Professional Documents
Culture Documents
Sự vận dụng lý trí cách đúng đắn như là phương thế để đạt được hạnh phúc
theo quan điểm của Marcus Aurelius trong tác phẩm Meditations
Luận văn tốt nghiệp
chương trình Triết Học
tại Học Viện Thánh Giuse – Dòng Tên Việt Nam
Học viên thực hiện
Phêrô Maria Trần Tử Thiêng, S.J.
Giáo sư hướng dẫn
Phêrô Nguyễn Anh Thường, Ph.D.
Tháng 03 năm 2021
Mục Lục
Phần Mở Đầu
o Lý do chọn đề tài
o Phương pháp nghiên cứu
o Phạm vi nghiên cứu
o Đối tượng nghiên cứu
o Ý nghĩa nghiên cứu
o Đóng góp của nghiên cứu
Chương 1 Tổng Quan Bối Cảnh Lịch Sử
o Thân thế sự nghiệp
o Tiền đề làm nên tư tưởng
o Một vài phác họa về tác phẩm
Chương 2 Vị Trí Của Con Người Trong Thế Giới
o Đau khổ và cái chết
o Sự sống
o Sứ mạng – siêu hình
Chương 3 Nhận Thức, Suy Tư Như Là Tiền Đề Cho Việc Tìm Đến Ý Nghĩa Hiện Hữu
Của Một Cá Nhân
o Giáo dục – kinh nghiệm
o Chiêm ngắm thế giới
o Suy tư
Chương 4 Nhân Đức Như Cách Thế Hoàn Tất Việc Đi Tìm Hạnh Phúc
o Bản thân
o Tha nhân
o Thượng Đế
Chương 5 Sử Dụng Lý Trí Đúng Đắn Như Là Cách Thức Để Tiến Đến Một Sự Hiện Hữu
Trọn Vẹn
Kết Luận
Thư Mục Tham Khảo
Phần Mở Đầu
Lý do chọn đề tài
Ngang qua các phương tiện thông tin đại chúng, hiện trạng của thế giới cho thấy
con người ngày nay đang đối diện với nhiều vấn đề về luân lý, tư tưởng, chính
trị, kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, đây không phải là những vấn đề chỉ có ở thế giới
hiện đại. Suốt chiều dài lịch sử, nhân loại luôn phải đối diện với một câu hỏi
mang tính hiện sinh “ý nghĩa của cuộc sống này là gì?”. Con người luôn bị chính
câu hỏi đó thôi thúc để có thể đi tìm ý nghĩa thật sự của sự hiện hữu của mình.
Và tất cả mọi hành động của con người cốt yếu là để đáp trả cho câu hỏi mang
tính lịch sử ấy. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là với một lý tưởng cao đẹp như
vậy, tại sao đời sống lại nảy sinh những vấn đề tiêu cực như thế? Dù khác nhau
về cách thức diễn tả, nhưng tựu chung lại, những vấn đề đó hướng đến một
khao khát tự nhiên của con người, đó là khao khát đi tìm hạnh phúc. Tuy vậy,
những cách thức khác nhau ấy lại đem lại những hậu quả khác nhau về lối sống,
có khi là tiêu cực. Và đến cực độ, con người trong chính sự bế tắc của mình phải
tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Chính vì thế, nghịch lý xảy đến là con
người đi tìm hạnh phúc nhưng lại đánh mất hạnh phúc của chính mình. Vậy đâu
mới là con đường mà chủ thể có thể vận dụng để đi tìm hạnh phúc đích thực?
Bài viết này mong muốn đóng góp một phần vào trong tiến trình suy tư ấy, chí ít
là với phương diện cá nhân, để giúp đưa con người tới một nhận thức sâu xa về
chính mình hơn để cuộc sống được hạnh phúc hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Qua việc đào sâu bản văn, bài viết sẽ đi theo hướng tiếp cận hiện sinh nhất của
con người với câu hỏi về cái chết. Từ đó, cái chết sẽ hướng dẫn con người tìm
ra được ý nghĩa của cuộc sống này. Qua đó, con người bắt đầu quá trình suy tư
để biết mình phải làm gì trong thế giới này. Để rồi, con người có thể sống những
gì mình đã nghiệm được bằng đời sống nhân đức để có thể có được một hạnh
phúc đích thực trong cuộc đời.
Phạm vi nghiên cứu
Bài viết tập trung chính vào tư tưởng khắc kỷ hiện sinh trong tác phẩm Suy
Tưởng của tác giả Marcus Aurelius.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của bài viết là mối tương quan giữa hạnh phúc và lý
trí của con người. Hay nói cách khác, bài viết nhắm đến việc con người có thể
có hy vọng đạt đến được hạnh phúc của chính mình nhờ sự vận dụng lý trí một
cách đúng đắn.
Ý nghĩa nghiên cứu
Bài viết trước hết xác định được vị trí sự hiện hữu của con người trong thế giới.
Từ đó, việc sử dụng lý trí đúng đắn trở nên cách thức giúp con người đi tìm ý
nghĩa của cuộc đời mình và từ đó đạt được một đời sống hạnh phúc.
Đóng góp của nghiên cứu
Đề nghị một lối sống để giúp giải quyết vấn đề đau khổ của đời sống trong bối
cảnh hiện nay
Chương 1
Tổng Quan Bối Cảnh Lịch Sử
Thân thế sự nghiệp
Marcus Aurelius (Marcus Aurelius Antoninus Augustus ; 26 tháng 4 năm 121 –
17 tháng 3 năm 180 sau Công nguyên) là hoàng đế La Mã từ năm 161 đến 180.
Ông mất cha từ sớm nên được ông nội nhận nuôi. Sau này, ông được hoàng đế
Hadrianus nhận làm con nuôi và được thừa kế ngai vàng.
Tác giả sinh sống và tác phẩm được hình thành trong bối cảnh của đế chế La
Mã trong thời kỳ thịnh vượng. Đây là lúc đế chế trải dài trong một vùng đất rộng
lớn với số dân ước tính khoảng 80 triệu người, gồm đủ các sắc tộc và cả người
nô lệ.[1] Mọi việc trong đế chế chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất là đi chinh
phạt các vùng đất mới và bảo vệ đế chế trước nguy cơ của ngoại xâm. Đây cũng
là yếu tố quan trọng để xây dựng nên ý niệm về công ích của Marcus Aurelius.
Vì việc chinh chiến cần rất nhiều nguồn lực về nhân lực và vật lực, nên việc kêu
gọi sự đóng góp của người dân được xem như là vấn đề thiết yếu. Hơn nữa,
môi trường quân đội đòi hỏi một sự kỷ luật rất cao, nên được xem như là cách
để rèn luyện ý chí và lý trí. Chính trong một môi trường như thế, yếu tố lý trí
được đề cao như là cách để đưa đến việc hành xử trong xã hội. Bên cạnh đó,
một lối sống hưởng thụ cũng chi phối phần lớn cư dân của đế quốc.
