dụ 1: Ai cũng khen anh đẹp trai, chỉ xấu mỗi cái mặt.

Ví dụ 2: Tôi thích sạch sẽ nhưng không thích tắm.

- Trong tư duy không được chứa mâu thuẫn gián tiếp: không được khẳng định
hoặc phủ định một vấn đề rồi lại phủ định hoặc khẳng định hệ quả của nó.

Ví dụ 1:

Một người tới dự buổi họp mặt cuối năm, mọi người mời anh ta:

- Anh dùng một ly nhé?

- Không, tôi phải lái xe.


28

- Vậy sao anh không để xe ở nhà?

- Lúc đầu tôi cũng tính vậy, nhưng sợ tới trễ chẳng còn gì mà uống nữa.

Ví dụ 2: Nhà nọ tuy giàu nứt đố đổ vách nhưng bà mẹ luôn mồm dặn con trai:
“Có ai hỏi thì con cứ nói là nhà ta nghèo lắm nhé!”. Vâng lời mẹ, hôm cô giáo bảo
kể về gia đình mình, cậu bé khiêm tốn viết: “Nhà em nghèo lắm: bố em nghèo, mẹ
em nghèo, cả những người hầu hạ nhà em cũng rất nghèo…”.

2.4. Ý nghĩa của quy luật phi mâu thuẫn

Nắm vững quy luật phi mâu thuẫn giúp tư duy, lập luận vững chắc, sắc sảo, rành
mạch; đồng thời giúp phát hiện những lập luận ngụy biện.

3. Quy luật triệt tam

Quy luật triệt tam còn được gọi là quy luật bài trung hay quy luật loại trừ cái
thứ ba.

3.1. Định nghĩa và ký hiệu

Định nghĩa: Quy luật triệt tam là quy luật của tư duy logic hình thức phản ánh
tính xác định của tư duy, khi có một phán đoán về một đối tượng nhất định thì chỉ có
thể hoặc đúng hoặc sai chứ không có một khả năng thứ ba nào khác.

Ký hiệu: P V P

(P hoặc không P)

3.2. Yêu cầu của quy luật triệt tam

- Khi có hai phán đoán về cùng một đối tượng mâu thuẫn nhau trong một không
gian nhất định, thời gian cụ thể và mối quan hệ nhất định thì chỉ được phép xác định
một phán đoán đúng và phán đoán còn lại là sai mà không có trường hợp thứ ba.

- Khi trình bày tư tưởng phải thể hiện quan điểm rõ ràng là khẳng định hay phủ
định, là đồng ý hay không đồng ý, là ủng hộ hay phản đối...
29

3.3. Ý nghĩa của quy luật triệt tam

Nghiên cứu, nắm vững và tuân thủ các yêu cầu của quy luật triệt tam giúp tư
duy rành mạch; thể hiện rõ chính kiến của bản thân, tránh cách nói, cách lập luận ba
phải, vô trách nhiệm.

Vận dụng quy luật triệt tam giúp chúng ta có được phương pháp chứng minh
gián tiếp (chứng minh phản chứng). Chẳng hạn, khi có một luận đề cần chứng minh,
ta thiếu căn cứ để chứng minh tính đúng đắn của luận đề đó nhưng ta lại đủ căn cứ
để bác bỏ phản đề. Trên cơ sở khẳng định phản đề sai, theo quy luật triệt tam, ta có
thể rút ra tính đúng đắn của luận đề.

Ví dụ: Chứng minh hai đường thẳng song song với một đường thẳng thứ ba thì
chúng song song với nhau. Giả thiết hai đường thẳng cắt nhau, chúng sẽ tạo thành
một tam giác có hai góc vuông, điều này là vô lý. Vậy ta suy ra được điều cần chứng
minh là đúng.

4. Quy luật túc lý

Quy luật túc lý còn được gọi là quy luật lý do đầy đủ.

4.1. Định nghĩa và ký hiệu

Quy luật túc lý khẳng định rằng tư duy hợp logic là tư duy có đầy đủ chứng lý.

Quy luật này phản ánh bất cứ cái gì tồn tại trong thế giới hiện thực đều có nguyên
nhân của nó.

4.2. Yêu cầu của quy luật túc lý

- Khi khẳng định một luận điểm nào thì phải xác định được cơ sở tồn tại và
nguyên nhân của nó.

Ví dụ: Nếu có chung chủ từ và thuộc từ, phán đoán A (khẳng định toàn thể)
đúng thì phán đoán O (phủ định bộ phận) sai, vì đó là hai phán đoán mâu thuẫn nhau1.

- Khi phủ định một luận điểm phải phủ định được cơ sở tồn tại của nó.

1
Xem ở chương 4 trong giáo trình này, phần nói về phán đoán đơn.
30

Ví dụ: A nói: Hôm nay trời nóng quá. B phản bác: Nhiệt độ ngoài trời đang có
20 độ C mà nóng gì.

Ở đây, B đã phủ định luận điểm “trời nóng” của A bằng việc đưa ra luận cứ xác
thực là nhiệt độ ngoài trời.

4.3. Ý nghĩa của quy luật túc lý

Nghiên cứu và nắm vững quy luật túc lý giúp tư duy có căn cứ, nâng cao tính
thuyết phục cho lập luận; đồng thời phát hiện ra những luận điểm sai trái, vô căn cứ,
ngụy biện.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Quy luật của tư duy là gì?

2. Trình bày nội dung, viết công thức và các yêu cầu của quy luật đồng nhất.
Tìm các ví dụ về việc tư duy vi phạm quy luật này.

3. Trình bày nội dung, viết công thức và nêu các yêu cầu của quy luật phi mâu
thuẫn. Tìm các ví dụ về việc tư duy vi phạm quy luật này.

4. Trình bày nội dung, viết công thức và nêu các yêu cầu của quy luật triệt tam.
Tìm các ví dụ về việc tư duy vi phạm quy luật này.

5. Trình bày cơ sở khách quan, phát biểu nội dung và nêu các yêu cầu của quy
luật túc lý. Tìm các ví dụ về việc tư duy vi phạm quy luật này.

6. Phân tích các mẩu chuyện sau đây để chỉ ra quy luật tư duy đã bị vi phạm:

a. Trong giờ địa lý, thầy giáo gọi Hà:

- Em hãy chỉ đâu là châu Mỹ?

- Thưa thầy, đây ạ! – Hà chỉ trên bản đồ.

- Tốt lắm! Nào, thế bây giờ trò Nam hãy nói cho thầy biết ai đã có công tìm ra
châu Mỹ?

- Thưa thầy, là bạn Hà ạ.

b. Vào một ngày đẹp trời, chàng rủ nàng đi dạo trên chiếc xe đạp của mình.
Trăng thanh, gió mát, và phong cảnh lãng mạn, nàng ngồi e ấp sau lưng chàng. Đến
31

đoạn xuống dốc, xe lăn bánh rất nhanh. Phía trước có một quán kem hấp dẫn, bỗng
dưng chàng phanh xe kêu “két” dừng lại ngay trước cửa quán kem, quay lại chàng
hỏi nàng: “ăn không?”. Nàng e lệ nhẹ nhàng đáp lại: “Dạ, có”. Nói đoạn chàng phóng
xe tiếp và nói: “Anh mới thay phanh xe đấy!”

c. Bài đăng trên tạp chí “Hạnh phúc gia đình” có đoạn viết: “Bên cạnh chuyện
phân biệt giàu nghèo, môn đăng hậu đối thì vấn đề hợp tuổi hợp mạng hay không đã
làm dang dở bao mối tình đẹp như thơ. Tuy nhiên, cũng có nhiều cuộc hôn nhân xuôi
chèo mát mái nhờ xem tông, xem tuổi kỹ lưỡng.”

d. Anh chồng đi làm về, đón con xong là vào phòng chơi game. Cô vợ bực mình
quát: “Lúc nào cũng game! Đến bao giờ ông mới nhận ra nó không phải con ông
hả?!”. Anh chồng nghe thế, đập tan bàn phím, gào ầm lên: “Khốn khiếp! Tôi đã nghi
ngờ lâu rồi mà! Hôm nay cuối cùng cô cũng dám nhận! Cha nó là thằng nào?”. Cô vợ
bình thản đáp: “Sao không dám nhận? Ông ra phòng khách nhìn xem đứa bé ông vừa
đón về có phải con ông không?”.

e. Một anh chàng hà tiện lên tàu hoả không mua vé. Nhân viên soát vé phát hiện
được liền bắt anh ta trả tiền, nhưng anh ta nhất định không chịu. Nhân viên soát vé
sau một hồi tranh cãi căng thẳng thì liền xách vali của anh ta dọa ném qua cửa sổ toa
tàu. “Đồ quá quắt!” - anh chàng hà tiện hét lên – “Ông có bắt được con trai tôi trốn
vé đâu mà đòi ném cả nó ra ngoài thế hả?”.

f. Một bệnh nhân thần sắc tiều tụy đến gặp bác sĩ nói: “Đám chó hoang gần nhà
tôi đêm nào cũng sủa không ngừng, tôi phát điên lên được vì mất ngủ!”. Nghe vậy,
bác sĩ kê cho anh ta đơn thuốc an thần. Một tuần sau, bệnh nhân này lại đến gặp bác
sĩ, thần sắc còn tiều tụy hơn trước. Thấy vậy, bác sĩ hỏi: “Thuốc an thần đó vô hiệu
sao?”. Bệnh nhân thờ thẫn trả lời: “Tôi tối nào cũng đuổi theo lũ chó đó, thế nhưng
dù khó khăn lắm mới bắt được một con, nó cũng không chịu uống thuốc an thần”.

g. Trong một bữa tiệc, Mark Twain ngồi đối diện với một người phụ nữ. Theo
lẽ lịch sự, ông đã nói với người này: “Cô thật là xinh đẹp!”. Người phụ nữ đó không
hề cảm kích, mà còn cao ngạo nói: “Rất tiếc là tôi không có cách nào để nói lời khen
tương tự như thế với ông!”. Mark Twain rất bình thản, nói: “Không sao cả, cô có thể
32

giống như tôi vậy, nói một lời nói dối là được rồi”. Người phụ nữ nghe xong, xấu hổ
quá, phải cúi gằm mặt xuống mà không nói được lời nào.

h. Một người đàn ông bước vào quán rượu. Người phục vụ chạy lại kéo ghế mời
ông ta ngồi và hỏi: - Thưa ngài, ngài muốn gì ạ?. Người khách: - Tôi muốn gì ư? Một
căn nhà lớn, nhiều tiền và một người vợ đẹp. Phục vụ: - Không phải thế! Ý tôi là, ông
khát cái gì?. Người khách: - Tôi khát cái gì ư? Có một tòa lâu đài, trở thành triệu phú
và có một cô vợ nhan sắc cỡ hoa hậu. Phục vụ: - Ông lại hiểu sai ý tôi rồi. Ông thích
thứ gì? Khách: - Tôi thích con trai hơn, nhưng con gái cũng tuyệt. Chỉ cần nó khỏe
mạnh là được. Anh phục vụ bực mình: - Cái tôi đang hỏi là ông muốn uống gì?.
Khách: - Sao cậu không nói thế ngay từ đầu? Thế cậu có cái gì? Phục vụ: - Thật lòng
thì tôi chẳng có cái gì cả. Tôi không kiếm được nhiều tiền, lại còn cả ngày phải quẩn
quanh trong quán rượu để làm việc…

k. Đồng nghiệp của Ly Na không đi làm. Vợ anh ta gọi điện đến cơ quan gặp
Ly Na: “Chồng chị đến cơ quan chưa em?”. Ly Na không biết anh ta nói gì với vợ
rồi, bèn đáp: “Em nghỉ làm nên không biết chị ạ”.

l. Một cô giáo miền xuôi lên dạy bổ túc văn hóa cho các cán bộ dân tộc thiểu số
miền núi. Một hôm, trong giờ học toán, cô giáo cầm thước kẻ chỉ mấy chồng sách
trên bàn rồi gọi một học viên nam đứng dậy, hỏi: - Nếu tôi đã có một chồng rồi, tôi
lấy thêm ba chồng nữa, hỏi tất cả tôi có mấy chồng? Học viên này vội đáp: - Không
được đâu, thưa đồng chí giáo viên! - Vì sao? - Pháp luật không cho phép!

m. Một phạm nhân hỏi cai tù:

- Sao cửa sổ ở đây lại có tới hai lớp song sắt vậy?

- Để đảm bảo chắc chắn hơn.

- Vớ vẩn thật, làm quái gì có đứa nào muốn vào đây ăn trộm cơ chứ!.

n. Một luật sư thất bại trong việc chứng minh thân chủ vô tội trong vụ trộm
tranh. Ông ta cảm thấy ăn năn nên an ủi bị cáo: - Ít nữa, sau khi mãn hạn, tôi sẵn sàng
giúp đỡ nếu anh yêu cầu. - Bị cáo nhìn luật sư đầy vẻ nghi ngờ: Ông ư? ông cũng
thấy cái nghề của tôi kiếm ăn được hơn nghề luật sư nhiều sao?.
33

p. Hai Lúa đến gặp bác sĩ

- Thưa bác sĩ, tui bị bệnh vô sinh.

- Làm sao anh biết? – Bác sĩ hỏi.

- Vì đây là bệnh di truyền, ông tui cũng vô sinh, ba tui cũng vô sinh.

- Thế anh ở đâu ra?

- Dạ, tui ở quê ra.

q. Chàng trai và bạn gái nói chuyện: - Em muốn ăn gì? - Em ăn gì cũng được ạ.
- Ăn cơm nhé?. - Cơm khô lắm. – Ăn cháo nhé? - Ăn cháo làm sao no? - Ăn phở nhé?
- Béo lắm. – Vậy bánh mì nhé? - Thôi ngán lắm - Bún được chứ? - Bún có nhiều hàn
the - Thế anh nấu mì gói cho em ăn nha? - Mì gói ăn nổi mụn lắm. - Thế tóm lại em
muốn ăn gì? - Em ăn gì cũng được anh à.
34

Chương 3

KHÁI NIỆM

1. Khái quát về khái niệm

1.1. Khái niệm là gì?

Trong thế giới hiện thực khách quan có rất nhiều đối tượng, mỗi đối tượng lại
chứa rất nhiều thuộc tính khác nhau. Tuy nhiên, mỗi đối tượng hay nhóm đối tượng
có những thuộc tính đặc trưng nhất định. Những thuộc tính đặc trưng đó giúp con
người phân biệt được đối tượng này với đối tượng kia và đồng nhất các đối tượng có
cùng thuộc tính bản chất với nhau. Vậy khái niệm là một hình thức của tư duy trừu
tượng, phản ánh đối tượng thông qua các đặc trưng cơ bản của nó. Khái niệm có
chức năng giúp con người phân biệt được đối tượng này với đối tượng kia.

Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng, làm cơ sở, nền tảng
cho phán đoán và suy luận. Nhờ khái niệm, con người mới có khả năng trao đổi thông
tin cho nhau. Vì chỉ có khái niệm phản ánh những thuộc tính đặc trưng của đối tượng
nên con người có thể phân biệt được đối tượng này với đối tượng khác khi đối tượng
đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan của con người.

1.2. Kết cấu của khái niệm

Một khái niệm bao giờ cũng có hai bộ phận cấu thành, đó là nội hàm (chất của
khái niệm) và ngoại diên (lượng của khái niệm). Dựa vào hai yếu tố này, con người
phân biệt được khái niệm phản ánh đối tượng nào. Vì vậy để hiểu chính xác một khái
niệm, bao giờ cũng phải biết được nội hàm và ngoại diên của khái niệm.

1.2.1. Nội hàm của khái niệm

Nội hàm (nội dung cơ bản hàm chứa bên trong khái niệm) là toàn bộ những
thuộc tính đặc trưng cơ bản được phản ánh vào trong khái niệm. Nội hàm của khái
niệm được xem là tính chất của khái niệm. Nếu con người không hiểu rõ về nội hàm
của khái niệm thì con người chưa thể hiểu được bản chất của đối tượng được phản
ánh vào trong khái niệm đó. Và vì thế, có thể nhầm lẫn, không phân biệt được đối
tượng này với đối tượng kia. Việc xác định, hiểu rõ nội hàm của khái niệm có ý nghĩa
rất quan trọng trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Chẳng hạn, khi
35

xây dựng luật chống tham nhũng, đầu tiên phải xác định được nội hàm của khái niệm
tham nhũng là gì. Nếu không xác định đúng nội hàm của khái niệm tham nhũng, tất
yếu xây dựng luật chống tham nhũng sẽ không thành công.

Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của khái niệm không đơn giản, và không tuyệt
đối ổn định. Nội hàm của khái niệm là kết quả của quá trình tư duy. Nó có thể được
thêm vào hoặc bớt đi để càng ngày khái niệm càng chuẩn xác hơn. Chẳng hạn, khái
niệm nguyên tử. Thời cổ đại, nội hàm của nó là hạt nhỏ nhất. Thời cận đại, các nhà
vật lý học hạt nhân xác định tính chất nhỏ nhất chưa phải là nội hàm của khái niệm
nguyên tử, mà nội hàm của nó là hạt có chứa các điện tử và hạt nhân; hay khái niệm
yêu nước, thời chiến tranh, nội hàm của nó là sự hy sinh cho Tổ quốc, tất cả vì bảo
vệ Tổ quốc... Còn ngày nay, nội hàm của khái niệm yêu nước ngoài việc hy sinh cho
Tổ quốc còn là việc làm giàu cho Tổ quốc, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam...

1.2.2. Ngoại diên của khái niệm

Ngoại diên của khái niệm là tập hợp tất cả những phần tử có những thuộc tính
đặc trưng được phản ánh vào trong khái niệm. Hay nói cách khác, ngoại diên là tập
hợp những đối tượng có những dấu hiệu được nêu trong nội hàm khái niệm. Xác định
ngoại diên của khái niệm giúp con người nhận biết được những đối tượng nào được
phản ánh vào trong một khái niệm nhất định, và ngược lại, một khái niệm nhất định
phản ánh được tập hợp đối tượng nào xác định.

Ví dụ: Ngoại diên của khái niệm tham nhũng ở Việt Nam (trong khu vực nhà
nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà
nước thực hiện) được xác định là bao gồm 12 hành vi: Tham ô tài sản; Nhận hối
lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm
vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi; Giả mạo trong công tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ
lợi; Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì
36

vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi 1.

Như vậy, khi xét một đối tượng có thuộc ngoại diên của một khái niệm nhất
định nào đó, con người phải xét xem đối tượng đó có những thuộc tính bản chất của
khái niệm đó hay không. Chẳng hạn, có người phạm tội buôn lậu, phải xét xem tội
buôn lậu có thuộc về ngoại diên của tội phạm kinh tế hay không. Sau khi xem xét, ta
nhận thấy tội buôn lậu chính là tội phạm kinh tế. Như vậy là, tội buôn lậu thuộc ngoại
diên của khái niệm tội phạm kinh tế, vì nó hội đủ các tính chất của tội phạm kinh tế.

1.2.3. Mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm

Một khái niệm nhất định bao giờ cũng thống nhất hai yếu tố nội hàm và ngoại
diên. Tuy nhiên, mối quan hệ của nội hàm và ngoại diên có tính tỷ lệ nghịch với nhau:
nếu một khái niệm có nội hàm phong phú thì ngoại diên sẽ rất hẹp; và ngược lại, nếu
một khái niệm có ngoại diên rộng thì nội hàm của nó sẽ rất nghèo nàn, ít thuộc tính
đặc trưng.

Ví dụ: Khái niệm vật chất, có ngoại diên rất rộng, có vô số đối tượng, nhưng
nội hàm của nó rất nghèo nàn, chỉ có thuộc tính tồn tại khách quan. Ngược lại, khái
niệm con người hiện nay có ngoại diên chỉ khoảng 7 tỷ đối tượng, nhưng nội hàm của
nó phong phú hơn khái niệm vật chất nhiều lần, ngoài các thuộc tính mà khái niệm
vật chất có, khái niệm con người còn có các thuộc tính đặc trưng cơ bản khác như:
khả năng tư duy, có ngôn ngữ, biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động, có văn hóa…

1.3. Phân loại khái niệm

Căn cứ theo những tiêu chí nhất định, việc phân loại các khái niệm ra thành các
loại khái niệm khác nhau có ý nghĩa quan trọng đối với tư duy. Nó cho phép ta có thể
tách ra những nhóm lớn, hữu hạn và phổ biến nhất trong hệ thống rất nhiều khái niệm
đã được tích luỹ từ các lĩnh vực khoa học và cuộc sống, giúp cho tư duy thêm chính
xác và tường minh.

1
Theo Điều 2, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2019.
37

1.3.1. Xét theo nội hàm

Nếu xét theo nội hàm, khái niệm có thể được chia thành ba cặp khái niệm khác
nhau: khái niệm cụ thể và khái niệm trừu tượng; khái niệm khẳng định và khái niệm
phủ định; khái niệm tương quan và khái niệm không tương quan.

- Khái niệm cụ thể và khái niệm trừu tượng

Khái niệm cụ thể là khái niệm phản ánh đối tượng hay lớp đối tượng hiện thực,
tồn tại một cách độc lập tương đối trong tính chỉnh thể. Hay nói cách khác, khái niệm
cụ thể phản ánh những đối tượng có thể nhận thức được thông qua các giác quan, cân
đong, đo đếm được. Ví dụ: khái niệm con mèo, con chó, con bò, cái bàn, cái ghế, máy
tính…

Khái niệm trừu tượng là khái niệm phản ánh tính chất, quan hệ của các đối tượng
hiện thực nhưng không tồn tại độc lập nếu thiếu các đối tượng ấy. Ví dụ: tình yêu,
lòng khoan dung, sự hận thù…

- Khái niệm khẳng định và khái niệm phủ định

Khái niệm khẳng định là khái niệm nhấn mạnh sự hiện diện của các đối tượng,
các thuộc tính hay các quan hệ của chúng. Ví dụ: có văn hóa, có dân chủ, văn minh...

Khái niệm phủ định nhấn mạnh sự không tồn tại của đối tượng, thuộc tính hay
quan hệ của chúng ở phẩm chất đang xét. Ví dụ: vô văn hóa, mất dân chủ, vô kỷ luật...

- Khái niệm tương quan và không tương quan

Khái niệm tương quan là khái niệm chỉ mang đầy đủ nội dung khi đứng trong
quan hệ với khái niệm khác cùng cặp. Ví dụ: mẹ - con, thầy giáo - học sinh, ông -
cháu v.v…

Khái niệm không tương quan là những khái niệm phản ánh các đối tượng có thể
tồn tại độc lập tương đối, không phụ thuộc vào sự tồn tại của đối tượng khác, và do
vậy có đầy đủ nội dung khi đứng độc lập. Ví dụ: con người, xã hội…

1.3.2. Xét theo ngoại diên


38

Nếu xét theo ngoại diên, khái niệm có thể được chia thành ba cặp khái niệm
khác nhau: khái niệm rỗng (ảo) và khái niệm thực; khái niệm chung và khái niệm đơn
nhất; khái niệm tập hợp và khái niệm không tập hợp.

- Khái niệm ảo (rỗng) là những khái niệm không xác định được ngoại diên hoặc
là những khái niệm có ngoại diên bằng không. Ví dụ: rồng, quỷ, động cơ vĩnh cửu…

- Khái niệm thực là những khái niệm mà ngoại diên có từ một đối tượng trở lên.
Ví dụ: sinh viên, thành phố, Mặt Trời…

- Khái niệm chung và khái niệm đơn nhất

Khái niệm chung là những khái niệm mà ngoại diên có từ hai đối tượng trở lên.
Đó có thể là khái niệm chung hữu hạn, nếu xác định được số lượng đối tượng trong
ngoại diên. Ví dụ: Người Việt Nam, Sinh viên Việt Nam... Đó có thể là khái niệm
chung vô hạn, nếu khó hoặc không xác định được chính xác số lượng đối tượng trong
ngoại diên. Ví dụ: động vật, hành tinh, tế bào, số chẵn...

Khái niệm đơn nhất là khái niệm chỉ phản ánh một đối tượng duy nhất. Chẳng
hạn các khái niệm như: Mặt Trăng, Sông Hương, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…
là những khái niệm đơn nhất, vì mỗi khái niệm ấy chỉ phản ánh một đối tượng duy
nhất trong thế giới hiện thực. Cũng có khi khái niệm đơn nhất được hiểu như một lớp
đối tượng được phản ánh như là một chỉnh thể thống nhất (chính là khái niệm tập
hợp). Ví dụ: Liên hiệp quốc, hệ Mặt Trời, loài người…

- Khái niệm tập hợp và không tập hợp.

Khái niệm tập hợp là những khái niệm phản ánh về một lớp đối tượng đồng nhất
được coi như một chỉnh thể thống nhất. Ví dụ: rừng, đội bóng đá, hạm đội... Tuy
nhiên, nội hàm của nó không phải là tổng số nội hàm của các khái niệm phản ánh về
từng đối tượng tạo thành lớp. Nội hàm đó chỉ thể hiện những dấu hiệu của cả lớp đối
tượng. Ví dụ: nội hàm của khái niệm hạm đội không thể hiện ở từng con tàu và từng
con tàu cũng chưa phải là hạm đội, mặc dù hạm đội được tạo thành từ lớp đối tượng
là những con tàu.
39

Khái niệm không tập hợp là khái niệm trong đó mỗi đối tượng riêng rẽ được đề
cập tới một cách độc lập. Nó chính là từng phần tử của khái niệm tập hợp. Ví dụ: cây,
con tàu, cầu thủ...

Đặc trưng của khái niệm không tập hợp là nội hàm của nó có thể quy về cho
mỗi đối tượng nằm trong ngoại diên của khái niệm đó. Ví dụ: khái niệm “cây” có nội
hàm là những dấu hiệu của lớp cây nói chung, đồng thời nó cũng được thể hiện ở
từng loại cây cụ thể trong lớp đối tượng đó.

Tuy nhiên, sự phân loại nêu trên cũng chỉ là tương đối và bản thân mỗi khái
niệm không tập hợp đã tiềm tàng là khái niệm tập hợp và ngược lại.

1.4. So sánh khái niệm với từ

Khái niệm không thể biểu đạt được nếu không có từ ngữ. Nếu như ngôn ngữ là
vỏ vật chất của tư duy, thì từ ngữ cũng được xem là vỏ vật chất của khái niệm. Tuy
nhiên, không được đồng nhất từ ngữ với khái niệm. Vì khái niệm luôn luôn được
chuyển tải bởi từ ngữ, nhưng không phải từ ngữ nào cũng là khái niệm, vì những từ
không có nội dung không thể là khái niệm (vì nó không có đủ các yếu tố nội hàm và
ngoại diên để tạo thành khái niệm). Mặt khác, một từ hoặc một cụm từ có khả năng
chuyển tải nhiều khái niệm và ngược lại có những trường hợp, một khái niệm có thể
được chuyển tải bằng nhiều từ.

1.4.1. Từ có nội dung chuyển tải khái niệm

Khái niệm luôn luôn được biểu đạt bằng từ, nhưng không phải bất cứ từ nào
cũng là khái niệm. Trong hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có chín loại từ (danh,
động, tính, trạng, đại, mạo, liên, giới, và cảm thán từ). Trong đó, bốn loại từ đầu là từ
có ngữ nghĩa từ vựng: danh từ, động từ, tính từ, trạng từ. Đó là những từ có nội dung,
vì vậy chúng có khả năng chuyển tải khái niệm. Chẳng hạn, các từ: nạn nhân (danh
từ), yêu (động từ), xinh đẹp (tính từ), một cách say đắm (trạng từ)… là những khái
niệm. Còn năm loại từ còn lại là loại từ không có ngữ nghĩa từ vựng mà chỉ có ngữ
nghĩa ngữ pháp, nên tự bản thân nó không có khả năng chuyển tải khái niệm. Chẳng
hạn, các từ: và, nhưng (liên từ), con, cái (mạo từ), trong, ngoài, trên, dưới… (giới
từ), ui chà (cảm thán từ), hắn (đại từ)… không phải là khái niệm.
40

1.4.2. Một khái niệm có thể được diễn tả bằng nhiều từ khác nhau

Từ ngữ là do con người quy ước. Mỗi dân tộc có thể chủ quan xây dựng nên hệ
thống ký tự để tạo thành tiếng nói, ngôn ngữ cho dân tộc mình. Còn khái niệm lại là
sự hiểu biết của con người về những thuộc tính bản chất của sự vật. Nó phản ánh thế
giới hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người. Vì vậy, sự hiểu biết ấy của
con người có tính chất phổ quát, phổ biến, khách quan và tương đối ổn định ở mọi
người, mọi dân tộc. Chính nhờ tính chất phổ quát ấy mà con người trên thế giới có
các ngôn ngữ khác nhau, ký hiệu từ ngữ khác nhau nhưng vẫn có thể hiểu nhau, trao
đổi thông tin cho nhau.

Chẳng hạn, một khái niệm dùng để chỉ một loại trái cây có các tính chất như:
da sần sùi, có mắt mọc theo đường chéo, lúc chín có mùi thơm đặc trưng, ăn nó đúng
phương pháp có thể ngăn ngừa và trị bệnh ung thư… được diễn tả bằng các từ khác
nhau: trái thơm, trái khóm, trái dứa thơm, trái gai, pineapple (tiếng Anh), ananas
(tiếng Pháp)…

Về phương diện logic, các từ ngữ khác nhau nhưng cùng phản ánh về một đối
tượng được xem là đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, trên phương diện tu từ học, khi sử
dụng từ ngữ phải hết sức thận trọng, nếu không sẽ gây ra những tai hại đáng tiếc.
Nghĩa là phải tuỳ theo không gian, thời gian, hoàn cảnh cụ thể để chọn từ ngữ cho
phù hợp trong quá trình giao tiếp, trao đổi thông tin.

1.4.3. Một từ có thể chuyển tải nhiều khái niệm

Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến một từ nhưng lại chuyển tải
nhiều khái niệm khác nhau. Tuy nhiên có thể nhận thấy nguyên nhân cơ bản nhất là
do trong thế giới hiện thực có vô số đối tượng. Càng ngày con người càng khám phá
ra nhiều đối tượng, và như thế các khái niệm cũng vô cùng nhiều nhưng với số vốn
từ ngữ hạn chế. Thế nên có những trường hợp chỉ một từ nhưng lại chuyển tải nhiều
khái niệm khác nhau.

Ví dụ: Từ mùi: có khả năng chuyển tải một loạt khái niệm: một tính chất có thể
được biết nhờ khứu giác (mùi thơm, mùi hôi…); con giáp thứ tám trong mười hai con
41

giáp (tuổi mùi); sự lâm ly, xúc động (giọng ca nghe rất mùi tai); những trải nghiệm
trong cuộc đời (nếm mùi đời)…

1.5. Mối quan hệ của các khái niệm

1.5.1. Xét theo nội hàm của khái niệm

Căn cứ vào nội hàm của khái niệm thì mối quan hệ giữa các khái niệm có thể
chia thành: quan hệ so sánh được và quan hệ không so sánh được.

- Quan hệ so sánh được là khi giữa các khái niệm có chung một số dấu hiệu
(thuộc tính) nào đó. Ví dụ: “cây” và “thực vật”, “đoàn viên” và “sinh viên”.

- Quan hệ không so sánh được là khi giữa các khái niệm không có dấu hiệu
(thuộc tính) chung nào. Ví dụ: “bàn” và “mặt trời”, “trâu” và “đèn”.

1.5.2. Xét theo ngoại diên của khái niệm

Căn cứ vào ngoại diên của khái niệm thì có các loại quan hệ:

- Quan hệ trùng lặp: là quan hệ giữa các khái niệm có ngoại diên trùng nhau
một phần hay hoàn toàn. Đó là các quan hệ đồng nhất, giao nhau, bao hàm.

- Quan hệ không trùng lặp: là quan hệ giữa các khái niệm không có phần ngoại
diên nào trùng nhau. Đó là các quan hệ tách rời, đối lập (tương phản), mâu thuẫn,
ngang hàng - đồng thuộc.

Có thể quy các khái niệm có quan hệ trùng lặp và không trùng lặp vào bảy kiểu
sau đây: Quan hệ đồng nhất; quan hệ giao nhau; quan hệ bao hàm - lệ thuộc; quan hệ
tách rời; quan hệ đối lập; quan hệ mâu thuẫn; quan hệ ngang hàng - đồng thuộc.

Để biểu hiện mối quan hệ giữa các khái niệm, người ta thường dùng sơ đồ Venn1
hoặc sơ đồ Euler2, trong đó, mỗi khái niệm được biểu hiện bằng một đường cong
khép kín tượng trưng cho tập hợp các đối tượng thuộc ngoại diên của khái niệm đó.

1
Sơ đồ Venn (còn được gọi là biểu đồ Venn hoặc sơ đồ tập hợp) là một sơ đồ mô tả hình học của một tập hợp,
nó cho phép biểu diễn các mối quan hệ logic có thể có giữa một số lượng hữu hạn các tập hợp. Sơ đồ Venn đã
được John Venn (1834-1923) – nhà toán học, nhà triết học người Anh - xây dựng vào khoảng năm 1880.
2
Sơ đồ Euler hay biểu đồ Euler bao gồm các hình đơn giản đóng trong một mặt phẳng hai chiều mà mỗi hình
mô tả một tập hợp hoặc danh mục. Sơ đồ Euler được sử dụng đầu tiên bởi toán học Thụy Sĩ Leonhard Euler
(1707–1783), thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học St. Petersburg, nổi tiếng trong phân tích toán học, thống
kê, khoa học máy tính và logic. Biểu đồ Venn là một dạng biểu đồ Euler nhưng hạn chế hơn. Nếu biểu đồ Venn
hiển thị tất cả các quan hệ có thể có giữa các tập hợp khác nhau thì biểu đồ Euler chỉ hiển thị các mối quan hệ
42

1.5.2.1. Quan hệ đồng nhất

Quan hệ đồng nhất là quan hệ của các khái niệm có ngoại diên đồng nhất với
nhau. Nói cách khác, đó là quan hệ của những khái niệm mà mọi phần tử của ngoại
diên này cũng là một phần tử của ngoại diên của khái niệm còn lại.

Ký hiệu: A ≡ B A B

Sơ đồ:

Hai khái niệm đồng nhất với nhau về ngoại diên nhưng nội hàm có thể không
trùng nhau, mỗi nội hàm phản ánh một mặt nào đó của đối tượng.

Ví dụ về hai khái niệm có quan hệ đồng nhất với nhau:

- Khái niệm Mặt Trời (A) và khái niệm trung tâm thái dương hệ (B)

- Khái niệm số chẵn (A) và khái niệm số tự nhiên chia hết cho 2 (B)

Về phương diện logic, hai khái niệm có quan hệ đồng nhất với nhau có thể thay
thế cho nhau. Nhưng về mặt ngôn ngữ hay tu từ học phải hết sức thận trọng, vì có thể
về logic thì không sai nhưng về ngữ cảnh thì không hay.

1.5.2.2. Quan hệ bao hàm - lệ thuộc

Quan hệ bao hàm là quan hệ của hai khái niệm, trong đó một khái niệm có ngoại
diên rộng hơn bao hàm một khái niệm có ngoại diên hẹp hơn. Khái niệm thứ nhất gọi
là khái niệm bị bao hàm, còn khái niệm thứ hai gọi là khái niệm bao hàm. Nói cách
khác, đây là quan hệ giữa một khái niệm hạng với một khái niệm loại, trong đó, khái
niệm có ngoại diên rộng hơn là khái niệm loại và khái niệm có ngoại diên hẹp hơn là
khái niệm hạng.

Ký hiệu: A ⊂ B

Sơ đồ: B
A

phù hợp. Do vậy, một biểu đồ Euler có thể hữu ích hơn để hiển thị dữ liệu trong thế giới thực, bởi vì không
phải lúc nào tất cả các tập hợp đều trùng lặp một phần với các tập hợp khác.
43

Ví dụ về hai khái niệm có mối quan hệ bao hàm – lệ thuộc:

- Khái niệm vận động (B) và khái niệm vận động sinh học (A).

- Khái niệm Giáo trình (B) và khái niệm Giáo trình Logic học (A)

1.5.2.3. Quan hệ giao nhau

Quan hệ giao nhau là quan hệ giữa các khái niệm mà ngoại diên của chúng có
một số phần tử trùng nhau.

Ký hiệu: A ∩ B
A B
Sơ đồ:

Nếu A giao nhau với B, nghĩa là có đối tượng của A thuộc B đồng thời có đối
tượng của B thuộc A; có đối tượng của A không thuộc B, cũng như có đối tượng của
B không thuộc A

Chẳng hạn hai khái niệm sau đây có quan hệ giao nhau:

- Khái niệm nhà thơ (A) và khái niệm nhà chính trị (B)

- Khái niệm người giàu có (A) và người nổi tiếng (B)

1.5.2.4. Quan hệ ngang hàng - đồng thuộc

Quan hệ ngang hàng là quan hệ của các khái niệm có ngoại diên tách rời nhau
nhưng cùng tồn tại trong một khái niệm có ngoại diên rộng hơn.

Ký hiệu: (a1 ∪ a2 ∪ ... ∪ an) ⊂ A với Ai ∩Aj = ∅ khi i ≠j

Sơ đồ: A

a1 a2

a3

Ví dụ: Ta có khái niệm: Học sinh (A), Học sinh giỏi (a1), Học sinh khá (a2),
Học sinh trung bình (a3); trong đó a1, a2, a3 ngang hàng và cùng phụ thuộc vào ngoại
diên của khái niệm A.
44

1.5.2.5. Quan hệ đối lập

Quan hệ đối lập là quan hệ của hai khái niệm có nội hàm trái ngược nhau mà
tổng ngoại diên của hai khái niệm nhỏ hơn ngoại diên của một khái niệm bao hàm
hai khái niệm ấy.

Ký hiệu: A ⊂ (E \ B) với (A ∪ B) ⊂ E

Sơ đồ:
A B
E

Ví dụ hai khái niệm sau đây có quan hệ đối chọi nhau:

- Khái niệm màu trắng (A) và khái niệm màu đen (B), tổng ngoại diên nhỏ hơn
khái niệm màu sắc (E)

- Khái niệm giỏi (A) và khái niệm kém (B), tổng ngoại diên nhỏ hơn khái niệm
học lực (E)

1.5.2.6. Quan hệ mâu thuẫn

Quan hệ mâu thuẫn là quan hệ của hai khái niệm có nội hàm phủ định nhau,
đồng thời tổng ngoại diên của hai khái niệm mâu thuẫn vừa bằng ngoại diên của khái
niệm bao hàm hai khái niệm ấy.

Ký hiệu: A= (E\B) với (A ∪ B) = E

Sơ đồ:

A B
E

Chẳng hạn hai khái niệm sau đây có mối quan hệ mâu thuẫn nhau:

- Khái niệm trắng (A) và khái niệm không trắng (B), có nội hàm phủ định
nhau và ngoại diên bằng ngoại diên của khái niệm màu sắc (E)
45

- Khái niệm học giỏi (A) và học không giỏi (B), có nội hàm phủ định nhau và
bằng ngoại diên của khái niệm học lực (E)

2. Các thao tác logic đối với khái niệm

Các thao tác logic đối với khái niệm hay thao tác hóa khái niệm là thao tác của
tư duy, của nhận thức chúng ta với các khái niệm nhằm mục đích định vị, xác lập ý
nghĩa và phân nhỏ khái niệm. Hay nói cách khác, mục đích thao tác hóa khái niệm là
nhận thức đầy đủ, chính xác một khái niệm nhất định. Trong quá trình nhận thức về
khái niệm con người có ba thao tác cơ bản: chuyển dịch khái niệm; định nghĩa khái
niệm; phân chia khái niệm.

2.1. Chuyển dịch khái niệm

Chuyển dịch khái niệm là thao tác mở rộng khái niệm và thu hẹp khái niệm
nhằm mục đích định vị được đối tượng trong không gian và thời gian nhất định.

2.1.1. Mở rộng khái niệm

Mở rộng khái niệm là thao tác logic đi từ khái niệm có ngoại diên hẹp, nội hàm
phong phú, đến khái niệm có ngoại diên rộng, nội hàm nghèo nàn.

Để thực hiện thao tác mở rộng khái niệm, ta chỉ cần lần lượt bỏ bớt đi một số
thuộc tính của nội hàm khái niệm, làm cho ngoại diên của khái niệm ngày càng rộng
hơn.

Ví dụ 1: Từ khái niệm “Giáo viên dạy Toán cấp 1”, ta mở rộng ra khái niệm
“Giáo viên dạy Toán”, tiếp tục mở rộng ra khái niệm “Giáo viên”.

Giáo viên dạy


Toán cấp 1

Giáo viên dạy Toán


Giáo viên

Ví dụ 2: Thao tác mở rộng khái niệm: múa  nghệ thuật hình thể văn hóa
phi vật thể  văn hóa.
46

Chú ý: Giới hạn cuối cùng của thao tác mở rộng khái niệm là phạm trù. Phạm
trù là khái niệm có ngoại diên rộng nhất và nội hàm hẹp nhất (nghèo nàn nhất). Chẳng
hạn mở rộng khái niệm chiến tranh xung đột xã hội  vận động xã hội  vận
động (khái niệm vận động có ngoại diên rộng tuyệt đối, không thể mở rộng hơn được
nữa, nên người ta cũng gọi là phạm trù vận động).

2.1.2. Thu hẹp khái niệm

Thu hẹp khái niệm là thao tác logic đi từ khái niệm có ngoại diên rộng, nội hàm
nghèo nàn, đến khái niệm có ngoại diên hẹp, nội hàm phong phú.

Để thực hiện thao tác thu hẹp khái niệm, ta chỉ cần thêm các thuộc tính vào nội
hàm của khái niệm ấy, chúng ta sẽ có khái niệm hẹp hơn khái niệm ban đầu.

Chẳng hạn, thao tác sau đây là thao tác thu hẹp khái niệm: Số thực số hữu
tỷ số nguyên số tự nhiên số tự nhiên chẵn số 2.

Số thực
Số hữu tỷ
Số nguyên

Số tự nhiên

Số tự nhiên chẵn
Số 2

Chú ý: Giới hạn cuối cùng của thu hẹp khái niệm là khái niệm đơn nhất (khái
niệm hẹp tuyệt đối). Chẳng hạn thu hẹp khái niệm: các quốc gia châu Á  các quốc
gia Đông Á các quốc gia Đông Nam Á quốc gia Việt Nam. (Khái niệm quốc gia
Việt Nam là khái niệm riêng, không thể thu hẹp được nữa).

Nhìn chung, thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm có ý nghĩa quan trọng trong
việc khu biệt đối tượng, định vị đối tượng đang thuộc về lớp đối tượng nào, đồng thời
47

thao tác này cũng giúp cho thao tác định nghĩa và phân chia khái niệm chuẩn xác hơn.
Trong quá trình nhận thức ta thường sử dụng các phương pháp đối lập với nhau, bổ
sung cho nhau như đi từ cái chung, cái phổ biến đến cái riêng, cái đặc thù và ngược
lại. Mở rộng và thu hẹp khái niệm còn giúp ta xác định nội hàm và ngoại diên của
khái niệm được tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho định nghĩa và phân chia khái
niệm.

2.2. Định nghĩa khái niệm

Trong quá trình nhận thức hiện thực sự vật, hiện tượng, con người luôn luôn
phải trả lời câu hỏi mang tính bản thể luận: nó là gì?. Khi trả lời được câu hỏi “nó là
gì?” chính là khi con người thực hiện được thao tác định nghĩa khái niệm.

Vậy định nghĩa khái niệm là thao tác logic xác định nội hàm, giới hạn ngoại
diên của khái niệm; xác lập ý nghĩa của thuật ngữ, nhằm mục đích giúp con người
hiểu được khái niệm phản ánh đối tượng nào.

2.2.1. Cấu trúc logic của định nghĩa khái niệm

Một định nghĩa khái niệm khoa học bao giờ cũng gồm hai bộ phận cấu thành là
khái niệm cần định nghĩa và vế dùng để định nghĩa. Vế dùng để định nghĩa có thể là
một hoặc nhiều khái niệm xác định nội hàm và giới hạn ngoại diên của khái niệm cần
để định nghĩa. Trong tiếng Latinh, cấu trúc này được viết thành:

Definidum = Definiens (Dfd = Dfn).

Có thể diễn giải bằng công thức: A = B + a

A: Khái niệm cần định nghĩa (khái niệm hạng/khái niệm loài)

B: Khái niệm dùng để giới hạn ngoại diên (khái niệm loại/khái niệm giống)

a: Nội hàm hoặc ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa.

2.2.2. Các hình thức định nghĩa khái niệm

2.2.2.1. Định nghĩa chính thức

a. Định nghĩa thông qua loại và hạng (định nghĩa thuộc tính): là kiểu định
nghĩa trong đó phải chỉ ra khái niệm loại gần nhất chứa khái niệm cần định nghĩa, rồi
48

sau đó vạch ra những thuộc tính khác biệt của khái niệm cần định nghĩa so với khái
niệm loại.

Ví dụ: Tam giác cân là tam giác có hai cạnh bằng nhau; con người là động vật
có tư duy; chim là động vật có lông vũ; cá là động vật thở bằng mang.

b. Định nghĩa thông qua nguồn gốc: là hình thức định nghĩa chỉ ra nguồn gốc
của đối tượng cần định nghĩa. Kiểu định nghĩa này thường được các ngành khoa học
như vật lý, hóa học, y học, toán học… áp dụng.

Chẳng hạn, trong hóa học người ta định nghĩa như sau: bazơ là hợp chất do kim
loại kết hợp với nhóm hydroxin tạo thành; muối ăn là hợp chất do nguyên tố natri kết
hợp với chất clo tạo thành; nước là hợp chất do một nguyên tử ôxy và hai nguyên tử
hydro tạo thành.