Sự phân cấp trong xã hội cũng là một trong những yếu tố nổi bật của thời kỳ
này. Người La Mã đã duy trì chế độ chiếm hữu nô lệ trong gần 1000 năm hình
thành của đế quốc. Mọi sản phẩm của đế chế gần như được sản xuất dưới bàn
tay của người nô lệ.[2] Trong bối cảnh này, yếu tố tự do hay giải phóng là điều
thường được nhắc đến. Do đó, muốn duy trì được một bộ máy chính trị ổn định,
nhà cầm quyền phải đảm bảo được tính công bằng cho xã hội. Đây chính là một
trong những nhân đức trụ mà Aristotles đã nghị. Tuy vậy, Aurelius còn tiến xa
hơn. Ông không chỉ nhắm đến tự do của thể xác nhưng là sự tự do của tinh
thần. Một sự tự do để làm chủ bản thân. Những điều này sẽ được đề cập cách
sâu hơn ở phần sau.
Tuy nhiên, điểm nhấn ở đế chế La Mã lúc này chính là sự kế thừa các tư tưởng
tinh hoa của các bậc tiền nhân. Đặc biệt, nền giáo dục đã tương đối phát triển
với nhiều trường học được mở ra. Những xu hướng này đã góp phần ảnh
hưởng đến tư tưởng của Marcus Aurelius sau này.
Tiền đề làm nên tư tưởng
Marcus Aurelius tiếp thu một nền giáo dục văn chương và tu từ. Vì thế, ông bị
ảnh hưởng ban đầu bởi những truyền thống này. Tuy nhiên, nhờ một nền giáo
dục như thế, ông đã có cơ hội được tiếp xúc với nhiều hệ thống tư tưởng Hy La
thời cổ đại. Đặc biệt, ông chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng khắc kỷ của
Epictetus ngang qua người thầy của ông là Rusticus.[3]
Phái khắc kỷ được xem như là do Zeno khởi xướng vào thế kỷ thứ tư trước công
nguyên. Tuy nhiên, người đã xây dựng triết lý khắc kỷ thành một hệ thống triết
học có sức ảnh hưởng lớn lại là Seneca và Epictetus. Aurelius đã tiếp cận gần
nhất với tác phẩm Discourses của Epictetus và tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu
đậm trên triết thuyết khắc kỷ của ông. Triết lý khắc kỷ nhắm đến giải thích 3 vấn
đề chính: vật lý, luận lý và đạo đức. Vật lý đến từ truyền thống Heraclitus. Luận
lý đến từ truyền thống của Aristotles. Cuối cùng, đạo đức đến từ truyền thống
của Socrates.[4] Trong ba yếu tố này thì đạo đức đóng vai trò cốt lõi. Vật lý và
luận lý tự bản thân nó không phải là đối tượng để cho con người nhắm đến.
Chúng đơn thuần chỉ mang tính chất của tri thức luận. Trái lại, đạo đức mang
trong mình yếu tố cùng đích mà con người đang nhắm đến. Tuy nhiên, cả ba yếu
tố này liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Bởi vì, con người sẽ không hiểu được một
lối sống đạo đức sẽ như thế nào hay bản chất của con người là gì nếu như thiếu
đi sự hiểu biết về thế giới mà họ đang sống. Như Gourinat đã nhận định: “Tự
nhiên trở thành không chỉ như là cùng đích của đạo đức nhưng còn là nền tảng
và điểm khởi của đạo đức.”[5] Nền tảng và điểm khởi là căn cứ để cho đạo đức
được hiện thực. Và đối tượng của các hành động nhân đức là chính môi trường
mỗi người đang sống.
Tuy nhiên, cách nhìn của Aurelius được xem là khá mở khi ông cũng dung hòa
tư tưởng của phái khoái lạc và các tử tưởng khác.[6] Tất cả được hòa quyện trong
một phương cách mới cho những suy tư của ông.
Một vài phác họa về tác phẩm
Tác phẩm Suy tưởng không phải là một tác phẩm chính thống của Marcus
Aurelius. Thay vào đó, nó là tập hợp những suy tư của chính ông về cuộc đời.
Người viết là Marcus Aurelius và đối tượng cũng chính là Marcus Aurelius.[7] Vì
thế, người đọc cần đặt mình trong vị thế của Marcus Aurelius với tất cả bối cảnh
của La Mã cổ đại.
Tác phẩm Suy Tưởng không mang trong mình một cấu trúc cụ thể. Mặc dù vậy,
tác phẩm vẫn được chia thành 12 phần và trong mỗi phần được chia nhỏ thành
các phân đoạn. Những phần này không được nối kết với nhau theo một trật tự.
Tuy vậy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt nối các phần lại với nhau là cách sử dụng lý trí để
nhận biết và sống trong thế giới này để đi tìm hạnh phúc. Các chủ đề của
cuốn Meditations sẽ quay quanh chủ đề chính, đó là cách thức để con người vận
dụng được lý trí trong cuộc sống.
Chương 2
Vị Trí Của Con Người Trong Thế Giới
Đau khổ và cái chết
Đối với cách nhìn bình thường, sự đau khổ của con người được xem như là sự
xấu. Đây là một kinh nghiệm hiện sinh sâu xa của của con người. Khi sinh ra,
chắc hẳn ai cũng đã từng có kinh nghiệm về sự đau khổ, không những chỉ ở thể
xác mà còn là tinh thần. Chính vì thế, đau khổ trở thành một thực tại chi phối đời
sống con người. Sự chi phối ấy ảnh hưởng rất cụ thể lên từng hành động của
bản thân. Có thể nói như phái khoái lạc, con người lựa chọn dựa theo những
cảm xúc khoái lạc hay đau khổ của mình.[8]
Hơn thế nữa, còn một sự đau khổ khác, một sự đau khổ đến tận cùng đó chính
là cái chết. “Con người là hữu thể hướng về cái chết.”[9] Ý tưởng nổi tiếng này
của Heidegger nêu bật lên tính hiện sinh của con người. Tuy vậy, không phải
cho đến thời của ông mà nhân loại mới ý thức được sự hữu hạn của mình. Ngay
từ thời cổ đại, cái chết luôn là một sự bí ẩn dành cho triết học. Mọi người ai sinh
ra cũng khác nhau, khác về tính tình, về thể lý và tâm lý. Tuy vậy, tất cả mọi
người đều gặp nhau ở một điểm chung này đó chính là cái chết. Hơn nữa, dù là
sự đau khổ hay cái chết có hiện diện một cách hiển nhiên, nhưng không chắc
rằng bất cứ ai cũng có thể ý thức đầy đủ về nó.
Khi đối diện với cái chết, phản ứng của con người thường là sợ hãi và rất tiêu
cực. Vậy, vấn đề đặt ra là tại sao cái chết rất hiển nhiên nhưng ai cũng sợ hãi khi
đối diện với nó? Câu trả lời hệ tại ở việc con người không ý thức và đón nhận
được thực tại của cái chết. Hay nói cách khác, ý nghĩa của cái chết bị con người
bỏ qua khi quá bám víu vào sự sống. Trong khi đó, ý nghĩa thật sự của cái chết
chính là một sự ý thức về tính hữu hạn của con người để từ đó con người mới đi
tìm những điều thật sự ý nghĩa để thực hiện trong cuộc đời này. Đây là điều cơ
bản để những giá trị của sự suy tư khởi đi.
Điều này đã được Aurelius mô tả rất cụ thể trong những suy tư của mình. Phần
4 trong tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến cái chết như sau:
Cái chết, cũng giống như sự ra đời, là một bí ẩn của tự nhiên, một bên là sự kết
hợp lại với nhau của chính những nguyên tố và một bên phân tán chúng về trạng
thái ban đầu, nhưng đó không phải là điều gì đó mà người ta phải xấu hổ, vì nó
không mâu thuẫn với những gì có lợi cho một sinh vật có lý trí cũng như với các
nguyên tắc trong thể chế của nó.[10]
Cái chết, theo cách nhìn của Aurelius không gì khác hơn là sự phân rã của các
nguyên tố. Quá trình này đi ngược lại với sự sinh ra. Đây là góc nhìn mang tính
thuần vật lý.[11] Như thế, với góc nhìn này, cái chết là sự biến đổi tất yếu của mọi
sự vật. Nói cách khác, sinh ra và chết đi là quy luật bất biến của vũ trụ. Mọi vật
trong vũ trụ đều phải trải qua quá trình này.[12] Và con người, một hữu thể trong
vũ trụ, cũng phải chịu chung một số phận như thế. Tuy cái chết là hiển nhiên,
nhưng nó vẫn chứa đựng trong mình những bí ẩn. Vấn đề này đặc biệt liên quan
đến ý niệm về con người, cụ thể là sự bất tử của linh hồn.
Marcus Aurelius chấp nhận lý thuyết về linh hồn và thể xác.[13] Tuy nhiên, chính
ông lại phản bác ý kiến cho rằng linh hồn có sự bất tử.[14] Đối với ông, linh hồn
cùng chết với thân xác và chẳng có gì là tồn tại sau cái chết. Điều này trái ngược
với nhiều nguồn tư tưởng khác. Cụ thể, tư tưởng Kitô giáo quan niệm rằng linh
hồn thì bất tử và có sự sống đời sau.[15] Chính vì có quan niệm khác nhau về sự
bất tử của linh hồn nên quan niệm về cái chết cũng khác nhau. Một bên quan
niệm cái chết chỉ như là một sự chuyển tiếp giữa giai đoạn đời sống hiện tại và
mai sau. Một bên quan niệm cái chết là một sự chấm dứt tuyệt đối vì chẳng còn
gì tồn tại sau cái chết. Cả hai quan điểm này đều gặp phải một nghịch lý, mà
theo cách nói của Kant, là nó vượt quá khả năng hiểu biết của con người. [16] Tuy
vậy, ở đây, Marcus chấp nhận lý thuyết về sự kết thúc thật sự của con người
sau khi chết. Ông không nhìn linh hồn dưới dạng tinh thần nhưng là dưới dạng
vật chất.[17] Linh hồn cũng chiếm không gian. Có thể nói, linh hồn được cấu tạo
cũng bằng những nguyên tố đã cấu tạo nên thân xác. Góc nhìn về thế giới của
ông là một thế giới hữu hạn. Chính vì vậy, mọi sự vật phải tuần hoàn để cho sự
vật khác được tái sinh.[18] Nếu không như vậy, thế giới này sẽ đến lúc đi đến giới
hạn của chính nó. Bằng cách nhìn như thế, Marcus khẳng định về sự chấm dứt
vĩnh viễn của chủ thể. Như thế, điểm nhấn trong lý thuyết của ông quay sang
một góc nhìn khác đó là tầm quan trọng của sự sống.
Đặt mình trong các suy tư, Aurelius đưa nền tảng về cái chết để làm cứ điểm
cho mình. Chính nhờ cái chết mà mọi sự vật có thể lộ ra chân tướng thật của
chính nó.[19] Giàu sang, danh vọng, địa vị… tất cả đều tan biến cùng với cái chết
của chủ thể. Tất cả những thứ kia chỉ thể hiện ra bản chất hữu hạn thật sự của
nó khi chính nó cũng phải đối diện với sự kết thúc. Alexander Đại Đế chia sẻ cái
chết cùng một cách thức với đứa trẻ trông chuồng ngựa.[20] Seneca đã nhắc đến
cái chết như sau: “tự bản chất, cái chết không phải là điều xấu, nó chỉ đơn giản
là sự kết thúc của một người.”[21] Như vậy, cái chết đâu chứa đựng trong nó sự
sợ hãi. Sự sợ hãi chỉ là một tiến trình của tâm lý con người.[22] Chính tự nội tâm
của con người làm cho chính mình phải sợ hãi. Nói đúng hơn, đó là kết quả của
một sự phán đoán sai lầm về một thực tại tự nhiên.[23] Và theo như Aurelius, “nếu
ai đó lại đi sợ tiến trình của tự nhiên, người ấy không hơn gì một đứa trẻ”. [24] Điều
này cũng tương tự với các đau khổ. Đau khổ được coi như là những cảm giác
mà con người phản ứng lại với những sự vật xung quanh. Những yếu tố đau
đớn, buồn, vui, tức giận… là sản phẩm của tinh thần con người.[25] Chính vì thế,
tự bản chất, các cảm xúc này không đặt một nền tảng chung cho mọi người. Và
cũng chính những cảm xúc này làm cho con người mất đi sự yên tĩnh nơi tâm
hồn. Tuy nhiên, điều cần thiết nhắc lại ở đây đó chính là bản chất thật sự của sự
vật. Những gì con người tri nhận chỉ là những hình ảnh của chúng. Do đó, điều
mà con người hướng đến không phải là những hình ảnh ấn tượng bên ngoài,
mà là cái như chúng là. Do đó, cảm xúc tức thời chỉ là phản ứng với hình ảnh
của sự vật trong tâm trí mà không phải là chính sự vật.[26] Vậy, tại sao lại có thể
mang trong mình một tâm thế sợ hãi vì một hình ảnh trong tâm trí? Có lẽ, sẽ là
không hợp lý khi con người lại đi sợ cái mà mình tạo ra. Đúng hơn, con người bị
đòi hỏi để nhận ra chân tướng của sự vật cách rõ ràng nhất để có thể hành động
một cách thiết thực nhất trong đời sống hơn là phản ứng với những ấn tượng
của chúng trong tâm trí. Như Epictetus nhận xét: ‘Điều đáng sợ không phải là cái
chết hay đau khổ nhưng là chính nỗi sợ chết và đau khổ.’[27]
Trái lại với sự sợ hãi, thái độ được mong muốn đối với cái chết là một ‘tâm hồn
vui tươi’[28] vì đã sẵn sàng ở vị trí chủ động. Không còn thế bị động của việc bị cái
chết bóp nghẹt. Chính lý trí đã lột tả sự chân thực của cái chết và đem lại cho nó
vai trò trở thành nền tảng đích thực cho sự lựa chọn. Chính cái chết làm cho sự
sống có ý nghĩa. Như thế, không thể lựa chọn một điều gì nếu không nhớ rằng
một mai ta sẽ chết.