Trong toán học, người ta định nghĩa: hình tròn là một hình hình học được giới
hạn bởi một đường tròn, còn đường tròn là một đường cong khép kín mà mọi điểm
thuộc nó đều cách đều một điểm cố định gọi là tâm. Nói cách khác, hình tròn là một
hình hình học được giới hạn bởi một đường cong khép kín mà mọi điểm thuộc nó đều
cách một điểm là tâm.

Trong y học, người ta định nghĩa: bệnh sars là loại bệnh do virus Corona gây
nên; bệnh sida là bệnh do virus HIV gây nên; thuốc phiện là một loại chất gây nghiện
được tinh chế từ cây anh túc…

c. Định nghĩa thông qua quan hệ: là phương pháp định nghĩa bằng cách chỉ ra
quan hệ đặc trưng của khái niệm cần định nghĩa với một khái niệm khác.

Chẳng hạn: chồng là người đàn ông có quan hệ hôn nhân với một người phụ nữ;
dì là người nữ có quan hệ là em hoặc chị của mẹ; dượng là người nam có quan hệ là
chồng của cô hoặc dì; đối tác kinh tế là cá nhân hoặc tập thể có quan hệ hợp tác kinh
tế với nhau...

 Chú ý: Trong Toán học, định nghĩa bằng tiên đề1, định nghĩa đệ quy đều là
các dạng của kiểu định nghĩa thông qua quan hệ.

1
Tiên đề trong toán học là một mệnh đề được coi luôn đúng và không cần chứng minh. Trong loại định nghĩa
bằng tiên đề, người ta xác định mối quan hệ giữa các khái niệm trong hệ tiên đề thông qua hệ tiên đề đã cho.
49

Ví dụ: Khái niệm “nằm trong” trên một đường thẳng được định nghĩa qua ba
tiên đề sau:

1. Nếu trên một đường thẳng, C nằm trong A và B thì nó cũng nằm trong B và A.

2. Trong ba điểm A, B, C trên một đường thẳng có một và chỉ một điểm nằm
trong hai điểm kia.

3. Trên một đường thẳng, một trong ba điểm sẽ nằm trong hai điểm kia nếu và
chỉ nếu hai điểm đó nằm ở hai phần khác nhau mà điểm này đã phân chia đường thẳng
đó.

- Định nghĩa chức năng: là phương pháp định nghĩa bằng cách chỉ ra chức
năng đặc trưng của khái niệm cần định nghĩa.

Chẳng hạn, Quốc hội là cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng soạn thảo
và ban hành pháp luật; Chính phủ là cơ quan trong bộ máy nhà nước có chức năng
điều hành xã hội theo pháp luật. Việm kiểm sát là cơ quan trong bộ máy nhà nước có
chức năng bảo vệ pháp luật.

- Định nghĩa ngoại diên: là phương pháp định nghĩa bằng cách chỉ ra tất cả
những phần tử thuộc ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa. Phương pháp định
nghĩa này có hạn chế là chỉ áp dụng cho những khái niệm có ngoại diên hẹp. Chẳng
hạn, chữ số Ả Rập là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9; Khối ASEAN là một tổ chức gồm các
nước Malaysia, Indonesia, Singapore, Thailand, Bruney, Philippines, Việt Nam,
Cambodia, Laos va Myanmar; kim loại kiềm là kali, natri, canxi, magie và nhôm.

2.2.2.2. Định nghĩa không chính thức

Trong cuộc sống không phải lúc nào con người cũng có được một định nghĩa
chính thức đối với một khái niệm nhất định và có nhiều trường hợp có những khái
niệm không thể vận dụng loại định nghĩa chính thức mà phải sử dụng loại định nghĩa
không chính thức. Xét về logic thì định nghĩa không chính thức là loại định nghĩa vi
phạm các quy tắc định nghĩa khái niệm, tuy nhiên, định nghĩa không chính thức vẫn
có những ý nghĩa nhất định trong đời sống.
50

- Định nghĩa thông qua từ tương đương: là loại định nghĩa sử dụng từ đồng
nghĩa, từ có nghĩa tương đương nhưng phổ thông hơn để giải nghĩa cho từ khó hiểu
hơn.

Trong cuộc sống giao tiếp, trước một vấn đề hoặc trước một sự kiện có thể có
nhiều hình thức từ ngữ để phản ánh một đối tượng. Trong đó có những từ thông dụng,
phổ biến; nhưng cũng có những thuật ngữ chuyên môn, tối nghĩa. Vì vậy, để đáp ứng
nhu cầu diễn đạt và trao đổi thông tin, con người cần đến cách định nghĩa khái niệm
bằng một từ tương đương. Thông thường từ tương đương dùng để định nghĩa bao giờ
cũng phổ thông, dễ hiểu hơn từ cần định nghĩa.

Chẳng hạn, viên tịch là chết; tư duy là suy nghĩ, vip là nhân vật rất quan trọng;
guidon là tay lái xe hai bánh; quá độ là chuyển tiếp; viêm là loét…

Hình thức định nghĩa này không chính thức vì chưa nêu rõ được đặc trưng của
đối tượng cần định nghĩa. Tuy vậy, nó rất có ý nghĩa trong việc diễn đạt, trao đổi
thông tin, học tiếng… Các nhà biên soạn từ điển song ngữ, các nhà sư phạm thường
sử dụng phương pháp định nghĩa này.

- Định nghĩa thông qua mô tả: là kiểu định nghĩa bằng cách nêu lên các dấu hiệu
bên ngoài của đối tượng nhằm phân biệt nó với các đối tượng khác. Trong thực tế,
không phải lúc nào con người cũng hiểu biết các thuộc tính đặc trưng của mọi đối
tượng. Vì vậy con người cần đến cách định nghĩa không chính thức này để đáp ứng
nhu cầu trao đổi thông tin.

Chẳng hạn, người con gái đẹp là người con gái có khuôn mặt trái xoan, có má
lúm đồng tiền, mũi dọc dừa, có mái tóc dài tha thướt, eo thắt đáy lưng ong; cây rau
sam là cây lá xanh, cành tím và hoa vàng, hạt đen, rễ trắng.

- Định nghĩa thông qua so sánh: là cách định nghĩa đưa khái niệm cần định
nghĩa so sánh với một khái niệm khác có những thuộc tính tương đương. Người ta
hiểu khái niệm cần định nghĩa thông qua hiểu những tính chất của khái niệm được
đưa ra so sánh. Chẳng hạn, khi định nghĩa về công lao của của đấng sinh thành: công
cha như núi Thái Sơn; nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Hay khi Nguyễn Du
định nghĩa nét đẹp của Thúy Vân là: hoa cười, ngọc thốt đoan trang; mây thua nước
51

tóc, tuyết nhường màu da; còn vẻ đẹp của Thúy Kiều thì là: làn thu thủy, nét xuân
sơn; hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh…

Phương pháp định nghĩa bằng cách so sánh được dùng nhiều trong văn học nghệ
thuật. Cách định nghĩa này có ý nghĩa rất lớn trong quá trình thi vị hóa, phong phú
hóa và hình tượng hóa đối tượng.

2.2.3. Các quy tắc của định nghĩa khái niệm

Các quy tắc của định nghĩa khái niệm chỉ áp dụng cho hình thức định nghĩa
chính thức, không áp dụng cho hình thức định nghĩa phi chính thức. Vì vậy, nếu áp
dụng các quy tắc của định nghĩa thì tất cả các hình thức định nghĩa phi chính thức
đều là định nghĩa vi phạm lỗi logic.

Quy tắc 1: Định nghĩa phải cân đối

Quy tắc này yêu cầu khi định nghĩa một khái niệm thì ngoại diên của khái niệm
được định nghĩa phải bằng ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa.

Công thức: A = B + a (Trong đó: A: Khái niệm cần định nghĩa, B: Khái niệm
dùng để giới hạn ngoại diên, a: Nội hàm hoặc ngoại diên của khái niệm cần định
nghĩa).

Ví dụ: Nông dân (A) là những người lao động (B) trực tiếp sản xuất ra nông sản
(a).

Để đáp ứng quy tắc này, cần tuân thủ hai yêu cầu cụ thể sau:

Thứ nhất, tránh định nghĩa quá rộng: A < B + a

Định nghĩa quá rộng là khi ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa chỉ là một
bộ phận của ngoại diên dùng để định nghĩa.

Ví dụ: Con người là loài động vật đi bằng hai chân. Định nghĩa như thế, ngoại
diện của khái niệm con người hẹp hơn ngoại diên của khái niệm động vật đi bằng hai
chân. Vì đi bằng hai chân thì không phải chỉ là con người; gà, vịt… cũng đi bằng hai
chân.
52

Thứ hai, tránh định nghĩa quá hẹp: A> B + a

Định nghĩa quá hẹp là khi ngoại diên của khái niệm cần định nghĩa rộng hơn
ngoại diên của khái niệm dùng để định nghĩa.

Ví dụ: Người lao động là người sản xuất ra của cải vật chất. Định nghĩa như thế
là quá hẹp, vì người lao động không chỉ là người tạo ra của cải vật chất mà còn là
những người tạo ra các giá trị về tinh thần…

Thứ ba, không được định nghĩa vừa rộng lại vừa hẹp: nghĩa là một số phần tử
thuộc ngoại diên của A nhưng không thuộc ngoại diên của (B + a). Và ngược lại, một
số phần tử không thuộc ngoại diên của A nhưng lại thuộc ngoại diên của B + a.

Ví dụ: Số nguyên tố là số lẻ.

Khái niệm số nguyên tố có cả số 2 là số chẵn, vậy, A > B + a.

Khái niệm số nguyên tố không bao hàm hết được mọi số lẻ vì có những số lẻ
không phải là số nguyên tố, chẳng hạn như số 9, vậy, A < B + a.

Định nghĩa không cân đối thực chất là lỗi do không chỉ ra nội hàm cần và đủ
của khái niệm cần định nghĩa.

Quy tắc 2: Định nghĩa phải rõ ràng

Quy tắc này đòi hỏi phải xác định được nội hàm và giới hạn được ngoại diên
của khái niệm cần định nghĩa. Một số yêu cầu cụ thể:

Thứ nhất, định nghĩa không được luẩn quẩn: tức là lấy từ này để định nghĩa
cho từ kia; mà thực chất chỉ là dùng từ đồng nghĩa, luẩn quẩn trong vòng tròn khép
kín. Chẳng hạn, Châu Phi là Phi Châu, Phi Châu là Châu Phi; con chó là con cầy,
con cầy là con cẩu, con cẩu là con chó; đạo đức học là khoa học về đạo đức, khoa
học về đạo đức là đạo đức học… Thực chất, đây là hình thức dùng từ khác nhau để
thay thế chứ không phải là định nghĩa. Định nghĩa như thế thể hiện sự vòng quanh
luẩn quẩn.

Thứ hai, định nghĩa không được dùng từ mơ hồ, tối nghĩa, phức tạp. Từ mơ hồ
là từ có ít nhất hai cách hiểu (ví dụ như những từ “không nhiều”, “một bộ phận không
nhỏ”, “biện pháp thích hợp”…). Từ tối nghĩa là từ không rõ nghĩa, có thể do cách
53

diễn đạt, lỗi ngữ pháp, cấu trúc… (ví dụ như tựa đề bài báo “Triển khai quy định mới
về xuất khẩu gỗ quá chậm” có thể khiến người đọc thắc mắc rằng, bài báo đề cập đến
việc triển khai quy định mới còn quá chậm hay là việc xuất khẩu gỗ quá chậm?), còn
từ phức tạp là từ có nhiều thành phần kết hợp, đan xen, khó mà tách bạch.

Những từ mơ hồ, tối nghĩa, phức tạp khi xuất hiện trong định nghĩa khái niệm
sẽ làm cho người đọc, người nghe khó hiểu, thậm chí là hiểu sai về khái niệm dùng
để định nghĩa. Chẳng hạn, Điều 22 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã quy định về phòng vệ chính đáng như sau: “1. Phòng vệ chính
đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của
người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một
cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính
đáng không phải là tội phạm; 2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi
chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại... Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này”. Trong điều
luật trên, cụm từ “chống trả một cách cần thiết” là một cụm từ mơ hồ, bởi vì trên thực
tế việc xác định một cách chính xác, hành vi chống trả đến đâu và như thế nào thì
được coi là “cần thiết” và khi nào thì “quá mức cần thiết” là một điều vô cùng khó.
Và nếu không làm rõ được nội hàm và ngoại diên của khái niệm “cần thiết” và “quá
mức cần thiết” sẽ khiến cho việc xác định người có tội hay không có tội trong tình
huống trên trở nên mơ hồ, dễ dẫn đến sai lầm trong khi áp dụng để xét xử.

Thứ ba, định nghĩa không được so sánh: định nghĩa nếu so sánh, ví von có thể
khiến người ta hiểu sai về đối tượng được định nghĩa. Chẳng hạn, tiền là tiên, là phật,
là sức bật của tuổi trẻ,… ; thủ tướng chính phủ là vị nhạc trưởng của một dàn hợp
xướng... Do vậy, định nghĩa không được so sánh.

Thứ tư, không được phủ định nếu không có hai khái niệm mâu thuẫn nhau: nếu
khái niệm cần định nghĩa không có quan hệ mâu thuẫn với một khái niệm khác thì
không được định nghĩa phủ định. Chẳng hạn, chính trị gia không phải là một nhà
khoa học, chẳng phải là một đạo sỹ, mà cũng chẳng phải là một cụ nhà nho tốt bụng…
54

Thực chất, các khái niệm vừa nêu đều không có quan hệ mâu thuẫn với khái niệm
chính trị gia, vì vậy thực chất vẫn chưa biết được chính trị gia là gì.

Được phép định nghĩa phủ định khi khái niệm cần định nghĩa có mối quan hệ
mâu thuẫn với khái niệm dùng để định nghĩa. Chẳng hạn, chết là không sống nữa; hai
đường thẳng song song là hai đường thẳng không bao giờ cắt nhau; khí trơ là khí
không tham gia phản ứng…

Quy tắc 3: Định nghĩa phải ngắn gọn

Định nghĩa ngắn gọn nghĩa là định nghĩa không nêu quá nhiều thuộc tính và
cũng không nêu những thuộc tính mà tất yếu suy ra được từ thuộc tính đã nêu. Chẳng
hạn: “Tam giác đều là tam giác có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau” là định
nghĩa dài dòng. Chỉ cần chỉ ra một trong hai thuộc tính là đủ. Ví dụ: tam giác đều là
tam giác có ba cạnh bằng nhau, hoặc tam giác đều là tam giác có ba góc bằng nhau.

Nhìn chung, việc vận dụng tốt các quy tắc định nghĩa là điều kiện cần để xây
dựng các định nghĩa khoa học chặt chẽ phù hợp với hiện thực. Tuy nhiên, định nghĩa
khoa học không chỉ là kết quả hoạt động nhận thức, mà còn là quá trình phức tạp, lâu
dài, vì bản chất đối tượng không nằm bên ngoài, mà ẩn dấu sau rất nhiều các hiện
tượng, tạo nên bản chất của chúng. Vì vậy để có một định nghĩa tốt rất cần phải có
quá trình quan sát, nghiên cứu, tìm hiểu lâu dài về đối tượng.

2.3. Phân chia khái niệm

Phân chia khái niệm là thao tác logic tách các khái niệm có ngoại diên hẹp
(hạng) ra khỏi khái niệm có ngoại diên rộng hơn (loại).

Nếu thao tác định nghĩa giúp con người biết đối tượng mà khái niệm phản ánh
là gì, phân biệt nó với đối tượng khác; thì thao tác phân chia giúp con người biết khái
niệm đó phản ánh bao nhiêu đối tượng. Nói cách khác, thao tác định nghĩa cho biết
chất của khái niệm, còn thao tác phân chia cho biết lượng của khái niệm. Chẳng hạn,
để hiểu được khái niệm nguyên tố hóa học sâu hơn người ta chia ra thành hai khái
niệm: nguyên tố kim loại và nguyên tố phi kim…
55

2.3.1. Cấu trúc của phép phân chia khái niệm

- Khái niệm được phân chia: A

- Các khái niệm thành phần: a1, a2, a3…

- Tiêu chí phân chia hay cơ sở phân chia.

Chẳng hạn, phân chia khái niệm nguyên tố hóa học thành: nguyên tố kim loại
và nguyên tố phi kim thì trong đó:

- Khái niệm được phân chia: Nguyên tố hóa học (A)


- Các khái niệm thành phần: Nguyên t niệm thành a1); Nguyên t niệm thàn(a2)
- Tiêu chí hay cơ sở phân chia: độ ion hóa và những thuộc tính liên kết của
các nguyên tố.

2.3.2. Các hình thức phân chia khái niệm

2.3.2.1. Phân đôi khái niệm

Phân đôi khái niệm là thao tác logic phân chia một khái niệm thành hai khái
niệm mâu thuẫn. Ví dụ: Phân khái niệm Học lực thành học giỏi và học không giỏi,
màu sắc thành màu đen và màu không đen.

Phân đôi khái niệm là thao tác phân chia khái niệm dễ dàng, nhanh chóng, lại
tuân thủ đầy đủ các quy tắc nên rất thường được ứng dụng trong sinh hoạt hàng ngày,
nhất là khi ta chỉ cần hiểu rõ khái niệm khẳng định.

2.3.2.2. Phân loại khái niệm

Phân loại khái niệm là thao tác logic nhằm phân chia liên tiếp một lớp các đối
tượng cho trước thành những lớp nhỏ dần cho đến đơn vị cuối cùng, sao cho mỗi lớp
chiếm một vị trí xác định.

Có hai kiểu phân loại: phân loại không tự nhiên và phân loại tự nhiên.

− Phân loại không tự nhiên (bổ trợ, nhân tạo) là kiểu phân loại dựa trên những
dấu hiệu thuận tiện chứ không phải là dấu hiệu quan trọng của đối tượng. Kiểu phân
loại này giúp cho việc phát hiện đối tượng được nhanh, đáp ứng yêu cầu hệ thống hóa
các đối tượng trong thực tiễn. Ví dụ: Phân loại người theo mẫu tự đầu của tên.
56

− Phân loại tự nhiên là kiểu phân loại dựa trên những dấu hiệu cơ bản, trên sự
nhận thức các quy luật về mối liên hệ giữa các loài, chuyển từ loài này sang loài khác
trong quá trình phát triển của đối tượng. Đây là cách phân loại được dùng phổ biến
trong nhiều ngành khoa học như sinh học, ngôn ngữ học, hóa học… Ví dụ, cách phân
loại các nguyên tố hóa học của D.I. Menđeleev.

2.3.3. Quy tắc của phép phân chia khái niệm

- Quy tắc 1: Phân chia phải cân đối về ngoại diên

Trong quá trình phân chia phải tuân thủ tính cân đối về ngoại diên của khái niệm
phân chia và ngoại diên của khái niệm thành phần, hay nói cách khác tổng ngoại diên
của khái niệm hạng phải bằng ngoại diên của khái niệm loại.

Công thức: A = a1 + a2 +a3 + …

Ví dụ: Con người (A) theo tiêu chí địa lý:

+ Người Châu Á (a1)

+ Người Châu Âu (a2)

+ Người Châu Mỹ (a3)

+ Người Châu Phi (a4)

+ Người Châu Úc (a5)

Như vậy, trong ví dụ trên, A = a1 + a2 +a3 + a4 + a5

Để tuân thủ quy tắc này, cần chú ý hai yêu cầu sau đây:

- Tránh phân chia thiếu: Phân chia thiếu nghĩa là ngoại diên của khái niệm được
phân chia rộng hơn tổng ngoại diên của khái niệm thành phần.

Ví dụ: (A): Lịch sử Việt Nam

+ Lịch sử Việt Nam cổ đại (a1)

+ Lịch sử Việt Nam cận đại (a2)

+ Lịch sử Việt Nam hiện đại (a3)

A > a1 + a2 + a3, (thiếu lịch sử Việt Nam trung đại).


57

- Tránh phân chia thừa: Phân chia thừa nghĩa là ngoại diên của khái niệm được
phân chia hẹp hơn tổng ngoại diên của các khái niệm thành phần.
Ví dụ: Tín đồ Kytô giáo (A):
+ Tín đồ Tin lành (a1)
+ Tín đồ Công giáo (a2)
+ Tín đồ Anh giáo (a3)
+ Tín đồ Chính thống giáo (a4)
+ Tín đồ Hồi giáo (a4)
A < a1 + a2 + a3 + a4 + a5, (tín đồ Hồi giáo không thuộc tín đồ Kytô giáo).
+ Tránh phân chia vừa thừa vừa thiếu: Phân chia vừa thừa vừa thiếu thành phần
khi ngoại diên của các khái niệm thành phần thu được không đúng bằng ngoại diên
của khái niệm bị phân chia hoặc khi ngoại diên của các khái niệm thành phần trùng
nhau.
Ví dụ: Phân chia khái niệm Người (A) thành: người da trắng, người da đen,
người da đỏ, người da nâu, người da xanh (ở đây thiếu người da vàng, nhưng lại thừa
người da nâu và người da xanh).
- Quy tắc 2: Phân chia phải nhất quán một tiêu chí
Quy tắc này yêu cầu khi phân chia một khái niệm nhất định, phải xác định được
tiêu chí, cơ sở để phân chia; không được phép dùng nhiều tiêu chí phân chia trong
một phép phân chia. Chẳng hạn, phân chia khái niệm học sinh, phải xác định tiêu chí
và nhất quán với một tiêu chí đó. Ví dụ, lấy tiêu chí là học lực phân chia:
+ Học sinh giỏi
+ Học sinh khá
+ Học sinh trung bình
+ Học sinh yếu
+ Học sinh kém
Hoặc có thể lấy tiêu chí là giới tính, phân chia Học sinh thành: Học sinh nam,
học sinh nữ; hoặc có thể phân chia khái niệm Học sinh theo tiêu chí bậc học, tiêu chí
quốc gia…
58

- Quy tắc 3: Phân chia phải liên tục và không vượt cấp

Phân chia liên tục nghĩa là hết phép này đến phép kia, phân chia đến giới hạn
cuối cùng. Tuy nhiên, trong thực tế, nhu cầu phân chia đến đâu thì có thể dừng lại ở
đó, không nhất thiết phải phân chia đến giới hạn cuối cùng.

Phân chia không vượt cấp là quá trình phân chia phải tuần tự theo từng cấp: loại
rồi đến hạng, rồi đến loại hạng tiếp theo…

Nếu vi phạm quy tắc phân chia vượt cấp thường biểu hiện ra dưới hai hình thức
sau đây:

Thứ nhất, khái niệm thành phần không đồng hạng với nhau (không phải mối
quan hệ ngang hàng). Ví dụ: khi phân chia khái niệm khoa học thành “khoa học xã
hội” và “toán học”, “vật lý học”, “hóa học” thì ở đây khái niệm thành phần không
đồng hạng với nhau.

Thứ hai, bỏ qua bước trung gian. Ví dụ: phân chia khái niệm khoa học thành
“toán học”, “vật lý học”, “hóa học”, “lịch sử”, “giáo dục học”, “xã hội học”, “nhân
học”…
Chú ý: Không được nhầm lẫn thao tác phân chia khái niệm với thao tác phân
chia một chỉnh thể thành nhiều bộ phận nhỏ giản đơn - tức phân chia đối tượng thành
các bộ phận của nó. Ví dụ: Phân chia khái niệm Cây thành hoa, lá, quả,…

Nhìn chung, phân chia khái niệm có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua việc phân chia khái niệm, người ta
nắm bắt được các sự vật, hiện tượng một cách hệ thống, tạo ra tính trình tự trong quá
trình lập luận, không lẫn lộn giữa đối tượng này và đối tượng khác hoặc không bỏ sót
các đối tượng trong quá trình lập luận, tạo ra sự bao quát tất cả các đối tượng trong
một hệ thống hoàn chỉnh của chúng. Bên cạnh đó, việc phân chia khái niệm còn giúp
hình thành nên tính hệ thống, tính liên tục, tính nhất quán trong quá trình nhận thức
của con người về quy luật hình thành và phát triển của đối tượng. Trong hoạt động
thực tiễn, việc phân chia khái niệm tạo cơ sở cho việc sắp xếp, tổ chức, quản lý… trở
nên khoa học, hợp lý và hiệu quả hơn.
59

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Khái niệm là gì? Khái niệm được hình thành như thế nào?

2. Trình bày mối quan hệ giữa khái niệm và từ. Tìm hai ví dụ để chứng minh
một từ có thể chuyển tải nhiều khái niệm và một khái niệm có thể chuyển tải nhiều
từ.

3. Những loại từ nào có khả năng chuyển tải khái niệm? Cho ví dụ.

4. Cấu trúc của khái niệm là gì? Mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên? Cho
ví dụ.

5. Phân tích ví dụ để làm rõ thao tác thu hẹp và mở rộng khái niệm.

6. Xét theo ngoại diên, giữa các khái niệm có những kiểu quan hệ logic nào
(nêu ví dụ và biểu diễn bằng sơ đồ)?

7. Phân biệt khái niệm đơn nhất và khái niệm chung. Cho ví dụ.

8. Định nghĩa khái niệm là gì? Cấu trúc của một định nghĩa ra sao?

9. Thế nào là một định nghĩa khoa học? Có những kiểu định nghĩa nào?

10. Trình bày các quy tắc định nghĩa khái niệm. Nêu ví dụ minh họa cho những
trường hợp vi phạm quy tắc định nghĩa khái niệm.

11. Phân chia khái niệm là gì? Phân chia khái niệm có kết cấu như thế nào?

12. Thế nào là phân đôi và phân loại khái niệm?

13. Trình bày các quy tắc phân chia khái niệm. Nêu ví dụ minh họa cho những
trường hợp vi phạm quy tắc phân chia khái niệm.

14. Xác định nội hàm và ngoại diên của các khái niệm: sắt, vàng, rượu, cái bàn,
trường học, giáo viên, sinh viên, khoa học, triết học, giáo dục, đào tạo, quy luật, tham
nhũng, quốc hội,chính phủ.

15. Trong các khái niệm sau đây, khái niệm nào là khái niệm chung, khái niệm
tập hợp, khái niệm đơn nhất?

Số thực; Nguyên tố; Số nguyên tố; Tập thể lớp 03G; Chiến tranh, Khủng bố;
Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn; Người thừa kế; Ly hôn; Lao động; Công nhân; Khoa học.
60

16. Trong các khái niệm sau đây, khái niệm nào là khái niệm ảo và khái niệm
nào là khái niệm thực?

Số tự nhiên; Số hữu tỷ; Số tự nhiên lớn nhất; Con rồng; Lòng nhân ái; Tình
yêu; Hận thù; Con rắn vuông; Tiên nữ; Thần kim quy; Nỏ thần.

17. Cho biết các khái niệm sau đây có mối quan hệ gì với nhau? Vẽ sơ đồ.

a) Số thực, số nguyên tố, số chẵn, số tự nhiên, số hữu tỷ, số tự nhiên lẻ.

b) Chim đa đa, chim cánh cụt, chim sáo, chim, chim không bay được, chim biết
bay.

c) Nguyên tố hóa học, hợp chất hóa học, chất hóa học, kim loại, phi kim.

d) Từ điển, từ điển Anh – Việt, từ điển bách khoa, sách tra cứu, sách.

e) Người Việt Nam, người Bình Thuận, người dân tộc ít người, người Êđê,
người Đắk Lắk.

f) Số chia hết cho 3, Số chia hết cho 6, Số chia hết cho 9

g) Nhà khoa học, giảng viên, giáo sư, nhà quản lý, người Việt Nam, nhà khoa
học nữ Việt Nam, giáo sư Việt Nam.

h) Người lao động, nông dân, trí thức, công nhân.

i) Nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, nhà cách mạng,

k) Tam giác cân, tam giác đều, tam giác vuông.

l) Đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng viên.

n) Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Thủ Đức, phường Hiệp Bình Chánh,
Thành phố, Đà Nẵng.

p) Tứ giác, tam giác, hình thoi, hình thang, hình bình hành, hình vuông, hình
chữ nhật, tứ giác có bốn góc bằng nhau, tứ giác có bốn cạnh bằng nhau.

q) Khái niệm, khái niệm khẳng định, khái niệm phủ định, khái niệm đơn nhất.

18. Mở rộng khái niệm dịch covid 19 cho chính xác với hiện thực?

19. Thu hẹp khái niệm phương tiện giao thông?


61

20. Các định nghĩa sau đây logic hay không hợp logic? Nếu không hợp logic thì
nó vi phạm quy tắc gì trong định nghĩa?

- Người chân chính là người thật thà.

- Người lương thiện là người tốt.

- Tiền là đầy tớ tốt và là ông chủ tồi.

- Nghệ sỹ là người diễn trên sân khấu.

- Chân lý là hệ thống tri thức.

- Quy luật là mối liên hệ khách quan.

- Logic học là khoa học về các quy luật của tư duy.

- Tiêu hôn là việc hủy kết hôn trái pháp luật.

- Nhà ngoại giao là người nhớ ngày sinh của các phụ nữ, nhưng lại không nhớ
được tuổi của vợ ông ta.
- Kinh nghiệm sống là cái lược cho bạn ở cuối cuộc đời, khi bạn đã không còn
tóc nữa.
- Kinh doanh là sự phối hợp của chiến tranh và thể thao.

21. Hãy chỉ ra những lỗi logic trong phân chia khái niệm dưới đây:

a. Triết học: duy tâm, duy vật, biện chứng, siêu hình, nhất nguyên luận, nhị
nguyên luận, duy nghiệm, duy lý.

b. Mâu thuẫn: mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn bên trong,
mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn không đối kháng.

c. Khái niệm: khái niệm khẳng định, khái niệm phủ định, khái niệm chung, khái
niệm đơn nhất, khái niệm ảo, khái niệm thực, khái niệm cụ thể, khái niệm trừu tượng.

22. Hãy phân chia các khái niệm sau theo ít nhất ba tiêu chí khác nhau : câu,
kiểm tra, lao động, tư duy, gia đình, thành phố, lịch sử, khoa học, xã hội.
62

Chương 4

PHÁN ĐOÁN

1. Khái quát về phán đoán

1.1. Phán đoán là gì?

Phán đoán là một hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó khẳng định hoặc
phủ định một tình trạng nào đó của đối tượng. Phán đoán thể hiện dưới hình thức
ngôn ngữ là câu, được hình thành trên cơ sở liên kết giữa các hạn từ1 theo một trật tự
nhất định nhằm khẳng định hoặc phủ định về một tình trạng nào đó của đối tượng như
thuộc tính, sự tồn tại của đối tượng hay mối quan hệ giữa các đối tượng.

Chẳng hạn, phán đoán “Hoa là học sinh giỏi” là sự liên kết của hạn từ Hoa và
hạn từ học sinh giỏi, để khẳng định thuộc tính học sinh giỏi của Hoa.

Chẳng hạn, phán đoán “Quan chức tham nhũng thì không liêm khiết” là sự liên
kết của hạn từ quan chức tham nhũng với hạn từ liêm khiết để phủ định thuộc tính
liêm khiết của quan chức tham nhũng. Theo đó, quan chức tham nhũng thì không thể
liêm khiết, đã liêm khiết thì không thể là quan chức tham nhũng.

Logic học hình thức truyền thống chỉ nghiên cứu phán đoán với giá trị xác định.
Đó là những phán đoán mang một trong hai giá trị logic là đúng hoặc sai. Tính đúng,
sai của phán đoán không phụ thuộc vào ý thức của con người mà do hiện thực khách
quan quy định. Do vậy, trong nghiên cứu khoa học, tính đúng, sai của phán đoán được
thiết lập qua quá trình nghiên cứu lâu dài.

1.2. Phán đoán với câu

Phán đoán thuộc về phạm trù của logic học, còn câu thuộc về phạm trù của ngôn
ngữ học. Do vậy, phán đoán có cấu trúc logic như nhau ở mọi dân tộc, mang tính phổ
biến của tư duy loài người. Còn câu có cấu trúc ngữ pháp thể hiện đặc điểm riêng của
từng ngôn ngữ do điều kiện lịch sử của từng dân tộc quy định, nghĩa là ở các ngôn
ngữ của các dân tộc khác nhau, kết cấu ngữ pháp của câu là khác nhau.

1
Hạn từ (term) hay thuật ngữ, chỉ một tập hợp trong đó có thể gồm một hay nhiều đối tượng, hoặc không
chứa đối tượng nào (rỗng). Hạn từ không nhất thiết phải là một khái niệm.
63

Trong cùng một ngôn ngữ, thì một phán đoán có thể được biểu đạt bằng nhiều
câu khác nhau (“Bình là bạn của Nam” và “Bình và Nam là bạn bè của nhau”). Và
cũng do tính đa dạng của câu trong ngôn ngữ tự nhiên mà muốn biểu thị một phán
đoán trong trường hợp cấu trúc đầy đủ của phán đoán đó không được thể hiện tường
minh trong câu, ta phải thực hiện thao tác chuẩn hóa phán đoán1, tức đưa phán đoán
về dạng chuẩn tắc. Chẳng hạn, câu “Ai mà chẳng phải chết” được chuẩn hóa thành
phán đoán “Mọi người đều phải chết”,…

Bên cạnh đó, phán đoán bao giờ cũng được chuyển tải bởi câu, nhưng không
phải câu nào cũng là phán đoán. Xét về tính chất, câu được chia thành bốn loại: câu
trần thuật, câu hỏi, câu cảm thán, câu mệnh lệnh. Trong bốn loại câu, chỉ có câu trần
thuật có khả năng chuyển tải phán đoán bởi nó là loại câu đưa ra thông tin mang ý
nghĩa khẳng định hay phủ định, thoả mãn được đặc điểm về tính có giá trị logic của
phán đoán. Chẳng hạn, các câu sau đây là phán đoán: Chất độc da cam gây nhiều di
chứng cho con người; cá chép không sống ở nước mặn; nhôm là kim loại kiềm… Các
câu sau đây không phải là phán đoán: Cho tôi hỏi mấy giờ rồi? (câu nghi vấn); trời
ơi, sao mà số phận tôi khổ quá! (câu cảm thán); hãy đánh cho chúng không còn một
manh giáp! (câu mệnh lệnh). Những câu trên không phải là phán đoán, vì nó không
khẳng định hay phủ định thuộc tính nào đó của đối tượng, cũng không thể nói rằng
chúng phản ánh đúng hay sai về đối tượng.

1.3. Phân loại phán đoán

1.3.1. Xét theo giá trị

- Phán đoán chân lý: phán đoán phù hợp với hiện thực khách quan.

Ví dụ: Trái Đất quay quanh Mặt Trời theo quỹ đạo hình êlíp.

- Phán đoán phi lý: phán đoán không phù hợp với hiện thực khách quan.

Ví dụ: Mặt Trời quay quanh Trái Đất.

1
Xem ở phần Chuẩn hóa phán đoán trong chương này.
64

1.3.2. Xét theo tình thái

- Phán đoán tất yếu (hay phán đoán tất nhiên): Phán đoán mà giá trị luôn được
xác định trong mọi không gian và mọi thời gian.

Ví dụ: Cá thì sống dưới nước; kim loại thì dẫn điện; con người thì phải chết.

- Phán đoán hiện thực (hay phán đoán minh nhiên): Phán đoán mà giá trị được
xác định trong một không gian nhất định, thời gian cụ thể, điều kiện, mối quan hệ cụ
thể.

Ví dụ: Nước sôi ở 100o C (với áp suất bình thường 1 atmosphere trên Trái Đất).
Dân số Việt Nam năm 2020 là 100 triệu người…

- Phán đoán khả năng (hay phán đoán xác suất, phán đoán cái nhiên): phán
đoán chưa xác định được chính xác giá trị, có thể đúng mà cũng có thể sai, là những
phán đoán có tính dự báo, đoán định về những điều chưa chắc chắn.

Ví dụ: Trên Sao Hỏa có thể có sự sống. (Phán đoán đó sẽ đúng nếu trên Sao
Hoả có sự sống và có thể sai nếu trên Sao Hoả không có sự sống).

1.3.3. Xét theo nội hàm của thuộc từ

Phán đoán được phân thành ba loại:

- Phán đoán thuộc tính (phán đoán nhất quyết, phán đoán xác quyết, phán đoán
đặc tính) là loại phán đoán khẳng định hay phủ định mối liên hệ giữa đối tượng với
thuộc tính nào đó. Ví dụ: Hoa học giỏi và hát hay; Nam không phải là sinh viên; sắt
là kim loại.

Đây là loại phán đoán tiêu biểu và có vị trí quan trọng trong tư duy logic. Do
vậy, trong logic học truyền thống, người ta chủ yếu nghiên cứu loại phán đoán này.

- Phán đoán quan hệ là loại phán đoán phản ánh mối quan hệ giữa các đối tượng.
Ví dụ: “Hôm nay nóng hơn hôm qua”; “Bình là bạn của Nam và là anh trai của
Hoa”.

- Phán đoán tồn tại là loại phán đoán khẳng định hay phủ định sự tồn tại của
đối tượng. Ví dụ: “Ngày nay đấu tranh giai cấp vẫn còn diễn ra mạnh mẽ”; “Tệ nạn
xã hội đang tồn tại trong thế giới loài người”.
65

1.3.4. Xét theo cấu trúc

Phán đoán được chia thành: phán đoán đơn và phán đoán phức.

- Phán đoán đơn là phán đoán do hai hạn từ hay hai thuật ngữ liên kết với nhau
tạo thành. Chẳng hạn, chim là động vật có lông vũ.

- Phán đoán phức là phán đoán do hai hoặc nhiều phán đoán đơn liên kết với
nhau bằng các liên từ logic nhất định tạo thành.

Chẳng hạn, phán đoán nếu con người không còn có hận thù thì thế giới này sẽ
có hòa bình viên mãn là phán đoán phức được tạo thành từ hai phán đoán đơn.

2. Nội dung và quy tắc của các loại phán đoán

2.1. Nội dung và quy tắc của phán đoán đơn

Phán đoán đơn là phán đoán được tạo thành từ sự liên kết của hai hạn từ.

Phán đoán đơn mà chúng ta nghiên cứu ở đây được hiểu là phán đoán thuộc tính
đơn, tức là phán đoán với sự liên kết của hai hạn từ nhằm khẳng định hoặc phủ định
thuộc tính của đối tượng. Ví dụ: Cá sống dưới nước; Hoa hồng là loài hoa đẹp…

2.1.1. Cấu trúc và ký hiệu

Một phán đoán đơn đầy đủ bao gồm bốn thành phần:

- Chủ từ: là từ chỉ đối tượng mà phán đoán phản ánh. Ký hiệu bằng chữ S (viết
tắt của “Subjectum” trong tiếng Latinh).

- Thuộc từ: là từ nêu tính chất mà phán đoán khẳng định hoặc phủ định về đối
tượng. Ký hiệu bằng chữ P (viết tắt của “Pracdicatum” trong tiếng Latinh).

Chủ từ và thuộc từ trong phán đoán đơn được gọi chung là hạn từ (hay thuật
ngữ) của phán đoán.

- Hệ từ: là từ hoặc cấu trúc câu nêu sự khẳng định hoặc phủ định của phán đoán.
Nếu tất cả hoặc một số các đối tượng trong S có tính chất P thì hệ từ là từ “là”. Nếu
tất cả hoặc một số các đối tượng trong S không có tính chất P thì hệ từ là từ “không
là”. Ký hiệu là: - (chỉ mối tương quan của chủ từ và thuộc từ).

- Lượng từ: là từ hoặc cấu trúc câu nêu đặc trưng về lượng của phán đoán. Ký
66

hiệu: Nếu tính chất P được khẳng định hoặc phủ định cho tất cả các đối tượng trong
ngoại diên của chủ từ S thì lượng từ là “với mọi” - . Nếu tính chất P được khẳng
định hoặc phủ định cho một số đối tượng trong ngoại diên của chủ từ S thì lượng từ
là “tồn tại” - .

Như vậy, dạng tổng quát của phán đoán đơn là:

S - P

2.1.2. Phân loại phán đoán đơn

2.1.2.1. Xét theo chất của phán đoán

- Phán đoán khẳng định: phán đoán khẳng định mối quan hệ của chủ từ với
thuộc từ.

Ví dụ: Tri thức khoa học (S) là chìa khóa của sự phát triển (P). Khẳng định S có
quan hệ với P.

- Phán đoán phủ định: phán đoán phủ định mối quan hệ của chủ từ với thuộc
từ.

Ví dụ: Con người (S) thì không trường sinh (P). Phủ định mối quan hệ của S
với P; có (S) thì không thể có (P). Ngược lại, nếu có (P) thì không thể có (S).

Trong ngôn ngữ tự nhiên, chúng ta thường dùng những tác tử phủ định như:
“không”, “chẳng”, “không phải (là)”, “đâu phải”, “đâu có”, “nào có”, “chớ có”,
“Bảo rằng / Nói rằng… là sai / là không đúng”, v.v…

Chú ý:

- Phủ định lần chẵn tương đương với khẳng định

A =A

A=A

Ví dụ: Phán đoán Người lương thiện không phải là không hiền lành, tương
đương với phán đoán Người lương thiện thì hiền lành (hay Người lương thiện là
người hiền lành).
67

- Phủ định lần lẻ tương đương với phủ định

A=~A

 A = ~A

Ví dụ: Mọi người không phải không thích xã hội không có khủng bố.

= > Mọi người không thích xã hội có khủng bố.

- Phủ định có thể là:

+ Phủ định chủ từ

S – P

+ Phủ định hệ từ

S  –P

+ Phủ định thuộc từ

S– P

2.1.2.2. Xét theo lượng của phán đoán

- Phán đoán toàn thể: khẳng định mọi phần tử trong ngoại diên của chủ từ S
đều có quan hệ hoặc đều không có quan hệ với thuộc từ P.

Ví dụ: Bò là động vật nhai lại; chuồn chuồn không biết bơi.

Phán đoán toàn thể thường chứa các lượng từ trong ngôn ngữ tự nhiên như: Mọi,
Tất cả, Toàn thể, v.v…

Chú ý: Các phán đoán đơn nhất (do chủ từ của chúng là khái niệm đơn nhất
như: “Việt Nam là một dân tộc anh hùng”) được xem như là phán đoán toàn thể.

- Phán đoán bộ phận: chỉ có một số phần tử trong ngoại diên của chủ từ S có
quan hệ hoặc không có quan hệ với thuộc từ P.

Ví dụ: Một số người là vĩ nhân; đa số kim loại không ở thể rắn.

Trong ngôn ngữ tự nhiên, lượng từ bộ phận thường gặp là: một số, một vài, phần
lớn, phần nhiều, phần đông, đại đa số, tuyệt đại đa số, hầu hết, có những, vài,…
68

2.1.2.3. Xét theo chất và lượng của phán đoán

- Phán đoán khẳng định toàn thể: khẳng định mọi phần tử của chủ từ đều có
quan hệ với thuộc từ. Ký hiệu là A (viết tắt của âm tiết đầu trong từ Affirmo nghĩa là
khẳng định). Cấu trúc: Mọi S là P.

Công thức:
SaP

Ví dụ: Mọi công dân (S) đều bình đẳng trước pháp luật (P).

- Phán đoán khẳng định bộ phận: khẳng định một số phần tử của chủ từ có
quan hệ với thuộc từ, ký hiệu: I (viết tắt của nguyên âm thứ hai trong từ Affirmo).
Cấu trúc: Có S là P.

Công thức: SiP


Ví dụ: Một số loài rắn đẻ con.

- Phán đoán phủ định toàn thể: khẳng định mọi phần tử của chủ từ (S) không
có quan hệ với thuộc từ (P), ký hiệu là E (viết tắt nguyên âm đầu của từ Nego trong
tiếng Latinh, nghĩa là phủ định). Cấu trúc:
SeP Mọi S không là P.
Công thức:

Ví dụ: Mọi quan chức tham nhũng đều không thanh liêm.

- Phán đoán phủ định bộ phận: xác định một số phần tử của chủ từ không có
quan hệ với thuộc từ, ký hiệu là O (viết tắt của nguyên âm thứ hai trong từ Nego trong
tiếng Latinh). Cấu trúc: Có S không là P.

Công thức SoP

Ví dụ: Một số loài rắn không chứa nọc độc.

2.1.3. Tính chu diên của thuật ngữ trong phán đoán đơn

Để xác định một thuật ngữ hay một hạn từ (S hoặc P) trong phán đoán đơn là
chu diên hay không, thì phải xét nó trong quan hệ với thuật ngữ còn lại dựa vào cơ
sở là mối quan hệ giữa các khái niệm xét về mặt ngoại diên.

Một thuật ngữ được gọi là chu diên (ký hiệu bằng dấu + bên phải thuật ngữ đó)
69

khi ngoại diên của nó hoàn toàn nằm trong, hoàn toàn nằm ngoài hoặc trùng với tập
hợp đối tượng mà phán đoán nói về; và được xem là không chu diên (ký hiệu bằng
dấu - bên phải thuật ngữ đó) khi ngoại diên của nó chỉ có một phần nằm trong hoặc
một phần nằm ngoài tập hợp đối tượng mà phán đoán nói về.

Sau đây ta xét tính chu diên của các thuật ngữ trong các loại phán đoán đơn:

- Phán đoán A: Trong phán đoán A, chủ từ S luôn chu diên vì nó nói lên toàn
bộ ngoại diên (tất cả S). Thuộc từ P có trường hợp chu diên, có trường hợp không
chu diên, cụ thể như sau:

Thuật ngữ S và P là quan hệ bao hàm, nên S chu diên còn P không chu diên:
Mọi S+ là P-.

S+ P-

Ví dụ: Mọi kẻ tham nhũng (S+) đều vi phạm pháp luật (P-). Ngoại diên của S
hoàn toàn nằm trong ngoại diên của P. Ngược lại, chỉ một số ngoại diên của P nằm
trong S. Vì thế, P không chu diên.

Trường hợp ngoại lệ, khái niệm S, P có ngoại diên đồng nhất, khi đó cả chủ từ
S lẫn thuộc từ P đều chu diên: Mọi S+ là P+.