Nói tóm lại, cái chết là một thực tại mà con người luôn phải đối diện trong kiếp
làm người của mình. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cái chết có thể đem lại cho
con người một sự bất an trong tâm hồn. Sự sợ hãi chỉ được xem như là một sản
phẩm của tâm trí khi không nắm bắt đủ thực tại của cái chết. Con người cần phải
nhận ra được chân tướng thực sự của cái chết để có thể đón nhận nó như là
một phần thực sự của sự sống nơi con người.
Sự sống
‘Hãy để cho mọi hành động, lời nói và suy nghĩ của bạn trở nên như thể của một
người sẽ chết bất cứ lúc nào.’[29]
Từ cái chết vĩnh viễn, con người nhận ra giá trị nội tại của sự hiện hữu của chính
mình. Cái chết không làm giảm giá trị của sự sống. Trái lại, cái chết làm cho con
người trân quý sự sống của mình hơn. Trân quý chứ không phải bám víu. Đây là
hai thái độ hoàn toàn khác nhau. Trân quý là nhận ra được ý nghĩa của cuộc
sống và trân trọng nó như nó là. Trong khi đó, bám víu thể hiện một sự sợ hãi,
nuối tiếc về cuộc sống mà không nhận ra được vẻ đẹp nội tại của nó.[30] Chính vì
vậy, có thể nói, cái chết hướng dẫn cách để cho con người sống. Không những
sống, nhưng là sống tốt hơn.[31] Đối với Marcus, bởi vì có cái chết nên cuộc đời
của một người dài ngắn không quan trọng. Quan trọng đó là cá nhân tìm được
một đích nhắm cho cuộc đời của mình.
Bị giới hạn trong không gian và thời gian, con người không thể hoàn toàn làm
những điều mình muốn. Chính vì thế, con người phải có sự lựa chọn. Và đặc
biệt hơn nữa, sự lựa chọn ấy phải đem lại lợi ích cho người đó. Theo một cách
tự nhiên, không ai lại chọn điều không mang lại lợi ích cho bản thân. Do đó, để
sự lựa chọn đem lại kết quả, cá nhân phải đặt sự lựa chọn ấy trong quá trình suy
tư của lý trí. Và quá trình chọn lựa ấy đặt nền tảng trên giá trị.[32] Ngang qua cái
chết, các sự vật lột tả được bản chất thật sự của mình. Và chỉ khi lột bỏ hết tất
cả những gì là bóng bẩy bên ngoài, giá trị thật sự ở bên trong mới được lộ ra. Và
đây mới là điều được xem xét để cho các cá nhân lựa chọn. Đối với một người
đang gần chết vì đói, một mẩu thức ăn thì giá trị hơn cả đống vàng. Ở đây, sự
dịch chuyển đi từ cái ấn tượng bên ngoài đi vào giá trị nội tại bên trong.
Như vậy, vai trò của giá trị là cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn. Và giá trị ấy
có thể mang giá trị về vật chất nhưng cũng có thể mang giá trị về tinh thần.
Trong ví dụ trên, cá nhân ấy có thể lựa chọn miếng ăn để bảo vệ sự sống của
mình. Nhưng Socrates thì khác, ông lựa chọn ly thuốc độc để chết hơn là đánh
mất chính mình. Giá trị của chân lý cao hơn mạng sống của chính ông. Nói cách
khác, đối với một triết gia như Socrates thì sống và chết không hơn gì nhau,
quan trọng là chân lý. Điều đó cho thấy rằng, nơi bản thân con người luôn có
một khao khát đi tìm được cùng đích của cuộc đời mình. Một giá trị mà làm cho
cuộc đời của mình có ý nghĩa. Và giá trị đó đủ sức lôi cuốn bản thân dám đánh
đổi cả mạng sống của mình. Hay nói cách khác, con người không còn đi tìm cái
mình ‘có’ nhưng chính là cái mình ‘là’. Vậy, điều gì làm nên sự hiện hữu của con
người?
Mọi việc con người làm khi suy cho cùng phải hướng đến một mục đích nào đó.
[33]
Mục đích này sẽ hướng dẫn toàn bộ đời sống của một người cho dù người đó
có ý thức đủ về nó hay không. Do đó, khi mọi giá trị khác của thế giới này được
so sánh với sự hạnh phúc đều mất đi vẻ đẹp của nó thì chính hạnh phúc trở
thành điểm nhắm cho hành động của con người. Vậy, cùng đích của con người
là gì nếu không phải là hạnh phúc.[34] Đi tìm hạnh phúc là khao khát lớn nhất của
con người.[35] Có thể nói, hạnh phúc là động lực để thúc đẩy con người sống
trong thế giới này. Vậy, bản chất thật sự của hạnh phúc là gì?
Tuy nhiên, chúng ta đang sống theo đuổi hạnh phúc một cách mù quáng và háo
hức; và chúng ta càng làm sai cách trong sự vội vàng, chúng ta càng chệch
hướng hơn so với kết thúc cuộc hành trình của mình.[36]
Đây là nhận định của Seneca về cách mà con người đang tìm hạnh phúc. Ông
cho rằng con người luôn muốn theo đuổi hạnh phúc của mình nhưng lại không
biết hạnh phúc đó là gì. Kết quả là, sự lệch lạc nảy sinh trong cách thức đi tìm
hạnh phúc của con người. Hạnh phúc chân thực hướng đến một sự hiện hữu
toàn vẹn của con người như là ‘con người’ chứ không chỉ là cảm xúc hài lòng về
mặt tâm lý.[37] Nhưng hơn thế nữa, nó là một đời sống hòa hợp với chính bản
chất tự nhiên của con người và vũ trụ.[38] Đây là điều mà nhiều nhà chú giải về
Aurelius cũng nhắc đến.[39] Hạnh phúc là một người được sống như một ‘con
người’. Và điều mà làm cho con người ‘làm người’ đó chính là lý trí.
‘Chính bạn là gì?’ – Lý trí.[40]
Con người là một sinh vật có lý trí.[41] Chính cái giá trị, cái lý tưởng về một đời
sống làm người thật sự giúp cho con người vươn lên hơn việc chỉ dừng lại trong
việc thỏa mãn những dục vọng của bản thân. Và lý trí giúp con người nhận ra
giá trị ấy. Nói cách khác, hạnh phúc là cuộc sống của một đời sống có ý nghĩa
ngang qua việc vận dụng được khả năng tư duy tự nhiên của mình.[42] Đây không
phải là điều gì xa lạ. Nó là chính thúc đẩy tự nhiên của con người và là một sự
đòi hỏi của phận làm người. Nếu như lý trí xác định vị trí của con người trong thế
giới, thì ngang qua việc vận dụng lý trí cách đúng đắn, con người đã trở lại đúng
vị trí của mình. Chính bản chất suy tư của lý trí đã đưa ra một sự thuyết phục
như thế. Cho nên, đòi hỏi một đời sống đi tìm hạnh phúc không phải là điều gì đó
bên ngoài nhưng nó mang tính nội tại bên trong đời sống. Và một đời sống như
thế chỉ có thể tìm thấy nơi một đời sống nhân đức. Đây là quan điểm nổi bật của
các nhà khắc kỷ về hạnh phúc.[43]
Tuy vậy, đây cũng chính là điểm làm cho người này khác người kia. Người khác
người là ở nơi giá trị họ theo đuổi. Có người chọn lựa những giá trị như tiền bạc,
danh vọng làm giá trị sống cho cuộc đời mình. Như thế, đối với họ, những điều
ấy được thỏa mãn là con người được hạnh phúc. Trái lại, có những mẫu người
lựa chọn sự hy sinh, bình an làm hạnh phúc của cuộc đời. Mỗi cách đều có sự
chủ quan riêng của nó. Như thế, điểm chung của mọi người là đi tìm hạnh phúc,
nhưng mỗi người lại có một quan điểm khác nhau về hạnh phúc. Nếu xét như
thế thì phải kết luận rằng hạnh phúc chỉ là những giá trị mang tính chủ quan của
mỗi cá nhân. Tuy nhiên, vấn đề xảy ra ở đây đó chính là việc xung đột lợi ích
giữa các giá trị khác nhau. Liệu sự hy sinh có thể đứng cùng một phía với danh
vọng. Có lẽ rất khó và dường như không thể cho điều này xảy ra. Như vậy, dù
rằng có những khác biệt nhưng những giá trị đưa đến hạnh phúc thật sự không
thể mâu thuẫn lẫn nhau. Điều này dẫn đến một yếu tố khác của hạnh phúc đó là
tính cộng đồng.[44] Đây cũng chính là vấn đề mà Jacob Klein đã nêu lên trong luận
văn của mình. Ông đặt vấn đề với các tư tưởng của các nhà chú giải cho rằng
hạnh phúc của chủ thể của phái khắc kỷ được xem như là nhất nguyên và quy
kỷ.[45] Nhất nguyên được hiểu như là hạnh phúc chỉ duy nhất dựa trên lý trí của
chủ thể. Điều này đồng nghĩa với việc loại bỏ đi mối liên hệ với các lý trí khác
của tha nhân. Quy kỷ đó là đặt hạnh phúc của chính mình là duy nhất và trên hết
trong ý hướng của hành động của mình. Về vấn đề này, việc một người đi tìm
hạnh phúc cho chính mình đó là yếu tố chính. Việc khẳng định như thế là đúng
nhưng chưa đủ. Ý tưởng đó đã quá bó hẹp chủ thể trong lợi ích riêng của cá
nhân mình. Như đã nói, nếu không có một lý tưởng chung, lợi ích của các cá
nhân sẽ có nguy cơ bài trừ lẫn nhau. Như vậy, hạnh phúc của người khác cũng
trở nên thiết yếu cho hạnh phúc của một người, ít nhất là dưới khía cạnh không
triệt tiêu lẫn nhau.[46]
Để giải quyết vấn đề này, Jacob Klein đã đưa ra 3 cách để hiểu về hạnh phúc.
[47]
Trước hết, mặc dù mỗi hành động có lý trí của một cá nhân đều hướng đến
hạnh phúc, nhưng khái niệm về hạnh phúc không mang tính cá nhân của người
ấy. Nghĩa là, chỉ có một hạnh phúc chung tổng quát cho tất cả mọi người bao
gồm tất cả các hạnh phúc của các cá nhân. Yếu tố này xuất phát từ ý niệm về
một lý trí phổ quát bao gồm các lý trí cá nhân.[48] Do đó, hành động của một người
cũng phải hướng đến hạnh phúc của người khác chứ không loại trừ yếu tố này.
Thứ đến, những hành động lý trí của người khác sẽ gia cố, hơn là xung đột, với
hạnh phúc của cá nhân. Và cuối cùng, xung đột chỉ xảy ra khi các cá nhân không
hướng đến hạnh phúc. Điều này dựa trên cách nhìn nhận rằng con người có khả
năng lựa chọn những điều không đưa đến hạnh phúc. Không có tính nhất
nguyên và quy kỷ chỉ đơn thuần dựa trên lý trí của một cá nhân mà có thể đạt
được hạnh phúc trọn vẹn. Như vậy, hạnh phúc của từng cá nhân cũng phải là
hạnh phúc của toàn thể và ngược lại.
Tóm lại, con người khi đối diện với sự kết thúc của mình sẽ tìm cách để cho
chính cuộc đời của mình trở nên ý nghĩa hơn. Chính vì thế, con người sẽ lựa
chọn hạnh phúc để trở nên cùng đích của cuộc đời mình. Và hạnh phúc ấy
không gì khác hơn là việc con người được là chính mình. Đó là việc có thể sử
dụng lý trí của mình để tìm thấy ý nghĩa trong mọi biến cố của đời. Cụ thể nhất,
đó là ngang qua việc thực hành các nhân đức. Tuy nhiên, hạnh phúc của một cá
nhân không thể tồn tại một cách độc lập. Trái lại, với bản chất xã hội của mình,
con người chỉ có thể tìm được hạnh phúc của mình trong tương quan với tha
nhân.
Sứ mạng – siêu hình
Như đã nói, phục vụ công ích là ưu tiên hàng đầu trong giáo dục để trở thành
một người lính như Marcus Aurelius. Trong thế giới La Mã cổ đại, việc đào tạo
các chiến binh là một nhu cầu cấp thiết. Chính vì thế, việc chuẩn bị cho các
chiến binh có thể ra trận, dám hy sinh vì tổ quốc là một điều cần thiết. Tuy nhiên,
ý tưởng về một sứ mạng như thế chỉ mang tính khởi đầu. Bởi vì con người có
tính xã hội nên vai trò của từng cá thể trong cộng đồng là một yếu tố không thể
thiếu. Tính xã hội ở đây muốn nhắm đến mối tương quan của con người với con
người. Ngoài ra, mối tương quan ấy còn cần mở rộng với môi trường sống và cả
vũ trụ. Sự ảnh hưởng này mang vai trò tích cực trong việc xây dựng thế giới.
Con người không chỉ hiện diện trong thế giới như là những phần tử, nhưng còn
là tác nhân làm thế giới chuyển động. Đứng trước một thế giới như thế, con
người được thúc đẩy để tìm ra vị trí của mình trong toàn bộ vận hành của thế
giới. Nói cách khác, con người bằng lý trí của mình nắm vai trò chủ động để
tham gia vào trong vận hành này. Như thế, việc con người sống trong thế giới
không chỉ có chính mình chắc chắn đòi hỏi một sự cộng tác trong tương quan.