S+, P+

Ví dụ: Tam giác đều là tam giác có ba cạnh bằng nhau.

- Phán đoán I:

Trong phán đoán I, chủ từ S không chu diên, vì nó nêu lên một phần ngoại diên.
Thuộc từ P không chu diên.
70

Ví dụ: Một số loài rắn (S-) thì đẻ con (P-). Chủ từ S không chu diên và thuộc
từ P không chu diên. Vì chỉ một số ngoại diên của S nằm trong P và một số ngoại
diên của P nằm trong S.

Trường hợp ngoại lệ S, P có quan hệ bao hàm – lệ thuộc, trong đó S bao hàm
P, thì S không chu diên còn P chu diên: Có S- là P+.

S- P+

Ví dụ: Có người là giáo viên.

- Phán đoán E:

Trong phán đoán E, các thuật ngữ đều chu diên, vì chủ từ S nói lên toàn bộ ngoại
diên còn ngoại diên của thuộc từ P hoàn toàn nằm ngoài ngoại diên của chủ từ S.

Cả chủ từ S và thuộc từ P có ngoại diên tách rời nhau, nên cả hai đều chu diên:
Mọi S+ không là P+.

S+ P+

Ví dụ: Mọi kẻ vi phạm luật giao thông (S+) là không tuân thủ pháp luật (P+).
Chủ từ S chu diên và thuộc từ P cùng chu diên, vì mọi phần tử thuộc ngoại diên S
71

không nằm trong ngoại diên của P và mọi phần tử thuộc ngoại diên của P không nằm
trong ngoại diên của S.

- Phán đoán O:

Trong phán đoán O, chủ từ S luôn không chu diên vì một số phần tử thuộc ngoại
diên của S không thuộc ngoại diên của P. Thuộc từ P chu diên vì tất cả ngoại diên
của P không nằm trong ngoại diên của S.

S- P+ S- P+

Ví dụ:

- Một số loài chim (S-) không biết bay (P+).

- Có người (S-) không phải là giáo viên (P+).

* Khái quát: Trừ các trường hợp ngoại lệ thì:

+ S chu diên trong các phán đoán toàn thể và không chu diên trong các phán
đoán bộ phận.

+ P chu diên trong các phán đoán phủ định và không chu diên trong phán đoán
khẳng định.

Bảng tóm tắt tính chu diên của thuật ngữ trong phán đoán đơn

Phán đoán Chủ từ S Thuộc từ P

A + -

I - -

E + +

O - +
72

2.1.4. Xác định giá trị của các phán đoán đơn trong hình vuông logic

Khi xét các phán đoán đơn A, I, E, O có cùng chủ từ và thuộc từ, người ta có
thể thiết lập được mối quan hệ mật thiết giữa chúng thông qua một hình vuông logic1
với bốn đỉnh là các phán đoán đơn tương ứng, còn các cạnh và đường chéo biểu thị
quan hệ giữa các phán đoán đó.

Đối lập trên


A Không cùng đúng
E

Phụ Phụ
thuộc thuộc

I O
Đối lập dưới
Không cùng sai

- Quan hệ đối lập trên (không cùng đúng)

Quan hệ đối lập trên (không cùng đúng) là quan hệ giữa các phán đoán có cùng
S, P, lượng từ chỉ toàn thể, nhưng trái ngược nhau về hệ từ.

Nếu biết một trong hai phán đoán có giá trị đúng (đ) thì phán đoán còn lại có
giá trị sai (s). Nếu biết một trong hai phán đoán có giá trị sai thì không xác định (kxđ)
được giá trị của phán đoán còn lại.

Như vậy, từ phán đoán A (hay E) đúng có thể suy ra phán đoán E (hay A) sai.
Ví dụ: Mọi loài mèo đều có bốn chân (A đúng)  Mọi loài mèo không có bốn chân
(E sai). Mọi loài rắn không có chân (E đúng)  Mọi loài rắn có chân (A sai).

Tuy nhiên, nếu phán đoán A (hay E) sai thì phán đoán E (hay A) không xác
định (có thể đúng hoặc sai). Do vậy, hai phán đoán có thể cùng sai nhưng không thể
cùng đúng. Ađ ⇒Es
Eđ ⇒As
Bảng tóm tắt:
As ⇒ E kxđ
Es ⇒ A kxđ
1
Hình vuông logic do Apulée (thế kỷ II) đặt ra để biểu diễn mối quan hệ giữa các phán đoán đơn A, I, E, O
(còn gọi: “bàn cờ logic”, “ma phương hình”).
73

- Quan hệ đối lập dưới (không cùng sai) (giữa I và O)

Quan hệ đối lập dưới (không cùng sai) là quan hệ giữa các phán đoán có cùng
S, P, lượng từ chỉ bộ phận, nhưng trái ngược nhau về hệ từ.

Nếu biết một trong hai phán đoán có giá trị sai (s) thì phán đoán còn lại là đúng
(đ). Nếu biết một trong hai phán đoán có giá trị đúng thì không xác định (kxđ) được
giá trị chân lý của phán đoán còn lại.

Như vậy, từ phán đoán I (hay O) sai có thể suy ra phán đoán O (hay I) đúng.
Ví dụ: Một số số nguyên tố chia hết cho 4 (I sai)  Một số số nguyên tố (như
3, 7, 11…) không chia hết cho 4 (O đúng). Một số kim loại mạnh không đẩy kim loại
yếu ra khỏi hợp chất (O sai)  Một số kim loại mạnh đẩy kim loại yếu ra khỏi hợp
chất (I đúng).

Tuy nhiên, nếu phán đoán I (hay O) đúng thì phán đoán O (hay I) không xác
định (có thể đúng hoặc sai). Do vậy, hai phán đoán đối chọi dưới có thể cùng đúng
nhưng không thể cùng sai.

Bảng tóm tắt: Is ⇒ Ođ


Os ⇒ Iđ
Iđ ⇒ Okxđ
Ođ ⇒ I kxđ

- Quan hệ phụ thuộc

Quan hệ phụ thuộc là quan hệ giữa các phán đoán đơn có cùng các khái niệm S,
P cùng hệ từ, nhưng trái ngược nhau về lượng từ. Đó là quan hệ giữa các phán đoán
A và I, giữa E và O.

Trong quan hệ phụ thuộc:

Nếu phán đoán toàn thể là đúng (đ) thì phán đoán bộ phận cũng đúng (đ). Nếu
phán đoán toàn thể là sai (s) thì không xác định (kxđ) được giá trị của phán đoán bộ
phận.

Nếu phán đoán bộ phận là sai (s) thì phán đoán chung cũng sai (s). Nếu phán
đoán bộ phận là đúng (đ) thì không xác định (kxđ) được giá trị chân lý của phán đoán
toàn thể.
74

Như vậy:

- A và I là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Nghĩa là nếu A đúng thì suy ra I
đúng. Ngược lại nếu I sai thì suy ra A sai.

Ví dụ: Một số loài chim có bốn chân (I sai)  Tất cả loài chim có bốn chân (A
sai).

- E và O cũng có mối quan hệ phụ thuộc. Nghĩa là nếu E đúng thì O đúng. Nếu
O sai thì suy ra E sai.

Ví dụ: Mọi quan chức tham nhũng đều không có đạo đức (E đúng)  Một số
quan chức tham nhũng thì không có đạo đức (O đúng). Một số công dân Việt Nam
không có quốc tịch Việt Nam (O sai)  Mọi công dân Việt Nam không có quốc tịch
Việt Nam (E sai).

Bảng tóm tắt:


Ađ ⇒Iđ
Is ⇒ As
Eđ ⇒ Ođ
Os ⇒ Es
As ⇒ I kxđ
Iđ ⇒ A kxđ
Es ⇒ O kxđ
Ođ ⇒ E kxđ

- Quan hệ mâu thuẫn

Quan hệ mâu thuẫn là quan hệ giữa các phán đoán đơn có cùng S, P nhưng trái
ngược nhau về lượng từ lẫn hệ từ. Đó là quan hệ giữa các phán đoán A và O, giữa E
và I.

Các phán đoán có quan hệ mâu thuẫn luôn có giá trị trái ngược nhau: Nếu phán
đoán này đúng thì phán đoán kia sai và ngược lại.

Như vậy:

A và O có mối quan hệ mâu thuẫn. Nghĩa là, nếu A đúng thì O sai, nếu A sai
thì O đúng. Ngược lại nếu O đúng thì A sai và nếu O sai thì A đúng.
75

Ví dụ: Cá sống dưới nước (Ađ) ⇔ Có cá không sống dưới nước (Os).

Mọi sinh viên đi học đúng giờ (As) ⇔ Một số sinh viên không đi học
đúng giờ (Ođ).

- E và I có mối quan hệ mâu thuẫn. Nghĩa là nếu E đúng thì I sai và nếu I sai
thì E đúng. Ngược lại, nếu I đúng thì E sai và nếu I sai thì E đúng.

Ví dụ: Con người không có cánh (E đúng)  Một số người có cánh (I sai).
Thực vật không phải là sinh vật (E sai)  Một số thực vật là sinh vật (I đúng). Một
số chim đẻ con (sai)  Tất cả loài chim không đẻ con (E đúng). Một số loài rắn đẻ
con (I đúng)  Mọi loài rắn không đẻ con (E sai).

Bảng tóm tắt:


Ađ <=> Os
As <=> Ođ
Es <=> Iđ
Eđ <=> Is

2.2. Nội dung và quy tắc của các loại phán đoán phức
Phán đoán phức là phán đoán được tạo thành từ các mệnh đề liên kết với nhau
bằng liên từ logic.

2.2.1. Phán đoán hội

a. Phán đoán hội là gì?

Phán đoán hội là loại phán đoán phức do các phán đoán đơn liên kết với nhau
bằng liên từ logic hội tạo thành.

b. Cấu trúc và ký hiệu:

Phán đoán hội được ký hiệu bằng dấu Ʌ (hoặc dấu )

Cấu trúc: P  Q

Ví dụ: Võ Nguyên Giáp là đại tướng tài (P) và là người khiêm tốn (Q).

Chú ý: Một phán đoán hội có thể có nhiều hơn hai phán đoán đơn tạo thành.
76

Ví dụ: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, có nền văn hóa lâu đời, có
tinh thần yêu nước nồng nàn, có ý chí tự lập tự cường và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ
Tổ quốc.

Ký hiệu: p  q  r  t.

c. Quy tắc và bảng chân trị của phán đoán hội

- Quy tắc: Phán đoán hội chỉ đúng trong trường hợp tất cả các phán đoán đơn
đều đúng.

- Bảng chân trị:

P Q P  Q

đ đ đ

s đ s

đ s s

s s s

Phán đoán Mặt Trời đứng yên và Trái Đất quay, có giá trị đúng (đ) khi: Mặt
Trời đứng yên (đ) và Trái Đất quay (đ).

Phán đoán trên có giá trị sai (s) trong những trường hợp sau:

- Mặt Trời quay (s) và Trái Đất quay (đ);

- Mặt Trời đứng yên (đ) và Trái Đất đứng yên (s);

- Mặt Trời quay (s) và Trái Đất đứng yên (s).

Chú ý: Liên từ logic hội trong ngôn ngữ tự nhiên thường được diễn đạt bằng
những từ như: và, mà, nhưng, song, dấu phẩy (,),… Vì vậy, khi chuyển một phán
đoán bằng ngôn ngữ qua công thức phải chú ý căn cứ vào cấu trúc của phán đoán,
xem các mệnh đề có phải là những phán đoán độc lập liên kết với nhau bằng liên từ
logic hội hay không (chứ không phải căn cứ vào từ và).
77

2.2.2. Phán đoán tuyển

2.2.2.1. Phán đoán tuyển tương đối

a. Phán đoán tuyển tương đối là gì?

Phán đoán tuyển tương đối (hay còn gọi là phán đoán lựa chọn tương đối, lựa
chọn không nghiêm ngặt) là loại phán đoán phức do các phán đoán đơn liên kết với
nhau bằng phép toán logic tuyển tương đối.

Các liên từ logic tuyển tương đối trong ngôn ngữ tự nhiên là: hoặc, hay, hoặc
là, hay là…

b. Cấu trúc và ký hiệu: P  Q

Ví dụ:

- Thí sinh có thể thi vào đại học hoặc cao đẳng.

- Nghệ sỹ là người sáng tạo nghệ thuật hoặc biểu diễn nghệ thuật.

Chú ý:

Phán đoán lựa chọn tương đối có thể có nhiều hơn hai phán đoán đơn.

P  Q  R

Ví dụ: Hiện nay ở Việt Nam, một người sử dụng di động hoặc là sử dụng mạng
Vinaphone hoặc Mobifone hoặc Viettel.

c. Quy tắc và bảng chân trị của phán đoán tuyển tương đối

- Quy tắc: Phán đoán tuyển tương đối chỉ sai trong trường hợp tất cả các phán
đoán đơn đều sai và đúng trong tất cả những trường hợp còn lại.

- Bảng chân trị:

P Q P  Q
đ đ đ
đ s đ
s đ đ
s s s
78

Ví dụ: Phán đoán Nam thích đọc sách lịch sử (P) hoặc là sách triết học (Q), sẽ
đúng trong những trường hợp:

- Nam thích đọc sách lịch sử (Pđ), Nam không thích đọc sách triết học (Qs)
- Nam không thích đọc sách lịch sử (Ps), Nam thích đọc sách triết học (Qđ)
- Nam thích đọc sách lịch sử (Pđ), Nam thích đọc sách triết học (Qđ)

Phán đoán trên sai trong trường hợp: Nam không thích đọc sách lịch sử (Ps,
Nam cũng không thích đọc sách triết học (Qs).

2.2.2.2. Phán đoán tuyển tuyệt đối (lựa chọn tuyệt đối)

a. Phán đoán tuyển tuyệt đối là gì?

Phán đoán tuyển tuyệt đối (hay còn gọi là phán đoán lựa chọn tuyệt đối, lựa
chọn nghiêm ngặt) là loại phán đoán phức do các phán đoán đơn liên kết với nhau
bằng liên từ logic lựa chọn tuyệt đối.

Các liên từ logic tuyển tương đối trong ngôn ngữ tự nhiên là: hoặc…hoặc, hoặc
là… hoặc là…, hay, hay là…

c. Cấu trúc ký hiệu: P V Q

d. Quy tắc và bảng chân trị của phán đoán tuyển tuyệt đối

- Quy tắc: Phán đoán tuyển tuyệt đối đúng trong trường hợp chỉ một phán đoán
đơn đúng và sai trong những trường hợp còn lại.

- Bảng chân trị:

P Q P V Q

đ s đ

s đ đ

đ đ s

s s s

Ví dụ: Một người nhất định thì hoặc là có máu thuộc nhóm A, hoặc là thuộc
nhóm B, hoặc là thuộc nhóm AB hoặc là thuộc nhóm O.
79

Nếu một người có nhóm máu A đúng thì những nhóm máu còn lại phải sai thì
phán đoán đúng. Nếu một người có nhóm máu B đúng thì các nhóm máu khác phải
sai thì phán đoán lựa chọn đúng.

Chú ý:

Chỉ phân biệt được phán đoán tuyệt đối và phán đoán tương đối khi xem xét các
phán đoán đơn trong phán đoán phức đó có tính kết hợp hay có tính phân ly. Khi các
phán đoán đơn có thể kết hợp, giao nhau thì đó là phán đoán tuyển tương đối; không
thể giao nhau thì đó là phán đoán tuyển tuyệt đối.

2.2.3. Phán đoán kéo theo

a. Phán đoán kéo theo là gì?

Phán đoán kéo theo là loại phán đoán phức do hai phán đoán đơn kết nối với
nhau bằng liên từ logic kéo theo tạo thành. Trong mối liên hệ giữa hai phán đoán
đơn, thành phần của phép kéo theo sẽ có một phán đoán đơn đóng vai trò là phán
đoán điều kiện (tiền đề, cơ sở, nguyên nhân) và một phán đoán đơn đóng vai trò là
phán đoán hệ quả (hậu đề, kết luận, kết quả).

Liên từ logic kéo theo trong ngôn ngữ tự nhiên được diễn đạt bằng những từ
như: “nếu...thì…”, “hễ… thì…”, “giá (mà)… thì…”,“từ… suy ra…”, “khi… thì…”,
“vì/ do/ bởi/ tại/ nhờ… (cho) nên/ mà…”, “chỉ có… thì mới…”, “chỉ cần… là…”,
“chừng nào… (thì mới)…”, “phải chi… thì…”, v.v…

b. Cấu trúc và ký hiệu:

Phán đoán kéo theo được ký hiệu bằng dấu  (hoặc dấu , hoặc dấu ).

Cấu trúc: P  Q

Trong đó, P đóng vai trò là phán đoán tiền đề hay điều kiện, còn Q đóng vai trò
là phán đoán hậu đề hay phán đoán hệ quả, kết luận.

Vậy, phán đoán kéo theo được viết bằng công thức:

Ví dụ: Nếu trên Sao Hỏa có nước (P) thì () trên Sao Hỏa có sự sống (Q).
80

c. Quy tắc và bảng chân trị của phán đoán kéo theo

- Quy tắc: Phán đoán kéo theo chỉ sai trong trường hợp phán đoán tiền đề đúng
và phán đoán hậu đề sai.

- Bảng chân trị:

P Q P  Q

đ đ đ

s đ đ

s s đ

đ s s

c. Các loại phán đoán kéo theo

- Khẳng định tiền đề kéo theo khẳng định hậu đề

P  Q

Ví dụ: Nếu nhân loại yêu thương nhau thì thế giới sẽ có hòa bình.

- Khẳng định tiền đề kéo theo phủ định hậu đề

P  Q

Ví dụ: Nếu mọi người quyết tâm thì nạn tham nhũng không tồn tại nữa.

- Phủ định tiển đề kéo theo khẳng định hậu đề.

P  Q

Ví dụ: Nếu không loại trừ tệ nạn ma tuý thì xã hội sẽ suy thoái.

- Phủ định tiền đề kéo theo phủ định hậu đề

P  Q

Ví dụ: Nếu không tìm ra nguyên nhân cơ bản thì không thể có giải pháp chống
tham nhũng hữu hiệu.
81

d. Các hình thức liên hệ phán đoán kéo theo

- Kéo theo mang tính nhân quả

Tiền đề là phán đoán nguyên nhân và hậu đề là phán đoán kết quả.

Ví dụ: Nếu ăn nhiều mỡ động vật thì bạn sẽ bị cholesteron.

- Kéo theo mang tính điều kiện

Tiền đề là phán đoán điều kiện và hậu đề là phán đoán hệ quả.

Ví dụ: Nếu có nhiều tiền tôi sẽ đi du lịch Châu Phi.

- Kéo theo mang tính logic

Tiền đề là một sự kiện, hậu đề là một sự kiện. Nhờ quan sát mà kinh nghiệm
con người có những liên tưởng từ sự kiện này đến sự kiện kia. Đó là những mối liên
hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Ví dụ: Nếu kiến xây tổ cao thì sẽ có lũ lụt lớn.

Nếu trời đang nắng và cỏ gà trắng thì trời sắp mưa.

Nếu thấy voi thình lình chạy lên đồi cao là sắp có sóng thần.

- Kéo theo mang tính định nghĩa

Tiền đề là một mệnh đề, được định nghĩa bởi mệnh đề khác. Nếu xét về ngoại
diên thì hai mệnh đề tiền đề và hậu đề trong dạng này đồng nhất với nhau.

Ví dụ: Nếu là axít thì nó sẽ làm cho quỳ tím chuyển thành màu đỏ.

Nếu động vật này là cá thì nó thở bằng mang.

Nếu chất này là bazơ thì nó làm cho quỳ tím chuyển thành màu xanh.

e. Điều kiện cần, điều kiện đủ, điều kiện cần và đủ trong phán đoán kéo theo

- Điều kiện cần: Điều kiện cần là điều kiện có nó thì có thể có kết quả, nhưng
nếu không có nó thì chắc chắn không có kết quả.

Xét phán đoán ~A ~ B, nếu không có A thì không có B, khi đó A được gọi là
điều kiện cần của B.

Công thức: ~ A (đkc)  ~ B

Ví dụ: Nếu có điện (A) thì đèn led sẽ sáng (B).


82

- Điều kiện đủ: là điều kiện khi có nó là đủ để biết có kết quả. Tiền đề là điều
kiện đủ, còn hậu đề là kết quả.

Xét phán đoán A  B, khi có A thì B có, khi đó A được gọi là điều kiện đủ
của B.

Công thức: A (đkđ)  B (kq)

Ví dụ: Nếu ai bị nhiễm chất độc da cam (A) thì sinh con sẽ bị dị tật (B).

- Điều kiện cần và đủ: Điều kiện cần và đủ là điều kiện duy nhất có kết quả. Nếu
có kết quả biết ngay có điều kiện này và nếu biết không có điều kiện này thì chắc
chắn biết được không có kết quả đó. Ngược lại nếu có kết quả này chắc chắn có điều
kiện đó và nếu không có kết quả này chắc chắn không có điều kiện đó.

Công thức: A ≡ B

Ví dụ: Một số tự nhiên có tổng các chữ số là một số chia hết cho 3 thì số đó chia
hết cho 3. Và nếu tổng các chữ số không chia hết cho 3 thì số đó không chia hết cho
3. Do vậy, tổng các chữ số của một số tự nhiên chia hết cho 3 là điều kiện cần và đủ
để một số chia hết cho 3.

2.2.4. Phán đoán tương đương

a. Phán đoán tương đương là gì?

Phán đoán tương đương (gọi đầy đủ là phán đoán tương đương logic) là loại
phán đoán phức được tạo thành từ hai phán đoán đơn có cùng giá trị chân lý (đúng
hoặc sai) được kết nối với nhau bằng liên từ logic tương đương.

Liên từ logic tương đương trong ngôn ngữ tự nhiên được diễn đạt bằng những
từ như: khi và chỉ khi, điều kiện cần và đủ để…là…

Ví dụ: Chúng ta chỉ có thể vượt qua khó khăn hiện tại khi và chỉ khi chúng ta
đoàn kết.

b. Cấu trúc và ký hiệu:

Phán đoán tương đương được ký hiệu bằng dấu ≡ (hoặc dấu =, hoặc dấu ).

Cấu trúc: P ≡ Q
83

c. Quy tắc và bảng chân trị

- Quy tắc: phán đoán tương đương chỉ đúng khi hai phán đoán đơn đồng giá trị
chân lý.

- Bảng chân trị:

P Q P ≡ Q

đ đ đ

s s đ

đ s s

s đ s

Ví dụ :

Phán đoán tương đương sau đây có giá trị đúng:

2 + 2 = 4 (P) ≡ 5 – 1 = 4 (Q)

2 + 2 = 5 (P) ≡ 3 + 3 = 7 (Q)

Phán đoán tương đương sau đây có giá trị sai:

2 + 2= 4 (P) ≡ 3 + 3 = 7 (Q)

2+ 2 = 5 (P) ≡ 3 + 3 = 6 (Q)

Chú ý: Tương đương không có nghĩa cùng nội dung, hay bằng nhau mà chỉ có
nghĩa là cùng giá trị chân lý cùng đúng hoặc cùng sai.

2.2.5. Phán đoán phủ định

a. Phán đoán phủ định là gì? Phán đoán phủ định là phán đoán mới có nội
dung và giá trị chân lý hoàn toàn trái ngược với nội dung và giá trị chân lý của phán
đoán ban đầu.

Các liên từ logic trong ngôn ngữ tự nhiên diễn đạt phán đoán phủ định như:
không thể, không có chuyện là, làm gì có chuyện, đâu có...
84

b. Ký hiệu:

Phán đoán phủ định được ký hiệu bằng dấu “∼” (hay “7”, hay “¯”).

Cho phán đoán P, phủ định của phán đoán đơn P là ~P.

c. Quy tắc và bảng chân trị

Quy tắc:

- Phủ định của một phán đoán đơn bao giờ cũng nằm trong quan hệ mâu thuẫn
với nó:

 ~A ≡ O
 ~E ≡ I
 ~I ≡ E
 ~O ≡ A
- Phủ định phán đoán phức như sau:

 ~(~P) ≡ P
 ~ (PɅQ) ≡ ~P V~Q
 ~(PVQ) ≡ ~PɅ~Q
 ~(PQ) ≡ PɅ~Q
 ~(P≡Q) ≡ P≠Q

Bảng chân trị:

P ~P

đ s

s đ

Phủ định của các phán đoán phức như sau:

Phủ định của phán đoán hội

P Q P  Q ~ (P  Q)

đ đ đ s
85

s đ s đ

đ s s đ

s s s đ

Phủ định của phán đoán tuyển tương đối: ~ (P v Q)

P Q P  Q ~ (P  Q)
đ đ đ s
đ s đ s
s đ đ s

s s s đ

Phủ định của phán đoán kéo theo:

P Q P  Q ~( P  Q)

đ đ đ s

s đ đ s

s s đ s

đ s s đ

Phủ định của phán đoán tương đương:

P Q P ≡ Q ~ (P ≡ Q)

đ đ đ s

s s đ s

đ s s đ
s đ s đ
86

2.3. Cách xác định giá trị chân lý của phán đoán phức bằng bảng chân trị
hoặc bảng ngữ nghĩa

2.3.1. Phương pháp bảng chân trị

Áp dụng quy tắc logic của các phán đoán phức, ta có thể xây dựng nên những
phán đoán mới. Các phán đoán được xây dựng nên nhờ phương pháp này được gọi là
công thức (ký hiệu bằng những chữ cái in hoa như A, B, C…). Để phân biệt các bước,
ta sử dụng các dấu ngoặc đơn. Giá trị của các công thức được xây dựng theo bảng giá
trị của các công thức thành phần.

Ở phần trên, chúng ta đã có các bảng giá trị chân lý của những phán đoán phức
gồm hai phán đoán thành phần (tức hai biến mệnh đề). Mỗi phán đoán có hai giá trị
chân lý (đúng và sai), nên bảng có 4 dòng, được trình bày như trên. Nếu phán đoán
phức có ba phán đoán thành phần (ba biến mệnh đề) thì số dòng là: 23 = 8 dòng, có
bốn phán đoán thành phần (bốn biến mệnh đề) thì số dòng là: 24 = 16 dòng, … với n
phán đoán thành phần (n biến mệnh đề) thì số dòng là: 2n dòng.

Do tính chất kiến thiết dần của công thức, nên khi tính giá trị của nó, ta phải
tính giá trị của các công thức thành phần trước, và dựa vào giá trị đã tính được đó để
tính giá trị của công thức cuối cùng cần tính. Giá trị cuối cùng của một công thức
được tính là giá trị của công thức đó.

Nếu ở cột cuối cùng (cột đại diện của công thức), kết quả cho ra các dòng của
cột chỉ nhận giá trị đúng thì đó là phán đoán hằng đúng, và công thức đó là quy luật
logic; ngược lại, nếu cột đại diện của công thức có các dòng chỉ nhận giá trị sai (hằng
sai) thì phán đoán đó là mâu thuẫn logic; còn nếu cột đại diện của công thức vừa có
dòng nhận giá trị đúng và vừa có dòng nhận giá trị sai thì công thức đó không phải
là quy luật logic.

Ví dụ: Dùng bảng chân trị để xem xét công thức (~p ⊃ ~q) ⊃ (q ⊃ p) có phải là
quy luật logic không?
87

Ta tiến hành lập bảng chân trị như sau:

p q ~p ~q ~p ⊃ ~q q⊃p (~p ⊃ ~q) ⊃ (q ⊃ p)


(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)

đ đ s s đ đ đ
đ s s đ đ đ đ
s đ đ s s s đ
s s đ đ đ đ đ

Kết luận: Cột đại diện của công thức (7) có giá trị đúng ở tất cả các dòng nên
công thức đã cho (~p ⊃ ~q) ⊃ (q ⊃ p) là quy luật logic.

2.3.2. Phương pháp bảng ngữ nghĩa

Bước 1: Giả sử cho suy luận có giá trị sai.

Bước 2: Dựa vào giá trị sai vừa cho, kết hợp với quy tắc của các phán đoán
phức, cho các phán đoán đơn những giá trị tương ứng.

Bước 3: Xét trong phán đoán phức trên có xuất hiện mâu thuẫn hay không, thể
hiện ở việc một phán đoán đơn hoặc một phán đoán phức thành phần trong đó nhận
đồng thời hai giá trị, giá trị đúng và giá trị sai. Nếu mâu thuẫn xuất hiện trong công
thức, ta kết luận, phán đoán ta xét hợp logic; nếu không, phán đoán ta xét không hợp
logic.

Ví dụ:

Xét giá trị logic của phán đoán sau bằng bảng ngữ nghĩa:

(~ p ⊃ ~ q) ⊃ (q ⊃ p)
S

đ S s

đ S đ s s
đ s đ S đ s s

s đ đ s đ S đ s s
88

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa trên ta thấy: Công thức phán đoán trên đây xuất
hiện mâu thuẫn, phán đoán đơn p đồng thời nhận hai giá trị: đúng và sai. Vậy, phán
đoán trên hợp logic.

3. Chuẩn hóa phán đoán

3.1. Chuẩn hóa phán đoán là gì?

Chuẩn hóa phán đoán là thao tác logic nhằm biểu đạt nội dung và cấu trúc
chính xác của một phán đoán nhất định theo nội dung và quy tắc của các phán đoán
đã được trình bày phía trên.

Như đã giới thiệu từ đầu chương này, giữa phán đoán và câu có mối quan hệ
mật thiết, câu là phương tiện diễn đạt của phán đoán. Nhưng, phán đoán thuộc về
phạm trù logic học, còn câu thuộc về phạm trù ngôn ngữ. Trong ngôn ngữ tự nhiên,
cùng một phán đoán có thể biểu đạt bằng nhiều câu khác nhau. Và trong câu, các
thành phần của phán đoán như: chủ từ, thuộc từ, hệ từ có thể không được biểu đạt rõ
ràng hoặc ngoại diên của chủ từ được nói tới không biết là toàn thể hay bộ phận. Do
vậy, cần phải chuẩn hóa phán đoán để tiến hành việc xem xét tính logic của một phán
đoán hay suy luận được thuận tiện, dễ dàng.

3.2. Chuẩn hóa về nội dung và hình thức

Chuẩn hóa nội dung của phán đoán phức là việc biểu đạt lại một cách đơn giản
và chính xác các chủ từ, thuộc từ, hệ từ, lượng từ, các liên từ logic và nội dung thực
chất mà một phán đoán đề cập tới. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể xác định được đúng
đắn đó là phán đoán ở dạng nào: Phán đoán đơn dạng A, E, O, I hay là các phán đoán
như phán đoán hội, phán đoán tuyển, phán đoán kéo theo, phán đoán tương đương,
phán đoán phủ định.

Chuẩn hóa hình thức của phán đoán phức là việc hình thức hóa nội dung của
phán đoán phức sau khi đã được chuẩn hóa về nội dung hay nói cách khác đó là việc
biểu đạt lại nội dung của phán đoán phức bằng công thức và ký hiệu logic.

Chuẩn hóa hình thức của phán đoán là phương pháp đặc thù của logic hình thức,
là phương pháp áp dụng các ký hiệu ngôn ngữ nhân tạo để mã hóa cấu trúc của tư
89

tưởng trong sự trừu tượng nội dung cũng như giá trị chân thực hay giả dối, kết quả ta
thu được là lược đồ logic về đối tượng.

Ví dụ 1: Xét các phán đoán sau đây:

- Lan học giỏi và hát hay.

- Lan vừa học giỏi vừa hát hay.

- Không những Lan học giỏi mà còn hát hay.

- Ngoài việc học giỏi, Lan còn hát hay.

- Lan đã học giỏi mà lại còn hát hay nữa.

- Đâu phải chỉ có mỗi học giỏi, Lan còn hát hay.

- Lan học cũng giỏi mà Lan hát cũng hay.

- v.v...

Về mặt nội dung, các phán đoán trên đây dù có nhiều cách biểu đạt khác nhau
do sự đa dạng, phong phú trong ngôn ngữ tự nhiên nhưng ta có thể phát biểu lại một
cách chính xác và đơn giản bằng phán đoán: Lan học giỏi và Lan hát hay.

Về mặt hình thức, ta xác định được đây là phán đoán hội với liên từ và, trong
đó có sự kết hợp của hai phán đoán đơn, ta ký hiệu phán đoán đơn Lan học giỏi là A,
phán đoán đơn Lan hát hay là B. Ta có công thức logic: A  B.

Ví dụ 2: Xét phán đoán sau: Lan chỉ đăng ký học duy nhất một trong hai ngoại
ngữ là tiếng Anh hoặc tiếng Hoa.

Về mặt nội dung, phán đoán trên đây có thể được phát biểu lại một cách chuẩn
xác như sau: Hoặc là Lan đăng ký học ngoại ngữ tiếng Anh hoặc là Lan đăng ký học
ngoại ngữ tiếng Hoa.

Về mặt hình thức, ta xác định trong phán đoán phức trên đây là phán đoán lựa
chọn tuyệt đối (tuyển tuyệt đối) với liên từ hoặc là...hoặc là... và hai phán đoán đơn,
ta ký hiệu: Lan đăng ký học ngoại ngữ tiếng Anh là P, Lan đăng ký học ngoại ngữ
tiếng Hoa là Q. Ta có công thức logic: P  Q.
90

4. Tính đẳng trị của các phán đoán

Các phán đoán phức (có chung các phán đoán thành phần) được gọi là có quan
hệ đẳng trị với nhau nếu nó có cùng giá trị logic với bất kỳ giá trị nào của các phán
đoán thành phần.

Ký hiệu: ≡

Công thức: m ≡ n (m đẳng trị với n, trong đó: m, n là các phán đoán phức)

Ví dụ: Phán đoán “Anh ấy vừa đẹp trai vừa ga lăng”: (a  b)

Có quan hệ đẳng trị với phán đoán: “Không thể có chuyện nếu anh ấy đẹp trai
thì không ga lăng”: (~(a ~b) )

Tính đẳng trị của các phán đoán phức cơ bản:

1) ∼(a  b) ≡ ∼a  ∼b (hệ thức De Morgan)

2) ∼(a  b) ≡ ∼a ∼b (hệ thức De Morgan)

3) a  b ≡ ~a  b

4) a  b ≡ ~(a  ~b)

5) a  b ≡ ~(a  ~b)

6) a  b ≡ ~(b ~a)

7) a  b ≡ ~(~a  ~b) (phép hội biểu thị qua phép tuyển)

8) a  b ≡ ~a  b

9) a  b ≡ ~b  a

10) a  b ≡ ~(~a  ~b) (phép tuyển biểu thị qua phép hội)

11) a  (b  c) ≡ (a ∨ b)  (a ∨ c)

12) a  (b  c) ≡ (a  b)  (a  c)

13) a  (b  c) ≡ (a  b)  (a  c)

14) (a  b)  c ≡ a  (b c)
91

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phán đoán là gì? Mối quan hệ giữa phán đoán và câu.

2. Phán đoán đơn là gì? Cấu trúc của phán đoán đơn.

3. Có mấy loại phán đoán đơn căn cứ theo cả chất và lượng của phán đoán? Xác
định tính chu diên của thuật ngữ trong các phán đoán đó.

4. Để xác định được giá trị của các phán đoán đơn trong hình vuông logic đòi
hỏi phải có điều kiện gì?

5. Từ giá trị của phán đoán đã cho dưới đây, hãy xác định giá trị các phán đoán
khác trong hình vuông logic và lấy ví dụ minh họa:

a. Phán đoán A đúng.

b. Phán đoán A sai.

c. Phán đoán E đúng.

d. Phán đoán E sai.

e. Phán đoán I đúng.

g. Phán đoán I sai.

h. Phán đoán O đúng.

i. Phán đoán I sai.

6. Phán đoán kéo theo sai khi nào?

7. Phán đoán hội sai trong trường hợp nào?

8. Phán đoán lựa chọn tương đối sai khi nào?

9. Phán đoán lựa chọn tuyệt đối đúng khi nào?

10. Phân biệt các loại điều kiện: điều kiện cần, điều kiện đủ và điều kiện cần và
đủ. Viết công thức.

11. Các phán đoán sau đây là phán đoán gì? Hãy xác định các thành phần của
phán đoán và tính chu diên của thuật ngữ trong phán đoán đó.

a. Hầu hết người Việt Nam tư duy theo kinh nghiệm.


92

b. Có những loài động vật là bò sát.

c. Hầu hết con người đều thích được tặng quà.

d. Cá sống dưới nước.

e. Mọi số chẵn đều chia hết cho 2.

g. Mọi số lẻ đều không chia hết cho 2.

h. Có sinh viên là đảng viên.

i. Một số người lao động là trí thức.

k. Một số sinh viên không học logic.

12. Chuẩn hóa về nội dung và hình thức của các phán đoán sau:

a. Bài tập môn này đâu có nhiều hay khó đâu.

b. Không thể có chuyện bài tập môn này nhiều mà lại không khó.

c. Trong thời gian nghỉ hè, tôi sẽ học đàn hoặc học vẽ.

d. Anh ta bắt đầu ngày mới vào lúc 6 giờ hoặc 6 giờ rưỡi.

e. Nếu nước Pháp có tháp Eiffel thì Việt Nam có chùa Một Cột.

f. Phải chi sông có cái cầu; Em qua em giải cơn sầu cho anh.

g.Phải em có chồng xa, anh đã không giận. Bởi em có chồng gần, như lửa cận
mái hiên.

h.Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây. Sông Lam hết nước thì đó với đây mới hết tình.

i. Muốn học giỏi thì phải có phương pháp học tập đúng đắn.

j. Chỉ những người có giấy mời mới được tham dự cuộc họp này.

k.Nam có nhiều bạn không phải vì nhà Nam giàu, cũng không phải vì Nam đẹp
trai.

l. Sự chia sẻ và tình yêu thương là điều quý giá nhất trên đời.

m. Một nụ cười có thể thay đổi một ngày, một cái ôm có thể thay đổi một tuần,
một lời nói có thể thay đổi một cuộc sống.
93

n. Khi cánh cửa này đóng lại, cánh cửa khác sẽ mở ra.

o. Chớ có đi tìm của cải xa hoa, bởi vì nó chỉ đánh lừa bạn.

p. Cuộc sống không bao giờ là bế tắc thực sự hay có khái niệm mất tất cả một
khi bạn còn có niềm tin.

q. Tình yêu bắt đầu bằng một nụ cười, tiến triển bằng một nụ hôn, kết thúc với
một giọt nước mắt hay với vòng tay ôm xiết bất tận.

r. Cuộc sống như một trang sách, kẻ điên sẽ giở qua nhanh chóng. Còn người
khôn ngoan thì vừa đọc, vừa suy nghĩ vì biết rằng mình chỉ được đọc một lần.

s. Khi nói đến sách, tôi không thể nào không cảm thấy mối cảm động sâu sắc
và niềm vui mừng phấn khởi.

t. Bạn có thể không là người giỏi nhất, nhưng cách ứng xử và hành động của
bạn sẽ quyết định bạn là người như thế nào trong mắt mọi người.

u. Đừng sử dụng thời gian và ngôn từ một cách bất cẩn, cả hai thứ đó đều không
thể lấy lại.

v. Khi một người sống hết mình vì người khác, thì cũng đồng nghĩa với việc
người đó đã quên đi chính bản thân mình.

w. Đừng đề ra mục tiêu của mình chỉ vì người khác cho đó là quan trọng, vì chỉ
có bạn mới biết điều gì là tốt nhất cho mình.

x. Đừng bao giờ từ chối nếu bạn vẫn có cái để cho.

y. Không ai yêu bạn, nếu bạn không nghĩ đến ai khác ngoài bản thân mình.

z. Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn biết mạnh dạn cho đi – chứ ko phải nắm
giữ thật chặt.

13. Dùng bảng chân trị để xét giá trị logic của các công thức sau đây:

a) ((p  q)  (r  q)) ≡ ((p  r)  q)

b) (p  (~q  ~r)) ≡ ~((p  q)  (p  r))

c) ~(p = q) ≡ ((p  ~q)  (q  ~p))


94

d) ~(p  (q  r)) ≡ (p  (~q  ~r))

e) ~(p  (q  r)) ≡ (p  (~q  ~r))

14. Xét xem các công thức sau đây có phải là quy luật logic hay không:

a) ((p  (q ∧ r)) ∧ (~q ∨ ~r))  ~p

b) (p  q)  (~(q  r)  ~(r  p))

c) (p  ((p  ~q)  r)  ((p  ~q)  ~r))  q

d) (p  (q  r))  ((p  q)  (p  r))

e) (p  (q  r))  ((p  q)  (p  r))

g) (p  (q  r))  (~((p  q)  (p  ~r)))

h) (~p  q)  ((p  ~q)  ~p)

k) ~(p  q)  ((~p  ~q)  ~p)

l) (p  r)  ((r  q)  ~(~p  ~q))

m) (p  (~p  r))  (~r  (p  r))

n) (~p  (~q  ~s  r))  ((q  ~r  s)  p)

o) ((p  (r  q  s))  (p  (~r  ~q)))  s

p) p  (q  (p  q))

q) (p  (~p  r))  (~r  ~ (p  r))

r) (((~ p  q ) v (~ r q)) ^ ~ q)  ( p ^ r )

s) (((~p  r)  (q  s))  ~q)  p

t) (p  (r  ~q))  (r  ( p  ~q))

v) ((p  q)  r)  (r  (~p  ~q)).


95

Chương 5
SUY LUẬN

1. Khái quát về suy luận

Suy luận là hình thức cao nhất của sự phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực
khách quan. Tri thức mà con người thu được từ quá trình tư duy không phải bao giờ
cũng được khái quát trực tiếp từ bản thân đối tượng trong hiện thực, mà con người
còn có khả năng tự rút ra những tri thức mới từ những tri thức đã biết trước đó. Hình
thức tư duy nhờ đó con người kết hợp những tri thức đã biết để rút ra những tri thức
mới về đối tượng được gọi là suy luận.

1.1. Suy luận là gì?

Suy luận là một thao tác của tư duy trừu tượng từ một hay nhiều phán đoán tiền
đề được luận chứng hợp logic để rút ra kết luận là một phán đoán mới.

1.2. Cấu tạo logic của phép suy luận

Từ định nghĩa trên về suy luận, ta thấy mỗi một suy luận đều được cấu thành từ
ba bộ phận: tiền đề; kết luận; cơ sở logic.

- Tiền đề: là những phán đoán xuất phát, tức là những tri thức đã biết, đã xác
định được tính chân thực của nó, được thể hiện thông qua hình thức phán đoán logic
mà từ đó ta có thể rút ra được tri thức mới (phán đoán mới) để phản ánh về đối tượng.

- Kết luận: là những tri thức mới tức phán đoán mới được rút ra từ những tiền
đề đã cho trước.

- Cơ sở logic (cách thức rút ra kết luận): là tất cả các quy luật logic cơ bản kết
hợp với các hình thức logic của phán đoán và các quy tắc logic xác định, cho phép
người ta rút ra được những kết luận nhất định từ tiền đề đã cho.

Ví dụ 1: Ta có suy luận: “Giáo viên là trí thức, cho nên, có một số trí thức là
giáo viên”. Trong ví dụ này, suy luận thuộc loại suy luận trực tiếp từ tiền đề là một
phán đoán đơn, phán đoán đầu là tiền đề, phán đoán sau là kết luận, cơ cở logic là
quy tắc của phép đổi chỗ đối với phán đoán khẳng định toàn thể (xem tiểu tiết 2.1.1.2.
Các hình thức suy luận diễn dịch trực tiếp trong tiết 2.1 của chương này).
96

Ví dụ 2: Ta có suy luận: “Kim loại thì dẫn điện, mà sắt lại là kim loại, cho nên
sắt dẫn điện”. Trong ví dụ này, suy luận thuộc loại tam đoạn luận đơn. Trong đó, hai
phán đoán đầu chính là tiền đề, phán đoán cuối là kết luận đều là phán đoán đơn, cơ
sở logic chính là quy tắc của tam đoạn luận đơn (Xem phần 2.1.2. Tam đoạn luận
đơn, trong tiết 2.1 của chương này).

1.3. Suy luận, phán đoán và khái niệm

Suy luận là một hệ thống1, trong đó có sự kết hợp của các yếu tố là các phán
đoán. Vì vậy, suy luận bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở các phán đoán. Phán
đoán là điều kiện cần để có thể xây dựng suy luận. Thế nhưng phán đoán lại được tạo
thành trên cơ sở khẳng định hoặc phủ định mối quan hệ của khái niệm này với khái
niệm kia, vì vậy cơ sở của phán đoán là khái niệm. Khái niệm là những thành tố tạo
thành phán đoán.

Vậy mối quan hệ của suy luận với phán đoán và khái niệm là mối quan hệ thứ
bậc của hệ thống và yếu tố, không có yếu tố cơ bản thì không thể có hệ thống.

1.4. So sánh suy luận với suy ý

Suy luận thuộc phạm trù logic học và có đầy đủ các quy tắc để kiểm định tính
đúng, sai một cách thuyết phục.

Suy ý thuộc phạm trù ngôn ngữ và không có bất cứ quy tắc cố định nào để kiểm
định giá trị đúng sai, nên thường gây những hiểu lầm trong quá trình tranh luận hoặc
trao đổi thông tin.

Chú ý: Không cấm suy ý, nhưng suy ý không có đủ cơ sở để xác định một vấn
đề là đúng hay sai.

1.5. Nguyên tắc chung của suy luận

Suy luận đúng (suy luận chân thực, hay suy luận hợp logic) là suy luận mà kết
luận rút ra phải tuân theo các quy tắc, quy luật logic trong quá trình lập luận và có nội
dung phù hợp với hiện thực khách quan.

1
Hệ thống là một thể thống nhất bao gồm các yếu tố có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau
theo các quy luật nhất định.
97

Suy luận sai (suy luận giả dối hay suy luận không hợp logic) là suy luận mà kết
luận rút ra không tuân theo các quy tắc, quy luật logic trong quá trình lập luận và có
nội dung không phù hợp với hiện thực khách quan.