Aurelius không chỉ nhìn thấy vai trò của từng cá thể như là lời mời gọi, ông còn
xem chúng như là một sứ mạng.[49] Một sứ mạng thì mang tính đòi buộc hơn là
một lời mời gọi. Tại sao con người trong thế giới bị đòi buộc như thế trong cuộc
sống của mình? Câu trả lời nằm ở ý nghĩa của cuộc sống. Hay nói cách khác, đó
là một đòi hỏi của lý trí.[50] Có thể nói rằng, lý trí thúc đẩy con người phải tìm đến
được một sự dấn thân cho công ích. Lý do cho việc này đó chính là “những gì
mang lại lợi ích cho cộng đồng thì cũng mang lại lợi ích cho cá nhân.”[51] Tuy
nhiên, sứ mạng, cũng như vai trò, không thể được hiểu như là đơn thuần những
việc phải làm. Nó chính là cách thế hiện hữu trong tương quan của cá nhân với
xã hội.[52] Có thể đưa ra vài ví dụ rất điển hình về điều này như sau. Người đàn
ông trong tương quan với vợ của mình phải làm tròn sứ mạng làm chồng, đó là
yêu thương, chăm sóc cho vợ. Người phụ nữ cũng phải chu toàn sứ mạng làm
vợ của mình bằng việc chăm sóc, yêu thương chồng. Bố mẹ chu toàn sứ mạng
yêu thương, nuôi nấng, dạy dỗ con cái… Trong xã hội, một cá nhân phải là
người xây dựng xã hội bằng những khả năng của mình. Người cai trị phải hoàn
thành sứ mạng chăm sóc người dân của mình. Bác sĩ phải lấy việc chăm sóc
bệnh nhân làm sứ mạng của mình và phải chu toàn nó. Đi xa hơn, sứ mạng ấy
mang mức độ của vũ trụ. Như vậy, con người hiện hữu không phải như cá thể
nhưng là một cộng đồng và chính trong cộng đồng mà con người tìm thấy hạnh
phúc về sự hiện hữu của mình. Sứ mạng của từng cá nhân là phục vụ công ích.
Tuy nhiên, sứ mạng ấy dẫn theo một vấn nạn đó là sứ mạng ấy phát xuất từ
đâu? Khi xét đến vũ trụ như là một tổng thể, chính nó có những quy luật vận
động riêng của mình. Khi đó, con người được xét như là từng cá thể trong vũ trụ
ấy cũng phải tuân theo các quy luật của nó. Tuy nhiên, vượt trên những quy luật
tự nhiên đó là những yếu tố siêu hình chi phối vũ trụ. Ở đây, đối với Aurelius, đó
là sự quan phòng của các vị thần linh. Trong truyền thống văn hóa của Hy Lạp,
và sau này văn hóa La Mã phát triển thêm, các vị thần được xem như là những
thế lực bất tử tạo thành và chi phối vũ trụ này.[53] Cùng với đó, các vị thần tượng
trưng cho một sự khôn ngoan của lý trí để có thể giả định rằng sự điều phối của
họ sẽ đem lại một kết quả tốt đẹp cho toàn thể vũ trụ. Do đó, mọi việc xảy đến
trong thế giới đều mang trong mình một lý do hiện hữu, đó là do ý muốn của các
vị thần. Quan niệm về sự an bài hay định mệnh là một đặc trưng của phái khắc
kỷ.[54] Quan niệm này diễn tả một sự hữu hạn của con người trong thế giới.
Không phải con người có thể hoàn toàn làm chủ được sự vận hành của thế giới
này. Trái lại, con người sống trong thế giới và phải chịu sự chi phối của nó. Ở
đây, các vị thần linh được xem như là Lý trí của vũ trụ với đủ sự khôn ngoan để
vận hành thế giới.[55]
Vậy, dựa vào đâu để con người có thể khám phá ra sứ mạng của mình? Đó là
dựa vào định mệnh hay sự quan phòng của thần linh. Nhưng làm sao để có thể
thấy được định mệnh ấy? Câu trả lời nằm ngay chính khả năng của từng cá
nhân. Khi hiện hữu trong thế giới, mỗi người có được cho mình một khả năng
hay tài năng khác nhau. Vậy nếu để đi tìm nguồn gốc những khả năng ấy, cá
nhân sẽ tìm thấy đa phần câu trả lời nằm ở yếu tố bẩm sinh và môi trường sống.
Thế nhưng, hai yếu tố này không tách biệt nhưng chúng liên kết với nhau ở sự
hòa hợp. Những gì thuộc yếu tố bẩm sinh thì được xem như là sự an bài của
thần linh. Tuy nhiên, tài năng bẩm sinh cần một môi trường xã hội thuận lợi để
phát triển. Và ở đây, môi trường xã hội ấy cũng vẫn nằm trong sự quan phòng
của thần linh. Trong sự khôn ngoan của mình, cả yếu tố bẩm sinh và môi trường
phát triển đã nằm trong sự quan phòng của thần linh. Tuy nhiên, sự hòa hợp là
yếu tố cần thiết để dung hòa sự quan phòng của thần linh cùng với lý trí của con
người. Định mệnh là yếu tố cần, nhưng lý trí con người là yếu tố đủ. Do đó, một
sự phát triển đầy đủ là việc con người nhận ra được đâu là những hạt giống của
khả năng nơi bản thân mình mà phát triển nó trong một môi trường phù hợp, để
trở thành những tài năng. Tài năng ấy được đối chiếu trong viễn cảnh phục vụ
công ích thì đó là chính sứ mạng của mỗi người. Tất cả đi theo một sự hòa hợp
của lý trí. Do đó, sứ mạng của một cá nhân trong sự quan phòng của lý trí vũ trụ
đó chính là sự kết hợp giữa tài năng của một cá nhân và môi trường sống của
họ. Một người hiểu biết về y học trong hoàn cảnh gặp một người đau bệnh thì sứ
mạng của họ là chữa lành cho người đau bệnh. Đối với các triết thuyết khác thì
đây có lẽ chỉ là một sự gặp gỡ ngẫu nhiên. Nhưng đối với phái khắc kỷ, đây là
một sự an bài.
Như thế, sứ mạng thể hiện sự dấn thân trọn vẹn của cá nhân vào trong đời
sống.[56] “Sáng sớm, khi bạn cảm thấy khó khăn để thức dậy, hãy sẵn sàng cho
những suy tư này: ‘Tôi thức dậy để làm công việc của một con người.’[57]” Marcus
Aurelius dùng những hình ảnh rất tự nhiên để thấy được vai trò của mỗi loài
trong thiên nhiên của các loài động vật như chim, kiến hay những con ong đi
kiếm ăn. Những hoạt động của chúng phát xuất từ những yếu tố tự nhiên chúng
được sinh ra. Còn mỗi cá nhân phải chu toàn sứ mạng là người của họ ngang
qua những khả năng và tài năng mỗi người đang có. Tất cả điều này được xem
như một mệnh lệnh của con người phát xuất từ lý trí. Lý trí phản tỉnh về những
khả năng tự nhiên mà mình có được. Đồng thời, từ những phản tỉnh ấy, lý trí
nhận ra được những công việc mình phải hoàn thành trong đời sống đối với tha
nhân, đó là đem những khả năng của mình để giúp đỡ người khác. Như thế, con
người không thể chối bỏ được sứ mạng của mình trong thế giới bởi vì chính sứ
mạng đó đã được ghi khắc trong lý trí của cá nhân khi hòa hợp với lý trí lớn hơn
của vũ trụ.
Để kết lại, con người trong việc cố gắng tìm về hạnh phúc của bản thân luôn tìm
thấy vai trò của mình trong sứ mạng. Sứ mạng ấy là một sự kết hợp giữa những
khả năng của bản thân và môi trường sống. Hay nói cách khác, đó chính là định
mệnh được lý trí của vũ trụ quan phòng. Tuy nhiên, con người nhận ra được sự
quan phòng ấy nhờ chính vai trò suy tư của lý trí nội tại nơi bản thân của mỗi
người. Như thế, một hạnh phúc đích thực không phải chỉ là những suy tư về
hạnh phúc nhưng còn là việc dấn thân để sống những suy tư ấy.
Chương 3
Nhận Thức, Suy Tư Như Là Tiền Đề
Cho Việc Tìm Đến Ý Nghĩa Hiện Hữu Của Một
Cá Nhân
Tất cả các yếu tố vừa trình bày ở trên bao hàm một sự vận dụng lý trí. Tuy
nhiên, một sự thật hiển nhiên rằng khi mới sinh ra, con người không thể tự mình
vận dụng lý trí của mình. Thay vào đó, nó cần có một quá trình để lớn lên để có
thể tự vận hành với những điều kiện riêng của mình nhưng cũng đồng thời tiến
đến với một sự hợp nhất của lý trí vũ trụ. Quá trình này được xác định bởi các
yếu tố giáo dục, chiêm ngắm thế giới và suy tư.
Giáo dục – kinh nghiệm
Ngay từ khởi đầu, yếu tố giáo dục được xem như là cách thức để một người có
thể học cách vận dụng lý trí của mình. Khi mới sinh ra, con người chưa có được
sự vận dụng trí năng của mình một cách rõ ràng trong đời sống. Ngang qua thời
gian, việc tiếp cận với thế giới bên ngoài đã kích hoạt các khả năng tiềm tàng
của ý thức nơi con người. Tuy nhiên, nếu chỉ để cho con người được tiếp xúc
với các môi trường thuần tự nhiên, thì chính hành động của con người cũng
mang tính thuần phản xạ. Nghĩa là, con người chỉ có thể hành động dựa trên
bản năng. Nói cách khác, những hành động của con người khi đó chỉ mang giá
trị của sự sinh tồn. Đói thì ăn, khát thì uống. Chính lúc này, giáo dục đóng vai trò
của mình trong việc truyền tải cách thức tri nhận thế giới và phản hồi với thế giới
ấy.
Giáo dục được xem như là sự thông truyền tri thức giữa các cá nhân. Tuy nhiên,
điều quan trọng hơn đó là việc không xem giáo dục đơn thuần chỉ là phương tiện
cung cấp kiến thức nhưng là sự hướng dẫn để mỗi cá nhân vận dụng sự suy tư
của mình mà khám phá ra tri thức. Giáo dục là sự hướng dẫn để vận dụng lý trí.
Điều này được chính Aurelius kinh nghiệm ngang qua các vị thầy dạy của mình.
[58]
Chính ông đã được thừa hưởng một nền giáo dục bậc cao của thế giới La Mã
cổ đại. Có thể thấy rằng, việc suy tư không phải đơn thuần là một bản năng.
Chính xác hơn, nó là một bản năng nhưng cần được kích hoạt. Chính giáo dục
đem lại phương pháp cho lý trí.
Qua một giai đoạn thực hành việc suy tư, cá nhân sẽ tích hợp cho mình những
kinh nghiệm. Kinh nghiệm ấy được xem như là một yếu tố khách quan để đánh
giá lại quá trình suy tư. Nói cách khác, suy tư phải gắn liền với thực tế. Và suy tư
phải được kiểm chứng bằng kinh nghiệm. Có thể nói rằng, các triết gia thực thụ
là những người đã sống điều mình suy tư. Tuy nhiên, không nhất thiết kinh
nghiệm chỉ xuất phát từ bản thân chủ thể suy tư. Nó còn được chia sẻ lại ngang
qua việc giáo dục. Điều này có thể là do tính kế thừa của giáo dục. Những kiến
thức được truyền dạy đã bao gồm kinh nghiệm suy tư của các nhà tư tưởng
trước đó. Chính vì thế, lý trí vừa thừa hưởng nhưng đồng thời cũng tiếp tục suy
tư để đóng góp cho nền tư tưởng chung của nhân loại. Đây chính là tính cộng
đồng của lý trí. Lý trí được xem là có tính cá nhân nhưng cũng mang cả tính
cộng đồng. Giá trị của điều này đảm bảo cho lý trí của mỗi cá nhân có được sự
khách quan của chính nó khi nó kế thừa các tư tưởng trước và được chứng thực
bởi các tư tưởng sau. Tuy nhiên, điều cần lưu ý đó chính là nếu xem lý trí của
tập thể là tập hợp của các lý trí cá nhân thì nó vẫn chứa đựng trong nó sự giới
hạn. Tuy rằng, sự giới hạn đó có thể nhỏ hơn hay lớn hơn sự suy tư của cá
nhân, nhưng chắc chắn một điều rằng, mọi suy tư này đều có thể làm chất liệu
cho suy tư khác. Như thế, giáo dục không phải là một quá trình đóng khung hay
định hình tư tưởng của một cá nhân. Trái lại, nó là một quá trình mở để cho mỗi
cá nhân có được sự kế thừa suy tư của mọi người nhưng đồng thời cũng có
không gian để mỗi cá nhân đưa ra những suy tư riêng của mình.
Và một yếu tố quan trọng của nền giáo dục, đặc biệt là thời La Mã cổ đại, đó
chính là bộ môn logic học hình thức. Đây chính là phương pháp của suy tư. Hay
nói đúng hơn, nó là mô thể của suy tư. Bằng việc suy tư logic, lý trí mới có cơ
hội thoát khỏi những sai lầm. Nó sẽ đảm bảo tính chính xác của các suy tư của
lý trí. Và vì thế, lý trí sẽ có cơ hội tiến gần hơn đến lý trí cao nhất của vũ trụ.
Như thế, với một sự khởi đầu đầy non nớt của mình, ngang qua giáo dục, lý trí
đã bắt đầu thu lượm được những yếu tố cần thiết cho việc tự hoàn thiện chính
bản thân nó. Và giáo dục không thể được xem như là một sự áp đặt nhưng là
một sự mở ra để đón nhận chân lý đang tự tỏ lộ.
Chiêm ngắm thế giới
Nếu giáo dục đưa ra logic như là tiến trình, thì việc chiêm ngắm thế giới sẽ là
nguyên liệu của suy tư. Các quy luật của vũ trụ không phải là điều gì xa lạ nhưng
là chính những gì đang diễn ra trong đời sống hằng ngày. Chính qua việc quan
sát những điều bình thường như thế mà con người có thể bắt đầu rút ra được
quy luật của cuộc sống. Bởi vì thế giới mà con người đang sống là chính toàn bộ
thực tại bao gồm tất cả sự vật khả giác và siêu vượt.[59]
Điều đầu tiên mà Aurelius nhận ra được nơi thế giới này chính là sự biến đổi.