Do đó, một suy luận đúng bắt buộc phải đáp ứng được cả hai nguyên tắc:

- Thứ nhất, tiền đề phải là những phán đoán có giá trị chân lý, tức là những
phán đoán phù hợp với hiện thực khách quan.

Phán đoán tiền đề phải phù hợp với hiện thực khách quan, hoặc phải có cơ sở
lý luận vững chắc. Nếu tiền đề không phản ánh đúng hiện thực khách quan hoặc
không có cơ sở lý luận vững chắc thì dù suy luận có tuân thủ đầy đủ quy tắc logic
cũng chưa phải là suy luận chân thực hay nói cách khác đó là suy luận không hợp
logic.

Ví dụ: Kim loại thì không dẫn điện (sai).

Đồng là kim loại.

Vậy đồng không dẫn điện.

Suy luận trên là tam đoạn luận thuộc hình bốn kiểu EAE, không vi phạm quy
tắc logic nào. Tuy nhiên kết luận của suy luận hoàn toàn sai, là do tiền đề là phán
đoán phi lý.

- Thứ hai, cấu trúc suy luận phải hợp logic

Trong quá trình suy luận, nếu suy luận diễn dịch thì phải tuân thủ các quy tắc
của suy luận diễn dịch, nếu suy luận quy nạp thì phải tuân thủ quy tắc của suy luận
quy nạp… Vì nếu tiền đề là những phán đoán đúng nhưng lập luận không hợp logic
thì suy luận cũng sai.

Ví dụ: Con người thì phải chết (đ). Con bò không phải là con người (đ).Vậy con
bò không chết (s). Suy luận này sai là do không tuân thủ quy tắc của tam đoạn luận
đơn, hay nói cách khác kết luận được rút ra không phù hợp với các quy tắc logic trong
suy luận theo kiểu tam đoạn luận đơn.

Tóm lại, điều kiện cần và đủ để suy luận đúng (hợp logic) là: Tiền đề có giá trị
đúng (1) và kết luận được rút ra từ tiền đề phải phù hợp với các quy tắc logic (2).
98

Điều này có nghĩa là, một suy luận là sai khi và chỉ khi vi phạm một trong hai điều
kiện trên.

1.6. Các loại suy luận

Căn cứ theo cách thức lập luận, người ta thường phân chia suy luận thành ba
loại: suy luận diễn dịch, suy luận quy nạp và suy luận tương tự (loại suy).

Suy luận diễn dịch (deductio), theo logic học truyền thống, là hình thức lập luận
đi từ cái chung đến cái riêng. Theo logic học hiện đại, suy luận diễn dịch là suy luận
tuân theo những quy tắc logic nhất định, trong đó, kết luận đã được bao hàm một
cách tiềm tàng ở những tiền đề, nên nó tất yếu được rút ra từ đó; như vậy, nếu tiền đề
xuất phát đúng thì kết luận cũng phải đúng. Suy luận diễn dịch bao gồm suy luận
diễn dịch trực tiếp và suy luận diễn dịch gián tiếp. Suy luận diễn dịch gián tiếp thường
được trình bày qua lập luận ba đoạn - tam đoạn luận (syllogisme).

Suy luận quy nạp (inductio) là hình thức lập luận đi từ cái riêng lẻ đến cái phổ
biến. Suy luận quy nạp gồm hai loại cơ bản: quy nạp đầy đủ (hay quy nạp hoàn toàn),
và quy nạp không đầy đủ (hay quy nạp không hoàn toàn) bao gồm quy nạp phổ thông
và quy nạp khoa học.

Suy luận tương tự/loại suy (traductio) là hình thức lập luận đi từ những thuộc
tính giống nhau của hai đối tượng để rút ra kết luận về thuộc tính giống nhau khác
của chúng. Theo nghĩa rộng về phép quy nạp, có thể xem tương tự là một hình thức
quy nạp đặc biệt.

Việc phân loại suy luận là cơ sở để hiểu toàn bộ sự đa dạng của suy luận. Tuy
nhiên, mỗi loại suy luận đều có những nội dung, dạng thức và quy tắc nhất định. Sau
đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về nội dung và quy tắc của từng loại suy luận.

2. Nội dung và quy tắc của các loại suy luận

2.1. Suy luận diễn dịch

Suy luận diễn dịch (deductive reasoning) là một hình thức lập luận mà trong đó
kết luận được rút ra một cách hợp lý từ những nhận định đã nêu ban đầu. Suy luận
diễn dịch đảm bảo rằng, quá trình rút ra kết luận chắc chắn đúng nếu các tiền đề là
đúng. Do vậy, chúng ta chỉ cần đảm bảo các tiền đề là chân thực và cấu trúc suy luận
99

phải hợp logic thì suy luận diễn dịch là rất hữu ích khi chúng ta lý luận về mọi thứ
diễn ra trong thế giới xung quanh mình.

2.1.1. Suy luận diễn dịch trực tiếp

2.1.1.1. Suy luận diễn dịch trực tiếp là gì?

Suy luận diễn dịch trực tiếp là hình thức từ một phán đoán đơn tiền đề rút ra
một phán đoán đơn mới làm kết luận.

Ví dụ: Từ tiền đề: Mọi kẻ bán nước là kẻ phản quốc (A), ta rút ra kết luận: Có
những kẻ phản quốc là kẻ bán nước (I).

2.1.1.2. Các hình thức suy luận diễn dịch trực tiếp

a. Diễn dịch trực tiếp bằng phương pháp đổi chỗ (đảo ngược phán đoán)

Đây là hình thức suy luận diễn dịch trực tiếp trong đó kết luận thu được bằng
việc đổi chỗ của chủ từ và thuộc từ trong tiền đề cho nhau.

Quy tắc: Thuật ngữ logic nào không chu diên ở tiền đề thì không được trở thành
thuật ngữ chu diên trong kết luận. Diễn đạt bằng công thức như sau:

Tiền đề Kết luận

Phán đoán A Mọi s là p Có p là s

Phán đoán I Có s là p Có p là s

Phán đoán E Mọi s không là p Mọi p không là s

Phán đoán O Có s không là p Không thu được kết luận

Ví dụ:

- Từ tiền đề là phán đoán A: Mọi người Việt Nam đều phản đối chiến tranh. Suy
ra: Một số người phản đối chiến tranh là người Việt Nam.

- Từ tiền đề là phán đoán E: Không một số lẻ nào là số chia hết cho 2. Suy ra:
Không một số chia hết cho 2 nào là số lẻ.

- Từ tiền đề là phán đoán I: Một số sinh viên là vận động viên. Suy ra: Một số
vận động viên là sinh viên.
100

Lưu ý: Một số trường hợp riêng:

- Đối với phán đoán A ở dạng đồng nhất S, P: Từ tiền đề Mọi s là p, có thể suy
ra: Mọi p là s. Ví dụ: Từ tiền đề Hà Nội là thủ đô Việt Nam, suy ra: Thủ đô Việt Nam
là Hà Nội.

- Đối với phán đoán I ở dạng bao hàm S, P: Từ tiền đề Một số s là p, có thể suy
ra: Mọi p là s. Ví dụ: Từ tiền đề Có kim loại là sắt, suy ra rằng: Sắt là kim loại.

b. Diễn dịch trực tiếp bằng phương pháp đổi chất phán đoán (chuyển hóa
phán đoán)

Chất của một phán đoán đơn biểu hiện ở việc một phán đoán đơn đó là khẳng
định, hay phủ định. Như vậy, đổi chất của phán đoán là biến đổi một phán đoán từ
khẳng định thành phủ định và ngược lại.

Quy tắc: Giữ nguyên lượng của phán đoán tiền đề và giữ nguyên vị trí của chủ
từ trong câu kết luận. Nhưng biến đổi hệ từ của phán đoán tiền đề từ khẳng định thành
phủ định và ngược lại. Còn thuộc từ của phán đoán tiền đề thì đổi thành thuật ngữ
mâu thuẫn với nó. Diễn đạt bằng công thức như sau:

Tiền đề Kết luận


Phán đoán A Mọi s là p Mọi s không là không p

Phán đoán I Có s là p Một số s không là không p

Phán đoán E Mọi s không là p Mọi s là không p

Phán đoán O Có s không là p Không có kết luận

Ví dụ: Từ tiền đề là phán đoán A: Môn học này hay, suy ra: Môn học này không
phải là không hay.

Từ tiền đề là phán đoán I: Một số sinh viên là đoàn viên, suy ra: Một số sinh
viên không phải không là đoàn viên.

Từ tiền đề là phán đoán E: Cá không phải là động vật sống trên cạn, suy ra:
Cá là động vật không sống trên cạn (hoặc Cá là động vật sống dưới nước).
101

Từ tiền đề là phán đoán O: Một số loài hoa không phải là hoa hồng, suy ra:
Một số loài hoa là không phải hoa hồng.

c. Diễn dịch trực tiếp bằng phương pháp kết hợp đổi chất và đổi chỗ

Đây là loại suy luận diễn dịch trực tiếp, trong đó kết luận thu được bằng cách
thực hiện kết hợp cả hai thao tác: đổi chỗ và đổi chất của phán đoán. Diễn đạt bằng
công thức như sau:

Tiền đề Kết luận

Phán đoán A Mọi s là p Mọi không p không là s

Phán đoán I Có s là p Không thu được kết luận

Phán đoán E Mọi s không là p Có không p là s

Phán đoán O Có s không là p Có không p là s

Ví dụ:

- Từ tiền đề là phán đoán A “Cá sống dưới nước”, suy ra: “Loài không sống
dưới nước không phải là cá”.

- Từ tiền đề là phán đoán E “Mèo không đẻ trứng”, suy ra: “Có loài không đẻ
trứng là mèo”.

- Từ tiền đề là phán đoán O “Một số sinh viên không phải người thành phố
này”, suy ra, “Một số người không phải thành phố này là sinh viên”.

Lưu ý: Một số trường hợp riêng:

- Từ phán đoán E Mọi s không là p, có thể suy ra: Mọi không p là s.

- Từ phán đoán I Có s không là p, có thể suy ra: Mọi không p là s.

d. Diễn dịch trực tiếp bằng phương pháp hình vuông logic

Trên cơ sở quan hệ giữa các phán đoán có cùng chủ từ và thuộc từ đã được trình
bày trong phần phán đoán đơn - hình vuông logic, ta có thể thực hiện được thao tác
suy luận diễn dịch trực tiếp. Vì mỗi phán đoán – A, E, I, O – có thể nằm trong ba
quan hệ với các phán đoán khác, nên từ mỗi phán đoán tiền đề đã cho, ta có thể rút ra
ba kết luận dựa vào các cạnh và đường chéo của hình vuông logic.
102

 Đối với phán đoán A đúng làm tiền đề, ta có thể suy ra ba kết luận sau: I đúng
(quan hệ lệ thuộc); E sai (quan hệ đối lập); O sai (quan hệ mâu thuẫn).

Ví dụ: Từ tiền đề “Cá sống dưới nước” có thể rút ra các kết luận sau:

- “Có cá sống dưới nước” là đúng.

- “Cá không sống dưới nước” là sai (Hoặc nói cách khác “Không phải cá không
sống dưới nước”).

- “Có cá không sống dưới nước” là sai (Hay nói cách khác “Không phải có cá
không sống dưới nước).

 Đối với phán đoán E đúng là tiền đề, ta có thể rút ra ba kết luận sau: A sai
(Đối lập trên); I sai (mâu thuẫn); O đúng (lệ thuộc).

Ví dụ: Từ tiền đề: “Người Việt Nam không thích chiến tranh”, ta có thể rút ra
kết luận là các phán đoán sau đây:

- “Người Việt Nam thích chiến tranh” là sai (Hay nói cách khác “Không phải
người Việt Nam thích chiến tranh”).

- “Có người Việt Nam thích chiến tranh” là sai (Hay nói cách khác “Không phải
có người Việt Nam thích chiến tranh”).

- “Có người Việt Nam không thích chiến tranh” là đúng.

 Đối với phán đoán I đúng là tiền đề, ta có thể rút ra ba kết luận sau: A có thể
đúng hoặc sai (Đối lập trên); E sai (mâu thuẫn); O có thể đúng hoặc sai (đối lập dưới).

Ví dụ: Từ tiền đề: “Một số sinh viên đi học đúng giờ”, ta có thể rút ra kết luận
là các phán đoán sau đây:

- “Mọi sinh viên đi học đúng giờ” là sai (Hay nói cách khác “Không phải mọi
sinh viên đều đi học đúng giờ”).

- “Mọi sinh viên không đi học đúng giờ” là sai (Hay nói cách khác “Không phải
mọi sinh viên đều không đi học đúng giờ”).

- “Có sinh viên không đi học đúng giờ” là đúng.


103

 Đối với phán đoán O đúng là tiền đề, ta có thể rút ra ba kết luận sau: A sai
(mâu thuẫn); E đúng hoặc sai (phụ thuộc); I có thể đúng hoặc sai (đối lập dưới).

Ví dụ: Từ tiền đề: “Một số sinh viên không đi học đúng giờ”, ta có thể rút ra kết
luận là các phán đoán sau đây:

- “Mọi sinh viên đi học đúng giờ” là sai (Hay nói cách khác “Không phải mọi
sinh viên đều đi học đúng giờ”).

- “Mọi sinh viên không đi học đúng giờ” là sai (Hay nói cách khác “Không phải
mọi sinh viên đều không đi học đúng giờ”).

- “Có sinh viên đi học đúng giờ” là đúng.

2.1.2. Tam đoạn luận đơn

2.1.2.1. Định nghĩa và cấu trúc

a. Định nghĩa: Tam đoạn luận là hình thức suy luận diễn dịch gián tiếp, trong
đó tiền đề là hai phán đoán đơn được sắp xếp theo các quy tắc nhất định để rút ra
kết luận là một phán đoán đơn mới.

Ví dụ: Mọi sinh viên đều phải làm bài tập về nhà. Nam là sinh viên. Vậy, Nam
phải làm bài tập về nhà.

b. Cấu trúc: Mỗi tam đoạn luận có:

 3 thuật ngữ

 Tiểu từ S

 Đại từ P

 Trung từ M

 3 mệnh đề

 Đại tiền đề P  M

 Tiểu tiền đề S  M

 Kết luận S  P

Chú ý: Trong một tam đoạn luận đơn chỉ được phép có ba thuật ngữ.
104

Nếu suy luận có ít hơn ba thuật ngữ thì không thể tạo thành một tam đoạn luận
nhất quyết đơn vì không có trung từ. Nếu suy luận có đến bốn hạn từ thì hai tiền đề
không có liên hệ logic (không có trung từ xác lập mối liên hệ giữa tiểu từ và đại từ),
do đó kết luận rút ra không chân thật.

Ví dụ: Đàn ông thống trị thế giới.

Đàn bà thống trị đàn ông.

Vậy, đàn bà thống trị thế giới.

Suy luận trên đây không phải là tam đoạn luận đơn vì có tới bốn thuật ngữ: Đàn
ông, thống trị thế giới, đàn bà, thống trị đàn ông.

Trong quy tắc này, cần chú ý một số yêu cầu của quy luật đồng nhất đối với tư
duy, không được đồng nhất những từ giống nhau nhưng nội dung khác nhau, đồng
thời không được tùy tiện thay đổi ý nghĩa của từ ngữ, nội hàm của khái niệm. Khi
xem xét một suy luận có phải là tam đoạn luận đơn hay không chúng ta cần chú ý đến
các thuật ngữ có phải là những từ đồng âm, từ nhiều nghĩa hay không. Nếu có, ta kết
luận, đó không phải là tam đoạn luận đơn.

Ví dụ: Mọi sự đốt cháy đều cho ra tro và bụi.

Oxy hóa là sự đốt cháy.

Vậy, oxy hóa cho ra tro và bụi.

Ở suy luận trên, thuật ngữ “sự đốt cháy” tuy cùng một từ nhưng lại có nghĩa
khác nhau ở hai tiền đề: chỉ hiện tượng đốt cháy trong tự nhiên (Mọi sự đốt cháy đều
cho ra tro và bụi) và chỉ hiện tượng đốt cháy trong hóa học (Oxy hóa là sự đốt cháy).
Do đó, đây không phải là tam đoạn luận đơn.

2.1.2.2. Hình và kiểu của tam đoạn luận

* Hình I: M P ĐĐ ti n đ

S M Tiểu tiền đề

S ------------------------- P Kết luận


105

Ví dụ: Loài rắn (M) không có chân (P).

Hổ mang (S) là loài rắn (M).

Vậy, hổ mang (S) không có chân (P).

Tam đoạn luận này kiểu EAE, cấu trúc theo hình I, hợp logic.

* Hình II: P M

S M

S ---------------------------P

Ví dụ: Nước biển (S) thì mặn (M).

Chai nước này (S) không mặn (M).

Vậy chai nước này (S) không phải là nước biển (P).

Tam đoạn luận này kiểu AEE, cấu trúc theo hình II, hợp logic.

* Hình III: M P

M S

S ------------------------------- P

Ví dụ: Người liêm chính (M) thì không gian dối (P).

Một số người liêm chính (M) là người thành đạt trong kinh doanh (S).

Vậy, có người thành đạt trong kinh doanh (S) là người không gian dối (P).

Tam đoạn luận này kiểu EIO, cấu trúc theo hình III, hợp logic.

* Hình IV: P M

M S

S ----------------------------------- P
106

Ví dụ: Loài ếch là loài lưỡng cư

Loài lưỡng cư là loài ăn côn trùng

Vậy, có loài ăn côn trùng là loài ếch.

Tam đoạn luận này kiểu AAI, cấu trúc theo hình IV, hợp logic.

- Kiểu của tam đoạn luận

Nếu xét về lý thuyết thì một tam đoạn luận có ba phán đoán đơn với bốn loại
phán đoán A, I, E, O sẽ tạo ra 43 = 64 tam đoạn luận. Và nếu cấu trúc theo bốn loại
hình khác nhau, ta sẽ được: 64 x 4 = 256 tam đoạn luận. Tuy nhiên khi đưa các quy
tắc vào để kiểm định thì chỉ còn lại 24 kiểu đúng như sau:

+ Hình I có sáu kiểu hợp logic: AAA, EAE, AII, EIO, AAI, EAO

+ Hình II có sáu kiểu hợp logic: EAE, AEE, EIO, AOO, EAO, AEO.

+ Hình III có sáu kiểu hợp logic: AAI, IAI, AII, EAO, OAO, EIO.

+ Hình IV có sáu kiểu hợp logic: AAI, AEE, IAI, EAO, EIO, AEO

Để cho dễ nhớ người ta đặt cho các kiểu tam đoạn luận những tên gọi sau đây:

Loại hình I: Barbara, Celarent, Darii, Ferio, Babari, Celaront.

Loại hình II: Cesare, Camestres, Festino, Baroco, Cesaro, Camestros.

Loại hình III: Darapti, Disamis, Datisi, Felapton, Bocardo, Ferison.

Loại hình IV: Balamip, Calemes, Dimatis, Fesapo, Fresison, Calemos.

Các tên gọi trên đây do Peter người Tây Ban Nha đặt ra. Mỗi tên gồm có ba
nguyên âm để chỉ các dạng phán đoán. Các nguyên âm lần lượt chỉ các tiền đề lớn,
tiền đề nhỏ và kết luận. (Ví dụ: Tên Barbara nghĩa là cả 3 phán đoán ở tiền đề và kết
đều là những phán đoán khẳng định: A, A, A)

2.1.2.3. Các quy tắc của tam đoạn luận

a. Hệ thống quy tắc chung

Quy tắc 1: Trung từ M phải chu diên ít nhất một lần.

Ví dụ 1: Cá thì sống dưới nước.


107

Con cua cũng sống dưới nước

Vậy, con cua là con cá.

Xét tam đoạn luận đơn trên, ta có:

- Các thuật ngữ: S: con cua, P: con cá, M: sống dưới nước.

- Tam đoạn luận này thuộc kiểu AAA, hình II, được cấu trúc như sau:

P +a M-

S + a M-

S+aP-

Như vậy, tam đoạn luận trên không hợp logic vì trung từ M (sống dưới nước)
cả hai lần đều không chu diên.

Ví dụ 2: Kinh tế thị trường thì phải tự do cạnh tranh.

Gia nhập WTO thì phải thực hiện kinh tế thị trường

Vậy, gia nhập WTO thì phải tự do cạnh tranh.

Xét tam đoạn luận đơn trên, ta có:

- Các thuật ngữ: S: gia nhập WTO, P: phải tự do cạnh tranh, M: thực hiện kinh
tế thị trường.

- Tam đoạn luận này thuộc kiểu AAA, hình I, được cấu trúc như sau:

M+a P-

S + a M-

S+aP-

Như vậy, tam đoạn luận trên hợp logic vì thuật ngữ trung gian M đã chu diên
một lần, đồng thời không vi phạm quy tắc nào khác.

Quy tắc 2: Thuật ngữ không chu diên ở tiền đề thì không được chu diên ở kết
luận.

Ví dụ: Buôn bán hóa đơn đỏ là vi phạm pháp luật.


108

Giám đốc công ty X không buôn bán hóa đơn đỏ

Vậy, giám đốc công ty X không vi phạm pháp luật.

Xét tam đoạn luận đơn trên, ta có:

- Các thuật ngữ: S: giám đốc công ty X, P: vi phạm pháp luật, M: buôn bán hóa
đơn đỏ.

- Tam đoạn luận này thuộc kiểu AEE, hình I, được cấu trúc như sau:

M+a P-

S + e M+

S+eP+

Như vậy, tam đoạn luận trên không hợp logic vì thuật ngữ P không chu diên
trong tiền đề nhưng lại chu diên trong kết luận.

Quy tắc 3: Nếu tiền đề là hai phán đoán phủ định thì không rút ra được kết
luận hợp logic (Phải có tiền đề là phán đoán khẳng định).

Ví dụ: Nhà khoa học chân chính không đạo công trình người khác.

Nhà khoa học chân chính không phải là kẻ lừa dối xã hội.

Vậy, kẻ lừa dối xã hội không đạo công trình người khác.

Trong suy luận trên, vì hai phán đoán tiền đề đều phủ định nên không thể rút ra
kết luận hợp logic.

Quy tắc 4: Kết luận là phán đoán phủ định khi và chỉ khi một trong hai tiền
đề là phán đoán phủ định.

Ví dụ: Nhà khoa học chân chính thì không đạo công trình người khác.

Ông X đạo công trình của người khác.

Vậy, ông X không phải là nhà khoa học chân chính.

Xét tam đoạn luận đơn trên, ta có:

- Các thuật ngữ: S: ông X, P: nhà khoa học chân chính, M: đạo công trình của
người khác.
109

- Tam đoạn luận này thuộc kiểu EAE, hình II, được cấu trúc như sau:

P +e M+

S + a M-

S+eP+

Trong tam đoạn luận này, tiền đề có một phán đoán phủ định nên kết luận phải
là phán đoán phủ định và kết luận là phán đoán phủ định thì chứng tỏ tiền đề phải có
một phán đoán phủ định.

Như vậy, tam đoạn luận trên hợp logic vì nó tuân thủ các quy tắc của tam đoạn
luận đơn.

Quy tắc 5: Nếu tiền đề là hai phán đoán bộ phận thì không rút ra được kết
luận hợp logic (Phải có tiền đề là phán đoán toàn thể).

Ví dụ: Một số loài cá có khả năng phóng năng lượng.

Một số cá có chứa nọc độc.

Vậy, một số loài chứa nọc độc (như rắn, ong…) có khả năng phóng
năng lượng.

Vì tam đoạn luận trên có hai tiền đề là phán đoán bộ phận (I) nên kết luận rút ra
không hợp logic.

Quy tắc 6: Nếu một trong hai tiền đề là phán đoán bộ phận thì kết luận phải
là phán đoán bộ phận.

Ví dụ: Người biết tiếng Ả rập thì có thể đọc được nguyên bản Kinh Coran

Một số, người Việt Nam biết tiếng Ả rập.

Vậy, một số người Việt Nam có thể đọc được nguyên bản Kinh Coran.

Xét tam đoạn luận đơn trên, ta có:

- Các thuật ngữ: S: người Việt Nam, P: có thể đọc được nguyên bản Kinh Coran,
M: người biết tiếng Ả rập.

- Tam đoạn luận này thuộc kiểu AII, hình I, được cấu trúc như sau:
110

M +a P-

S - i M-

S-iP-

Như vậy, tam đoạn luận trên hợp logic, vì tuân thủ các quy tắc của tam đoạn
luận.

b. Hệ thống quy tắc hình

Quy tắc 1: Nếu tam đoạn luận cấu trúc theo hình I thì đại tiền đề phải là phán
đoán toàn thể (A hoặc E) và tiểu tiền đề phải là phán đoán khẳng định.

Dựa vào cấu trúc của tam đoạn luận ở hình I (M-P, S-M,S-P) và hệ thống quy
tắc chung ở trên, ta lập luận như sau: Giả sử nếu đại tiền đề đã cho ở hình I không
phải là phán đoán toàn thể mà là phán đoán bộ phận (I hoặc O), trung từ M sẽ không
chu diên (M-), nếu vậy thì ở tiểu tiền đề, trung từ M buộc phải chu diên, tức là M+
(phán đoán E hoặc O), mà theo quy tắc 5 không thể có hai tiền đề là phán đoán bộ
phận nên tiểu tiền đề chỉ có thể là phán đoán E (S+eM+) và đại tiền đề phải là phán
đoán khẳng định I (M-iP-), lúc này kết luận phải là phán đoán O (S-oP+) theo quy tắc
số 7. Và như vậy, ta thấy tam đoạn luận vi phạm quy tắc số 2 vì: thuật ngữ P không
chu diên trong tiền đề mà P chu diên trong kết luận. Từ đó, ta suy ra, đại tiền đề ở
hình I buộc phải là phán đoán toàn thể (A hoặc E).

Nếu đại tiền đề là phán đoán toàn thể thì tiểu tiền đề ở hình I phải là phán đoán
khẳng định. Bởi vì, nếu tiểu tiền đề là phán đoán phủ định (E hoặc O) thì đại tiền đề
phải là phán đoán khẳng định toàn thể A (M+aP-), và kết luận phải là phán đoán phủ
định với thuật ngữ P chu diên (P+). Theo quy tắc 2, ta thấy tam đoạn luận không hợp
logic vì: thuật ngữ P không chu diên trong tiền đề mà P chu diên trong kết luận. Như
vậy, tiểu tiền đề không thể là phán đoán phủ định.

Kết luận: Ở hình I, đại tiền đề phải là phán đoán toàn thể và tiểu tiền đề phải
là phán đoán khẳng định.

Ví dụ: Rắn không có cánh.


Có loài động vật máu lạnh là rắn.
Vậy, có loài động vật máu lạnh không có cánh.
111

Tam đoạn luận trên thuộc hình I, kiểu AII, có đại tiền đề là phán đoán toàn thể,
tiểu tiền đề là phán đoán khẳng định, tuân thủ các quy tắc của tam đoạn luận đơn. Do
vậy, tam đoạn luận này hợp logic.

Quy tắc 2: Nếu tam đoạn luận cấu trúc theo hình II thì đại tiền đề phải là
phán đoán toàn thể (A hoặc E) và một trong hai tiền đề phải là phán đoán phủ
định (O hoặc E).

Dựa vào cấu trúc hình II (P-M, S-M, S-P) và hệ thống quy tắc chung của tam
đoạn luận, ta lập luận như sau: Nếu đại tiền đề đã cho ở hình II là phán đoán bộ phận
(I hoặc O), thì tiểu tiền đề sẽ phải là phán đoán toàn thể (A hoặc E) và kết luận phải
là phán đoán bộ phận. Để trung từ M chu diên ít nhất một lần ở tiền đề, ta được hai
kiểu là IEO và OAO ở hình II. Theo đó, cả hai kiểu này, tam đoạn luận đều không
hợp logic vì P không chu diên ở tiền đề mà chu diên ở kết luận. Như vậy, đại tiền đề
ở hình II không thể là phán đoán bộ phận mà phải là phán đoán toàn thể.

Nếu đại tiền đề là phán đoán toàn thể và cả hai tiền đề là phán đoán khẳng định
thì ta sẽ được đại tiền đề là phán đoán A, tiểu tiền đề là A hoặc I, hình thành ba kiểu
tam đoạn luận AAA, AAI, AII. Ở cả ba kiểu này, tam đoạn luận đều không hợp logic
vì trung từ M không chu diên trong cả hai tiền đề. Do đó, không thể có hai tiền đề là
phán đoán khẳng định hay nói cách khác phải có một trong hai tiền đề là phán đoán
phủ định ở hình II.

Kết luận: Nếu tam đoạn luận cấu trúc theo hình II thì đại tiền đề phải là phán
đoán toàn thể (A hoặc E) và một trong hai tiền đề phải là phán đoán phủ định (O hoặc
E).

Ví dụ: Nhà báo chân chính không xuyên tạc sự thật.

Nhà báo A xuyên tạc sự thật.

Vậy, nhà báo A không phải là nhà báo chân chính.

Trong tam đoạn luận trên, ta thấy tam đoạn luận thuộc hình II, có đại tiền đề là
phán đoán phủ định toàn thể, đáp ứng quy tắc của tam đoạn luận đơn, như vậy, tam
đoạn luận này hợp logic.
112

Quy tắc 3: Nếu tam đoạn luận được cấu trúc theo hình III thì tiểu tiền đề phải
là phán đoán khẳng định (A hoặc I) và kết luận phải là phán đoán bộ phận (I hoặc
O).

Dựa vào cấu trúc hình III (M-P, M-S, S-P) và hệ thống quy tắc chung của tam
đoạn luận, ta lập luận tương tự như cách chứng minh hai quy tắc hình phía trên để rút
ra kết luận là quy tắc 3.

Ví dụ: Người hiền lành không lừa dối người khác.

Một số người hiền lành là người được xã hội tôn vinh.

Vậy, một số người được xã hội tôn vinh không lừa dối người khác.

Như vậy, tam đoạn luận trên thuộc hình III, kiểu EIO có tiểu tiền đề là phán
đoán khẳng định và kết luận là phán đoán bộ phận, tuân thủ các quy tắc của tam đoạn
luận đơn, là suy luận hợp logic.

Quy tắc 4: Nếu tam đoạn luận cấu trúc theo hình IV thì tiền đề không được
phủ định bộ phận (O) và kết luận không được là khẳng định toàn thể (A).

Dựa vào cấu trúc hình IV (P-M, M-S, S-P) và hệ thống quy tắc chung của tam
đoạn luận, ta lập luận tương tự như cách chứng minh quy tắc hình phía trên để rút ra
kết luận.

Ví dụ: Mọi kẻ bán nước đều là những kẻ phản quốc.

Mọi kẻ phản quốc không thể là người vì nước vì dân.

Vậy, mọi người vì nước vì dân không phải là kẻ bán nước.

Như vậy, tam đoạn luận trên thuộc hình IV, kiểu AEE có tiền đề là phán đoán
toàn thể và kết luận là phán đoán phủ định toàn thể, tuân thủ các quy tắc của tam đoạn
luận đơn, là suy luận hợp logic.

2.1.2.4. Các hình thức tỉnh lược của tam đoạn luận đơn

Trong lập luận đời thường, người ta không lập luận đầy đủ một tam đoạn luận
mà hay sử dụng tam đoạn luận tỉnh lược (tam đoạn luận rút gọn). Có khi tỉnh lược
đại tiền đề, có khi tỉnh lược tiểu tiền đề và có khi tỉnh lược kết luận.
113

- Tỉnh lược đại tiền đề: một tam đoạn luận không có đại tiền đề hoặc đại tiền đề
được hiểu ngầm, chỉ còn lại tiểu tiền đề và kết luận.

Ví dụ: Anh là người quân tử mà.

Vậy, anh phải rộng lượng chứ.

Đại tiền đề đã bị tỉnh lược ở đây là: “Người quân tử thì rộng lượng”.

- Tỉnh lược tiểu tiền đề: một tam đoạn luận không có tiểu tiền đề mà chỉ có đại
tiền đề và có kết luận.

Ví dụ: Người quân tử thì rộng lượng.

Vậy, anh không phải là người quân tử.

Tiểu tiền đề bị tỉnh lược: “Anh không rộng lượng”.

- Tỉnh lược kết luận: tức là tam đoạn luận chỉ có hai tiền đề, còn kết luận được
hiểu ngầm hay gọi là tỉnh lược.

Ví dụ: Người quân tử thì rộng lượng.

Anh là người quân tử mà.

Kết luận bị tỉnh lược: Vậy anh phải rộng lượng.

Tam đoạn luận tỉnh lược thường được sử dụng trong đời sống hằng ngày và giúp
tiết kiệm ngôn từ, tạo nên sự thâm thúy trong tư duy. Tuy nhiên, tam đoạn luận tỉnh
lược thường gây ra những sai lầm vì phán đoán bị tỉnh lược không tường minh.

Ví dụ: Ông X không tham nhũng.

Vậy, chắc chắn ông X không phải là người giàu có.

Đại tiền đề bị tỉnh lược “Mọi người giàu có đều tham nhũng” là phán đoán có
nội dung sai.

Vì vậy, để xác định một tam đoạn luận tỉnh lược là đúng hay sai, phải dựa vào
các thuật ngữ đã có trong hai phán đoán và khôi phục lại cấu trúc và tiền đề đã bị tỉnh
lược; rồi dùng các quy tắc để kiểm định giá trị đúng sai của tam đoạn luận đó.

Ví dụ: Thần tiên (S) không phải là người.

Vậy, thần tiên (S) không chết (P).


114

Từ việc xác định được các thuật ngữ trong hai phán đoán, ta có thể xác định
được phán đoán bị lược bỏ “Mọi người đều phải chết”. Khi khôi phục lại đầy đủ,
chúng ta nhận thấy tam đoạn luận này sai, vì đại từ P (chết) không chu diên ở tiền đề
mà chu diên ở kết luận (vi phạm quy tắc của tam đoạn luận đơn).

2.1.2.5. Các hình thức liên kết của tam đoạn luận

Tam đoạn luận liên kết là hình thức nối kết nhiều tam đoạn luận đơn với nhau
bằng cách lấy kết luận của tam đoạn luận trước làm tiền đề cho tam đoạn luận sau.
Có hai hình thức liên kết thường gặp:

- Tam đoạn luận đơn liên kết tiến: có hình thức nối kết nhiều tam đoạn luận đơn
bằng cách lấy kết luận của tam đoạn luận đơn trước làm đại tiền đề cho tam đoạn luận
đơn sau.

Ví dụ: Buôn bán ma túy là hành động bất lương.

Một số công an buôn bán ma túy.

Vậy, một số công an có hành động bất lương. (kết luận và đại tiền đề)

Hành động bất lương phải bị trừng trị theo pháp luật.

Vậy, phải trừng trị một số công an theo pháp luật.

- Tam đoạn luận đơn liên kết thoái: nối kết nhiều tam đoạn luận đơn với nhau
bằng cách lấy kết luận của tam đoạn luận đơn trước làm tiểu tiền đề cho tam đoạn
luận đơn sau.

Ví dụ: Tham nhũng là đại nạn của đất nước.

Một số quan chức tham nhũng

Vậy một số quan chức là đại nạn của đất nước.

Đại nạn của đất nước cần phải thanh trừng.

Vậy, cần phải thanh trừng một số quan chức.

Chú ý: Để xác định một tam đoạn luận liên kết hợp logic hay không hợp logic,
chúng ta không còn cách nào tốt hơn là tách các tam đoạn luận đơn và dùng các quy
115

tắc để kiểm định. Nếu các tam đoạn luận đơn đều tuân thủ các quy tắc thì tam đoạn
luận liên kết hợp logic.

2.1.3. Suy luận diễn dịch với tiền đề là phán đoán phức

2.1.3.1. Các dạng thức hợp logic cơ bản

- Dạng thức 1:

P  Q

P ( Modus ponens )

Công thức: [( P  Q ) Ʌ P ] Q

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:

[( P  Q)  P]  Q
S
đ S s
đ đ đ S s
đ đ đ đ đ S s

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: Q đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic.

Chúng ta cũng có thể dùng bảng chân trị để kiểm tra công thức:

P Q PQ (P  Q)  P (P  Q)  P]  Q
(1) (2) (3) (4) (5)
đ đ đ đ Đ
đ s s s Đ
đ đ đ đ Đ
đ s s s Đ

Kết luận: Từ bảng chân trị ta thấy, cột đại diện cuối cùng của công thức (5) chỉ
có dòng đúng. Vậy, công thức là quy luật logic.
116

Ví dụ: Nếu Việt Nam gia nhập WTO thì nền kinh tế sẽ phát triển nhanh.

Việt Nam gia nhập WTO.

Vậy, nền kinh tế sẽ phát triển nhanh.

- Dạng thức 2:

P  Q

Q (Modus tolens)

P

Công thức: [(P  Q)  ~Q ]  ~P

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:

[( P  Q)  ~ Q]  ~ P
S
đ S s
đ đ đ s S s đ
s đ s đ đ s S s đ

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: P đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic. Chúng ta cũng có thể kiểm
tra lại tính logic của công thức bằng bảng chân trị tương tự như cách làm ở dạng thức
trên.
Ví dụ: Nếu anh ăn nhiều mỡ động vật thì sẽ làm tăng cholesteron trong máu.
Anh không bị tăng cholesteron trong máu.
Vậy, anh không ăn nhiều mỡ động vật.
- Dạng thức 3: P  Q

Q  R (Pure hypothetical)

P  R

Công thức: [(P  Q ) Ʌ (Q  R) ]  ( P  R )


117

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:

[( P  Q)  (Q  R) ]  (P  R)

đ S s

đ đ đ S đ s s

đ đ đ đ đ đ đ S đ s s

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: R đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic. Chúng ta cũng có thể kiểm
tra lại tính logic của công thức bằng bảng chân trị tương tự như cách làm ở dạng thức
trên.

Ví dụ: Nếu nền giáo dục Việt Nam khắc phục được tiêu cực trong thi cử thì chất
lượng giáo dục sẽ được cải thiện. Nếu chất lượng giáo dục được cải thiện thì đất nước
ta sẽ phát triển nhanh hơn. Vậy, nếu nền giáo dục Việt Nam khắc phục được tiêu cực
trong thi cử thì đất nước sẽ phát triển nhanh hơn.

- Dạng thức 4: P  Q

P (Relative disjunctive syllogism)

Công thức: [( P  Q )  P ]  Q

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:

[( P  Q)  ~ P]  Q

S
đ S s
đ đ đ s S s
s đ đ đ đ s S s
118

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: Q đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic. Chúng ta cũng có thể kiểm
tra lại tính logic của công thức bằng bảng chân trị tương tự như cách làm ở dạng thức
trên.

Ví dụ: Đã là sinh viên thì học đại học hoặc là học cao đẳng. Biết rằng sinh viên
ấy không học đại học. Vậy chắc chắn sinh viên ấy học cao đẳng.

- Dạng thức 5: P V Q

P (absolute disjunctive syllogism)

~Q

Công thức: [(P V Q) Ʌ P ]   Q

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:

[( P V Q)  P]  ~ Q
S
đ S s
đ đ đ S s đ
đ đ s đ đ S s đ

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: Q đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic. Chúng ta cũng có thể kiểm
tra lại tính logic của công thức bằng bảng chân trị tương tự như cách làm ở dạng thức
trên.

Ví dụ: Đồng tiền thì hoặc thật hoặc giả. Đây là đồng tiền thật. Vậy, đây không
phải là đồng tiền giả.

- Dạng thức 6: (P  Q)  ( R  S )

P  R (contructive delemma)

Q  S
119

Công thức: { [( P  Q ) Ʌ ( R  S )] Ʌ (P V R) }  ( Q V S )

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:
{[( P  Q)  (R  S) ]  (P  R)}  (Q  S)

đ S s

đ đ đ S s s s

đ đ đ đ s đ s đ đ đ s S s s s

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: Q đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic. Chúng ta cũng có thể kiểm
tra lại tính logic của công thức bằng bảng chân trị tương tự như cách làm ở dạng thức
trên.

Ví dụ: Nếu bạn biết tiếng Pháp thì bạn sẽ làm việc cho công ty Pháp và nếu bạn
biết tiếng Anh thì bạn sẽ làm việc cho công ty Anh. Bạn biết tiếng Pháp hoặc biết
tiếng Anh. Vậy bạn có thể làm việc cho công ty Pháp hoặc làm cho công ty Anh.

- Dạng thức 7: ( P  Q )  ( R  S )
Q  S (destructive delemma)

P  R

Công thức: { [( P  Q ) Ʌ ( R  S )] Ʌ ( Q V  S) }  ( P V  R )

Ta có thể dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh tính hợp logic của công thức trên
như sau:

{[( P  Q )  (R  S) ]  (~ Q  ~ S)}  (~ P  ~ R)
S
đ S s
đ đ đ đ đ S s đ s s đ
đ đ đ đ đ đ đ đ s đ đ đ s S s đ s s đ
120

Kết luận: Từ bảng ngữ nghĩa ta thấy, công thức có mâu thuẫn: S đồng thời nhận
hai giá trị: đúng và sai, do đó, công thức là quy luật logic. Chúng ta cũng có thể kiểm
tra lại tính logic của công thức bằng bảng chân trị tương tự như cách làm ở dạng thức
trên.

Ví dụ: Nếu bạn có đủ tiền thì bạn có thể mua nhà và nếu bạn có đủ vàng thì bạn
có thể mua đất. Bạn không mua được nhà hoặc không mua được đất. Vậy, bạn không
có đủ tiền hoặc không có đủ vàng.

Trên đây là bảy dạng thức cơ bản nhất, thường được sử dụng trong suy luận.
Việc ghi nhớ và áp dụng nhiều dạng thức kết hợp như vậy là cơ sở cho suy luận hợp
logic và tư duy đúng đắn.

2.1.3.2. Phương pháp xác định giá trị logic của suy luận bằng bảng ngữ nghĩa

Đối với những suy luận bằng ngôn ngữ tự nhiên mang tính phức tạp, có nhiều
phán đoán phức thì việc chuyển về dạng thức cơ bản để xác định giá trị hợp logic hay
không hợp logic là điều rất vất vả và tốn nhiều thời gian. Để xác định giá trị logic
nhanh, gọn, ít tốn thời gian thì phương pháp bảng ngữ nghĩa (bảng chân trị rút gọn)
được coi là cách nhanh nhất.

Quy trình của phương pháp lập bảng gồm có bốn bước sau đây:

Bước 1: Chuyển suy luận từ ngôn ngữ tự nhiên sang công thức suy luận.

Chú ý: Nối các tiền đề với nhau bằng liên từ logic hội (); nối tiền đề với kết
luận bằng liên từ kéo theo ().

Bước 2: Giả định công thức suy luận sai.

Chú ý: Giá trị sai phải được đặt vào dấu kết luận của công thức.

Bước 3: Dựa vào giả định sai đó, vận dụng các quy tắc của phán đoán phức để
cho các phán đoán đơn những giá trị tương ứng.

Chú ý: Khi vận dụng hết các quy tắc rồi nhưng vẫn còn một số mệnh đề chưa
xác định thì hãy mượn giá trị của các phán đoán đã có để suy ra giá trị của phán đoán
còn lại.
121

Bước 4: Tìm xem trong công thức suy luận đó xuất hiện mâu thuẫn hay không.
Nếu có xuất hiện mâu thuẫn thì kết luận suy luận hợp logic và nếu không xuất hiện
mâu thuẫn thì kết luận suy luận không hợp logic.

Ví dụ: Nếu các nhà máy hóa chất của Mỹ không sản xuất chất độc da cam thì
quân đội Mỹ không rải chất độc da cam ở Việt Nam. Nếu quân đội Mỹ không rải nó
ở Việt Nam thì người Việt Nam không bị nhiễm chất độc da cam. Nếu người Việt
Nam không nhiễm chất độc da cam thì người Việt Nam không sinh ra nhiều người dị
tật. Vậy, nếu các nhà máy hóa chất của Mỹ không sản xuất ra chất độc da cam thì
người Việt Nam không sinh ra người dị tật.

Bước 1: Chuyển lập luận trên sang công thức logic bằng cách ký hiệu hóa các
phán đoán đơn và các liên từ logic. Cụ thể, ta có:

- Nhà máy hóa chất của Mỹ sản xuất chất độc da cam = P, quân đội Mỹ không
rải chất độc da cam ở Việt Nam = Q, người Việt Nam nhiễm chất độc da
cam = S, người Việt Nam sinh ra nhiều người dị tật = R
- Các liên từ logic: nếu… thì = , phán đoán phủ định (không): ~

Ta được công thức logic như sau:

[( P   Q )  ( Q   S )  ( S  R )]  ( P   R )

Bước 2: Giả định công thức trên là sai

[( P   Q )  ( Q   S )  ( S  R )]  ( P   R )

Bước 3: [( P   Q )  (  Q   S )  ( S   R )]  (  P   R )

s đ đ sđ đ s đ đ sđ đ sđ đ s đ S đ s s s đ

Bước 4: [( P   Q )  ( Q   S)  ( S   R )]  (  P   R )

s đ đ sđ đ s đ đ s đ đ sđ đ sđ S đs s s đ

mâu thuẫn
122

Ở bước 4, ta nhận thấy công thức có mâu thuẫn: P đồng thời nhận hai giá trị:
đúng và sai. Vậy, suy luận hợp logic.

2.2. Suy luận quy nạp

Suy luận quy nạp (inductive reasoning) là suy luận thường đi từ tiền đề là tri
thức riêng đến kết luận là tri thức chung. Trong suy luận này, người ta đi từ việc nhận
thấy sự lặp đi lặp lại của một hoặc một số tính chất nào đó ở các đối tượng thuộc một
lớp nhất định đến chỗ rút ra kết luận chung rằng toàn bộ các đối tượng thuộc lớp đó
đều có tính chất đã nêu. Những lập luận này được sử dụng rất nhiều trong quá trình
con người khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh.

So với suy luận diễn dịch, độ chắc chắn của kết luận trong suy luận quy nạp tỏ
ra kém hơn. Kết luận của suy luận quy nạp với những tiền đề đúng cũng có khả năng
xảy ra tương đối cao nhưng không chắc chắn 100% như suy luận diễn dịch.

Suy luận quy nạp có hai dạng cơ bản: suy luận quy nạp hoàn toàn và suy luận
quy nạp không hoàn toàn.

2.2.1. Quy nạp hoàn toàn

2.2.1.1. Định nghĩa và dạng thức

- Định nghĩa: Suy luận quy nạp hoàn toàn (còn gọi là suy luận quy nạp đầy đủ,
quy nạp hình thức, quy nạp nghiêm ngặt, quy nạp Aristote) là hình thức suy luận quy
nạp đi từ việc xem xét mọi đối tượng trong cùng một loài đến kết luận khái quát chung
cho cả loài.

- Dạng thức: S1 – P

S2 – P

S3 – P

Sk – P

S1, S2, S3, … Sk  S

S; S- P
123

Ví dụ: Kali tác dụng với axít thì tạo ra muối và giải phóng hydro

Natri tác dụng với axít thì tạo ra muối và giải phóng hydro

Calci tác dụng với axít thì tạo ra muối và giải phóng hydro

Chì tác dụng với axít thì tạo ra muối và giải phóng hydro
Mà kali, natri, calci… chì là kim loại đứng trước hydro

Vậy, mọi kim loại đứng trước hydro đều tác dụng với axít thì tạo ra muối và
giải phóng hydro.

2.2.1.2. Công dụng và hạn chế của suy luận quy nạp hoàn toàn

- Quy nạp hoàn toàn đem lại kết luận chính xác, khái quát, giúp con người thiết
lập các công thức để nhận thức và khám phá khoa học hiệu quả hơn.

- Hạn chế: quy nạp hoàn toàn chỉ áp dụng đối với những loài mà các đối tượng
trong đó có giới hạn kiểm soát được, và phải xem xét hết không để sót đối tượng nào.
Đối với những loài có đối tượng không thể kiểm soát được số lượng cá thể thì hầu
như không thể áp dụng được. Bên cạnh đó, tri thức rút ra từ quy nạp hình thức không
có gì mới hơn tri thức đã biết ở tiền đề.

2.2.2. Quy nạp mở rộng

Quy nạp mở rộng (hay quy nạp không hoàn toàn, quy nạp phóng đại, quy nạp
không đầy đủ) là hình thức quy nạp đi từ một số đối tượng trong cùng một loài đến
kết luận về tri thức khái quát chung cho cả loài.

Suy luận quy nạp không hoàn toàn được áp dụng khi không thể nghiên cứu được
hết đối tượng của lớp sự vật, nhưng lại cần có kết luận về toàn bộ lớp đối tượng.

Ví dụ: Khi nung nóng các chất khí Nitơ, Oxy, Hyđrô thấy thể tích của chúng
tăng lên, nghĩa là chúng nở ra. Từ đó kết luận rằng, tất cả các chất khí được đun nóng
thì đều nở ra.

Quy nạp không hoàn toàn có chức năng mở rộng tri thức từ cái đã biết đến cái
chưa biết. Nó cho phép dựa vào số lượng có giới hạn của lớp đối tượng để rút ra kết
124

luận về thuộc tính và tính quy luật của toàn bộ lớp đối tượng. Đây là một giá trị đặc
biệt quan trọng trong khoa học và trong quá trình nhận thức thế giới.

Vậy, quy nạp không hoàn toàn là phép quy nạp mà ở tiền đề người ta mới chỉ
đề cập được tri thức về số đối tượng nào đó của lớp sự vật cần nghiên cứu; nhưng
người ta lại có thể rút ra được tri thức chung, khái quát về mọi đối tượng của lớp ấy.
Vì vậy, kết luận của quy nạp không hoàn toàn vẫn có thể sai. Quy nạp không hoàn
toàn chia thành quy nạp phổ thông và quy nạp khoa học.

2.2.2.1. Quy nạp mở rộng phổ thông

a. Định nghĩa và dạng thức:

- Định nghĩa: Quy nạp mở rộng phổ thông là một hình thức quy nạp mở rộng
từ việc liệt kê một số đối tượng hoặc một số hiện tượng, rồi đi đến kết luận khái quát
chung cho mọi đối tượng mà chưa xác định được mối quan hệ tất yếu giữa cái chung
và cái riêng, nguyên nhân và kết quả.

- Dạng thức:

S1 – P

S2 _ P

S3 _ P

S1, S2, S3, … S

S - P

Ví dụ: Ông bà ta quan sát thấy ông A bụng bự, chết sớm; bà B bụng bự, chết
sớm; anh C bụng bự chết sớm… Những người được quan sát có điểm chung là bụng
phình ra. Ông bà ta rút ra kết luận, thành câu tục ngữ: Vòng bụng phình ra thì vòng
đời co lại.

Quy nạp phổ thông là quy nạp không hoàn toàn, trong đó có tiền đề chỉ thuần
túy liệt kê tri thức về các trường hợp đã gặp trong số các đối tượng của lớp sự vật (S)
mang một thuộc tính chung (P). Và trong các trường hợp đã gặp của lớp (S) thì chưa
có trường hợp nào (đối tượng nào) không có thuộc tính (P). Từ đó, đi đến kết luận có
tính chất khái quát về mọi đối tượng của lớp (S) đều có thuộc tính (P).
125

b. Nhận xét về suy luận quy nạp mở rộng phổ thông

- Suy luận quy nạp mở rộng phổ thông thường xuyên được sử dụng và mang lại
ý nghĩa nhất định trong cuộc sống cũng như trong nhận thức và khám phá thế giới
hiện thực khách quan. Nó thể hiện xu hướng nhận thức từ cái riêng đến cái chung.
Nhờ suy luận quy nạp mở rộng phổ thông con người có được tri thức kinh nghiệm.
Có thể nói, hầu hết tri thức về tự nhiên - xã hội của người xưa phản ánh vào trong tục
ngữ – ca dao đều là kết quả của quy nạp mở rộng phổ thông.

Ví dụ:

Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.

Bao giờ đom đóm bay ra, hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng.

Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.

Đàn bà thắt đáy lưng ong, đã khéo chiều chồng lại tài nuôi con.

Con trai Nhâm Tý có tài, con gái Nhâm Tý thì hai đời chồng.

Gái hồng nhan thì bạc phận…

- Tuy nhiên quy nạp mở rộng phổ thông do không xác định được mối quan hệ
nhân quả mang tính quy luật và chưa lý giải được mối quan hệ giữa các đối tượng,
giữa cái chung với cái riêng… nên tri thức rút ra không đủ cơ sở để tin cậy. Nếu
không thận trọng, trong đời sống hằng ngày cũng như trong khoa học, sử dụng quy
nạp mở rộng phổ thông sẽ tạo ra những sai lầm đáng tiếc.

Ví dụ:

Sắt là chất rắn,

Vàng là chất rắn,

Đồng là chất rắn,

Bạc là chất rắn,

...

Sắt, vàng, đồng, bạc... đều là kim loại.

Vậy, kim loại là chất rắn.


126

Kết luận trên đây là sai lầm, vì thủy ngân (chất lỏng) cũng là kim loại.

Để quy nạp phổ thông bớt sai lầm, cần căn cứ vào thuộc tính bản chất để khái
quát hóa, số lượng trường hợp nghiên cứu cần lớn, và cần đa dạng hóa các trường
hợp nghiên cứu.

2.2.2.2. Quy nạp mở rộng khoa học

a. Định nghĩa và dạng thức

- Quy nạp mở rộng khoa học là gì?

Quy nạp mở rộng khoa học là hình thức quy nạp từ việc quan sát mối liên hệ tất
yếu, quy luật của các đối tượng trong cùng một loài đến tri thức khái quát chung cho
cả loài.

- Dạng thức:

A có: a, b, c, d, m => P

B có: g, h, i, k, m => P

C có: l, r, q, o, m => P

A, B, C… thuộc loài S có chung thuộc tính m.

Mọi đối tượng của lớp S có P

Như vậy, phép quy nạp khoa học tuy vẫn có thể dẫn đến kết luận không chính
xác hoàn toàn nhưng nó hơn hẳn phép quy nạp phổ thông ở mức độ chân thực của
phán đoán kết luận. Phép suy luận có sự kết hợp cả phép suy luận diễn dịch tham gia
như một bộ phận cấu thành của nó. Đó là tri thức giải thích nguyên nhân của hiện
tượng.

Ví dụ: Từ tiền đề n  N là một số nguyên tố  n2 và chỉ có hai ước số là 1 và


n, người ta đưa ra tập hợp các số nguyên tố là 2, 3, 5, 7, 11…

Lập luận như sau:

2 là số chỉ chia hết cho một và chính nó.

3 là số chỉ chia hết cho một và chính nó.


127

5 là số chỉ chia hết cho một và chính nó.

7 là là số chỉ chia hết cho một và chính nó…

Mà 2, 3, 5, 7… là chữ số nguyên tố.

Vậy, mọi chữ số nguyên tố là số chỉ chia hết cho 1 và chính nó.

Quy nạp mở rộng khoa học khác quy nạp mở rộng phổ thông ở chỗ, xác định
được mối quan hệ tất yếu giữa nguyên nhân và kết quả, giữa cái chung và cái riêng,
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên. Mức độ tin cậy trong kết luận của suy luận quy nạp
khoa học không phụ thuộc vào các điều kiện như đối với suy luận quy nạp phổ thông,
mà phụ thuộc vào việc xác định được mối quan hệ nhân – quả, hiện tượng – bản chất,
cái chung – cái riêng.

Ví dụ: Tam giác (3 cạnh, tổng các góc bằng 180o, mối liên hệ giữa cạnh và góc)
có tổng số đo các góc là (3 – 2) x 180o = 180o.

Tứ giác có tổng số đo các góc là (4 – 2) x 180o = 360o.

Ngũ giác có tổng số đo các góc là (5 – 2) x 180o = 5400.

Tam giác, tứ giác, ngũ giác thuộc nhóm đa giác, có mối liên hệ giữa các cạnh
và góc.

Tất yếu tổng góc là (số cạnh - 2) x 180o.

Kết luận, tổng các góc của đa giác = [(số cạnh của đa giác) – 2] x 180o.

Trong khoa học, đặc biệt trong toán học và các khoa học thực nghiệm, người ta
áp dụng phương pháp quy nạp khoa học rất phổ biến. Cơ sở chủ yếu của suy luận này
là mối quan hệ nhân - quả giữa các sự vật, hiện tượng. Đặc trưng quan trọng nhất của
mối quan hệ nhân - quả là mọi sự vật đều có nguyên nhân của nó và chính nó lại là
nguyên nhân của các sự vật hiện tượng khác.

Quy nạp khoa học dựa trên cơ sở thiết lập, phát hiện các quan hệ nhân quả và
đi tới kết luận chung chắc chắn cho cả lớp đối tượng từ khảo sát một số đối tượng
trong một loài.

b. Phương pháp xác định mối quan hệ nhân quả của phép quy nạp (Phương
pháp Stuart Mill)
128

Theo như nhà logic học đồng thời là nhà triết học, nhà kinh tế học, nhà đạo đức
học người Anh John Stuart Mill (1806 – 1873) thì phép quy nạp cũng chính là phép
truy tìm quan hệ nhân quả1. Phép quy nạp đó chủ yếu sử dụng các phương pháp sau
đây:

(1). Phương pháp tương đồng

Phương pháp tương đồng (còn gọi là phương pháp giống nhau duy nhất) là
phương pháp quy nạp khoa học dựa trên cơ sở phát hiện đặc điểm giống nhau trong
sự khác biệt. Trong quan sát, thí nghiệm, người ta phát hiện sự lặp lại của một hiện
tượng khi điều kiện thay đổi khác nhau. Từ đó cho thấy, điều kiện lặp lại đó có thể là
nguyên nhân của hiện tượng đang nghiên cứu.

Khái quát:

Với hoàn cảnh ABCD thì xuất hiện hiện tượng M.

Với hoàn cảnh AEFG thì xuất hiện hiện tượng M.

Với hoàn cảnh AIKL thì xuất hiện hiện tượng M.

Vậy, có thể A là nguyên nhân của hiện tượng M.

Ví dụ: Báo Người lao động ngày 13/10/2020 đưa tin: Rạng sáng ngày 13/10,
Bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi tiếp nhận cấp cứu 7 trường hợp người dân ngộ độc
do ăn nấm rừng. Trong đó, có 2 trẻ em và 5 người lớn. Tất cả 7 người đều trong gia
đình ở xã Trà Thanh, huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi). Trước đó, theo khai báo của
anh Hồ Minh Tuệ (25 tuổi, ngụ xã Trà Thanh), vào chiều 12-10, trên đường đi gặt lúa
về, anh thấy rất nhiều nấm mọc ở bìa rừng. Tưởng đây là nấm mối nên anh Tuệ hái
về nấu bữa tối cho cả nhà. Sau khi ăn bữa tối được vài tiếng đồng hồ, tất cả đều có
triệu chứng nôn ói, đau bụng nên được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện Trà

1
Những tư tưởng chủ đạo của John Stuart Mill được tìm thấy trong tác phẩm Hệ thống logic (1843) của ông.
Ông cho rằng, mọi suy diễn và chứng minh, mọi phát hiện chân lý, đều do phép quy nạp và sự giải thích phép
quy nạp tạo nên. Ông đưa ra đặc điểm cơ bản của phép quy nạp là ở chỗ từ cái đã biết suy ra cái chưa biết, tức
là từ chỗ khảo sát một hoặc một số sự vật có thuộc tính nào đó mà suy ra các sự vật cùng loại cũng có thuộc
tính ấy. Ông định nghĩa phép quy nạp là “một hoạt động tâm trí, nhờ đó chúng ta từ chỗ biết một hoặc một vài
sự vật trong tình huống riêng là đúng, sẽ suy đoán ra sự vật tương tự trong mọi tình huống cũng là đúng”. Nhận
thức quy luật nhân quả là “cột trụ chính của khoa học quy nạp”, phép quy nạp là phương pháp phát hiện mối
quan hệ nhân quả. Ông đưa ra 4 phép quy nạp nổi tiếng để làm phương pháp phát hiện mối quan hệ nhân quả.
129

Bồng. Sau đó, các bệnh nhân được chuyển cấp cứu xuống Bệnh viện Đa khoa Quảng
Ngãi.
Chúng ta diễn đạt suy luận trong tin tức trên như sau:
Trong một gia đình ở xã Trà Thanh, huyện Trà Bồng, Quảng Ngãi:
- Người thứ nhất ăn bữa tối có nấm rừng và xuất hiện triệu chứng ngộ độc.
- Người thứ hai ăn bữa tối có nấm rừng và xuất hiện triệu chứng ngộ độc.
…………………………………………….
- Người thứ bảy ăn bữa tối có nấm rừng và xuất hiện triệu chứng ngộ độc.
Vậy, 7 người trong gia đình ở xã Trà Thanh, huyện Trà Bồng, Quảng Ngãi bị
ngộ độc do ăn nấm rừng.
Căn cứ vào sơ đồ chúng ta thấy ngay các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Quảng
Ngãi đã sử dụng phương pháp tương đồng để rút ra kết luận.
(2). Phương pháp khác biệt
Phương pháp khác biệt còn gọi là phương pháp khác biệt duy nhất hay phương
pháp dị biệt là phương pháp quy nạp khoa học dựa trên cơ sở so sánh các trường hợp
hiện tượng nghiên cứu có thể xảy ra hay không xảy ra.

Thực chất, phương pháp này là nghiên cứu các điều kiện giống nhau và khác
nhau, ứng với các trường hợp khác nhau thì hiện tượng cần nghiên cứu có thể xảy ra
hay không xảy ra.

Nếu các điều kiện có chiều hướng lặp lại nhưng chỉ có một điều kiện thay đổi
ứng với sự thay đổi hiện tượng đang nghiên cứu thì có thể kết luận rằng điều kiện
thay đổi đó là nguyên nhân của hiện tượng đang xét.

Phương pháp này được áp dụng khá phổ biến trong thực nghiệm khoa học. Để
kiểm tra một điều kiện có phải là nguyên nhân của một hiện tượng hay không, hãy
duy trì các điều kiện khiến hiện tượng đó đã xảy ra từ điều kiện đang bị nghi vấn. Sau
đó kiểm tra kết quả, nếu thiếu điều kiện đó dẫn đến loại bỏ hiện tượng thì kết luận:
có thể, điều kiện thay đổi là nguyên nhân của hiện tượng nói trên.

Phương pháp này có thể áp dụng một cách không định hướng (quan sát tự nhiên
– với vai trò như nhau của các điều kiện), và có thể áp dụng theo định hướng cho
130

trước (trong phòng thí nghiệm, tạo ra các điều kiện nhân tạo đồng nhất và chỉ cho
phép biến đổi một điều kiện đang nghi vấn).

Khái quát:

Với hoàn cảnh ABC thì xuất hiện hiện tượng N.

Với hoàn cảnh BC thì không xuất hiện hiện tượng N.

Vậy, có thể A là nguyên nhân của hiện tượng N.

Trong lập luận của phương thức này, tiền đề thứ nhất nêu lên các điều kiện giả
định về nguyên nhân của những hiện tượng mà ta nghiên cứu. Nói cách khác, tiền đề
thứ nhất nêu ra các giải pháp lựa chọn. Sau khi loại trừ những điều kiện không phù
hợp với điều kiện đủ của đối tượng nghiên cứu ở tiền đề thứ hai, sẽ còn lại một điều
kiện là nguyên nhân hiện thực của đối tượng nghiên cứu.

Ví dụ: Người ta chọn 10 xạ thủ và chia làm hai nhóm. Mỗi nhóm gồm 5 xạ thủ.
Trước khi vào bắn tại một trường bắn với cùng một thời gian, mỗi người của nhóm
thứ nhất được uống hai chén rượu, còn nhóm thứ hai không được uống. Sau khi bắn,
người ta thấy rằng tỷ lệ đạn trúng bia của nhóm thứ nhất thấp hơn tỷ lệ đạn trúng bia
của nhóm thứ hai rất nhiều.

Có thể diễn đạt suy luận theo sơ đồ sau:


+ Tỷ lệ đạn trúng bia của nhóm thứ nhất thấp do uống rượu.
+ Tỷ lệ đạn trúng bia của nhóm thứ hai cao hơn nhiều do không uống rượu.
Vậy, suy ra rằng, rượu tác động mạnh đến thần kinh của con người.
So với phương pháp tương đồng thì phương pháp khác biệt có nhiều ưu điểm
hơn:

Thứ nhất, có thể tái tạo lại hiện tượng nghiên cứu bằng thí nghiệm, từ đó tin
được (kiểm chứng được) sự đúng đắn của kết luận sơ bộ ban đầu về nguyên nhân của
hiện tượng nghiên cứu.

Thứ hai, phương pháp này chỉ cần với hai lần nghiên cứu.
131

Thứ ba, đôi khi có thể tiên đoán, dự báo được sự tồn tại của điều kiện mà tạm
thời chúng ta chưa biết, nhưng điều kiện đó rất có thể là nguyên nhân của hiện tượng
nghiên cứu.
Vì vậy, phương pháp khác biệt có độ chính xác cao và kết luận thường đáng tin
cậy. Chính bởi vậy, phương pháp này cũng thường được sử dụng để kiểm tra phương
pháp tương đồng để nâng cao tính chính xác của kết luận. Đây gọi là phương pháp
kết hợp, kết hợp giữa phương pháp tương đồng và phương pháp khác biệt.

Có thể diễn đạt phương pháp kết hợp này bằng sơ đồ cụ thể như sau:

Hiện tượng a xuất hiện trong các điều kiện A, B, C.

Hiện tượng a xuất hiện trong các điều kiện A, D, E.

Hiện tượng a xuất hiện trong các điều kiện A, H, K.

Hiện tượng a không xuất hiện trong các điều kiện B, E.

Hiện tượng a không xuất hiện trong các điều kiện D, E.

Hiện tượng a không xuất hiện trong các điều kiện H, K.

Vậy, A có thể là nguyên nhân của hiện tượng a.

Ví dụ: Báo Thanh niên ngày 28/3/2006 đưa tin: “Kết quả một cuộc nghiên cứu
mới đây, Đại học Y khoa Yale (Mỹ) cảnh báo những người ngủ nhiều hoặc ngủ ít sẽ
ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ.

Theo dõi giấc ngủ của 1700 người đàn ông từ 40-70 tuổi trong suốt 15 năm,
nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng, những người ngủ từ 6-8 giờ/đêm có sức khoẻ tốt
nhất. Những người ngủ từ 5-6 giờ/đêm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường gấp 2 lần so
với những người khác và nguy cơ bị bệnh này cao gấp 3 lần ở những người ngủ hơn
8 giờ/đêm.

Suy luận trong tin tức trên có thể được diễn đạt như sau:

Người thứ nhất ngủ từ 6-8 giờ/đêm không có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.

Người thứ hai ngủ từ 6-8 giờ/đêm không có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.
132

…………………………..

Người thứ 800 không ngủ từ 6-8 giờ/đêm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.

Người thứ 801 không ngủ từ 6-8 giờ/đêm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.

……………………………….

Người thứ 1400 ngủ trên 8 giờ/đêm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao.

Người thứ 1401 ngủ trên 8 giờ/đêm có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao.

Như vậy, có thể suy ra rằng: Giấc ngủ liên quan chặt chẽ tới bệnh tiểu đường.
(3). Phương pháp đồng biến
Phương pháp đồng biến hay còn gọi là phương pháp cùng biến đổi, phương
pháp cộng biến được hiểu như sau: Nếu một khi xuất hiện hay biến đổi hiện tượng
(A) dẫn đến sự xuất hiện hay làm biến đổi hiện tượng khác (M) thì hiện tượng thứ
nhất có thể là nguyên nhân của hiện tượng thứ hai.
Sơ đồ cấu tạo:
1. Hiện tượng “a” xuất hiện trong hoàn cảnh ABC.
2. Hiện tượng “a1” xuất hiện trong hoàn cảnh A1BC.
3. Hiện tượng “a2” xuất hiện trong hoàn cảnh A2BC.
Vậy, có thể a là nguyên nhân của hiện tượng A.

Ví dụ: Khi nung thanh sắt trong lò, mỗi lần tăng nhiệt độ của lò lên thì thể tích
của thanh sắt tăng lên và hạ thấp nhiệt độ của lò thì thể tích của thanh sắt cũng giảm.
Do đó, sự tăng hay giảm thể tích của thanh sắt là do sự tăng hay giảm nhiệt độ của lò
nung.
Cụ thể, người ta suy luận như sau:
Thể tích của thanh sắt là V khi nhiệt độ của lò nung là t C.
Thể tích của thanh sắt là V1 khi nhiệt độ của lò nung là t1 C.
Thể tích của thanh sắt là V2 khi nhiệt độ của lò nung là t2 C.
Vậy suy ra, sự tăng hay giảm nhiệt độ của lò nung là nguyên nhân của sự tăng
hay giảm thể tích của thanh sắt.
133

(4). Phương pháp thặng dư

Phương pháp thặng dư còn gọi là phương pháp phần dư hay phương pháp trừ
dư, phương pháp loại trừ được phát biểu như sau: Nếu biết những điều kiện cần thiết
của hiện tượng nghiên cứu, trừ một điều kiện không là nguyên nhân của nó thì điều
kiện bị loại trừ có thể là nguyên nhân của hiện tượng còn lại.

Sơ đồ cấu tạo: Với điều kiện ABCD thì xuất hiện a, b, c, d

Biết A là nguyên nhân của a

Biết B là nguyên nhân của b

Biết C là nguyên nhân của c

Vậy, D là nguyên nhân của d

Ví dụ: Phân tích quang phổ, người ta thấy rằng, mỗi vạch quang phổ ứng với
một nguyên tố hóa học xác định. Trong quang phổ của Mặt Trời người ta thấy có một
vạch màu vàng tươi không ứng với một nguyên tố hóa học nào đã biết. Qua một thời
gian nghiên cứu về chất khí, người ta phát hiện có một vạch quang phổ màu vàng
tươi giống như một vạch quang phổ của Mặt Trời. Đó là sự phát hiện ra nguyên tố
Hêli.

Người ta suy luận như sau:

Các vạch quang phổ màu A, B, C,…X, màu vàng tươi ứng với các nguyên tố
hóa học a, b, c,…x, màu vàng tươi của Mặt Trời.

Vạch quang phổ màu A ứng với nguyên tố hóa học a.

Vạch quang phổ màu B ứng với nguyên tố hóa học b.

Vạch quang phổ màu C ứng với nguyên tố hóa học c.

…………………….

Vạch quang phổ màu X ứng với nguyên tố hóa học x.

Vậy thì, vạch quang phổ màu vàng tươi ứng với vạch quang phổ màu vàng
tươi của Mặt Trời (Hêli).
134

* Nhận xét về suy luận quy nạp khoa học

Quy nạp mở rộng khoa học cho kết luận khái quát và mới hơn tri thức đã biết
từ tiền đề. Nó giúp người nghiên cứu bước đầu hình thành nên những giả thuyết khoa
học. Tuy nhiên, kết luận của phép quy nạp mở rộng khoa học không đảm bảo tính
chính xác tuyệt đối mà vẫn có thể sai lầm. Vì vậy, kết luận của quy nạp mở rộng khoa
học không phải là một luận điểm khoa học đã chứng minh mà là một giả thuyết còn
phải tiếp tục chứng minh bằng lý thuyết và thực tiễn.

2.3. Suy luận tương tự

2.3.1. Suy luận tương tự là gì?

Suy luận tương tự là hình thức suy luận đi từ những điểm tương đồng của hai
đối tượng đến kết luận về một điểm khác có thể tương đồng của hai đối tượng mà
trước đó con người chưa biết.

Dạng thức: A có thuộc tính a, b, c, d

B có thuộc tính a, b, c,

Vậy, B có thể có dấu hiệu d như A

Nếu hai đối tượng A và B có hàng loạt các dấu hiệu giống nhau (a, b, c) thì khi
đối tượng A có dấu hiệu (d), theo phép suy luận tương tự, có thể đoán rằng đối tượng
B cũng có dấu hiệu (d).

Dấu hiệu được suy ra từ phép suy luận tương tự có thể là dấu hiệu hình thức hay
dấu hiệu bản chất, quan hệ chức năng… của đối tượng. Là hình thức của suy luận quy
nạp nên suy luận theo con đường tương tự cũng có thể gặp sai lầm.

2.3.2. Quy tắc của suy luận tương tự

Quy tắc 1: Nếu càng tìm được nhiều điểm tương đồng của hai đối tượng thì kết
luận càng tiệm cận đến chân lý.

Quy tắc 2: Nếu càng tìm được những điểm tương đồng cơ bản thì kết luận càng
tiệm cận đến chân lý.

Quy tắc 3: Nếu những yếu tố tương đồng của hai đối tượng càng trực tiếp liên
quan đến kết luận thì kết luận càng tiệm cận đến chân lý.
135

Cũng như mọi hình thức suy luận logic, suy luận tương tự không phải là kết quả
của việc xây dựng tùy tiện. Nó được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Kinh nghiệm của con người chỉ ra rằng, mỗi sự vật và hiện tượng là một hệ thống
hoàn chỉnh, các dấu hiệu có sự liên quan chặt chẽ với nhau, nằm trong mối quan hệ
tất yếu, chứ không tồn tại biệt lập. Nếu giải thích được mối quan hệ cơ bản giữa các
dấu hiệu thì có thể chuyển từ hiểu biết các dấu hiệu của một đối tượng này sang hiểu
biết các dấu hiệu của đối tượng khác.

2.3.3. Nhận định về suy luận tương tự

Suy luận tương tự có giá trị to lớn trong hoạt động thực tiễn cũng như trong
nhận thức khoa học. Trong cuộc sống, bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân; người nông dân
trồng trọt; đi mua sắm một vật dụng cũng vận dụng phép suy luận này.

Trong khoa học, suy luận tương tự được xem là công cụ không thể thiếu để phát
minh và sáng chế. Nhờ phép loại suy, con người có thể có được những giả thuyết ban
đầu để khám phá và xây dựng nguyên lý.

Ví dụ: Khi chế ra loại thuốc mới, để kiểm chứng tác dụng cũng như liều lượng
chỉ định dùng thuốc, các thí nghiệm lần lượt được tiến hành trên một số động vật như:
chuột, khỉ, đười ươi…

Suy luận tương tự tạo cơ sở cho khoa học phỏng sinh ra đời. Khoa học này đi
tìm kiếm, giải mã các sinh vật trong tự nhiên. Từ đó phỏng theo để tạo ra những
nguyên lý mới, vật liệu mới, đối tượng mới.

Ví dụ như, nghiên cứu kết cấu xây dựng của tổ mối đất để tạo nên những căn
nhà điều hòa nhiệt độ tự nhiên hoàn hảo. Nghiên cứu mắt bướm để chế tạo công nghệ
nanô. Nghiên cứu hoa hướng dương để tìm ra nguyên lý chế tạo pin năng lượng hiệu
quả nhất. Nghiên cứu về tai ruồi để tạo máy trợ thính tốt nhất...

Tuy nhiên, phép suy luận tương tự không mang lại kết luận chắc chắn về mặt
logic. Vì thế, kết luận của suy luận tương tự không được xem là một luận điểm khoa
học chính xác mà chỉ được xem là một giả thuyết có cơ sở mà thôi.
136

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Suy luận là gì? Có mấy loại suy luận cơ bản?


2. Phân biệt suy luận diễn dịch và suy luận quy nạp. Cho ví dụ.
3. Phân biệt suy luận diễn dịch trực tiếp và suy luận diễn dịch gián tiếp. Cho
ví dụ.
4. Trình bày các hình thức suy luận diễn dịch trực tiếp với tiền đề là phán đoán
đơn. Cho ví dụ.
5. Trình bày định nghĩa, cấu trúc, các loại hình và quy tắc chung của tam đoạn
luận đơn. Cho ví dụ tương ứng.
6. Phát biểu và chứng minh các quy tắc riêng của từng loại hình tam đoạn
luận. Cho một ví dụ tương ứng.
7. Tam đoạn luận rút gọn là gì? Làm thế nào để khôi phục nó về dạng đầy đủ?
Cho ví dụ.
8. Trình bày sơ đồ của tam đoạn luận có điều kiện, tam đoạn luận lựa chọn.
Nêu ví dụ minh họa cho từng trường hợp.
9. Trình bày sơ đồ tam đoạn luận phức tiến, tam đoạn luận phức lùi thoái, và
nêu ví dụ minh họa cho từng trường hợp.
10. Trình bày về định nghĩa, dạng thức của suy luận quy nạp. Cho ví dụ.
11. Phân biệt suy luận quy nạp hoàn toàn và suy luận quy nạp không hoàn toàn.
Cho ví dụ.
12. Thế nào là suy luận quy nạp mở rộng phổ thông? Viết dạng thức và cho ví
dụ.
13. Thế nào là suy luận quy nạp khoa học? Trình bày các phương pháp Stuart
Mill để xác định mối liên hệ nhân quả của phép quy nạp. Cho ví dụ với từng phương
pháp.
14. Trình bày định nghĩa và dạng thức của phép loại suy. Phân tích các điều
kiện để phép loại suy cho kết luận có độ tin cậy cao.
15. Hãy thực hiện phép đổi chỗ, đổi chất, đổi chỗ kết hợp đổi chất, suy luận dựa
trên hình vuông logic đối với các tiền đề là các phán đoán sau:
137

a. Cá sống dưới nước.

b. Nước không phải là chất rắn.

c. Có những loài hoa là hoa hướng dương.

d. Cây xanh không thể sống thiếu ánh sáng.

e. Một số loài thủy sản không sống được ở môi trường nước ngọt.

f. Ong thường sống theo đàn.

g. Hầu hết loài kiến đều không có cánh.

h. Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.

i. Tất cả các công dân đều phải tuân thủ pháp luật.

j. Được đến trường là quyền của mọi trẻ em.

k. Mọi người Việt Nam đều yêu tổ quốc

l. Một số nhà khoa học là giáo sư

m. Có sinh viên không học giỏi ngoại ngữ.

n. Đấu tranh giai cấp là quy luật của xã hội có giai cấp.

16. Hãy xây dựng một tam đoạn luận đơn hợp logic với các khái niệm đã cho
sau đây:

a. Giảng viên, giáo sư, nhà khoa học.

b. Nhà khoa học, nhà quản lý, giảng viên.

c. Người lao động, nông dân, trí thức.

d. Sinh viên, người thành phố này, học logic.

e. Sinh viên, người đi làm, người đi học.

f. Logic học, khoa học, khoa học xã hội.

g. Nhà thơ, nhà văn, người lao động.

h. Giáo viên, nhà thơ, nhà văn.

k. Ca sĩ, người, nhạc sĩ.


138

m. Thanh niên, sinh viên, người đi học.

n. Người trung thực, người dũng cảm, thanh niên.

o. Kẻ cơ hội, người chân chính, người theo đuổi thành tích.

p. Tư duy sáng tạo, tư duy phản biện, sinh viên.

17. Các tam đoạn luận đơn sau đây có hợp logic không? Vì sao?

a. Học sinh phải làm bài tập về nhà. Em này làm bài tập về nhà. Vậy em này
là học sinh.

b. Người Việt Nam yêu hòa bình. Người Việt Nam yêu nước. Vậy người yêu
nước cũng là người yêu hòa bình.

c. Người có thân nhiệt tăng là người bị bệnh. Người này không có thân nhiệt
tăng. Vậy, người này không bị bệnh.

d. Mọi kiến thức khoa học đều bổ ích. Mà điều này không phải là kiến thức khoa
học. Cho nên, điều này không bổ ích.

e. Kim loại có khả năng dẫn điện. Sắt là kim loại. Vậy, sắt có khả năng dẫn điện.

f. Nấm là thực vật. Một số loài nấm có chất độc. Vậy có loài thực vật có chất độc.

g. Tre chỉ ra hoa một lần. Tre là cây lâu năm. Vậy, cây lâu năm chỉ ra hoa một lần.

h. Động vật có vú đều có phổi. Động vật này không có phổi. Vậy, động vật này không
phải là động vật có vú.

i. San hô chỉ sống ở môi trường nước mặn. San hô không phải là thực vật. Vậy, có
sinh vật sống ở nước mặn không phải là thực vật.

k. Mọi hình chữ nhật là hình bình hành. Mọi hình vuông là hình chữ nhật. Vậy một
số hình vuông là hình bình hành.

l. Tất cả các góc nội tiếp dựa trên đường kính là góc vuông. Góc nội tiếp đã cho dựa
trên đường kính. Vậy góc nội tiếp đã cho là góc vuông.

m. Mọi số tự nhiên đều không âm. Mọi số âm đều là số thực. Vậy, mọi số thực không
là số tự nhiên.
139

n. Chế tài là phản ứng của nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Trong khi
đó, các hành vi vi phạm pháp luật đều ảnh hưởng không tốt tới xã hội. Vì thế, mọi
hành vi ảnh hưởng không tốt đến xã hội đều phải bị chế tài.

17. Tam đoạn luận kiểu EAE đúng ở hình nào và sai ở hình nào? Tại sao? Xây
dựng một tam đoạn luận hợp logic theo kiểu EAE.

18. Tam đoạn luận kiểu EIO đúng ở hình nào và sai ở hình nào? Tại sao? Xây
dựng một tam đoạn luận hợp logic theo kiểu EIO.

19. Chứng minh giá trị logic kiểu AII và cho ví dụ minh họa.

20. Hãy phân tích các tam đoạn luận rút gọn sau đây và khôi phục chúng thành
những tam đoạn luận hoàn chỉnh. Những tam đoạn luận này có hợp logic không? Vì
sao?

a. Một số người lao động là công nhân, cho nên, có người lao động không phải
là trí thức.

b. Hoa thích mặc đẹp, bởi vì Hoa là phụ nữ.

c. Đại đa số sinh viên lớp ta đều sinh ra ở nông thôn, cho nên, chắc hẳn An cũng
sinh ra ở nông thôn.

d. Anh Nam không phải là nhà bác học nên anh Nam không phải người đãng trí.

e. Đồ cay thì ăn được vì gừng thì cay.

f. Sứ không dẫn điện vì sứ không phải là kim loại.

g. Cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh
xâm lược, cho nên, thất bại của đế quốc Mỹ là tất yếu.

h. Chúng ta nhất định thắng lợi vì sự nghiệp của chúng ta là chính nghĩa.

21. Hãy phục hồi các tam đoạn luận đơn rút gọn sau đây (nếu có thể):

a. MoP, SoP b. SiM, SiP c. SeM, SeP d. PaM, SoP.

e. PoM, SiP f. MaP, SoP. g. MiP, SoP h. PeM, SeP.

i. MiP, SaP k. SoM, SoP l. SaM, SeP m. MoS, SoP

n. MeS, SeP o. SoM, SoP. p. MaS, SiP q. MaP, SiP.


140

22. Những suy luận sau đây có hợp logic không? Tại sao?

a. Nếu không có một thế giới quan và phương pháp luận khoa học thì sẽ không
học tập tốt và không thể trở thành nhà chuyên môn giỏi. Anh Nam có thể học tập tốt
hoặc trở thành nhà chuyên môn giỏi. Vậy anh Nam có thế giới quan và phương pháp
luận khoa học.

b. Có phương pháp học tập đúng đắn và chăm chỉ thì kết quả học tập tốt. Sinh
viên này không chăm chỉ nhưng kết quả học tập tốt. Vậy sinh viên này có phương
pháp học tập đúng đắn.

c. Nếu nghệ sĩ SAM không trình diễn hay số vé bán ra ít hơn 50 vé thì đêm diễn
sẽ bị hủy bỏ và ông bầu rất buồn. Nếu đêm diễn bị hủy bỏ thì phải trả tiền vé lại cho
người xem. Nhưng tiền vé đã không được trả lại cho người xem. Vậy, nghệ sĩ SAM
đã trình diễn.

d. Nếu một số chia hết cho 4 thì nó chia hết cho 2, và nếu một số chia hết cho 6
thì nó cũng chia hết cho 2. Số này chia hết cho 4. Vậy, số này chia hết cho 2.

e. Số 3 là số lẻ. Tất cả số lẻ đều là số tự nhiên. Tất cả số tự nhiên đều là số hữu


tỉ; Tất cả số hữu tỉ đều là số thực. Do đó, số 3 là số thực.

f. Trong tam giác ABC có góc A nhọn hoặc góc B nhọn. Tam giác ABC có góc
A nhọn. Vậy tam giác ABC có góc B không nhọn.

g. Các tam giác hoặc có góc nhọn hoặc có góc tù hoặc có góc vuông. Tam giác
ABC không có góc nhọn. Vậy, tam giác ABC có góc tù hoặc góc vuông.

h. Các tam giác hoặc có góc nhọn hoặc có góc tù hoặc có góc vuông. Tam giác
ABC có góc nhọn. Vậy, tam giác ABC không có góc tù cũng không có góc vuông.

i. Nếu người quản lý công ty X mà tốt thì nhân viên đã không vi phạm quy định
của công ty. Trong thực tế, nhân viên của công ty X thường xuyên vi phạm quy định
công ty. Chứng tỏ người tổ chức quản lý công ty chưa tốt.

k. Nếu đất nước có chiến tranh thì thanh niên phải thi hành nghĩa vụ quân sự và
nếu đất nước không có chiến tranh thì thanh niên cũng phải thi hành nghĩa vụ quân
sự. Như vậy, đất nước dù có hay không có chiến tranh thì đằng nào thanh niên cũng
phải thi hành nghĩa vụ quân sự.
141

23. Hãy phân tích phương pháp thiết lập mối liên hệ nhân quả trong các suy
luận sau đây và trình bày sơ đồ cấu tạo của suy luận đó:

a. Covid-19 đang gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của các bác sĩ cấp cứu,
theo kết quả thăm dò được báo cáo tại cuộc họp thường niên của Trường Cao đẳng
Bác sĩ Cấp cứu Mỹ (ACEP).

Trong một nhóm đại diện toàn quốc gồm 862 bác sĩ cấp cứu Mỹ, 87% cho biết
cảm thấy căng thẳng hơn kể từ khi đại dịch bắt đầu và 72% cho biết bị kiệt sức nhiều
hơn. Hơn 80% quan tâm đến sức khỏe và sự an toàn của chính họ cũng như sự an
toàn của gia đình và bạn bè của họ, xung quanh đối với Covid-19. Gần một nửa cho
biết họ không thoải mái khi tìm kiếm các dịch vụ sức khỏe tâm thần, 73% cho biết bị
kỳ thị khi tìm kiếm các dịch vụ này tại nơi làm việc của họ và 57% cho biết họ sẽ lo
lắng về công việc của mình nếu họ điều trị sức khỏe tâm thần. (Theo
https://nhandan.com.vn/khoa-hoc/tong-hop-nhung-nghien-cuu-moi-nhat-ve-virus-
sars-cov-2-623050/, ngày 03/11/2020)

b. Bằng cách sử dụng phương pháp đo lường bằng vệ tinh, các nhà khoa học
đến từ Viện Hải dương học ở California đã tiến hành đo độ phản chiếu ánh sáng của
các tảng băng vào không gian. Kết quả cho thấy các lớp băng đang ngày càng mỏng
và trở nên sẫm màu hơn, gấp từ 2-3 lần so với dự đoán trước đó. Nghiên cứu cũng
cho thấy độ tối của các lớp băng tại Bắc Cực cũng tăng lên 8% so với giai đoạn 1979
và 2011.

Chuyên gia Ian Eisenman giải thích việc băng tan nhanh vào mùa hè đã khiến
băng trở nên mỏng hơn cũng như để lộ những vùng nước màu đen của đại dương bên
dưới. Lớp băng càng dày, màu càng trắng thì mức độ phản chiếu càng mạnh, thậm
chí mạnh gấp đôi tầng băng mỏng và gấp 10 lần mặt nước, và lượng nhiệt tỏa lên sẽ
nhiều hơn. Do đó, khi tầng băng trở nên mỏng đi hay tan thành nước, sức phản chiếu
ánh sáng sẽ giảm và Trái Đất sẽ phải hấp thu nhiều năng lượng Mặt Trời hơn. Các
chuyên gia kết luận tan chảy và hóa đen băng Bắc Cực vừa là nguyên nhân vừa là hệ
quả của hiện tượng Trái Đất ấm lên. Các núi băng ở Bắc Cực đang tan chảy với tốc
độ chóng mặt, kéo theo mực nước biển dâng cao, thu hẹp môi trường sống của các
142

loài sinh vật tại đây và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân ven
biển. (Theo http://trithuckhoahoc.vn/?tabid=303&NDID=36963, ngày 13/1/2021)

c. Trong một chương trình hợp tác giữa Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia
(NHRI) và Trung tâm Nghiên cứu Y tế Dự phòng thuộc Học viện Y khoa Quốc phòng
(NDMC), để xác minh tiềm năng của kháng thể trong việc điều trị Covid-19, một
nhóm nghiên cứu đã tiến hành thí nghiệm đối với các tế bào bị lây nhiễm virus SARS-
CoV-2 và thấy rằng khả năng kháng thể ức chế tế bào bị nhiễm virus SARS-CoV-2
là rất rõ rệt. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã triển khai giai đoạn thí nghiệm trên động
vật. Sau khi khiến chuột Hamster bị lây nhiễm virus SARS-CoV-2 (mỗi nhóm 5 con),
nhóm nghiên cứu đã lần lượt tiến hành điều trị bằng kháng thể Mab-X hoặc Mab-Y.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, trọng lượng của chuột Hamster không được điều trị
bằng kháng thể đã giảm đi rõ rệt, sức hoạt động cũng theo đó giảm xuống; còn đối
với chuột Hamster được điều trị bằng kháng thể thì trọng lượng và sức hoạt động đều
không có ảnh hưởng rõ rệt. Quan trọng hơn, những con chuột Hamter vốn bị nhiễm
SARS-CoV-2 có lượng virus rất cao trong phổi, còn chuột Hamster được điều trị bằng
kháng thể thì lượng virus trong phổi đã giảm xuống 100 lần, hiệu quả rất đáng kinh
ngạc. Từ kết quả thí nghiệm có thể thấy, các kháng thể Mab-X và Mab-Y có tiềm
năng điều trị Covid-19. Đây cũng là một trong số ít những thuốc kháng thể trên thế
giới đã thông qua thí nghiệm trên động vật để chứng minh hiệu quả điều trị Covid-
19. (Theo thông tin trên trang
https://vn.taiwantoday.tw/news.php?unit=462&post=182274c, ngày 30/07/2020).

d. Ở Việt Nam, có nhiều tác giả đã thực hiện các nghiên cứu về chất lượng đào
tạo như: Nguyễn Đình Thọ & cộng sự (2008) trên cơ sở ứng dụng mô hình 3P của
Bigg (1999), ứng dụng và hiệu chỉnh mô hình của Yourng & cộng sự (2003) đã đo
lường kiến thức thu nhận của sinh viên khối ngành kinh tế tại các trường đại học trên
địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có tác động rất mạnh từ năng
lực giảng viên đến động cơ học tập của sinh viên và kiến thức thu nhận của sinh viên,
động cơ học tập của sinh viên cũng tác động mạnh tới kiến thức thu nhận. Kết quả
chỉ ra rằng, năng lực giảng viên càng cao thì tác động đến động cơ học tập của sinh
viên càng mạnh. (Theo http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/nghien-cuu-ve-
143

dong-co-hoc-tap-cua-sinh-vien-tai-cac-truong-dai-hoc-viet-nam-302680.html, vào
ngày 2/2/2019)

e. Trong một cuộc điều tra thử nghiệm thú vị, các nhà nghiên cứu phát game
console cho các học sinh học tốt ở trường. Sau bốn tháng, nghiên cứu cho thấy các
em đều dành nhiều thời gian chơi game hơn là làm bài tập. Và điểm số của các em
giảm khoảng 5% - là không nhỏ trong vòng bốn tháng. Trong một nghiên cứu khác,
trẻ em phải học một số từ vựng. Một tiếng sau, một số em được chơi game đua ô tô.
Hai tiếng sau, các em đi ngủ. Sáng hôm sau, những em không chơi game nhớ khoảng
80% bài học, còn các em chơi chỉ nhớ được 50%. Các tác giả của nghiên cứu phát
hiện ra chơi game làm ảnh hưởng tới giấc ngủ và khả năng nhớ của các em. (Theo
https://www.bbc.com/vietnamese/world-55017323, ngày 21/11/2020)

f. Nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ cho thấy trẻ em được sinh ra
từ những bà mẹ sống trong vùng ô nhiễm không khí sẽ có chỉ số IQ (chỉ số thông
minh) thấp hơn so với những trẻ được sinh ra trong khu vực không khí trong lành.

Các nhà nghiên cứu đã tiến hành với hơn 1.005 trẻ em tại bang Tennessee, Mỹ.
Kết quả cho thấy việc tiếp xúc với các hạt ô nhiễm không khí nhỏ ngay từ khi còn
trong bụng mẹ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của não, thậm chí còn làm suy giảm
chỉ số IQ của trẻ. Theo các nhà khoa học: Các hạt bụi độc hại có thể đi qua nhau thai,
gây tổn thương não trực tiếp. Trẻ mới biết đi sống ở khu vực ô nhiễm cao được phát
hiện có chỉ số IQ trung bình thấp hơn 2,5 điểm và thấp hơn tới 6,8 điểm vào thời điểm
chúng 4 tuổi so với những đứa trẻ sống ở khu vực không khí trong lành. (Theo
https://suckhoedoisong.vn/iq-thap-do-duoc-sinh-ra-o-khu-vuc-o-nhiem-khong-khi-
n160485.html, ngày 16/07/2019)

g. Sau khi nhận được câu hỏi từ một số bạn về việc việc mạng máy tính bị báo
lỗi chấm than vàng, quản trị mạng đã hướng dẫn cách khắc phục như sau:
Trước tiên, các bạn hãy thử bằng cách rút đầu dây mạng ra và cắm lại xem hiện
tượng lỗi có hết hay không. Chú ý rằng khi cắm đầu dây mạng, sẽ có 2 đèn tín hiệu
nhỏ màu vàng ở trên cổng mạng, khi cả 2 đèn này nháy nghĩa là có tín hiệu Internet.
Một trong những nguyên nhân gây ra lỗi nữa là đầu dây mạng bị lỏng, hoặc các đầu
dây lõi bên trong bị tuột. Với trường hợp này, các bạn chỉ cần bấm lại đầu dây mạng
là được. Một chi tiết nữa không được phép bỏ qua là kiểm tra xem modem, switch...
144

có bị nóng quá hay không? Trong trường hợp này thì chúng ta nên tắt các thiết bị đó
đi, chờ khoảng 5 - 10 phút rồi hãy bật lên. Khi đã thực hiện tất cả các kiểm tra về
phần cứng của máy tính (bao gồm dây mạng kết nối, modem, switch, đường dây...)
đều ổn cả thì bạn hãy kiểm tra phần thiết lập mạng của máy tính (Có thể kiểm tra
bằng 4 cách: 1. Reset Winsock để sửa lỗi mạng bị chấm than; 2. Làm mới địa chỉ IP;
3. Chạy Troubleshooter tích hợp sẵn để sửa lỗi mạng chấm than; 4. Reset TCP/IP).
(Theo https://quantrimang.com/huong-dan-sua-loi-mang-may-tinh-bi-cham-than-
vang-117108, ngày 4/1/2020)
h. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Immunology của Đại học Yale
tìm thấy chế độ ăn keto có thể bảo vệ khỏi nhiễm cúm ở chuột.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm, hai nhóm chuột phơi nhiễm với virut cúm -
một nhóm được cho ăn chế độ ăn keto (90% chất béo, 9% protein, 1% carbohydrate)
trong 7 ngày trước khi tiếp xúc. Trong khi nhóm thứ hai được nuôi theo chế độ ăn
chow tiêu chuẩn (18% chất béo, 58% carbohydrate, 24% protein). Kết quả cho thấy
các động vật trong chế độ ăn keto ít bị nhiễm bệnh hơn và chứng minh khả năng sống
sót cao hơn so với nhóm đối chứng ăn chế độ ăn bình thường. (Theo
https://www.vista.gov.vn/news/khoa-hoc-y-duoc/nghien-cuu-tren-chuot-cho-thay-
che-do-an-keto-chong-lai-benh-cum-1018.html ngày 28/11/2019).
24. Ba sinh viên A, B, C bị nghi là đã gian lận trong bài thi. Khi bị thầy hỏi thì
các sinh viên này đã trả lời như sau: A nói: “Thưa thầy, B đã chép bài và C vô tội”.
B nói: “Thưa thầy, nếu A có tội thì C cũng có tội". C nói: “Thưa thầy, em vô tội”.
Nếu A đã nói thật và B nói dối thì ai vô tội và ai đã chép bài?
25. Một trong năm bạn Hoa, Mai, Lan, Cúc, Trúc đã lau bảng cho thầy giáo.
Khi được hỏi ai đã lau, thầy nhận được các câu trả lời:
Hoa: Chỉ có thể hoặc là bạn Mai, hoặc là bạn Lan.
Mai: Không phải em, và cả bạn Cúc cũng vậy.
Lan: Cả hai bạn Hoa và bạn Mai đều nói không đúng.
Cúc: Không phải như lời bạn Lan đâu, ít nhất có một người nói đúng.
Trúc: Có 3 trong 4 bạn Hoa, Mai, Lan, Cúc đã nói đúng.
Thầy giáo nhận thấy Trúc nói hoàn toàn đúng. Hỏi, ai đã lau bảng cho thầy?
145

26. Tổ Văn của một trường trung học có 5 người: thầy Hùng, thầy Quân, cô
Vân, cô Hạnh, cô Cúc. Kỳ nghỉ hè chỉ có hai suất đi tham quan nên các thầy cô đều
nhường nhau. Thầy hiệu trưởng yêu cầu mỗi người cho một ý kiến. Kết quả các ý
kiến như sau:
- Thầy Hùng: Tôi và thầy Quân đi tham quan.
- Thầy Quân: Thầy Hùng và cô Vân đi tham quan.
- Cô Vân: Thầy Quân và cô Hạnh đi tham quan.
- Cô Hạnh: Tôi và cô Cúc đi tham quan.
- Cô Cúc: Thầy Hùng và cô Hạnh đi tham quan.
Cuối cùng thầy hiệu trưởng chọn ý kiến của cô Cúc, vì theo ý kiến này các ý
kiến còn lại đúng một phần sai một phần. Hãy xác định những ai đã đi tham quan
trong kỳ nghỉ hè.
146

Chương 6
GIẢ THUYẾT, CHỨNG MINH VÀ BÁC BỎ NGỤY BIỆN

1. Giả thuyết

1.1. Giả thuyết là gì?

Giả thuyết (hypothèse) là một hình thức của tư duy được nêu ra để tạm thời giải
thích một hiện tượng tự nhiên hay xã hội nào đó và chưa được kiểm nghiệm, chứng
minh.

Trong các tài liệu khoa học, thuật ngữ giả thuyết thường được hiểu theo hai
nghĩa: một là, để chỉ bản thân những giả định về nguyên nhân của các hiện tượng cần
nghiên cứu và giải thích; hai là, để chỉ quá trình tư tưởng dẫn đến việc xây dựng các
giả định về nguyên nhân của các hiện tượng cần nghiên cứu và việc chứng minh các
giả định đó.

Logic học quan tâm tới nghĩa thứ hai của giả thuyết. Logic học nghiên cứu quá
trình tư duy dẫn tới việc xây dựng những giả định giải thích về nguyên nhân của hiện
tượng nghiên cứu và quá trình chứng minh cho giả định đó.

Mục đích của tất cả hoạt động nhận thức của con người là đạt tới chân lý khách
quan; và sử dụng chân lý khách quan đó vào việc cải tạo, biến đổi thế giới cho phù
hợp với nhu cầu tồn tại. Chân lý khách quan chỉ xuất hiện trong tư duy dưới dạng các
quy luật khách quan khi con người hướng tư duy vào nhận thức các sự kiện, hiện
tượng, biến cố đang xảy ra.

Như vậy, giả thuyết là một hình thức phát triển của nhận thức bằng cách thông
qua các dữ kiện và tri thức đã biết mà giải thích tính chất, nguyên nhân của sự kiện,
hiện tượng đang quan sát. Bản chất của giả thuyết là sự phát triển của tư duy từ chỗ
chưa nhận thức được đến chỗ nhận thức được; từ chỗ chưa nhận thức đầy đủ, chính
xác đến chỗ nhận thức đầy đủ, chính xác hơn.

Giả thuyết thể hiện sự vận động, phát triển của tư duy; thể hiện khát vọng khám
phá tri thức mới về thế giới.
147

Đặc trưng cơ bản của giả thuyết:

Thứ nhất, giả thuyết là hình thức hoạt động có mục đích của tư duy. Trong cuộc
sống cũng như trong khoa học, con người trên cơ sở những hiểu biết trước đó luôn
phải lựa chọn, quyết định trước một vấn đề mới xuất hiện. Song không phải bao giờ
hiểu biết của con người cũng đầy đủ, chính xác. Bởi vậy, tư duy đưa ra dự báo về
những khả năng (tập hợp những giả định) nhằm định hướng cho hoạt động thực tiễn.

Thứ hai, mọi giả thuyết đều được xây dựng trên cơ sở liên kết những cái đã biết
với những cái chưa biết. Như vậy, trong mỗi giả thuyết bao giờ cũng bao hàm những
tri thức mang tính chân lý, đồng thời bao hàm cả những tri thức mang tính trực quan.
Trên cơ sở liên kết hai loại tri thức trên, giả thuyết còn bao hàm cả loại tri thức thứ
ba - là những giả định về bản chất, nguyên nhân và khuynh hướng vận động của hiện
tượng cần nghiên cứu. Về nguyên tắc, những giả định này chỉ là cái “có thể”, mức độ
tin cậy phải chứng minh kiểm nghiệm cả bằng lý thuyết và thực tiễn.

Thứ ba, không phải mọi giả thuyết (tập hợp những giả định) đều trở thành chân
lý mà chỉ những giả thuyết đã qua quá trình thẩm định lâu dài, khó khăn, phức tạp.

1.2. Cấu trúc của giả thuyết

Giả thuyết luôn luôn được cấu trúc dưới dạng một phán đoán tình thái, một phán
đoán khả năng (xác suất): S có thể P. Như vậy, giá trị logic của giả thuyết chưa được
xác định; vì nó mới chỉ được chứng minh một phần bằng các dữ kiện đã có. Giả thuyết
có thể đúng, có thể sai. Khi giả thuyết đạt giá trị luôn đúng thì giả thuyết trở thành
chân lý.

Tiêu chuẩn để xác định giá trị đúng của giả thuyết là nó giải thích được tính tất
yếu khách quan của các sự kiện, hiện tượng; mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện,
hiện tượng; tính không mâu thuẫn trong tư duy và sự phù hợp giữa tư duy và thực
tiễn.

Việc xây dựng giả thuyết là một quá trình logic phức tạp. Trong đó phải sử dụng
các hình thức suy luận khác nhau, có liên quan chặt chẽ với giả định. Các giả định
được xây dựng để giải thích các hiện tượng nghiên cứu. Giả định thể hiện dưới hình
thức một phán đoán hay một hệ thống các phán đoán về các sự kiện riêng biệt có liên
148

hệ qua lại với nhau, biểu thị tri thức giả định đầu tiên về các nguyên nhân hay các
thuộc tính của hiện tượng nghiên cứu.

Như vậy, khi xây dựng giả thuyết, thường xảy ra một trong hai trường hợp.
Trường hợp riêng, giả thuyết xuất hiện khi so sánh hai sự việc riêng lẻ. Trong trường
hợp này dùng phương pháp tương tự để xây dựng giả thuyết. Trường hợp chung, giả
thuyết xuất hiện khi thực hiện suy lý quy nạp hàng loạt các sự kiện. Trong trường hợp
này dùng phương pháp quy nạp để suy ra kết luận từ hàng loạt dữ kiện thu nhập.

Việc xây dựng các giả thuyết trên cơ sở những giả định xuất hiện là do phân
tích các dữ liệu thực tế thu thập được. Chúng không phải là những phỏng đoán mơ
hồ hay tưởng tượng, mà là sự khái quát có tính logic.

Nhiệm vụ của nhận thức là đạt tới chân lý khách quan. Giả thuyết mới chỉ là
giai đoạn đầu chưa hoàn thiện hoặc hoàn thiện một phần, là một trong nhiều bước của
quá trình nhận thức chân lý. Để chuyển thành tri thức hoàn toàn đáng tin vậy, giả
thuyết sau khi xây dựng phải được tiến hành kiểm tra bằng thực tiễn. Quá trình kiểm
tra giả thuyết được thông qua các thủ thuật, thao tác logic khác nhau; theo các bước
xác định; cuối cùng đi đến công nhận hay bác bỏ giả thuyết.

Sự kiện đã, Quan sát Đặt giả Kiểm tra Hoàn thiện giả thuyết
đang xảy ra thuyết giả thuyết
(Luận điểm đáng tin cậy)
thu nhập

Loại bỏ

1.3. Các loại giả thuyết

1.3.1. Căn cứ vào phạm vi đối tượng nghiên cứu

- Giả thuyết chung là giả định nêu lên các nguyên nhân, quy luật và tính quy
luật của một lớp sự vật hay hiện tượng. Giả thuyết chung thường được đưa ra nhằm
giải thích các hiện tượng mang tính phổ quát trong một phạm vi thời gian - không
gian rộng lớn.

Ví dụ: Giả thuyết về sự hình thành sự sống, giả thuyết về nguồn gốc loài người,
giả thuyết về sự hình thành các thiên thể…
149

- Giả thuyết riêng là giả định nêu lên nguồn gốc, nguyên nhân, quy luật của một
bộ phận hay đối tượng riêng biệt; một phương diện, khía cạnh riêng lẻ của đối tượng.
Như vậy, giả thuyết riêng thường gắn với các sự vật, hiện tượng cụ thể mang tính cá
biệt.

Ví dụ: Giả thuyết về nguyên nhân sụp đổ Liên bang Xô viết, giả thuyết về
nguyên nhân của một vụ tai nạn giao thông…

Sự phân chia giả thuyết thành giả thuyết chung - riêng chỉ là tương đối. Trong
một giới hạn nhất định của thực tiễn và nhận thức, một giả thuyết có thể được coi là
giả thuyết chung hoặc giả thuyết riêng tùy theo phạm vi, nội dung, quan hệ và vai trò
của nó đối với mục đích hoạt động nhận thức và thực tiễn.

1.3.2. Căn cứ vào mục tiêu nhận thức

- Giả thuyết khoa học là những giả định có sở cứ nhằm giải thích mối liên hệ tất
yếu, tính quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Đặc trưng cơ bản của giả thuyết khoa học là đi sâu vào việc lý giải
cái bản chất, cái quy luật; hướng con người vào việc khám phá bí mật thế giới.

Ví dụ: Giả thuyết về nguyên tử của Democritos, giả thuyết về thủy triều của
Kant,…

- Giả thuyết nghiệp vụ là những giả định tạm thời, có điều kiện được đưa ra ở
giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu phù hợp với những hiện tượng quan sát được;
hệ thống hóa các kết quả theo hướng nghiên cứu để phục vụ cho việc xây dựng giả
thuyết khái quát hơn.

Ví dụ: Để điều tra một vụ án, phải xây dựng rất nhiều các phương án khác nhau.
Mỗi phương án là một khả năng có thể tiếp cận vụ án, cung cấp các thông tin như
mục đích, động cơ phạm tội, có tổ chức hay không có tổ chức… Quá trình tiến hành
các phương án đó có thể từng bước làm sáng tỏ về khả năng phá án.

1.4. Quy trình xác nhận giả thuyết

Giả thuyết bao gồm các giai đoạn cơ bản là nêu giả thuyết (xây dựng giả thuyết)
và kiểm tra giả thuyết (chứng minh, bác bỏ, hoàn thiện giả thuyết). Mỗi giai đoạn
gồm nhiều khâu hay nhiều giai đoạn nhỏ:
150

1.4.1. Xây dựng giả thuyết

+ Phát hiện tình huống có vấn đề:

Trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học,
nguyên nhân nảy sinh một sự kiện hay một vấn đề nào đó tạm thời chưa giải thích
được bằng tri thức đã biết. Như vậy, xuất hiện mâu thuẫn giữa lý thuyết đã có với sự
kiện, xuất hiện một tình huống “có vấn đề”. Đây là bước quan trọng đầu tiên của quá
trình xây dựng một giả thuyết khoa học.

+ Nghiên cứu tình huống có vấn đề:

Giai đoạn này tiến hành thu thập, xử lý các thông tin có liên quan tới hiện tượng
cần nghiên cứu.

Trước hết, phân tích mọi khía cạnh có liên quan trong từng trường hợp xuất hiện
của sự kiện, nhằm tìm ra tất cả tính chất riêng biệt, đặc thù của nó.

Tiếp theo, tổng hợp, liên kết các tri thức có được trên cơ sở phân tích trước đó
theo một hệ thống, nhằm vạch ra mối liên hệ bản chất của sự kiện. Thực chất của
bước tổng hợp là dẫn tới giả thuyết (tập hợp những giả định) về nguyên nhân chưa
biết của sự kiện nghiên cứu.

+ Nêu giả thuyết:

Đây là khâu quyết định trong quá trình xây dựng giả thuyết. Ở khâu này, trên
cơ sở mối liên hệ logic giữa các sự kiện và tình huống có liên quan đến hiện tượng
cần nghiên cứu đã bước đầu được làm sáng tỏ, người ta sử dụng phương pháp quy
nạp để đưa ra các khuynh hướng khả dĩ nhằm tìm kiếm giả thuyết (những giả định về
bản chất, nguyên nhân của sự kiện, hiện tượng). Phương pháp quy nạp giúp chủ thể
khái quát được mối quan hệ giữa các hiện tượng độc lập, cá biệt lại để hình thành nên
phán đoán cái nhiên.

Trên thực tế, việc đưa ra một giả thuyết đòi hỏi rất nhiều các yếu tố tham gia.
Trước hết là hệ thống các tri thức, lý thuyết nền tảng. Thứ hai là các tri thức về kinh
nghiệm và thực nghiệm khoa học cùng những tri thức có được từ quá trình đó. Các
thí nghiệm có vai trò gợi mở rất lớn, cho phép đưa ra dự đoán về giả thuyết. Thứ ba
151

là yếu tố “năng lực trực giác – khoa học”, tức năng lực khái quát, đưa ra giả định –
giả thuyết có tính khuynh hướng.

Ví dụ: Giả thuyết về cấu tạo nguyên tử của Democitos, tại thời cổ đại, đã được
vận dụng để giải thích hầu hết các hiện tượng như bay hơi, hòa tan…

1.4.2. Kiểm tra giả thuyết (chỉnh lý, chứng minh, bác bỏ, hoàn thiện)

Việc kiểm tra các giả thuyết được thực hiện bằng suy lý logic, thông qua so sánh
các hệ quả thu được từ giả thuyết với sự kiện xảy ra trong thực tế. Nếu hệ quả thu
được là phù hợp, thì giả thuyết được sử dụng để xây dựng các giả thuyết mới, hoặc
độ tin cậy của giả thuyết tăng lên. Nếu hệ quả thu được không phù hợp (ít hay nhiều),
thì phải xây dựng, điều chỉnh hay loại bỏ giả thuyết. Sự phù hợp giữa các dữ kiện rút
ra từ giả thuyết với các dữ kiện trong thực tế càng cao thì mức độ tin cậy của giả
thuyết càng lớn, càng tiệm cận đến chân lý. Nhưng giả thuyết vẫn không trở thành
chân lý hay lý thuyết khoa học nếu tính chân lý của nó chưa được chứng minh, xác
nhận một cách đầy đủ.

1.5. Các phương pháp xác nhận giả thuyết

1.5.1. Phương pháp xác nhận trực tiếp (hiệu quả nhất): Trên cơ sở giả thuyết,
các thí nghiệm được tiến hành để kiểm tra, tìm tòi các chứng cứ có liên quan mật thiết
với giả thuyết về hiện tượng nghiên cứu. Từ đó từng bước xác nhận giả thuyết, công
nhận hay loại bỏ.

Ví dụ: Khi xây dựng bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, Mendeleev đã dự
đoán một số nguyên tố hóa học chưa biết. Sau này, từ dự báo định hướng đó mà phát
hiện những nguyên tố còn khuyết trong bảng tuần hoàn. Vậy giả thuyết của ông được
xác nhận.

Ví dụ: Năm 1920, Pôn Dirac - nhà vật lý người Anh - khi giải phương trình cho
điện tử đã tìm ra hai nghiệm: một nghiệm ứng với electron, một nghiệm không phải
là electron. Theo tính toán triết học, ông nhận thấy nó rất giống electron về khối lượng
nhưng mang điện tích khác dấu. Dirac gọi đó là phản electron. Sau này, khoa học đã
chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết đó; và phương trình Pôn Dirac được trao
giải Nobel năm 1933.
152

1.5.2. Phương pháp xác nhận gián tiếp: là thông qua xác nhận hệ quả rút ra từ
nó. Thực chất, phương pháp này là phương thức khẳng định hay phủ định của suy
luận có điều kiện.

Trường hợp 1: Xác nhận tính chân thực của hệ quả dẫn đến khẳng định tính
chân thực của cơ sở (giả thuyết). Trong trường hợp này, việc xác nhận tất cả các hệ
quả của giả thuyết không cho phép kết luận chắc chắn giả thuyết chân thực. Kết luận
chỉ mang tính khả năng (có thể đúng). Bởi vậy, cần hướng tới xác nhận những hệ quả
mang tính bản chất gắn với giả thuyết, và nghiên cứu trên cơ sở nhiều hệ quả với
phạm vi càng rộng lớn thì độ tin cậy càng cao.

Ví dụ, việc chẩn đoán bệnh dựa trên cơ sở các triệu chứng càng chính xác nếu
các triệu chứng đã được kiểm nghiệm qua nhiều lần chẩn đoán trước và điều trị có
kết quả theo sự chẩn đoán đó.

Trường hợp 2: Xác nhận tính không chân thực của hệ quả dẫn đến bác bỏ tính
chân thực của cơ sở (giả thuyết). Bằng con đường kiểm nghiệm, có thể bác bỏ giả
thuyết khi vạch ra tính không tương đồng, không phù hợp với thực tiễn của một trong
những hệ quả rút ra từ giả thuyết. Tuy nhiên, để đảm bảo chắc chắn việc bác bỏ giả
thuyết, cần tiến hành với nhiều hệ quả khác nhau. Bởi lẽ, trên thực tế, từ nguyên nhân
đến kết quả là một quá trình phức tạp với nhiều tác động của nhiều yếu tố và những
điều kiện khác nhau.

1.6. Giả thuyết và lý thuyết khoa học

Mọi nhận thức mới của con người về thế giới, trước khi được chứng minh là
phù hợp thực tế khách quan, đều tồn tại dưới dạng giả thuyết. Điều đó chứng tỏ giả
thuyết là phương thức phát triển của nhận thức. Giả thuyết là khởi điểm của mọi
nghiên cứu khoa học; không có khoa học nào, trong sự phát triển của nó, lại không
bắt đầu từ giả thuyết.

Mối quan hệ giữa giả thuyết và lý thuyết khoa học là mối quan hệ phức tạp, đa
chiều. Giả thuyết là cơ sở dẫn đến lý thuyết khoa học khi nó được xác nhận là chân
thực, nhưng bản thân nó lại chỉ là lý thuyết trong một phạm vi ứng dụng nhất định,
trong một điều kiện nhận thức nhất định. Một lý thuyết khoa học, theo thời gian phát
153

triển của thực tiễn, tự nó trở thành tiền đề cho một giả thuyết mới. Có thể hình dung
quá trình xây dựng và phát triển giả thuyết trong quan hệ với lý thuyết khoa học như
sau:

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người phát hiện những hiện tượng (1). Do
nhu cầu nhận thức, để lý giải hiện tượng thì tư duy phải tiến hành xử lý (phân tích,
tổng hợp) thông tin ban đầu (2). Từ những tri thức có được qua xử lý ban đầu, kết
hợp với những tri thức đã biết một cách logic, cho phép hình thành giả thuyết dự báo
về nguyên nhân, bản chất, quy luật vận động của hiện tượng (3). Trên cơ sở giả thuyết
dự báo, tiến hành chứng minh (công nhận hay bác bỏ) nó một cách khoa học; thông
qua con đường đối chứng với lý thuyết khoa học, cho phép kết luận sơ bộ về tính
chân thực hay giả dối của giả thuyết (4).

Kết quả đó tạo ra hai khả năng. Nếu giả thuyết không mâu thuẫn với các luận
điểm khoa học đã được thừa nhận thì giả thuyết đó được chuyển sang giai đoạn kiểm
nghiệm thực tiễn (5a). Ngược lại, nếu giả thiết mâu thuẫn với luận điểm khoa học thì
nó bị loại bỏ (5b).

Qua kiểm nghiệm thực tiễn, có ba khả năng xảy ra:

+ Nếu giả thuyết chỉ phù hợp với một phần thực tiễn, thì nó cần thiết phải được
điều chỉnh (6a).

+ Nếu giả thuyết trái với thực tiễn thì nó bị loại bỏ (6b).

+ Nếu giả thuyết phù hợp hoàn toàn với chân lý khách quan thì nó trở thành lý
thuyết khoa học (6c).

Đối với khả năng (6a), giả thuyết được chỉnh sửa, rồi lại được kiểm nghiệm thực
tiễn (7). Bước này lặp lại như (5a). Lý thuyết khoa học ra đời quay lại phục vụ thực
tiễn (8). Quá trình nhận thức cứ thế tiếp diễn.

2. Chứng minh

2.1. Chứng minh là gì?

Chứng minh là nhu cầu không thể thiếu được đối với mọi khoa học cũng như
cuộc sống. Để nâng cao chất lượng cuộc sống, con người không ngừng nâng cao nhận
154

thức, hiểu biết của mình lên trình độ lý tính. Nhưng do tính gián tiếp của phản ánh lý
tính, đôi khi có những luận điểm, tư tưởng, lý thuyết đem vận dụng, áp dụng vào thực
tế thì không hiệu quả, mà có tác dụng ngược lại.

Vì vậy, vấn đề đặt ra là trước khi sử dụng một kết luận, một phán đoán hay một
định lý thì đòi hỏi chúng phải được chứng minh. Điều đó cũng có nghĩa, chủ thể bắt
buộc phải tuân thủ quy luật lý do đầy đủ cũng như các quy luật logic khác trong quá
trình nhận thức.

Vậy, chứng minh là thao tác logic để xác định một luận điểm là chân lý bằng
những luận cứ chân thực và luận chứng hợp lý.

2.2. Cấu trúc của phép chứng minh

Chứng minh có nhiều phương thức khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, cơ sở
và điều kiện cụ thể. Song mọi phép chứng minh đều có chung cấu trúc gồm ba thành
phần liên quan chặt chẽ với nhau:

- Luận đề: là thành phần đầu tiên mà giá trị logic của nó cần phải được chứng
minh. Luận đề đặt ra nhiệm vụ cụ thể cho phép chứng minh; trả lời câu hỏi: “Chứng
minh cái gì?”. Luận đề xác định phạm vi và bình diện vấn đề phải chứng minh.

Luận đề có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như: là luận điểm lý luận
khoa học (định lý, công thức toán, lý, hóa…); là một kết luận do khái quát thực tiễn
hoặc do quan sát đem lại; là một phán đoán về thuộc tính, nguyên nhân, quan hệ …
của sự vật, hiện tượng.

Luận đề có thể là một phán đoán đơn giản cũng có thể là một hệ thống quan
điểm.

- Luận cứ: là phán đoán hay luận điểm mà tính chân thực của chúng đã được
xác định nên chúng được sử dụng làm căn cứ chứng minh luận đề. Luận cứ chính là
vật liệu xây dựng phép chứng minh lịch sử; trả lời câu hỏi: “Chứng minh dựa vào cơ
sở nào?”.

Các tiền đề là những tri thức, phán đoán được khái quát từ các hoạt động thực
tiễn lặp đi lặp lại. Căn cứ đầy đủ cho tính chân thực của những phán đoán, luận điểm
đó thuộc về thế giới khách quan, và nằm ở hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy,
155

tính chân thực của các tiền đề không đòi hỏi phải chứng minh. Nhưng chúng lại có
thể trở thành luận cứ để chứng minh các luận điểm khác.

Luận cứ có thể là các phán đoán thuộc loại câu định nghĩa trong các khoa học:
là các định lý, công thức, nguyên lý; là những luận điểm được rút ra từ các tiên đề,
định nghĩa.

Luận cứ có thể là các phán đoán về sự thật hiển nhiên (có được bằng cách quan
sát, miêu tả trực tiếp hiện thực). Tuy nhiên, cần chú ý đến tính hai mặt của loại luận
cứ này: Một mặt, chúng là sự thực hiển nhiên nên mang tính hùng biện rõ rệt; thể hiện
mặt mạnh. Mặt khác, chúng là loại phán đoán được trực tiếp khái quát từ con người,
nên chúng phụ thuộc vào lập trường và năng lực con người, phương tiện kỹ thuật.

Luận cứ có thể là một hệ thống các luận điểm khoa học (lý thuyết) mà các khoa
học cụ thể đã khái quát và chứng minh được tính chân thực của chúng.

- Luận chứng: là cơ cấu, là cách thức tổ chức một phép chứng minh, nhằm vạch
ra được mối liên hệ logic tất yếu giữa các luận điểm trong luận cứ, và giữa toàn bộ
luận cứ với luận đề. Luận chứng có thể chỉ là một phép suy luận, cũng có thể là một
chuỗi các suy luận liên tiếp được liên kết lại với nhau theo một trật tự xác định, chi
phối cả về cơ cấu logic và nội dung của các luận điểm chứa trong đó. Muốn có được
một phép chứng minh cho một luận đề, để vạch ra cơ sở logic, căn cứ logic cho giá
trị logic của luận đề đó; thì không chỉ phải tìm được các luận điểm khác nhau làm căn
cứ (luận cứ), mà còn phải biết sắp xếp hay tổ chức các luận điểm hoặc luận cứ một
cách chặt chẽ. Từ đó vạch ra được mối liên hệ logic nội tại để tạo thành một chỉnh
thể, một khối tri thức có hệ thống, đưa tới luận đề một cách tất yếu. Cơ cấu tổ chức,
mối liên hệ logic nội tại đó, trong phép chứng minh, được gọi là luận chứng.

Luận chứng của phép chứng minh nhằm trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng phép
suy luận nào?”.

Vậy, cấu trúc phép chứng minh gồm:

Luận đề là phán đoán mà giá trị logic của nó cần được khẳng định.

Luận cứ là những phán đoán chân thực, đóng vai trò là tiền đề cho quá trình lập
luận, nhằm khẳng định giá trị logic của luận đề.
156

Luận chứng là suy luận đi từ luận cứ (tiền đề) đến luận đề, là sợi dây liên kết
tri thức của luận cứ, thể hiện năng lực lập luận.

Ví dụ 1:

Luận đề: Nhà bà An thuộc hộ nghèo.

Luận cứ:

- Nhà bà An có 2 vợ chồng bà An và 3 đứa con đều chưa đến tuổi lao động, chỉ
có 2 vợ chồng bà An đi làm thuê kiếm tiền nuôi con, thu nhập bình quân 1 người dưới
700 ngàn/1 tháng.

- Nhà bà An có giấy chứng nhận hộ nghèo do ủy ban nhân dân xã nơi bà an cư


trú xác nhận.

Luận chứng: Suy luận diễn dịch gián tiếp với tiền đề là phán đoán phức.

Chú ý: Cần phân biệt căn cứ logic của một luận điểm với căn cứ ngoài logic của
luận điểm ấy. Khi nói căn cứ logic là nhằm nói tới những căn cứ lấy trong số những
tri thức đã định hình trong tư duy, chứ không phải lấy căn cứ từ bên ngoài hiện thực
(sự kiện, hiện tượng) do quan sát mà cảm nhận được. Hoạt động chứng minh là hoạt
động vạch tìm những căn cứ logic của một luận điểm, chứ không phải vạch tìm căn
cứ ngoài logic của nó.

2.3. Phân loại chứng minh

2.3.1. Căn cứ vào mục đích phép chứng minh

Dựa vào mục đích của phép chứng minh, người ta phân thành hai loại: chứng
minh và bác bỏ.

Phép chứng minh mà chủ thể tìm luận cứ và tổ chức luận chứng để vạch ra tính
chân thực của luận đề thì được gọi là chứng minh. Ngược lại, phép chứng minh mà
chủ thể tìm luận cứ và tổ chức luận chứng để vạch ra tính giả dối của luận đề thì được
gọi là bác bỏ. Việc bác bỏ còn bao hàm việc vạch ra những lỗi logic của một phép
chứng minh khác để từ đó khẳng định phép chứng minh ấy là không có sức thuyết
phục và không có giá trị. Phán đoán cần bác bỏ gọi là luận đề của bác bỏ. Các phán
đoán dùng để bác bỏ gọi là luận cứ của bác bỏ.
157

Bác bỏ có ba cách như sau:

(1) Bác bỏ luận đề

- Bác bỏ luận đề trực tiếp: bằng những luận cứ chân thực có nội dung và giá trị
trái ngược với luận đề suy ra rằng luận đề là sai.

Ví dụ: Luận đề: “Tôi không bị sốt đâu”.

Bác bỏ: “Nhiệt độ cơ thể anh mới được đo là 38,5 độ C đấy”.

- Bác bỏ luận đề gián tiếp:

+ Chứng minh luận điểm mâu thuẫn với luận đề là đúng, từ đó suy ra luận đề là
sai. Cơ sở của phương pháp này là quy luật phi mâu thuẫn.

+ Chứng minh hệ quả tất yếu của luận đề là sai thì suy ra luận đề cũng sai. Ta
có: a là luận đề cần bác bỏ, b là hệ quả tất yếu của a. Cơ sở của phương pháp này là
các dạng thức hợp logic của suy luận diễn dịch gián tiếp với tiền đề là phán đoán
phức (Modus tolens).

Luận đề: “Lớp này toàn là học sinh giỏi”. Điều đó có nghĩa, mọi sinh viên của
lớp này đều là học sinh giỏi. Nếu tìm ra một số, thậm chí một sinh viên của lớp học
thuộc loại khá, trung bình, yếu, kém thì chúng ta sẽ bác bỏ luận đề trên.

(2) Bác bỏ luận cứ thông qua phê phán các luận cứ

Khi khẳng định luận đề của mình là đúng đắn, bao giờ người nêu ra luận đề
cũng phải sử dụng các luận cứ để chứng minh. Nếu người phản biện chỉ ra được tính
giả dối hay nghi ngờ luận cứ nào đó sẽ làm cho luận đề bị bác bỏ hoặc phải được
chứng minh bằng luận cứ khác có cơ sở khoa học hơn.

Chẳng hạn, để khẳng định ý kiến của mình là đúng, người nêu ra ý kiến thường
viện dẫn: “Tôi nghe nhiều người nói”.

Luận cứ “Tôi nghe nhiều người nói” là không xác định, không phải cơ sở
khoa học để khẳng định ý kiến vì nhiều người nói là những ai nói (những người đó
có thật không?, những người đó có đủ uy tín, đáng tin cậy trong lĩnh vực này
không?...), hơn nữa việc những người nói đến vấn đề đó nếu có thật vẫn có thể “tam
158

sao thất bản” hoặc mang tính chủ quan, bị quy luật tâm lý, tình cảm chi phối,… Người
nêu ý kiến cần đưa ra luận cứ có cơ sở khoa học hơn.

(3) Làm sáng tỏ tính không vững chắc của luận chứng

Phương pháp này được sử dụng khi phát hiện ra trong lập luận không có mối
liên hệ logic giữa các luận cứ và luận đề. Đây là phương pháp dùng để chỉ ra các sai
lầm trong hình thức chứng minh. Ví dụ: vạch ra những lỗi logic trong lập luận của
phép chứng minh như: Đánh tráo khái niệm, đánh tráo luận đề; luận cứ sai hoặc chưa
được chứng minh là đúng hoặc không độc lập với luận đề; mâu thuẫn trong lập luận;
dùng suy luận không hợp logic...

Tất cả các phương pháp bác bỏ đã nêu ra ở trên được sử dụng trong một thể
thống nhất, không được tách rời nhau. Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự bác bỏ của
chúng ta là đúng đắn.

2.3.2. Căn cứ vào cách thức tổ chức phép chứng minh

Xét theo cách này, có hai loại chứng minh: phép chứng minh trực tiếp và phép
chứng minh gián tiếp.

a. Chứng minh trực tiếp

Chứng minh trực tiếp là chứng minh trong đó tính chân thực của luận đề được
trực tiếp rút ra từ các luận cứ. Bằng những luận cứ chân thực, phù hợp với tính đúng
đắn của luận đề suy ra rằng luận đề là đúng mà không thông qua việc bác bỏ luận
điểm trái ngược với luận đề.

Ví dụ: Để chứng minh mình là sinh viên, bạn xuất trình thẻ sinh viên, giấy giới
thiệu của trường đại học đang theo học. Để chứng minh gia đình nghèo cần nhận trợ
cấp, người ta đưa sổ hộ nghèo, giấy xác nhận của chính quyền địa phương.

b. Chứng minh gián tiếp

Chứng minh gián tiếp là chứng minh trong đó tính chân thực của luận đề được
rút ra trên cơ sở lập luận tính giả dối của phản luận đề. Phản luận đề là phán đoán
mâu thuẫn với luận đề. Phản luận đề có hai trường hợp:
(+) Luận đề là a thì phản luận đề là phủ định a (~a).
(+) Luận đề là a V b thì phản luận đề là ~a Ʌ ~b.
159

Căn cứ vào việc thiết lập phản luận đề, người ta chia ra thành chứng minh phản
chứng và chứng minh phân liệt (hoặc chứng minh loại trừ).
- Chứng minh phản chứng: Được thực hiện bằng cách xác lập tính giả dối của
phản đề. Quá trình chứng minh được thực hiện qua ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Từ luận đề (p) thiết lập phản đề (~p). Phản đề phải là phán đoán
mâu thuẫn với luận đề. Đôi khi phản đề cũng có thể là một phán đoán khẳng định
nhưng không tương hợp với luận đề, đồng thời nếu phản đề ấy là sai thì luận đề phải
chắc chắn đúng.

Giai đoạn 2: Rút ra hệ quả tất yếu (q) từ phản đề đồng thời đối chiếu với những
luận điểm đúng đắn mâu thuẫn với hệ quả ấy, từ đó suy ra phản đề là sai.

Giai đoạn 3: Từ sự sai lầm của phản đề, suy ra luận đề là đúng.

Ví dụ: Phương pháp dùng bảng ngữ nghĩa để chứng minh giá trị logic của công
thức đã học là loại chứng minh phản chứng (chứng minh công thức hợp logic bằng
cách chỉ ra giả định sai ban đầu về công thức là điều vô lý).

- Chứng minh phân liệt (phương pháp loại trừ): Chứng minh phân liệt là chứng
minh gián tiếp trong đó lập luận về tính chân thực của luận đề được thực hiện bằng
cách xác lập tính giả dối của tất cả các thành phần của phán đoán phân liệt, trừ một
thành phần là luận đề.

Ví dụ: Trong kỳ thi Olympic toán có 5 bạn Hoa, Bình, Nga, Huệ, Lan đều đạt
giải, trong đó có một người được giải nhất. Bình, Nga đạt giải nhì; Huệ giải ba và
Lan giải khuyến khích. Vậy suy ra, người đạt giải nhất là Hoa.

2.4. Quy tắc chứng minh

2.4.1. Quy tắc 1: Luận đề phải rõ ràng, nhất quán và khả chứng

Luận đề phải được nêu ra một cách xác định, chính xác, thông qua việc định
hình được nội hàm và khu biệt được ngoại diên của điều cần chứng minh. Khi luận
đề là những phán đoán đơn không xác định được chính xác lượng của nó, (đặc biệt là
phán đoán ở dạng tình thái), hoặc đối với phán đoán phức hợp điều kiện giả định, thì
đòi hỏi chủ thể phải chú ý làm rõ tính xác định, tránh hiểu sai ý nghĩa của phán đoán.
160

Chủ thể không thể chứng minh được điều gì đúng nếu không biết điều cần chứng
minh là gì và phạm vi chứng minh ở đâu.

Ví dụ: Luận đề: “Phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên hiện nay”.

Chúng ta cần làm rõ các khái niệm:

+ Phát triển là gì? Phát triển hay là phát huy?

+ Tư duy sáng tạo là gì? Có khác gì so với tư duy thông thường? Tư duy sáng
tạo hay là năng lực tư duy sáng tạo?

+ “Sinh viên”: sinh viên Cao Đẳng hay sinh viên Đại Học, sinh viên chính quy
hay sinh viên không chính quy, sinh viên chính quy tập trung hay sinh viên chính quy
không tập trung,…

+ Sinh viên Việt Nam hay sinh viên thế giới? Nếu sinh viên Việt Nam thì sinh
viên ở một số trường Việt Nam hay tất cả các trường? Tất cả các hệ?...

+ Hiện nay là bao giờ? Từ năm bao nhiêu đến năm bao nhiêu thì được xem là
hiện nay?...

Luận đề nhất quán nghĩa là luận đề phải được giữ vững trong suốt quá trình
chứng minh. Khi luận đề đã được phát biểu, thì trong suốt quá trình chứng minh phải
luôn bảo vệ hay bác bỏ luận đề đó.

Chẳng hạn, trong các phiên tòa thì lời buộc tội chính luôn luôn chỉ có một: bị
cáo mắc tội, còn lời bảo vệ cũng chỉ có một: bị cáo không mắc tội ấy. Vì thế, về mặt
lý thuyết cả công tố viên và luật sư bào chữa cần phải chứng minh các điều kiện cần
thiết cho kết luận của mình.

2.4.2. Quy tắc 2: Luận cứ phải là các phán đoán chân thực, có giá trị logic độc
lập với luận đề, và các luận cứ không mâu thuẫn nhau

Khi chứng minh một luận điểm, cần phải đưa ra luận cứ là các phán đoán chân
thực, tức là các phán đoán phù hợp với hiện thực khách quan, các phán đoán có cơ sở
vững chắc, không được phép dùng luận cứ giả, luận cứ bịa đặt, luận cứ không có cơ
sở tin cậy.
161

Ví dụ: Để chứng minh cho hiệu quả sử dụng của một loại thực phẩm chức năng,
mỹ phẩm, tiền ảo… người quảng cáo có thể đưa ra thông tin về chất lượng và các
thành phần trong sản phẩm không đúng với thực tế, quá trình bản thân đã sử dụng và
trải nghiệm trong thời gian dài nhưng sự thật lại chưa sử dụng hoặc mới sử dụng trong
thời gian ngắn, các văn bản cấp phép hoặc chứng nhận chất lượng giả… Đây là những
luận cứ bịa đặt, không có cơ sở tin cậy trong phép chứng minh.

Trong khi chứng minh, nếu ta lấy phán đoán nào đó để làm căn cứ chứng minh
cho luận đề, nhưng bản thân tính chân thực của phán đoán đó lại phụ thuộc vào sự
chứng minh tính chân thực của luận đề thì được gọi là lỗi chứng minh vòng quanh.

Ví dụ: Uxetôn, nhà hoạt động của phong trào công nhân Anh, cho rằng giá trị
của hàng hóa được xác định bằng giá trị của lao động. Nhưng khi chứng minh, ông
lại khẳng định giá trị của hàng hóa là cơ sở để xác định giá trị của lao động.

Lỗi chứng minh vòng quanh dễ bị phát hiện đối với những phép chứng minh
ngắn gọn, không phức tạp. Song đối với chứng minh bao gồm một chuỗi các suy luận
phức tạp thì việc phát hiện lỗi này không dễ dàng.

2.4.3. Quy tắc 3: Luận chứng phải tuân theo các quy luật và các quy tắc của
suy luận

Luận chứng phải đảm bảo tính hệ thống. Nếu trong phép chứng minh, các luận
điểm trong luận cứ bị sắp xếp tùy tiện, rời rạc, cô lập, không ăn nhập về nội dung
phản ánh hoặc cơ cấu logic, thì lỗi đó gọi là chứng minh không có tính hệ thống,
không chắc chắn. Một phép chứng minh được xây dựng từ tiền đề là các luận cứ
nhưng từ đó có thể suy ra được hai phán đoán có giá trị logic loại trừ nhau hoặc mâu
thuẫn nhau, thì phép chứng minh đó là thiếu nhất quán.

Có thể nói, nhiệm vụ của luận chứng chính là tổ chức, sắp xếp, liên kết luận cứ,
sao cho từ đó, bằng con đường ngắn nhất xác định được mối liên hệ logic giữa luận
cứ và luận đề. Cơ sở để xác lập mối liên hệ này là các quy tắc, quy luật của tư duy.
Vì thế, trong một phép chứng minh, chỉ cần một mối liên hệ nào đó giữa luận cứ và
luận đề không phù hợp với những quy tắc, quy luật này thì người chứng minh sẽ phạm
sai lầm về luận chứng và luận đề cần chứng minh không mang tính thuyết phục.
162

Nhìn chung, trong hoạt động nghiên cứu khoa học, chứng minh giúp cho con
người hình thành niềm tin dựa trên một hệ thống cơ sở vững chắc. Nếu niềm tin đó
lại được đặt trên nến tảng chân xác của tri thức khoa học thì bản thân cá nhân con
người với sự hiểu biết thực chất công việc của mình làm sẽ quyết đoán đặt ra và giải
quyết những nhiệm vụ của lý luận và thực tiễn một cách triệt để nhất. Niềm tin khoa
học sẽ và chỉ được hình thành, củng cố và phát triển trên cơ sở của chứng minh và
các lập luận có căn cứ chắc chắn.

3. Ngụy biện và bác bỏ ngụy biện

3.1. Ngụy biện là gì?

Ngụy biện là một hình thức lập luận cố tình vi phạm quy luật, quy tắc của thao
tác tư duy nhằm đánh tráo giá trị chân lý của luận đề, biến “đúng thành sai, sai thành
đúng, giả thành thật, thật thành giả, có thành không, không thành có…”.

Lưu ý: cần phân biệt ngụy biện với ngụy tạo, với ngộ biện.

+ Ngụy biện (sophism) là hình thức của tư duy lý luận, cố tình vi phạm quy luật,
quy tắc, yêu cầu của các thao tác tư duy nhằm đánh lừa người khác.

+ Ngụy tạo (recreation) là hành động làm cho người khác hiểu sai vấn đề nhưng
không chủ ý dùng lời lẽ mà dùng hành động. Chẳng hạn, thiết lập công ty ma để vay
vốn ngân hàng, tạo nên một tai nạn để đòi bảo hiểm phải bồi thường, tạo nên một
hiện trường giả để đánh lừa thanh tra…

+ Ngộ biện (ignorance) là hình thức lập luận ngây ngô vì thiếu tri thức hiểu biết
và tri thức logic khoa học.

3.2. Phân loại ngụy biện

3.2.1. Căn cứ vào yêu cầu của các quy luật và thao tác tư duy

Xét về logic, mỗi hình thức vi phạm các yêu cầu, các thao tác của tư duy là một
hình thức ngụy biện:

- Ngụy biện vi phạm các yêu cầu của quy luật tư duy như: yêu cầu của quy luật
đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn, quy luật triệt tam, quy luật lý do đầy đủ.
163

Chẳng hạn, nhà ngụy biện cố tình sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, đánh tráo
khái niệm, đồng nhất hóa các tư tưởng khác nhau hay làm khác biệt hóa tư tưởng
đồng nhất (xem lại yêu cầu quy luật đồng nhất). Nhà ngụy biện cũng có thể đưa ra
các câu hỏi, luận đề, quan điểm, tư tưởng… trong đó có chứa mâu thuẫn trực tiếp
hoặc gián tiếp, chứa những phán đoán trái ngược nhau hoặc dung hòa chúng nhằm
khiến người nghe lúng túng, nhầm lẫn (xem lại quy luật mâu thuẫn, triệt tam). Đặc
biệt, nhà ngụy biện khi đưa ra các luận điểm hoặc phủ định các luận điểm của người
khác có thể đưa ra chứng lý ở dạng điều kiện cần mà không phải điều kiện đủ hoặc
cần và đủ, không chỉ ra được nguyên nhân thật sự của tư tưởng mà chỉ là nguyên cớ
hoặc hiện tượng bên ngoài… (xem lại quy luật lý do đầy đủ).

- Ngụy biện vi phạm quy tắc định nghĩa khái niệm

Nhà ngụy biện có thể đưa ra định nghĩa không cân đối, đầy đủ; Định nghĩa
không rõ ràng; Định nghĩa dài dòng…

- Ngụy biện vi phạm quy tắc phân chia khái niệm

Nhà ngụy biện có thể đưa ra khái niệm được phân chia nhưng không cân đối,
không nhất quán một tiêu chí, không liên tục…

- Ngụy biện vi phạm quy tắc phán đoán

Nhà ngụy biện đưa ra các luận điểm trong đó có thể vi phạm các quy tắc về cách
xác định mối quan hệ giữa các phán đoán trong hình vuông logic hay phán đoán phức
với những phán đoán được cho là tương đương nhau…

- Ngụy biện vi phạm quy tắc trong suy luận

Nhà ngụy biện có thể đưa ra các luận điểm trong đó vi phạm các quy tắc của
suy luận diễn dịch trực tiếp (4 hình thức suy luận), suy luận diễn dịch gián tiếp (tam
đoạn luận đơn, suy luận phức), suy luận quy nạp (sử dụng suy luận quy nạp mở rộng
phổ thông một cách vội vàng…), suy luận tương tự…

3.2.2. Căn cứ vào cấu trúc của phép chứng minh

Một phép chứng minh bao giờ cũng gồm ba phần: luận đề, luận cứ và luận
chứng. Việc cố ý vi phạm một trong các yêu cầu đối với luận đề, luận cứ, luận chứng
sẽ tạo thành ngụy biện.
164

3.2.2.1. Ngụy biện liên quan đến luận đề

Ngụy biện liên quan đến luận đề thường được biểu hiện ở các dạng sau:

a. Luận đề không rõ ràng (mơ hồ)

Đây là kiểu ngụy biện mà luận đề có nghĩa không rõ ràng, có thể giải thích theo
cách này hoặc cách khác.

Ví dụ: Trong sách Lã Thị Xuân Thu (bộ sách thời Chiến Quốc của Trung Hoa
cổ đại), có ghi lại một câu chuyện như sau: Nước Tần và Triệu có ký kết một giao
ước với nhau rằng: “Từ nay về sau, Tần muốn làm gì thì Triệu giúp, Triệu muốn làm
gì thì Tần giúp”. Ít lâu sau, Tần phát binh đánh Ngụy. Triệu lại muốn cứu Ngụy. Vua
Tần rất bất bình, sai sứ giả sang trách Triệu không tuân thủ điều đã ký. Triệu Vương
sai Bình Nguyên Quân đến hỏi Công Tôn Long thì Công Tôn Long nói rằng: Các ông
cũng sai người sang trách vua Tần là Tần cũng không tuân thủ điều ước, nay Triệu
muốn cứu Ngụy mà Tần không giúp Triệu.

Có thể thấy, quy định trong giao ước trên là một luận đề có phạm vi phản ánh
rộng đến mức mơ hồ vì cụm từ “muốn làm gì” có thể được hiểu là “muốn làm bất cứ
việc gì, vô điều kiện”. Chính vì vậy, các bên có thể tùy ý lập luận theo kiểu nào cũng
được.

b. Luận đề không được giữ nguyên trong suốt quá trình chứng minh (Đánh
tráo luận đề)

Ví dụ: Khi làm bài văn với đề tài là kể về kỷ niệm với thầy, cô giáo cũ, Nam
không biết viết gì về kỷ niệm cả nên đã dành hết thời gian làm bài để mô tả về thầy
giáo cũ của mình.

Hoặc, trong buổi họp của cơ quan, đơn vị, có việc một người tự kiểm điểm về
những sai phạm của mình, nhưng suốt từ đầu đến cuối của bản tự kiểm điểm, anh ta
chỉ trình bày hoàn cảnh khách quan và những khó khăn mọi mặt của bản thân, của
gia đình. Ở đây, luận đề “kiểm điểm sai phạm của bản thân” đã biến thành “kiểm
điểm hoàn cảnh bản thân”.
165

3.2.2.2. Ngụy biện liên quan đến luận cứ

Ngụy biện đối với luận cứ thường được biểu hiện ở các dạng sau:

a. Sử dụng luận cứ không chân thực

- Luận cứ bịa đặt: Kẻ ngụy biện bịa đặt ra luận cứ để che lấp sự thật, biện hộ
cho hành vi sai trái của mình.

Ví dụ: Nhân viên kiểm tra chất vấn kẻ bị tình nghi là thủ phạm của vụ án (thực
ra hẳn chính là thủ phạm) như sau:

- Đêm qua khi xảy ra vụ án, lúc 10 giờ, anh ở đâu?

Tên thủ phạm cố tình chạy tội bằng cách bịa ra chứng cứ giả để đánh lừa cơ
quan điều tra:

- Lúc đó tôi đang ở nhà một người bạn gái.

- Luận cứ sai sự thật: Kẻ ngụy biện sử dụng những luận cứ không đúng hoặc
chỉ đúng một phần của sự thật.

Ví dụ: Để qua mắt cơ quan thanh tra, một cơ sở kinh doanh nọ đã đưa ra những
hóa đơn, chứng từ ngụy tạo.

Ngụy biện do sử dụng luận cứ không chân thực mà chúng ta thường thấy hàng
ngày là những hành vi “nói dối”, “lừa bịp”, v.v…

b. Sử dụng những luận cứ chưa được chứng minh

- Luận cứ dư luận, tin đồn: Người ngụy biện không sử dụng các luận cứ là dư
luận, tin đồn, trong đó tính chân thật của chúng không xác định, chưa được chứng
minh để biện hộ, quy kết. Đây là lối ngụy biện ta thường thấy khi lý lẽ của người
ngụy biện đưa ra không đủ sức thuyết phục nên phải tìm cách lấy dư luận để làm luận
cứ.

Chẳng hạn, trước các cuộc bầu cử ở phương Tây, các ứng cử viên thường mở
các chiến dịch tranh cử, trong đó có việc hạ bệ đối thủ bằng việc đưa ra tin đồn, dư
luận không tốt, kiểu như: Dư luận gần đây cho thấy quá khứ anh ta rất ồn ào, đối xử
không tốt với người thân, còn có những người hay tiếp xúc nói rằng con người anh
166

ta không trung thực, không trong sáng, có nhiều động cơ mờ ám. Vì vậy không thể để
anh ta tiếp tục công việc này.

- Luận cứ là ý kiến của số đông (đa số) để làm luận cứ: Sự thật không phải bao
giờ cũng thuộc về số đông. Kẻ ngụy biện lại lấy ý kiến của đa số để thay thế cho sự
thật.

Ví dụ: Có người cho rằng sản phẩm dầu gội công ty A chứa nhiều thành phần
gây hại, thì công ty A trả lời là: Có hơn 90% người sử dụng khẳng định rằng sản
phẩm dầu gội này là tốt, đem lại cảm giác thoải mái cho da đầu nên nó không có gì
gây hại. Ở đây, công ty A không lấy các tiêu chuẩn được kiểm định về các thành phần
của sản phẩm để chứng minh mà lấy ý kiến của đa số để khẳng định chất lượng của
sản phẩm.

c. Sử dụng luận cứ là ý kiến, lời nói của người có uy tín

Kẻ ngụy biện đã lợi dụng sự tin yêu, mến mộ, khâm phục của công chúng đối với
người có uy tín, để làm cho công chúng tin vào ý kiến, lời nói của người đó thay cho sự
thật mặc dù biết là lời nói đó không phải lúc nào cũng đúng.

Ví dụ: Ông A, ông X, bà Y đã nói, tất đúng (vì ông A, ông X, bà Y là người có
uy tín).

Lối ngụy biện này thể hiện ở chỗ người ta đã dựa vào “giá trị” của người phát
biểu để thay cho những chứng cứ khách quan, xác đáng.

d. Tính chân thật của luận cứ không được chứng minh độc lập với luận đề

Trong loại ngụy biện này, kết luận được người ngụy biện rút ra từ tiền đề nhưng
bản thân tiền đề lại được suy ra từ kết luận.

Ví dụ: Bạn phải tiết kiệm tiền để trả hóa đơn, vì tất cả hóa đơn cần phải được
thanh toán mà.

Hay: Kinh Thánh là đúng, bạn không nên nghi ngờ những lời của Chúa.

3.2.2.3. Ngụy biện liên quan đến luận chứng

Ngụy biện đối với luận chứng thường được biểu hiện ở các dạng sau:
167

 Luận chứng vi phạm các quy luật tư duy như: quy luật đồng nhất, quy luật phi
mâu thuẫn, quy luật triệt tam, quy luật lý do đầy đủ

 Luận chứng vi phạm các thao tác đối với khái niệm, phán đoán

 Luận chứng vi phạm các quy tắc của suy luận diễn dịch trực tiếp, suy luận diễn
dịch gián tiếp, suy luận quy nạp, suy luận tương tự.

3.2.3. Căn cứ vào thủ pháp ngụy biện

Căn cứ vào thủ pháp mà nhà ngụy biện sử dụng, người ta phân chia thành nhiều
kiểu ngụy biện khác nhau. Aristote là người đầu tiên tiến hành phân loại ngụy biện
thành 13 loại khác nhau. Các nhà logic học về sau này xác định thêm hàng chục loại
ngụy biện khác nữa. Sau đây ta sẽ xét một số kiểu ngụy biện cơ bản1:

(1) Ngụy biện dựa vào uy tín cá nhân (ad verecundiam/appeal to authority)

Trong kiểu ngụy biện này, đáng lẽ phải đưa ra dẫn chứng, đưa ra chứng cứ cho
lập luận của mình, thì nhà ngụy biện lại dựa vào uy tín của người khác để thay thế.
Làm như vậy là ngụy biện, bởi vì uy tín của một người không đảm bảo chắc chắn
rằng tất cả những điều mà người đó nói đều đúng. Không phải uy tín làm cho câu nói
của người ta đúng, mà ngược lại, chính cái đúng của những câu nói của một người
tạo nên uy tín cho người đó.

- Ví dụ 1: Trong khi tranh luận về bài tập, một số học sinh khi không thể đưa ra
lý lẽ thuyết phục bạn mình thì thường nói: “Thầy X nói thế này:...”, “Cô A đã nói
vậy”. Ở đây, học sinh đó đã lấy uy tín thầy cô thay cho việc đưa ra những luận cứ để
chứng minh luận điểm của mình là đúng. Trên thực tế, có thể lời thầy X, cô A chưa
hẳn đã đúng.

Ví dụ 2: Một số công ty thuốc lá từng thuê các nhà khoa học sẵn sàng nói rằng
không có bằng chứng nào cho thấy thuốc lá gây ung thư phổi, mặc dù họ biết là có
bằng chứng. Ở đây, các công ty đã lấy uy tín của nhà khoa học thay thế cho những
luận cứ thuyết phục thật sự.

1
Tham khảo Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn logic học, Nxb. Đại học quốc gia, 2005, tr.164-168.
168

(2) Ngụy biện dựa vào đám đông, dựa vào dư luận (Argumentum ad
Populum/appeal to the people)

Trong kiểu ngụy biện này, thay cho việc đưa ra luận cứ và chứng minh luận
điểm, người nói lại cho rằng luận điểm là đúng vì có nhiều người công nhận như vậy.
Đây là lập luận ngụy biện, vì nhiều người cho là đúng chưa đảm bảo tính đúng đắn
của luận điểm; ngược lại, nhiều người cho là sai cũng không có nghĩa là luận điểm
chắc chắn sai.

Ví dụ: Công ty quảng cáo sản phẩm dầu gội có đoạn: sản phẩm này đem lại
hiệu quả cho da đầu, làm giảm lượng tóc gãy rụng, khô xơ. Hơn 90% phụ nữ đã dùng
thử và đã tin. Còn bạn thì sao?

(3) Ngụy biện dựa vào sức mạnh (Argumentum ad Baculum/appeal to force):
Trong kiểu ngụy biện này, nhà ngụy biện sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực
để ép người khác tin vào và chấp nhận luận điểm của mình. Ở đây, sức mạnh chứ
không phải là tính chân lý của luận điểm bắt người nghe phải tin theo.

Ví dụ: Một ông vua sai quan đại thần xây cho mình một tòa nhà để vui chơi,
các vị quan phản đối vì cho rằng Vua đã có nhiều khu vui chơi, và đây là sự lãng phí.
Nhà vua nghe vậy thì ra lệnh, các ông cứ làm cho ta, ai không nghe là khi quân phạm
thượng, sẽ đem xử tử.

Ví dụ 2: Có 2 anh em, người anh nói: Tí mày đi lau nhà cho tao. Người em nói,
hôm nay đến lượt anh lau mà, em mới lau nhà hôm qua. Người anh nói: Không nói
nhiều,, nhớ lau nhà đó, mày không lau là chết với tao.

(4) Ngụy biện bằng cách đánh vào tình cảm (Argumentum ad Misericordiam/
appeal to emotion)

Trong kiểu ngụy biện này, thay vì đưa ra các luận cứ và lập luận để chứng tỏ
luận điểm của mình đúng, nhà ngụy biện tìm cách tác động vào tâm lý, tình cảm của
người nghe để gợi lên lòng thông cảm hoặc thương hại để được thừa nhận là đúng.

Ví dụ: Một người bị cáo buộc phạm tội ăn cắp. Ra trước tòa, anh ta kêu oan.
Thay vì đưa ra các chứng cứ để chứng minh rằng mình vô tội, anh ta lại đi kể lể về
169

tình cảnh gia đình khó khăn, nghèo đói, nhân thân tốt,… để hy vọng hội đồng xét xử
thông cảm mà kết luận anh ta vô tội.

(5) Ngụy biện đánh tráo luận đề: Đây là kiểu ngụy biện rất phổ biến. Trong
kiểu ngụy biện này, trước hết nhà ngụy biện thay thế luận đề ban đầu bằng một luận
đề mới trong quá trình tranh luận. Luận đề mới này không tương đương với luận đề
ban đầu. Sau đó ông ta chứng minh luận đề mới một cách rất chặt chẽ và cuối cùng
tuyên bố là mình đã chứng minh được luận đề ban đầu. Vì hai luận đề là không tương
đương với nhau nên tính chất ngụy biện lộ rõ. Để thực hiện kiểu ngụy biện này, nhà
ngụy biện hay sử dụng những hiện tượng ngôn ngữ đồng âm khác nghĩa, một từ có
nhiều nghĩa,…; hoặc đem đồng nhất cái bộ phận với cái toàn thể, đồng nhất cái toàn
thể với cái bộ phận; hoặc diễn tả mơ hồ để muốn hiểu theo cách nào cũng được,…

Ví dụ: “Đây là một tác phẩm nghệ thuật đúng không? - Đúng!. Mà nó là của tôi
đúng không? Đúng!. Vậy thì đây là tác phẩm nghệ thuật của tôi. -!!!”. Trong nguỵ
biện này, luận đề chỉ quan hệ chủ thể sở hữu đã bị đánh tráo thành luận đề chỉ quan
hệ chủ thể sáng tạo khi chuyển sang câu kết luận.

(6) Ngụy biện ngẫu nhiên: Trong loại ngụy biện này, một sự kiện ngẫu nhiên
xảy ra được nhà ngụy biện coi là có tính chất quy luật.

Ví dụ: Một người lập luận rằng khi làm những việc quan trọng trong đời như
cưới xin, làm nhà, lập công ty kinh doanh, v.v… ta phải chọn ngày lành, nếu không
thì sẽ không thành công, hoặc không hạnh phúc. Cặp chàng trai và cô gái nọ - anh
ta nêu ví dụ - yêu nhau thắm thiết, được gia đình và bạn bè ủng hộ. Họ tổ chức cưới
vào một ngày lẻ theo âm lịch, một ngày không tốt. Và chỉ một năm sau họ đã chia tay
nhau.

Sự trùng lặp giữa việc cưới vào ngày lẻ và sự tan vỡ hạnh phúc của gia đình trẻ
nói đến trong ví dụ này chỉ là một điều ngẫu nhiên, nhưng lại được nhà ngụy biện coi
là có tính phổ biến, tất yếu, có tính quy luật.

(7) Ngụy biện đen – trắng (black-or-white fallacy): Ngụy biện đen – trắng xảy
ra khi trong lập luận chỉ nhìn thấy và nêu lên các khả năng đối lập nhau, các thái cực,
từ đây cho rằng không phải là cực này thì là cực kia, loại bỏ tất cả các khả năng khác.
170

Ví dụ 1: A bảo B “Anh nói anh không tin vào Chúa, vậy thì anh nhất định là kẻ
phản Chúa”. Trong ví dụ này, A đã quy kết B vào hai thái cực “có Chúa” và “phản
Chúa” trong khi tồn tại nhiều khả năng khác xung quanh hai khả năng này.

Ví dụ 2: A nói với B “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh chống tôi, anh chọn
hướng nào, yes hay là no?”, hay “Đối với Mỹ, anh chỉ có hai lựa chọn: thương hay
ghét, trả lời đi!”

(8) Ngụy biện bằng cách dựa vào nhân quả sai: Ngụy biện bằng cách sử dụng
lập luận trong đó quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng được hiểu sai có nhiều phân
loại.

+ Đánh đồng nguyên nhân với nguyên cớ: Trong loại ngụy biện này, nhà ngụy
biện cố tình lấy nguyên cớ thay cho nguyên nhân để biện minh cho hành động của
mình, hay để thuyết phục người khác.

Ví dụ 1: Nguyên nhân thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là vì muốn khai thác
tài nguyên của Việt Nam nhưng lại viện cớ rằng người Pháp đến để khai sáng dân
tộc Việt Nam.

Ví dụ 2: Trung Quốc xây đảo nhân tạo bất hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam
nhằm mục đích lợi ích cho Trung Quốc nhưng lại nói rằng làm như vậy để bảo vệ,
cứu trợ an toàn hàng hải.

+ Sau cái đó vậy là do cái đó: Trong mối liên hệ nhân quả thì nguyên nhân bao
giờ cũng xảy ra trước kết quả, tuy nhiên như vậy không có nghĩa là một hiện tượng,
sự kiện xảy ra trước bao giờ cũng là nguyên nhân của một hiện tượng, sự kiện xảy ra
sau. Ngụy biện sau cái đó vậy là do cái đó là kiểu ngụy biện trong đó khi thấy hai sự
kiện, hiện tượng A và B xảy ra lần lượt theo thời gian thì A là nguyên nhân của B.

Ví dụ 1: Từ ngày tôi gặp X tôi gặp đủ mọi chuyện xui xẻo. X chính là nguyên
nhân làm tôi xui xẻo.

Ví dụ 2: Khu nhà A xảy ra một vụ cháy nhà ngay sau khi tôi chuyển đến sống ở
đó, và cảnh sát truy cứu tôi vì tội gây ra đám cháy.

(9) Ngụy biện dựa vào sự kém cỏi (Argumentum ad Ignorentium): Đây là kiểu
ngụy biện mà trong đó người ngụy biện căn cứ vào việc ai đó không chứng minh
171

được một mệnh đề (hoặc lý thuyết, giả thuyết,…), hoặc không tìm thấy được một đối
tượng nào đó để khẳng định rằng mệnh đề trên sai, hoặc đối tượng đó không tồn tại.

Ví dụ: A nói với B: Tôi nghĩ trên đời này có ma. B: Bằng chứng đâu?. A: Thế
cậu có đưa ra được bằng chứng là không có ma không? Nếu không thì tức là trên đời
này có ma!.

(10) Ngụy biện lập luận vòng quanh (Petitio princippi): Lọai ngụy biện này
xảy ra khi người ta vi phạm quy tắc đối với luận cứ trong chứng minh. Cụ thể là ở
đây các luận cứ không được chứng minh độc lập với luận đề.

Ví dụ: “Thuốc phiện khiến mọi người buồn ngủ vì nó có thuộc tính thúc đẩy cơn
buồn ngủ”. Lập luận này không đưa ra một lý do cho việc bằng cách nào và tại sao
thuốc phiện gây ngủ. Thay vào đó, về cơ bản nó nói rằng: Đó là bởi vì nó là như thế.
Không có bằng chứng được đưa ra để xác minh thực tế ban đầu, điều này làm cho bất
kỳ cuộc tranh luận nào sử dụng lý luận lòng vòng đều không có giá trị.

(11) Ngụy biện khái quát hóa vội vã (hasty generalization/over


generalization): Đây là kiểu ngụy biện xảy ra khi người ta sử dụng suy luận quy nạp
trong lập luận, trong đó người ta đi đến kết luận tổng quát sau khi khảo sát rất ít trường
hợp riêng.

Ví dụ: A và B là sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

A không biết tiếng Hàn Quốc, B không biết tiếng Hàn Quốc.

Vậy sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn không ai
biết tiếng Hàn Quốc.

(12) Ngụy biện câu hỏi phức hợp: Loại ngụy biện này xảy ra khi người ta đưa
ra một câu hỏi bên trong đó chứa hai câu hỏi, và một câu trả lời duy nhất được coi là
câu trả lời cho cả hai câu hỏi.

Ví dụ: Hỏi: “Anh có hay chơi thể thao và đọc tiểu thuyết kiếm hiệp không?”.
Câu trả lời “có” được coi là câu trả lời cho cả hai câu hỏi “Anh có hay chơi thể thao
không?” và “Anh có hay đọc tiểu thuyết kiếm hiệp không?”. Câu trả lời “không”
cũng được diễn giải tương tự.
172

Nhà ngụy biện có thể kết hợp các câu hỏi vào trong một câu hỏi một cách rất
tinh vi, và nhiều khi người trả lời không biết là mình đã trả lời cho nhiều câu hỏi cùng
một lúc. Điều này sẽ bị nhà ngụy biện lợi dụng vào mục đích của mình.

(13) Ngụy biện bằng cách sử dụng những phương pháp suy luận có tính xác
suất: Trong suy luận, nhà ngụy biện sử dụng các phương pháp suy luận cho kết quả
đúng với một xác suất nhất định (ví dụ như suy luận tương tự, suy luận quy nạp),
nhưng lại coi các kết luận đó như là những điều khẳng định chắc chắn.

Ví dụ: Châu Mỹ không có thú mỏ vịt.

Châu Á không có thú mỏ vịt.

Châu Phi không có thú mỏ vịt.

Vậy, không tồn tại thú mỏ vịt trên trái đất này.

Đây là ngụy biện bằng cách sử dụng phương pháp suy luận có tính xác suất, trên
thực tế vẫn tồn tại thú mỏ vịt ở Châu Úc.

(14) Ngụy biện bằng cách diễn đạt mập mờ: Trong trường hợp này, nhà ngụy
biện cố tình hành văn một cách mập mờ để sau đó giải thích theo ý mình.

Ví dụ: Một cô gái lần đầu tiên đi tắm hồ bơi. Ông chủ hồ bơi hỏi cô ta: - Cô
muốn mướn đồ tắm hả? - Dạ - Cô muốn mướn đồ hai mảnh hay một mảnh? Cô ta
mắc cỡ nói: - Ơ, mặc đồ hai mảnh kỳ chết, tôi mướn đồ một mảnh thôi. Ông chủ ranh
mãnh hỏi: - Cô muốn mảnh trên hay mảnh dưới? Cô gái đỏ mặt chẳng biết trả lời sao.

Ngoài ra, có thể kể thêm nhiều loại ngụy biện khác như: công kích cá nhân (ad
hominem), ngụy biện anh cũng vậy, ngụy biện rơm, ngụy biện cá trích, lý luận lươn
trạch, đảo ngược điều kiện, loại bỏ tiền đề, ngụy biện bốn thuật ngữ, dẫn chứng bằng
giai thoại, lợi dụng cổ tích, dựa vào cái mới (ad novitatem), ngụy biện tâng bốc, ngụy
biện gây cảm giác tội lỗi, điệp khúc (ad nauseam), lạm dụng tác phong, lạm dụng
thiên nhiên, lạm dụng quy trình…
173

3.3. Phương pháp bác bỏ ngụy biện


3.3.1. Bác bỏ ngụy biện là gì?
Bác bỏ ngụy biện là dựa vào những tri thức đã biết, những chứng cứ đã được
kiểm tra để thấy được, chỉ ra sự sai lầm, thiếu cơ sở, sự cố ý vi phạm các quy tắc logic
trong lập luận ngụy biện.
Để bác bỏ ngụy biện, chủ thể phải nắm vững các quy tắc, thao tác logic và yêu
cầu của các quy luật tư duy. Vì mục đích của hoạt động bác bỏ ngụy biện là vạch ra
tính giả dối hay tính thiếu thuyết phục của một luận điểm nào đó. Bác bỏ, thực chất,
là xác lập tính thiếu thuyết phục, tính không có căn cứ hay tính giả dối của luận điểm.
3.3.2. Các phương pháp bác bỏ ngụy biện
Có ba cách bác bỏ ngụy biện chủ yếu:
3.3.2.1. Bác bỏ dựa vào việc chỉ ra sai lầm logic trong các thao tác và quy luật
của tư duy
Đối với cách này, cần nắm vững nội dung, quy tắc, yêu cầu của mỗi thao tác và
quy luật của tư duy. Dựa trên cơ sở đó, khi nhà ngụy biện vi phạm tính logic của bất
kỳ thao tác hay quy luật nào của tư duy, chúng ta cũng có thể tự giác phát hiện những
lập luận ngụy biện. Từ đó, chỉ ra những sai lầm logic của họ.
3.3.2.2. Bác bỏ dựa vào cấu trúc của phép chứng minh
Một chứng minh bao giờ cũng gồm ba phần:
- Luận đề
- Luận cứ
- Luận chứng
Mỗi phần trong phép chứng minh đều có những yêu cầu, quy tắc nhất định, nếu
cố ý vi phạm thì sẽ trở thành ngụy biện. Như vậy để bác bỏ một luận điểm, chủ thể
có thể bác bỏ luận đề, hoặc bác bỏ luận cứ, hoặc bác bỏ luận chứng.
a. Bác bỏ luận đề
- Bác bỏ dữ kiện: là cách bác bỏ đúng đắn nhất và có hiệu quả nhất. Chủ thể cần
đưa ra các dữ kiện, sự kiện thực tế, số liệu, cứ liệu khoa học… mâu thuẫn với luận
đề. Đó chính là những căn cứ xác đáng để bác bỏ luận đề.
174

- Bác bỏ tính giả dối của hệ quả rút ra từ luận đề: Từ luận đề nêu ra, chủ thể
vạch tìm các hệ quả của nó. Chỉ cần chứng minh một hệ quả nào đó là mâu thuẫn với
thực tế hoặc với luận điểm chân thực đã chứng minh là đủ để bác bỏ luận đề. Đây là
phương pháp truy tìm về tính phi lý của một luận điểm.
- Bác bỏ tính bất khả chứng của luận đề: Có những luận điểm không thể đứng
vững được vì nó không thể chứng minh. Khi vạch ra được tính bất khả chứng của
một luận điểm tức là đã bác bỏ được luận điểm.
b. Bác bỏ luận cứ
- Bác bỏ luận cứ sai: là hình thức chỉ ra các chứng cứ trong lập luận là những
chứng cứ không chân thực.
Ví dụ: Có nhà ngụy biện cho rằng, mọi cán bộ nhà nước Việt Nam đều là cán
bộ thanh liêm. Ông T là cán bộ cao cấp của Việt Nam. Vậy, ông T là người thanh
liêm. Chủ thể bác bỏ: luận cứ cho rằng mọi quan chức Việt Nam là người thanh liêm
là luận cứ sai. Vì mỗi năm, người Việt Nam vẫn chứng kiến cán bộ nhà nước từ địa
phương đến trung ương tham nhũng bị phanh phui.

c. Bác bỏ luận chứng – làm sáng tỏ tính không vững chắc của lập luận

Khi đưa ra một luận đề, để thuyết phục cho tính chân thực của nó, chủ thể
không chỉ nêu ra các căn cứ cho tính chân thực ấy mà còn phải sắp xếp, tổ chức liên
kết các căn cứ đó theo một cách thức nhất định để dẫn tới tính chân thực của bản thân
nó. Nói cách khác, luận chứng không những phụ thuộc vào số lượng các luận cứ, mà
còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực lập luận của chủ thể. Do đó, bác bỏ luận chứng
cũng là một mục tiêu để bác bỏ ngụy biện.

Phương pháp vạch ra tính không vững chắc của lập luận khi: không có mối
liên hệ logic giữa các luận cứ với nhau, không có mối liên hệ logic giữa các luận cứ
với luận đề, hoặc quá trình tổ chức các luận cứ vi phạm quy tắc, quy luật logic.

Sai lầm chủ yếu và phổ biến nhất là chọn lựa luận cứ vượt quá cơ sở do tính
chân thực của nó không xác định, hoặc do khái quát hóa vội vàng, và trong tiến trình
lập luận vi phạm các quy tắc suy luận.
175

Ví dụ: Từ sự chân thực của phán đoán bộ phận suy ra tính chân thực của phán
đoán toàn thể; từ khẳng định hệ quả dẫn đến khẳng định điều kiện là sự khái quát hóa
vội vàng (xem lại quan hệ hình vuông logic và suy luận điều kiện). Chẳng hạn, từ
phán đoán đơn dạng O đúng suy ra A sai, tiếp tục suy ra I sai. Suy luận như vậy vi
phạm quy tắc suy luận – phép đổi chỗ (tiền đề không chân thực).

Lưu ý: Tất cả các phương pháp bác bỏ nêu trên được sử dụng thống nhất, không
tách rời. Chỉ có như vậy thì sự bác bỏ mới đúng đắn.

3.3.2.3. Bác bỏ dựa vào thủ pháp ngụy biện

Phương pháp chung nhất để bác bỏ ngụy biện theo thủ pháp là chủ thể bác bỏ
làm ngược lại những thủ pháp mà nhà ngụy biện đã sử dụng. Ví dụ, nhà ngụy biện
hành văn mập mờ thì ta đòi hỏi phải hành văn rõ ràng; nhà ngụy biện đánh tráo luận
đề, đánh tráo khái niệm thì ta đòi hỏi xác định lại, định nghĩa lại khái niệm khi tranh
luận; nhà ngụy biện dùng luận cứ không chân thực thì ta chỉ rõ ra điều đó,…

Ví dụ: Bác bỏ luận đề: “Thủy ngân không có khả năng dẫn điện”. Ta phải chứng
minh phản luận đề của nó là đúng đắn: Thủy ngân là kim loại, mà kim loại thì dẫn
điện, vậy thì thủy ngân dẫn điện.

Phản luận đề này đúng, chứng tỏ luận đề là sai.

Ví dụ (Bác bỏ ngụy biện bằng cách đánh tráo luận đề):

Có một chàng trai nói với một cô gái rằng;

Người yêu của anh là một phụ nữ.

Mà em là phụ nữ

Vậy em là người yêu của anh.

Lập luận của anh chàng này chợt nghe rất hợp lý nhưng khi xem xét kỹ thì ta
thấy ngay tính chất ngụy biện trong lập luận của anh ta. Anh ta đã đánh đồng hai khái
niệm “Phụ nữ” và “em”, thực ra thì “em” chỉ là một khái niệm nhỏ trong khái niệm
phụ nữ này thôi. Hay nói cách khác, tam đoạn luận vi phạm quy tắc: trung từ phải
chu diên ít nhất một lần.
176

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Giả thuyết là gì? Cấu trúc của giả thuyết? Cho ví dụ.

2. Những quy tắc chủ yếu của việc kiểm tra và đề xuất giả thuyết là gì?

3. Phân biệt chứng minh với bác bỏ.

4. Nêu cấu trúc của phép chứng minh và cho ví dụ minh họa.

5. Nêu các quy tắc đối với luận đề, luận cứ và luận chứng của chứng minh. Cho
ví dụ minh họa.

6. Thế nào là chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp? Cho ví dụ.

7. Trình bày các cách bác bỏ (bác bỏ luận đề, bác bỏ luận cứ và bác bỏ luận
chứng).

8. Trình bày những hình thức ngụy biện (với luận đề, luận cứ và luận chứng)
thường gặp.

9. Trình bày các loại ngụy biện thường gặp (theo thủ pháp ngụy biện). Cho ví
dụ minh họa.

10. Hãy chứng minh:


a. Trong hình vuông logic, hai phán đoán đơn có mối quan hệ đối lập dưới thì
không thể cùng sai.

b. Quy tắc 3 trong nhóm quy tắc hình của tam đoạn luận đơn.
c. Quy tắc 4 trong nhóm quy tắc hình của tam đoạn luận đơn.

11. Hãy xác định luận đề, luận cứ và luận chứng trong các đoạn viết sau đây:
a. “Một nghiên cứu lớn của các nhà khoa học tại Bristol và Cơ quan Nghiên cứu
Ung thư Quốc tế, với hơn 100.000 tình nguyện viên. Cho thấy rằng chỉ số BMI cao
hơn (chỉ số khối cơ thể; cách tính tổng lượng chất béo) sẽ nguy hiểm hơn đối với nam
giới, trong khi tỷ lệ eo trên hông cao hơn (chu vi vòng eo chia cho chu vi hông; số đo
mỡ bụng) thì nhiều nguy hiểm hơn cho phụ nữ. Để phát hiện ra điều này, họ đã dùng
phương pháp phân tích ngẫu nhiên Mendel, sử dụng thông tin di truyền làm thước đo
trọng lượng để điều tra tác động của những biện pháp đo lượng mỡ cơ thể khác nhau
đối với nguy cơ ung thư đại trực tràng ở nam giới và phụ nữ.
177

Chỉ số BMI tăng khoảng 5kg/m2 làm cho nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng
lên 23% đối với nam giới, nhưng chỉ 9% đối với phụ nữ. Trong khi tỷ lệ eo hông tăng
tương đương làm tăng 25% nguy cơ đối với phụ nữ, thì tỷ lệ này ở nam giới chỉ là
5%. Ung thư đại trực tràng là bệnh ung thư phổ biến thứ tư ở Anh nhưng là loại ung
thư nguy hiểm thứ hai, tuy nhiên đây là một trong những bệnh ung thư có thể phòng
ngừa được bằng cách ăn uống cân bằng, tích cực và duy trì cân nặng hợp lý.” (Tin
tức của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 31/12/2020 https://www.vista.gov.vn)
b. “Tại sao cơ thể con người có thể thực hiện được những động tác uốn dẻo khó
đến mức không thể tin được. Để tìm câu trả lời, tiến sĩ Richard Wieman, phụ trách
nhóm nghiên cứu về vấn đề này ở Anh, đã tiến hành chụp cắt lớp xương sống một số
nghệ sĩ uốn dẻo bằng máy chụp cắt lớp cộng hưởng từ (MRI). Kết quả là nhóm đó
không tìm thấy bất cứ dấu hiệu khác thường nào trong cấu trúc xương của nghệ sĩ
uốn dẻo, duy có điểm đặc biệt là các dây chằng của họ thường có khả năng cực kỳ
tốt. Theo tiến sĩ Richard Wieman, trong cơ thể con người, mô có chức năng nối các
khớp lại với nhau được gọi là dây chằng. Những sợi dây chằng co giãn nhẹ giúp khớp
vận động bình thường. Nhưng ở một số ít người, như các nghệ sỹ uốn dẻo, dây chằng
của họ, qua luyện tập, đã có khả nâng co giãn khá tốt. Nhờ thế cơ thể họ cũng trở lên
rất mềm dẻo. Nhờ lợi thế tự nhiên này, họ tiếp tục luyện tập thêm và cũng có thể là
bí quyết để họ đi đến thành công trong nghề nghiệp” (Báo Tuổi trẻ ngày 23/4/2006
đưa tin).
c. “Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Đây được
coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng
150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông…
Xét về an ninh, quốc phòng, Biển Đông đóng vai trò quan trọng là tuyến phòng
thủ hướng đông của đất nước. Các đảo và quần đảo trên Biển Đông, đặc biệt là quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm soát các tuyến
đường biển qua lại Biển Đông mà còn có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng
đối với Việt Nam. Nước ta giáp với Biển Đông ở ba phía Đông, Nam và Tây Nam.
Các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam là một phần Biển Đông trải dọc theo bờ biển
dài khoảng 3.260 km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, với nhiều bãi biển đẹp như Trà
178

Cổ, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cam Ranh, Vũng Tàu... Như vậy, cứ 100 km2 lãnh
thổ đất liền có 1 km bờ biển, tỷ lệ này cao gấp 6 lần tỷ lệ trung bình của thế giới (600
km2 đất liền có 1 km bờ biển). Không một nơi nào trên lục địa của Việt Nam lại cách
xa bờ biển hơn 500 km.
Việt Nam có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa rộng lớn theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982; có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm giữa Biển Đông và hàng nghìn
đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ các
vùng biển và thềm lục địa. Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Không chỉ cung cấp
nguồn thức ăn cho cư dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay, Biển Đông còn tạo điều
kiện để phát triển các ngành kinh tế và là cửa ngõ để Việt Nam có quan hệ trực tiếp
với các vùng miền của đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là
nơi trao đổi và hội nhập của nhiều nền văn hóa… Ngoài ra, ven biển Việt Nam còn
chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như than, zircon, thiếc, vàng, đất
hiếm... trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, rất thuận lợi cho việc đặt
các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền...
phục vụ cho tuyến đường hàng hải trên Biển Đông.” (Theo
https://www.bacgiang.gov.vn, 22/9/2015)
12. Hãy chỉ rõ luận đề, những luận cứ và luận chứng trong lập luận sau:
“Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản
xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách làm ăn của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa
lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có tư bản công
nghiệp” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tập 4, tr.187).
13. Hoa đến nhà dì ruột chơi. Là người luôn thích những câu đố, dì của Hoa
thường xuyên kiểm tra khả năng suy luận logic của cháu mình. Lần này, dì chuẩn bị
một câu đố về bánh ngọt cho Hoa. Biết cháu không thích cam, dì của Hoa đã làm ba
loại bánh ngọt với ba mùi vị là dâu tây, táo và cam. Ba cái bánh ngọt có ba màu khác
179

nhau: màu xanh, màu hồng, màu nâu. Dì của Hoa đã đặt ba chiếc bánh ngọt lên bàn
theo thứ tự từ trái qua phải là: Bánh hồng – bánh xanh – bánh nâu. Dì nói với Hoa:
“Trong ba chiếc, có một chiếc vị cam và cháu cần suy luận để không chọn đúng chiếc
bánh đó. Gợi ý của bà là bánh ngọt vị dâu tây không phải chiếc màu xanh. Bánh vị
táo không nằm cạnh chiếc bánh vị dâu tây”.

Hãy xác định:

a. Chiếc bánh ngọt nào có vị cam?


b. Luận đề, luận cứ và luận chứng trong suy luận trên.

13. Hãy xác định và phân tích các loại ngụy biện sau đây:

a. Một ông khách vào nhà hàng kêu món bánh tôm. Ăn hết một cái bánh, vị
khách tức giận gọi bồi bàn đến để hỏi cho ra lẽ:

– Này, sao bánh tôm nhà hàng làm không có con tôm nào trong bánh hết vậy?

– Thế ông đã ăn cơm sinh viên chưa ạ? - Bồi bàn hỏi lại.

Ông khách ngạc nhiên:

– Gì chứ, cơm sinh viên hồi còn học đại học, tôi ăn thường xuyên…

– Thế khi ăn cơm, ông có thấy “con sinh viên” nào không ạ?

b. Vợ càm ràm với chồng: – Ông có biết trong rượu có cồn không mà ngày nào
cũng uống vậy? Trong khi lại còn bị viêm loét dạ dày nữa…

- Biết rồi! Nhưng tôi hỏi bà: Khi có vết thương, để tránh nhiễm trùng người ta
phải rửa vết thương hàng ngày bằng cồn hay ôxy già đúng không?

- Đúng! Thì sao?

- Thì tôi không uống được ôxy già nên hàng ngày phải uống rượu có cồn để rửa
vết loét dạ dày, tránh nhiễm trùng chứ sao!

c. Một ngày nọ, Cáo ta xuống triền núi và phát hiện ra phía trước có một vườn
nho. Dưới tán lá xanh, từng chùm nho căng tròn mọng nước, dưới ánh sáng mặt trời
trông lại càng hấp dẫn. Cáo đứng thẳng người, vươn tay hái nho. Nhưng giàn nho thì
cao quá, Cáo ta dù có vươn người đến đâu cũng không thể tới được. Thấy có chùm
180

nho thấp, Cáo ta mừng rỡ nhảy lên, không tới được chùm nho, lại gắng sức nhảy lên
lần nữa, vẫn không hái được quả nho nào. Nước dãi trong cổ họng cứ trào ra, lùi lại
mấy bước lấy đà, Cáo nhảy lên, nhưng Cáo ta dù có làm thế nào cũng không thể hái
được nho. Cáo thở đánh thượt một cái rồi nói: – Làm sao mà mình lại cứ phải cố ăn
mấy cái chùm nho này nhỉ? Vỏ thì xanh thế, chắc chắn là chưa chín rồi. Không biết
chừng còn vừa chua vừa chát, không nuốt được, có khi còn phải nhổ ra, đúng là chả
ra làm sao cả. Nói xong, Cáo rầu rĩ rời khỏi vườn nho.

d. Bị cáo phạm tội nhưng nhất định không chịu nhận tội. Y thanh minh:

- Thưa ông chánh án, trong vụ này tôi thật tình chỉ là người cố gắng làm cho
mọi chuyện lặng lẽ, êm xuôi.

Ông chánh án nói đầy mỉa mai: Thật ư, thế anh hãy giải thích tại sao lại đánh
bên nguyên tả tơi đến nỗi người ta bị ngất xỉu cả tiếng đồng hồ.

- Tôi ngạc nhiên về sự chậm hiểu của ông đấy. Nếu không mạnh tay như vậy
thì làm sao tránh được ồn ào, ầm ĩ cơ chứ.

e. Một chú cừu con đang giải khát tại một suối nước trong. Một con chó sói đói
mồi luẩn quẩn đi ngang qua. Chó sói nói: - Sao mày cả gan làm vẩn đục nước của ta?
Mày sẽ bị ta phạt nặng. Cừu non khiêm tốn đáp lời: - Xin ngài đừng nổi giận; mong
ngài nhìn kỹ lại: tôi uống nước suối, cách xa ngài hơn 20 bước ở phía dưới của ngài,
và như thế, không thể nào mà tôi làm vẩn đục nước uống của ngài được. Chó sói giận
dữ: - Chính mày làm vẩn đục nước uống của ta! Và ta cũng biết là năm ngoái mày
nói xấu ta. Cừu non bình tĩnh trả lời: - Làm sao được, vì tôi chưa sinh ra. Hiện nay
tôi còn bú sữa mẹ mà! - Nếu không phải mày thì đích thị là anh mày! - Tôi không có
anh! - Như thế thì một trong gia tộc mày! Ta biết gia tộc mày thù ghét ta. Ta phải trả
thù. Chó sói cắn chết và ăn thịt cừu non. Không một lời biện minh và xét xử nào khác.

f. Bị cáo cố thanh minh trước tòa:

- Thưa ông thẩm phán, tôi hoàn toàn vô tội.

- Phải, chẳng ai lại không nói như thế cả.

- Đấy, ông thấy chưa, nếu mọi người đều nói như thế thì đúng quá còn gì!!!
181

g. Chuyến tàu điện vào trạm dừng, hành khách ào ào lên xe. Bỗng nghe
“choang” một cái, kính bị vỡ. Người bán vé chỉ người làm vỡ kính, nói:

- Anh làm vỡ kính, phải đền!

- Sao tôi phải đền?

- Anh làm hỏng tài sản của nhân dân, lại còn không phải đền à?

Người làm vỡ kính lên tiếng:

- Tài sản này của nhân dân. Tôi là nhân dân, sao tôi lại phải đền cho tôi.
182

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM ÔN TẬP


1. Đối tượng của logic học là:
a. Thế giới khách quan b. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
c. Tư duy d. Hình thức và quy luật của tư duy
2. Tư duy có những đặc tính nào?
a. Trực tiếp, cụ thể, sinh động, sáng tạo, trừu tượng và khái quát, bản chất
b. Gián tiếp, trừu tượng, khái quát, bản chất, tương đối và gắn liền với ngôn
ngữ
c. Trực tiếp, gắn liền với ngôn ngữ, trừu tượng, khái quát, sâu sắc, tương đối.
d. Gián tiếp, năng động, sáng tạo, trừu tượng, khái quát, bản chất, sâu sắc.
3. Từ logic trong tiếng Việt nghĩa là:
a. Tính quy luật của thế giới khách quan b. Tính chặt chẽ, hợp lý của tư duy
c. Logic học d. a, b, c đều đúng
4. Logic học được chia thành:
a. Logic hình thức, logic biện chứng
b. Logic toán, logic lưỡng trị, logic đa trị, logic mờ, logic thời gian
c. Logic tuyến tính, logic vị từ, logic cổ điển và logic phi cổ điển
d. a, b, c đều đúng
5. Khi khảo sát một tư tưởng, logic hình thức chú trọng đến:
a. Hình thức của tư tưởng
b. Nội dung của tư tưởng
c. Cả nội dung và hình thức của tư tưởng
d. Tùy từng trường hợp mà chú trọng đến nội dung hay hình thức hay cả hai
6. Quy luật đồng nhất dựa trên cơ sở nào?
a. Sự đứng im tương đối, sự ổn định về chất của đối tượng tư tưởng
b. Sự đồng nhất của tư tưởng với đối tượng được tư tưởng
c. Tính bất biến của đối tượng tư tưởng
d. Cả a, b, c
7. Câu: “Nói phải có sách, mách phải có chứng” là yêu cầu của quy luật nào?
a. Quy luật đồng nhất b. Quy luật phi mâu thuẫn
c. Quy luật triệt tam d. Quy luật túc lý
183

8. “Hai tư tưởng trái ngược không thể cùng đúng” là nội dung của quy luật nào?
a. Quy luật đồng nhất b. Quy luật phi mâu thuẫn
c. Quy luật triệt tam d. Quy luật túc lý
9. Mệnh đề “Hai tư tưởng trái ngược không cùng đúng” tương đương với mệnh đề
logic nào?
a. Hai tư tưởng trái ngược không thể cùng sai
b. Hai tư tưởng trái ngược, trong đó, nếu tư tưởng này đúng thì tư tưởng kia
sai
c. Hai tư tưởng, trong đó, nếu tư tưởng này sai thì tư tưởng kia đúng
d. Hai tư tưởng, trong đó, nếu tư tưởng này đúng thì tư tưởng kia sai và nếu tư
tưởng này sai thì tư tưởng kia đúng
10. Hai tư tưởng mâu thuẫn nhau chỉ có thể tư tưởng này đúng, tư tưởng kia sai chứ
không thể có khả năng cả hai cùng đúng, cùng sai là nội dung của quy luật nào?
a. Quy luật đồng nhất b. Quy luật phi mâu thuẫn
c. Quy luật triệt tam d. Quy luật túc lý
11. Một trong những yêu cầu của quy luật túc lý là gì?
a. Không được khẳng định tiền đề nhưng lại phủ định hệ quả của nó.
b. Khẳng định một luận điểm nào thì phải khẳng định được cơ sở tồn tại của nó.
c. Không được tùy tiện thay đổi nội dung tư tưởng.
d. Không được vừa khẳng định lại vừa phủ định một tư tưởng.
12. Lập luận mà khẳng định tiền đề nhưng lại phủ định hệ quả của nó là:
a. Mâu thuẫn gián tiếp b. Mâu thuẫn trực tiếp
c. Không rõ ràng d. Không có đầy đủ lý do
13. Nếu R là một tư tưởng thì mệnh đề “một tư tưởng không thể đồng thời có hai
giá trị logic trái ngược nhau” được ký hiệu như thế nào?
a. ~ (R  ~R) phi mâu thun b. ~ (R  ~R)
c. R  ~R d. R  ~R
14. Nếu R là một tư tưởng thì mệnh đề “Một tư tưởng chỉ có một giá trị logic xác
định hoặc là đúng hoặc là sai chứ không có khả năng thứ ba” được ký hiệu như thế
nào?
a. ~ (R  ~R) b. ~ (R  ~R)
c. R  ~R d. R  ~R
184

15. Quy luật phi mâu thuẫn là cơ sở của thao tác logic nào? Bác b gián tip

a. Phép chứng minh trực tiếp b. Phép bác bỏ trực tiếp


c. Phép chứng minh phản chứng d. Phép chứng minh phân liệt
16. Cặp phán đoán “Nam là sinh viên” và “Nam không phải là sinh viên” bị chi
phối bởi quy luật nào?
a. Quy luật phi mâu thuẫn
b. Quy luật loại trừ cái thứ ba
c. Quy luật phi mâu thuẫn và quy luật loại trừ cái thứ ba
d. Quy luật lý do đầy đủ và quy luật phi mâu thuẫn
17. Cơ sở của phép chứng minh phản chứng là quy luật nào?
a. Quy luật phi mâu thuẫn
b. Quy luật phi mâu thuẫn và quy luật triệt tam
c. Quy luật đồng nhất và quy luật triệt tam
d. Quy luật túc lý và quy luật phi mâu thuẫn
18. Quy luật đồng nhất đảm bảo cho tư duy có tính chất gì?
a. Tính có căn cứ, được luận chứng, xác minh
b. Tính xác định, rõ ràng rành mạch, chính xác
c. Tính phi mâu thuẫn, có căn cứ, được luận chứng
d. Tính phi mâu thuẫn, liên tục, nhất quán
19. Quy luật phi mâu thuẫn và quy luật loại trừ cái thứ ba đảm bảo cho tư duy có
tính chất gì?
a. Tính xác định, chính xác, rõ ràng rành mạch
b. Tính có căn cứ, được luận chứng, xác minh
c. Tính phi mâu thuẫn, có căn cứ, được luận chứng
d. Tính phi mâu thuẫn, liên tục, nhất quán
20. Quy luật túc lý đảm bảo cho tư duy có tính chất gì?
a. Tính xác định, chính xác, rõ ràng rành mạch
b. Tính có căn cứ, được luận chứng, xác minh
c. Tính phi mâu thuẫn, có căn cứ, được luận chứng
d. Tính phi mâu thuẫn, liên tục, nhất quán
185

21. Hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh đối tượng thông qua các đặc trưng
cơ bản của nó là gì?
a. Khái niệm b. Phán đoán
c. Suy luận d. Quy luật
22. Toàn bộ những thuộc tính đặc trưng cơ bản được phản ánh vào trong khái niệm
được gọi là gì?
a. Bản chất của khái niệm b. Nội hàm của khái niệm
c. Ngoại diên của khái niệm d. Hình thức của khái niệm
23. Tập hợp tất cả những phần tử có những thuộc tính đặc trưng được phản ánh
vào trong khái niệm được gọi là gì? Ngoi diên ca khái nim

a. Khái niệm b. Nội hàm của khái niệm


c. Bản chất của khái niệm d. a, b, c đều sai
24. Khái niệm được cấu thành bởi bộ phận nào?
a. Từ và ý b. Ký hiệu và nghĩa
c. Nội hàm và ngoại diên d. a, b, c đều đúng
25. Nội hàm và ngoại diên của khái niệm có mối liên hệ như thế nào?
a. Nội hàm càng phong phú thì ngoại diên càng rộng, nội hàm càng nghèo nàn
thì ngoại diên càng hẹp
b. Nội hàm càng nghèo nàn thì ngoại diên càng rộng, nội hàm càng phong phú
thì ngoại diên càng hẹp
c. Nội hàm càng nghèo nàn thì ngoại diên càng hẹp, nội hàm càng hẹp thì ngoại
diên càng rộng
d. Nội hàm càng nghèo nàn thì ngoại diên càng cạn, nội hàm càng phong phú
thì ngoại diên càng sâu
26. Khái niệm yêu và khái niệm ghét có quan hệ gì với nhau?
a. Quan hệ giao nhau b. Quan hệ đồng nhất
c. Quan hệ mâu thuẫn. d. Quan hệ đối lập
27. Khái niệm sinh ngữ và khái niệm tử ngữ quan hệ gì với nhau?
a. Quan hệ giao nhau b. Quan hệ bao hàm - lệ thuộc
c. Quan hệ đối chọi d. Quan hệ mâu thuẫn
186

28. Khái niệm Đàn ông và khái niệm Đàn bà có mối quan hệ gì với nhau?
a. Mâu thuẫn b. Đối lập
c. Giao nhau d. Đồng nhất
29. Hai khái niệm nào sau đây có quan hệ bao hàm:
a. “Nhà văn” và “nhà thơ”
b. “Chiến tranh chính nghĩa” và “Chiến tranh phi nghĩa”.
c. “Người quản lý” và “Giám đốc giỏi”.
d. “Hàng tiêu dùng” và “Hàng Việt Nam”.
30. Hai khái niệm nào có quan hệ giao nhau:
a. “Doanh nghiệp may mặc” và “Doanh nghiệp tư nhân”
b. “Màu trắng” và “Màu đen”. quan h i lp

c. “Thủ đô của Việt Nam” và “Hà Nội” quan h ng nht

d. “Người lao động” và “Giáo viên” quan h bao hàm l thuc

31. Hai khái niệm nào có quan hệ mâu thuẫn:


a. “Người kinh doanh giỏi” và “Người kinh doanh không giỏi”
b. “Giám đốc” và “Kế toán trưởng”
c. “Người lao động” và “Nhà quản lý”.
d. “Giáo sư” và “Tiến sĩ”
32. Trong các khái niệm sau, khái niệm nào có ngoại diên rộng nhất?
a. Cán bộ quản lý b. Giám đốc doanh nghiệp
c. Người lao động d. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước
33. Mở rộng khái niệm là thao tác logic...?
a. Đi từ khái niệm có ngoại diên rộng, nội hàm phong phú sang khái niệm có
ngoại diên hẹp, nội hàm nghèo nàn
b. Đi từ khái niệm có ngoại diên rộng, nội hàm nghèo nàn, đến khái niệm có
ngoại diện hẹp, nội hàm phong phú.
c. Đi từ khái niệm có ngoại diên hẹp, nội hàm phong phú, đến khái niệm có
ngoại diên rộng, nội hàm nghèo nàn.
d. Đi từ khái niệm có ngoại diên hẹp, nội hàm nghèo nàn, sang khái niệm có
ngoại diên rộng, nội hàm phong phú.
187

34. Thu hẹp khái niệm là thao tác logic...?


a. Đi từ khái niệm có ngoại diên rộng, nội hàm nghèo nàn, đến khái niệm có
ngoại diện hẹp, nội hàm phong phú.
b. Đi từ khái niệm có ngoại diên rộng, nội hàm phong phú sang khái niệm có
ngoại diên hẹp, nội hàm nghèo nàn
c. Đi từ khái niệm có nội hàm nghèo nàn, ngoại diên hẹp sang khái niệm có nội
hàm phong phú, ngoại diên rộng
d. Đi từ khái niệm có ngoại diên hẹp, nội hàm phong phú, đến khái niệm có
ngoại diên rộng, nội hàm nghèo nàn.
35. Giới hạn của thu hẹp khái niệm là gì?
a. Khái niệm đơn nhất b. Phạm trù
c. Khái niệm chung d. Khái niệm cụ thể
36. Giới hạn của mở rộng khái niệm là gì?
a. Khái niệm chung b. Phạm trù
c. Khái niệm trừu tượng d. Khái niệm thực
37. Thao tác logic làm rõ nội hàm và giới hạn của ngoại diên khái niệm là:
a. Mở rộng khái niệm b. Thu hẹp khái niệm
c. Định nghĩa khái niệm d. Phân chia khái niệm
38. Muốn định nghĩa đúng thì khái niệm được định nghĩa và khái niệm dùng để
định nghĩa phải có mối quan hệ:
a. Giao nhau b. Đồng nhất
c. Bao hàm d. Ngang hàng
39. Định nghĩa khái niệm đúng khi:
a. Cân đối, rõ ràng, ngắn gọn
b. Cân đối, liên tục, nhất quán
c. Không dài dòng, liên tục, nhất quán
d. Không dài dòng, không luẩn quẩn, rõ ràng, nhất quán
40. “Phạm nhân là người vi phạm pháp luật” là định nghĩa:
a. Định nghĩa quá hẹp b. Định nghĩa hợp logic
c. Định nghĩa quá rộng d. Định nghĩa không súc tích
188

41. Cho định nghĩa khái niệm: “Logic học là khoa học nghiên cứu về tư duy”.
Định nghĩa trên vi phạm quy tắc nào trong các quy tắc định nghĩa khái niệm. Hãy
chọn phương án đúng:
a. Không vi phạm quy tắc nào cả.
b. Định nghĩa quá rộng
c. Định nghĩa quá hẹp
d. Định nghĩa vừa quá rộng, vừa quá hẹp
42. Cho định nghĩa khái niệm: “Hàng hóa là sản phẩm của lao động”. Định nghĩa trên
vi phạm quy tắc nào trong các quy tắc định nghĩa khái niệm. Hãy chọn phương án
đúng:
a. Không vi phạm quy tắc b. Định nghĩa quá hẹp
c. Định nghĩa quá rộng d. Định nghĩa luẩn quẩn
43. Phân chia khái niệm là thao tác logic:
a. Liệt kê các khái niệm bao hàm trong khái niệm bị bao hàm
b. Tách các khái niệm có ngoại diên hẹp ra khỏi khái niệm có ngoại diên rộng
hơn
c. Làm rõ nội hàm khái niệm được phân chia
d. Làm rõ ngoại diên khái niệm được phân chia
44. Phân chia khái niệm đúng khi:
a. Cân đối và nhất quán, không thừa, không thiếu
b. Cân đối, ngắn gọn, rõ ràng, liên tục
c. Không thừa, không thiếu, ngắn gọn, liên tục
d. Cân đối, nhất quán, liên tục
45. Khái niệm tội phạm được chia thành tội phạm kinh tế và tội phạm chính trị là:
a. Vượt cấp b. Không cùng một tiêu chí
c. Không cân đối d. Không liên tục
46. “Hầu hết sinh viên trong lớp đều đi học đúng giờ” là:
a. Phán đoán bộ phận b. Phán đoán toàn thể
c. Phán đoán toàn thể khẳng định d. Phán đoán xác suất
47. “Thỉnh thoảng Nam không làm bài tập” là phán đoán dạng:
a. A b. I
c. E d. O
189

48. “Người Việt Nam không thích chiến tranh” là phán đoán dạng:
a. A b. I
c. E d. O
49. “Cá sống dưới nước” là phán đoán dạng:
a. A b. I
c. E d. O
50. Xác định tính chu diên của các thuật ngữ trong phán đoán I
a. S + - P+ b. S- - P-
c. S+ - P- d. S- - P+
51. Xác định tính chu diên của các thuật ngữ trong phán đoán A
a. S - - P- b. S+ - P-
c. S- - P+ d. S+ - P+
52. Xác định tính chu diên của các thuật ngữ trong phán đoán O
a. S + - P+ b. S- - P-
c. S+ - P- d. S- - P+
53. Xác định tính chu diên của thuật ngữ trong phán đoán E
a. S - - P+ b. S- - P-
c. S+ - P- d. S+ - P+
54. Cho phán đoán I sai, hãy xác định giá trị của các phán còn lại trong hình vuông
logic.
a. A sai, E đúng, O đúng. b. A đúng, E đúng, O đúng.
c. A sai, E đúng, O sai. d. A sai, E đúng, O sai.
55. Phán đoán A đúng, các phán đoán còn lại trong hình vuông logic sẽ có giá trị như
thế nào?
a. E đúng, O đúng, I đúng b. E sai, O sai, I sai
c. E sai, O sai, I đúng d. E sai, O đúng, I đúng
56. Phán đoán O sai, hãy xác định giá trị các phán đoán còn lại trong hình vuông
logic.
a. A đúng, I đúng, E sai b. A sai, I đúng, E sai
c. A đúng, I sai, E đúng d. A sai, I sai, E đúng
190

57. Phán đoán E sai, hãy xác định giá trị các phán đoán còn lại trong hình vuông
logic.
a. A đúng, I đúng, O đúng b. A kxđ, I đúng, O kxđ
c. A đúng, I sai, O đúng d. A kxđ, I sai, O kxđ
58. Phán đoán A sai, hãy xác định giá trị các phán đoán còn lại trong hình vuông
logic.
a. E đúng, I sai, O đúng b. E kxđ, I đúng, O kxđ
c. E kxđ, I đúng, O đúng d. E kxđ, I kxđ, O đúng
59. Cho phán đoán I đúng, hãy xác định giá trị của các phán đoán còn lại trong hình
vuông logic.
a. A sai, E đúng, O đúng. b. A kxđ, E sai, O đúng
c. A sai, E đúng, O sai. d. A kxđ, E sai, O kxđ
60. Phán đoán O đúng, hãy xác định giá trị các phán đoán còn lại trong hình vuông
logic.
a. A đúng, I đúng, O đúng b. A sai, I kxđ, E kxđ
c. A đúng, I sai, O đúng d. A kxđ, I kxđ, E đúng
61. Phát biểu nào sau đây đúng:
a. Điều kiện cần và đủ để phán đoán hội sai là các phán đoán thành phần cùng
sai
b. Muốn phán đoán hội đúng chỉ cần một phán đoán thành phần đúng
c. Phán đoán hội sai khi và chỉ khi các phán đoán thành phần cùng sai
d. Phán đoán hội đúng khi và chỉ khi các phán đoán thành phần cùng đúng
62. Phát biểu nào sau đây đúng:
a. Điều kiện cần và đủ để phán đoán tuyển tương đối sai là các phán đoán
thành phần cùng sai
b. Phán đoán tuyển tương đối đúng khi và chỉ khi có một phán đoán thành
phần đúng
c. Phán đoán tuyển tương đối sai khi và chỉ khi các phán đoán thành phần
cùng đúng
d. Phán đoán tuyển tương đối đúng khi các phán đoán thành phần cùng đúng
191

63. Phát biểu nào sau đây đúng:


a. Điều kiện cần và đủ để phán đoán tuyển tuyệt đối đúng là các phán đoán thành
phần cùng đúng
b. Phán đoán tuyển tuyệt đối đúng khi và chỉ khi có một phán đoán thành phần
đúng
c. Phán đoán tuyển tuyệt đối đúng khi và chỉ khi các phán đoán thành phần cùng
sai
d. Điều kiện cần và đủ để phán đoán tuyển tuyệt đối sai là các phán đoán thành
phần cùng sai
64. Phát biểu nào sau đây đúng:
a. Phán đoán kéo theo sai khi và chỉ khi phán đoán hậu đề sai
b. Phán đoán kéo theo sai khi phán đoán tiền đề đúng và phán đoán hậu đề sai
c. Phán đoán kéo theo đúng khi và chỉ khi phán đoán tiền đề đúng và phán đoán
hậu đề sai
d. Phán đoán kéo theo đúng khi và chỉ khi phán đoán tiền đề và phán đoán hậu
đề có cùng giá trị logic.
65. Điều kiện trong phán đoán sau đây là điều kiện gì?
Nếu không có nước uống thì con người sẽ chết.
a. Điều kiện cần. b. Điều kiện đủ
c. Điều kiện cần và đủ. d. Điều kiện không cần, không đủ.
66. Phán đoán PQ có thể hiểu:
a. P là điều kiện cần của Q b. P là điều kiện đủ của Q
c. P là điều kiện cần và đủ của Q d. Q là điều kiện đủ của P
67. Phán đoán ~P~Q có thể hiểu:
a. P là điều kiện cần của Q b. P là điều kiện đủ của Q
c. P là điều kiện cần và đủ của Q d. Q là điều kiện đủ của P
68. Phán đoán P≡Q, có thể hiểu:
a. P là điều kiện cần của Q b. P là điều kiện đủ của Q
c. P là điều kiện cần và đủ của Q d. P, Q là điều kiện cần và đủ của nhau
192

69. Thao tác logic đi từ một tiền đề để rút ra một kết luận đều là phán đoán đơn được
gọi là:
a. Suy luận diễn dịch trực tiếp b. Suy luận diễn dịch gián tiếp
c. Suy luận quy nạp hoàn toàn d. Suy luận quy nạp không hoàn toàn
70. Thao tác logic đi từ hai tiền đề có quan hệ logic với nhau để rút ra một phán
đoán mới làm kết luận đều là phán đoán đơn được gọi là:
hay còn gi là tam on lun n
a. Suy luận diễn dịch trực tiếp b. Suy luận diễn dịch gián tiếp
c. Suy luận quy nạp hoàn toàn d. Suy luận quy nạp không hoàn toàn
71. Suy luận đúng là:tin phi là nhng phán oán có giá tr chân lý, úng vi hin thc khách quan; cu trúc
suy lun phi hp logic
a. Suy luận tuân thủ mọi quy tắc logic hình thức
b. Suy luận luôn đưa đến kết luận xác thực
c. Suy luận hợp logic và xuất phát từ tiền đề đúng
d. Cả a, b, c đều sai
72. Thao tác suy luận đi từ một tiền đề là phán đoán đơn (A, E, I, O) để rút ra một
phán đoán cùng chất nhưng chủ từ và thuộc từ đổi vị trí cho nhau được gọi là:
a. Phép đổi chất
b. Phép đổi chỗ
c. Suy luận kết hợp vừa đổi chất vừa đổi chỗ
d. Suy luận theo hình vuông logic
73. Thao tác suy luận đi từ một tiền đề là phán đoán dạng A, E, I, O để rút ra một kết
luận dạng trên cùng chủ từ nhưng khác chất và có thuộc từ là khái niệm mâu thuẫn
với vị từ của tiền đề là:
a. Phép đổi chất
b. Phép đổi chỗ
c. Suy luận kết hợp vừa đổi chất vừa đổi chỗ
d. Suy luận theo hình vuông logic
74. Từ tiền đề “Một số sinh viên học tập chăm chỉ” có thể rút ra kết luận gì bằng phép
đổi chỗ:
a. Không phải mọi sinh viên đều học tập chăm chỉ
b. Một số sinh viên lười biếng học tập
c. Một số người học tập chăm chỉ là sinh viên
d. Một số sinh viên học tập không chăm chỉ
193

75. Trong tam đoạn luận đơn hợp logic, thuật ngữ chu diên ở tiền đề thì ở kết luận
có chu diên hay không?
a. Có b. Không
c. Có thể có hoặc không d. a, b, c đều sai
76. Trong tam đoạn luận đơn hợp logic, trung từ phải thế nào?
a. Có mặt trong cả hai tiền đề b. Chu diên ít nhất một lần
c. Không xuất hiện ở kết luận d. Cả a, b, c đều đúng
77. Trong tam đoạn luận đơn, nếu hai tiền đề là phán đoán E và O thì kết luận hợp
logic là phán đoán:
a. A b. I
c. O d. Cả a, b, c đều sai
78. Trong tam đoạn luận đơn, nếu hai tiền đề là phán đoán A và I thì kết luận hợp
logic là phán đoán:
a. A b. I
c. A hay I d. O
79. Trong tam đoạn luận đơn, nếu hai tiền đề là phán đoán I và O thì kết luận hợp
logic là phán đoán:
a. E b. I
c. O d. Cả a, b, c đều sai
80. Trong tam đoạn luận đơn hợp logic, nếu có một tiền đề là phán đoán O thì kết
luận là phán đoán:
a. E b. I
c. O d. Cả a, b, c đều sai
81. Trong tam đoạn luận đơn hợp logic, nếu có một tiền đề là phán đoán I thì kết
luận là phán đoán:
a. I b. O
c. I hay O d. Cả a, b, c đều sai
82. Trong tam đoạn luận đơn hợp logic, nếu có hai tiền đề là phán đoán E và I thì
kết luận là phán đoán:
a. E b. I
c. O d. Cả a, b, c đều sai
194

83. Trong tam đoạn luận đơn hợp logic, nếu có hai tiền đề là phán đoán A và E thì
kết luận là phán đoán:
a. A hay E b. E hay O
c. E d. O
84. Tam đoạn luận hình I được biểu diễn như thế nào?
a. P-M, M-S, S-P b. M-P, S-M, S-P
c. P-M, S-M, S-P d. M-P, M-S, S-P
85. Tam đoạn luận hình II được biểu diễn như thế nào?
a. P-M, M-S, S-P b. M-P, S-M, S-P
c. P-M, S-M, S-P d. M-P, M-S, S-P
86. Tam đoạn luận hình III được biểu diễn như thế nào?
a. P-M, M-S, S-P b. M-P, S-M, S-P
c. P-M, S-M, S-P d. M-P, M-S, S-P
87. Tam đoạn luận hình IV được biểu diễn như thế nào?
a. P-M, M-S, S-P b. M-P, S-M, S-P
c. P-M, S-M, S-P d. M-P, M-S, S-P
88. Kiểu nào sau đây đúng với tam đoạn luận hình I?
a. AAA b. AEE
c. AEO d. IAI
89. Kiểu đúng của tam đoạn luận hình II:
a. IAI b. AAA
c. AII d. AOO
90. Kiểu đúng của tam đoạn luận hình III:
a. IAI b. AAA
c. AAI d. IEO
91. Kiểu đúng của tam đoạn luận hình IV:
a. AOO b. IAI
c. AII d. IEO
92. Tam đoạn luận kiểu IAI cấu trúc theo hình II vi phạm quy tắc gì?
a. Trung từ phải chu diên ít nhất một lần
b. Thuật ngữ không chu diên tiền đề mà chu diên kết luận
195

93. Tam đoạn luận kiểu OAO, cấu trúc theo hình III thì hợp logic hay không hợp
logic?
a. Hợp logic b. Không hợp logic
94. Kiểu EIO đúng hay sai? Biết rằng trong tam đoạn luận đơn này trung từ là chủ
từ trong cả hai tiền đề: EIO úng i vi c 4 hình
a. Sai, vì trung từ không chu diên trong cả hai tiền đề
b. Đúng, vì tuân theo tất cả các quy tắc của tam đoạn luận đơn
c. Sai, vì tiểu từ không chu diên trong tiền đề nhưng chu diên trong kết luận
d. Sai, vì đại từ không chu diên trong tiền đề nhưng chu diên trong kết luận
95. Kiểu AIO đúng hay sai? Biết rằng trong tam đoạn luận đơn này trung từ là chủ
từ trong đại tiền đề và là vị từ trong tiểu tiền đề:
a. Sai, vì trung từ không chu diên trong cả hai tiền đề
b. Sai, vì đại từ không chu diên trong tiền đề nhưng chu diên trong kết luận
c. Sai, vì hai tiền đề là phán đoán khẳng định mà kết luận là phán đoán phủ
vi phm quy tc 4: kt lun là phán oán ph nh khi và ch khi
định 1 trong 2 phán oán tin là ph nh
d. b, c đều đúng
96. “Nam phải học logic, bởi vì Nam là sinh viên mà mọi sinh viên đều phải học
logic” là tam đoạn luận dume câu này o ma canada vl

a. Đúng, vì tiền đề và kết luận đều đúng


b. Đúng, vì tuân thủ tất cả các quy tắc của tam đoạn luận đơn
c. Sai, vì không phải sinh viên nào cũng phải học logic
d. Sai, vì cả hai tiền đề là phán đoán khẳng định
97. Kiểu tam đoạn luận đơn AAI hình II, đúng hay sai, vì sao?
a. Sai, vì thuật ngữ không chu diên trong tiền đề nhưng chu diên trong kết luận
b. Sai, vì trung từ không chu diên trong cả hai tiền đề
c. Sai, vì cả hai tiền đề là phán đoán toàn thể mà kết luận là phán đoán bộ phận
d. Đúng, vì thỏa mãn các quy tắc của tam đoạn luận đơn
98. Kiểu tam đoạn luận đơn OAO hình IV, đúng hay sai, vì sao?
a. Sai, vì đại từ không chu diên trong tiền đề nhưng chu diên trong kết luận
b. Sai, vì trung từ không chu diên trong cả hai tiền đề
c. Sai, vì tiểu từ không chu diên trong tiền đề nhưng chu diên trong kết luận
d. Đúng, vì thỏa mãn các quy tắc của tam đoạn luận đơn
196

99. Mệnh đề nào bị lược bỏ trong tam đoạn luận hợp logic M+aP- ; S+a P- :
a. M+aS- b. M-oS+
c. S+aM- AAA d. S-iM-
100. Mệnh đề nào bị lược bỏ trong tam đoạn luận hợp logic M+aP- ; M+a S- :
a. S+eP+ b. S-oP+
c. S+aP- d. S-iP- AAI

101. Mệnh đề nào bị lược bỏ trong tam đoạn luận hợp logic P+aM- ; S-oM+ :
a. S+eP+ b. S-oP+ AAO
c. S+aP- d. S-iP-
102. Mệnh đề nào bị lược bỏ trong tam đoạn luận hợp logic P+aM- ; S-i P- :
a. M+aS- AAI
b. M-iS-
c. S+aM- d. S-iM-
103. Mệnh đề nào bị lược bỏ trong tam đoạn luận hợp logic P+eM+ ; M-i S- :
a. S+eP+ b. S-oP+ EIO
c. S+aP- d. S-iP-
104. Công thức suy luận nào sau đây không hợp logic?
a. (( p  q )  ~ p )  q
b. ((( p  ~q )  (r  ~ q ))  ( p  r ))  ~ q
c. ((( p  q )  ( r  q ))  ~ q)  (~ p  ~ r ) dùng phng pháp loi tr ch hok bik làm
105. Công thức suy luận nào sau đây hợp logic?
a. ((( p  q )  r )  ( r  t ))  (( p  q )  t)
b. ((( p  ~q )  (r  q ))  ( p  r ))  q
c. (((~ p  q )  (~ r  q))  ~ q)  (~ p  ~ r )
106. Suy luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Nếu sự tiêu thụ nhiên liệu dầu mỏ càng ngày càng nhiều như hiện nay thì nhiệt
độ Trái Đất sẽ tăng. Nếu nhiệt độ Trái Đất tăng thì băng tuyết sẽ tan chảy. Nếu băng
tuyết tan chảy thì nước biển sẽ dâng lên. Nếu nước biển dâng lên thì Việt Nam là một
trong những nước chịu thiệt hại lớn nhất. Vậy, nếu tiêu thụ nhiên liệu dầu mỏ càng
ngày càng nhiều thì Việt Nam là một trong những nước chịu thiệt hại nhiều nhất.
a. Hợp logic b. Không hợp logic
197

107. Công thức suy luận nào sau đây hợp logic?
a. (( p  q )  ~q )  ~ p kh hp
b. ((( p  q )  ( r q))  ~ q)  ( p  r ) kh hp
c. ((( p  q )  (r  q ))  ( p  r ))  q
108. Suy luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Nếu việc xem ti vi có thể đem lại sự thư giãn đích thực thì ti vi làm tăng chất
lượng cuộc sống. Việc xem ti vi không đem lại sự thư giãn đích thực. Vậy ti vi không
[(P-->Q) ^ ~P] --> ~Q
làm tăng chất lượng cuộc sống.
Công thc úng hp logic dng 2 là: [(P-->Q) ^ ~Q] --> ~P
a. Hợp logic b. Không hợp logic
109. Suy luận sau đây theo công thức suy luận nào?
Nếu Mặt Trời là một vật thể vận động bằng năng lượng thì năng lượng của nó
có thể suy giảm nhiều ở thời điểm nào đó trong tương lai. Nếu năng lượng Mặt Trời
suy giảm nhiều ở thời điểm nào đó trong tương lai thì lúc đó Trái Đất sẽ biến thành
một quả cầu băng giá. Vậy, nếu Mặt Trời là một vật thể vận động bằng năng lượng
thì Trái Đất sẽ có lúc biến thành quả cầu băng giá trong tương lai.
a. (( p  q )  ~ p )  q
b. ((( p  q )  (r  ~ q ))  ( p  r ))  ~ q
c. ((( p  q )  ( q r ))  ( p r ) Dng thc 3

110. Công thức suy luận nào sau đây không hợp logic?
a. (( m  n  t )  ( ~n  ~ t )  m hp logic

b. ((( f  ~ g )  (r ~ g))  ( f  r ))  ~ g hp logic

c. (((~ p  q )  (~ r  q))  ( p  r ))  q
111. Tam đoạn luận kiểu EOI, kết cấu theo hình IV. Vi phạm quy tắc gì?
a. Một trong hai tiền đề là phán đoán bộ phận thì kết luận phải là phán đoán bộ
phận.
b. Tiền đề là hai phán đoán phủ định không rút ra được kết luận gì
112. Suy luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Nếu tiếp tục dùng than đốt thì sẽ thải kim loại nặng vào trong bầu không khí.
Nếu kim loại nặng không còn thải vào không khí nữa thì nguy cơ bệnh tật của con
người sẽ giảm. Vậy, nếu không tiếp tục dùng than đốt thì nguy cơ bệnh tật của con
người sẽ giảm.
a. Hợp logic b. Không hợp logic
198

113. Suy luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Nếu tuyển sinh đại học là sự lựa chọn nhân tài cho đất nước thì việc tuyển sinh
phải thực hiện một cách công bằng. Nếu thực hiện một cách công bằng thì phải loại
trừ chế độ ưu tiên về điểm số cho một số đối tượng trong xã hội. Hiện nay Bộ giáo
dục vẫn ưu tiên điểm số trong tuyển sinh đại học. Vậy, chứng tỏ việc tuyển sinh đại
học hiện nay chưa thực hiện một cách công bằng.
a. Hợp logic b. Không hợp logic
114. Tam đoạn luận sau vi phạm quy tắc gì?
Cá là loài biết bơi
Cá là loài thở bằng mang
Vậy, mọi loài thở bằng mang là loài biết bơi.
a. Tiền đề là hai phán đoán bộ phận rút ra kết luận
b. Trung từ không một lần chu diên.
c. Thuật ngữ không chu diên ở tiền đề thì không chu diên ở kết luận.
d. Tiền đề là hai phán đoán phủ định
115. Công thức suy luận nào sau đây hợp logic?
a. (( p  q  r )  r )  ( ~ p  ~ r )
b. ((( p  ~q )  (r  ~ q ))  ( p  r ))  q
c. (((~ p  q )  ( r  q ))  ~ q)  ( p  ~ r )
116. Suy luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Nếu các bác sĩ thực hiện “cái chết nhân đạo” cho những bệnh nhân thời kì cuối,
thì họ đứng trước nguy cơ phạm tội giết người. Nhưng nếu không làm vậy, thì họ
đang kéo dài tình trạng đau đớn của các bệnh nhân. Bởi vì các bác sĩ phải làm thế
hoặc là không. Nên hoặc là họ sẽ đúng trước nguy cơ phạm tội giết người hoặc là
kéo dài tình trạng đau đớn của những bệnh nhân .
a. Hợp logic b. Không hợp logic
117. Một trong những quy tắc của suy luận loại suy là:
a. Hai đối tượng phải cùng một gốc
b. Hai đối tượng phải cùng một chức năng
c. Loại suy từ những yếu tố càng cơ bản thì kết luận càng tiệm cận đến chân lý
118. Tam đoạn luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Người Việt Nam phải đội mũ bảo hiểm khi sử dụng xe gắn máy
Alex không phải là người Việt Nam
Vậy, Alex không phải đội mũ bảo hiểm khi sử dụng xe gắn máy.
199

a. Hợp logic b. Không hợp logic


119. Công thức suy luận nào sau đây hợp logic?
a. (((( p  q )  t ))  (( m  n )  p)))  ( t  p ))  ( p  m )
b. (((~ p  q )  (~ r q))  ~ q)  ( p  r )
c. (((~ p  q )  (r  ~ q ))  ( p  r ))  q
120. Suy luận sau đây theo công thức nào?
Nếu dân số thế giới tiếp tục tăng thì các thành phố lớn sẽ quá tải. Nếu các thành
phố lớn quá tải thì nạn ô nhiễm môi trường càng trầm trọng. Vậy, nếu dân số thế giới
tiếp tục tăng thì nạn ô nhiễm môi trường càng trầm trọng.
a. (((( p  q )  t)  t )  (p  q )
b. (((~ p  q )  (~ r q))  ~ q)  ( p  r )
c. ((( p  q )  (q  r ))  ( p  r )
121. Suy luận sau đây hợp logic hay không hợp logic?
Einstein đạt giải Nobel nhờ ông đã lí giải hiệu ứng quang điện hoặc thuyết
tương đối. Mà ông đã đạt giải Nobel nhờ lí giải được hiệu ứng quang điện. Vậy,
Einstein đã không đạt giải Nobel nhờ lí giải được thuyết tương đối. (P v Q) ^ P --> ~Q
a. Hợp logic b. Không hợp logic
122. Công thức suy luận nào sau đây hợp logic?
a. ((( p  q )  ( r  t ) Ʌ ( p  r))  ( q  t )
b. (((~ p  q )  (~ r q))  ~ q)  ( p  r )
c. ((( p  t )  (r  t ))  (~ p  ~r ))  ~ t
123. Công thức suy luận nào sau đây không hợp logic?
a. ((( p  ~q)  (r  ~q))  q ) (~p  ~r )
b. (((~ p  q)  (r  q))  ( p  r ))  q
c. (((( p  q) ~ t ))  ((m  n )  ~f )))  (~t  ~f))  (p  m)
124. Suy luận quy nạp là:

a. Suy luận từ tiền đề chứa tri thức riêng để rút ra kết luận là tri thức chung

b. Suy luận từ tiền đề chứa tri thức chung để rút ra kết luận là tri thức riêng

c. Suy luận dựa trên mối liên hệ nhân quả để rút ra kết luận

d. Suy luận đi từ những quy luật, khái niệm tổng quát rút ra hệ quả tất yếu của
chúng
200

125. Quy nạp hoàn toàn cho ta kết luận:


a. Không chính xác b. Chính xác, khái quát, nhưng không mới
c. Mang tính xác suất d. Có ý nghĩa phát minh
126. Quy nạp mở rộng khoa học cho ta kết luận:
a. Chính xác, nhưng không có gì mới so với tiền đề đã biết.
b. Tri thức rộng hơn tiền đề, nhưng chỉ có giá trị xác suất, cần tiếp tục chứng
minh.
c. Chính xác, mới và khái quát.
d. Là một luận điểm khoa học chính xác
127. Phương pháp tương đồng, phương pháp khác biệt, phương pháp đồng biến,
phương pháp thặng dư là do:
a. Fracis Bacon xây dựng dành cho khoa học thực nghiệm
b. Renes Decartes xây dựng dành cho khoa học lý thuyết
c. Suart Mill xây dựng dành cho khoa học thực nghiệm
d. a, b, c đều sai
128. “Trường hợp 1 có các sự kiện a, b, c, d thấy xuất hiện hiện tượng M. Trường
hợp 2 có các sự kiện e, f, a, b thấy xuất hiện hiện tượng M. Trường hợp 3 có các sự
kiện a, f, g, h thấy xuất hiện hiện tượng M. Vậy a là nguyên nhân làm xuất hiện hiện
tượng M.” Suy luận này dựa trên phương pháp gì?
a. Phương pháp tương đồng b. Phương pháp khác biệt
c. Phương pháp đồng biến c. Phương pháp thặng dư
129. “Trường hợp 1 có các sự kiện a, b, c, d thấy xuất hiện hiện tượng M. Trường
hợp 2 có các sự kiện b, c, d nhưng hiện tượng M xuất hiện. Vậy a là nguyên nhân làm
xuất hiện hiện tượng M.” Suy luận này dựa trên phương pháp gì?
a. Phương pháp tương đồng b. Phương pháp khác biệt
c. Phương pháp đồng biến d. Phương pháp thặng dư
130. “Trường hợp 1 có các sự kiện a, b, c, d thấy xuất hiện hiện tượng M. Trường
hợp 2 có các sự kiện a’, b, c, d thấy xuất hiện hiện tượng M’. Trường hợp 3 có các
sự kiện a”, b, c, d thấy xuất hiện hiện tượng M”. Vậy a là nguyên nhân làm hiện
tượng M xuất hiện.” Suy luận này dựa trên phương pháp gì?
a. Phương pháp tương đồng b. Phương pháp khác biệt
c. Phương pháp đồng biến d. Phương pháp thặng dư
201

131. Chứng minh là thao tác logic:

a. Đi từ những tiền đề tới kết luận đúng

b. Thuyết phục người khác bằng tính chân thực của luận đề mà mình đưa ra

c. Dựa trên các luận cứ chân thực để xác lập tính chân thực của luận đề

d. Vạch ra tính sai lầm của phản luận đề

132. Cấu trúc của phép chứng minh gồm:


a. Phán đoán, quy luật, khái niệm
b. Phán đoán, suy luận, luận chứng
c. Luận đề, luận cứ, luận chứng.
133. Để phép chứng minh thuyết phục, khi chứng minh cần phải đưa ra luận cứ gì?
a. Luận cứ cần b. Luận cứ đủ
134. Bác bỏ là thao tác logic:

a. Phê bình gay gắt một luận điểm nào đó

b. Một dạng chứng minh phản chứng

c. Vạch ra tính giả dối của luận đề

d. Cả a, b, c đều đúng

135. Ngụy biện là:


a. Việc sử dụng sai các khái niệm, phán đoán, suy luận
b. Cố ý vi phạm quy tắc logic tinh vi trong mọi quá trình lập luận
c. Cố ý vi phạm quy tắc logic nhằm thay đổi giá trị chân lý của luận đề
d. Lý giải gian xảo, phi đạo đức nhằm chiến thắng đối phương.
202

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bochenski, I.M., A History of Formal Logic, Notre Dame Press, 1961.

2. Bochenski, The Logique of Religion, University Press, USA, 1965.

3. Bùi Thanh Quất, Giáo trình Logic hình thức, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
1998.

4. Carnap. R., The Logic Syntax of Language, London, 1957.

5. Feferman, Anita B.; Feferman, Solomon, Alfred Tarski: Life and


Logic, Cambridge University Press. ISBN 9780521802406.
OCLC 54691904, 2004.

6. Haaparanta, Leila (ed.), The Development of Modern Logic, Oxford University


Press, 2009.
7. Hodges, W., Logic. An introduction to Elementary Logic, Penguin Books,
2001.

8. Hoàng Chúng, Logic học phổ thông, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
2006.

9. Hurley Patrick J, Logic,7thEdition, Wadsworth, USA, 2002.

10. Józef Maria Bocheński, A history of formal logic, 2nd Edition, Translated and
edited from the German edition by Ivo Thomas, Chelsea Publishing, New
York, 1970.

11. Kneale, William, and Kneale, Martha, The Development of Logic, Oxford
University Press, London, UK, 1962.

12. Kuhl, Thomas, “Logic of Discovery or Psychology of Research” in Critism


and the Growth of Knowledge, Cambridge, 1970.

13. Lê Tử Thành, Nhập môn logic học, Nxb. Trẻ, 2008.

14. Lê Thành Trị, Luận lý học toán học đại cương, Trung tâm Học liệu, Sài Gòn,
1972.
203

15. Lê Doãn Tá, Tô Duy Hợp, Vũ Trọng Dung, Giáo trình Logic học, Nxb. Chính
trị Quốc gia, 2007.

16. Morgan A., Formal Logic, London, 1926.

17. Nguyễn Đức Dân, Logic và tiếng Việt, Nxb. TP HCM, 2000.

18. Nguyễn Đức Dân, Giáo trình Nhập môn logic hình thức, Nxb. Đại học Quốc
gia TP Hồ Chí Minh, 2008.

19. Nguyễn Như Hải, Logic học đại cương, Nxb. Đại học Sư phạm, 2014.

20. Nguyễn Văn Trấn, Logic vui, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1993.

21. Nguyễn Trọng Văn, Logic học, ĐH. Tổng hợp, 1993.

22. Nguyễn Thuý Vân, Nguyễn Anh Tuấn, Logic học đại cương, Hà Nội, 2007.
23. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn logic học, Nxb. Đại học Quốc gia TP HCM,
2005.
24. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn logic học, Nxb. Đại học Quốc gia TP HCM,
2011.
25. Paul A. Gregory, Formal Logic, Broadview Press, 2017.
26. Scott M. Sullivan, An Introduction To Traditional Logic: Classical Reasoning
For Contemporary Minds, Booksurge Publishing, North Charleston SC.,
America, 2006.

27. Thomas Macaulay, Ferguson, Meaning and Proscription in Formal Logic,


Springer International Publishing AG 2017.

28. Trần Hoàng, Logic học nhập môn, Nxb. Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh,
2002.
29. Võ Văn Thắng, Giáo trình Logic học hình thức, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự
thật, 2017.
30. Vương Tất Đạt, Logic học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.

You might also like