[60]
Đây là một sự kế thừa tư tưởng của Heraclitus.[61] Thế giới là một chuỗi vận
động: ngày – đêm, sinh ra – chết đi… Hình ảnh này được xem như là sự vận
động của lửa. Mọi thứ được sinh ra từ lửa và lại trở về với lửa.[62] Hơn thế nữa,
một trong những nét nổi bật mà Marcus Aurelius quan sát được đó chính là quy
luật của sự chết. Mọi thứ đều phải đi đến sự tận cùng của chính nó. Sự chuyển
động này phát xuất từ tư tưởng nguyên tử. Sự sống là việc các nguyên tử gắn
kết với nhau. Cái chết đó là thời điểm các nguyên tử tách rời nhau. Đây là một
quy trình tuần hoàn, các nguyên tử sau khi tách rời nhau lại kết hợp với các
nguyên tử khác để tạo thành sự sống mới. Ông cũng cho rằng các nguyên tử tồn
tại trong thế giới này với một số lượng có hạn. Chính vì thế, các sự vật không có
cho mình được một sự tồn tại vĩnh viễn. Điều này tương ứng với cách nhìn của
ông về sự chết như đã trình bày ở phần trên. Tuy nhiên, sự biến đổi ấy nội tại
nơi con người mang một chiều kích rất lớn. Đó là chiều kích của thích nghi và
sáng tạo. Trong một thế giới không ngừng vận động, con người cũng không thể
ngừng vận động. Do đó, con người buộc phải có sự sáng tạo và thích nghi trong
đời sống của mình. Nếu không sáng tạo và thích nghi, con người đã tự mình đi
lệch ra khỏi quy luật của vũ trụ. Thực tại vẫn ở đó như chính nó là, chỉ có cách
[63]
Chương 5
Sử Dụng Lý Trí Đúng Đắn Như Là Cách Thức
Để Tiến Đến Một Sự Hiện Hữu Trọn Vẹn
Như thế, sợi chỉ xuyên suốt và cũng là căn cốt của tiến trình này là việc con
người vận dụng lý trí cách đúng đắn để hiểu được cách vận hành của thế giới,
thấy được giá trị của nó và sống phù hợp với những giá trị ấy bằng cách xây
dựng nhân đức. Đây là cách thức để con người có thể tìm thấy được hạnh phúc
của cuộc đời mình. Ngang qua việc chiêm ngắm thế giới, con người nhận diện
được vị trí của mình trong thế giới này. Con người, cùng với mọi sự vật khác, là
một phần của thế giới này. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa con người và các sự
vật khác đó chính là lý trí. Chỉ có con người mới có lý trí, nghĩa là, con người
được tự do hành động theo những gì mình suy tư thấy điều đó là hợp lý. Điều
này đi ngược lại với cách sống theo bản năng của các loài động vật. Chúng cũng
hành động nhưng hành động của chúng chỉ hướng đến việc thỏa mãn các nhu
cầu của thể xác và của cảm xúc. Trái lại, con người, với lý trí của mình, sẽ chọn
lựa theo giá trị cùng đích của cuộc đời mình. Đó chính là ý nghĩa của cuộc hiện
hữu của con người. Việc hiện hữu của con người trong thế giới luôn đi kèm với
nó là một mục đích. Chỉ ngang qua việc suy tư, con người mới có thể nhận ra
được điều ấy. Như thế, sự hiện hữu của con người không phải là một sự ngẫu
nhiên, tình cờ. Thay vào đó, đó là cả một quá trình vận hành lớn lao của vũ trụ.
Và như thế, việc sử dụng lý trí được xem như là cách thức hiện hữu của con
người. Mọi hành động của con người luôn phải có một mục đích cho nó.[95] Tại
sao tôi lại làm điều này? Nó không xuất phát từ một yếu tố nào khác nhưng nó là
chính sự đòi hỏi của hiện hữu. Bởi vì con người khác các loài khác ở khả năng
suy tư, nên nếu cá nhân không vận dụng khả năng suy tư của mình, thì chính họ
đánh mất đi căn tính hiện hữu của mình. Và lý trí có một khả năng hướng về
điều thiện như là bản chất tự nhiên nên việc thực hành nhân đức không là gì
khác hơn là kết quả của việc suy tư. Hay nói đúng hơn, lý trí nhận ra được quy
luật của vũ trụ và cách con người bước vào trong quy luật đó thì chính là nhân
đức.
Như thế, sự hiện hữu của con người được xác định như là một tiến trình làm
người chứ không chỉ là ở một giai đoạn nhất định. Đây không phải là một điều
mang tính thần bí nhưng là một kinh nghiệm thực tiễn. Hạnh phúc không còn là
một điều gì xa vời nhưng là chính quá trình con người đi đến việc hoàn thiện
chính mình. Nói cách khác, phái khắc kỷ không chỉ suy tư nhưng còn là sống cái
suy tư ấy. Nội tại của những nhân đức đã bao hàm việc thực hành. Không thể
nói rằng một người là nhân đức khi người ấy chỉ dừng lại ở những suy nghĩ về
nhân đức của mình. Trái lại, họ phải đem những suy tư ấy và thực hành và làm
biến đổi cuộc sống của họ. Cũng không thể nói một người sống hòa hợp với
những quy luật của lý trí vũ trụ khi những hành động của người ấy chỉ được thực
hiện dưới sự tác động của cảm xúc hay bản năng. Như thế, lý trí nắm giữ vai trò
cực kỳ lớn trong cách hành xử thật sự của mỗi cá nhân. Đối với Aurelius, suy tư
bắt buộc sẽ dẫn đến thực hành mới có thể đem lại được một hạnh phúc đích
thực. Hạnh phúc phải bao gồm trọn vẹn cả nhân vị nhưng hạnh phúc đích thực
ấy cũng bắt nguồn từ chính lý trí.
Từ chiêm ngắm thế giới đến hành động nhân đức đó là cả một quá trình làm việc
dài kỳ của lý trí. Con người là một phần của thế giới. Chính vì thế, khi con người
cố gắng để thoát ra khỏi những quy luật ấy, con người có nguy cơ đánh mất
chính mình. Vai trò của lý trí là cố gắng đưa con người vào trong những quy luật
để có thể có được một đời sống tốt hơn. Ở đây, việc sống theo các quy luật
ngang qua các nhân đức không phải là một trạng thái mang tính bị động. Trái lại,
đó là một quá trình hoàn toàn chủ động để tháp nhập. Quay trở lại với sự vấn đề
của sự chết, nếu không đón nhận cái chết như là một thực tại của đời sống con
người, con người đã đánh mất đi tính hiện sinh của cuộc đời. Thay vì nhìn vào
thực tại để sống thì cá nhân có nguy cơ trốn tránh vào một trạng thái nào đó của
sự ấu trĩ và mất đi sức sống hiện tại của mình.
Hơn thế nữa, chính lý trí bảo vệ con người khỏi những ngụy biện mà con người
phải đối diện khi sống trong thế giới này. Chính những ngụy biện ấy lôi kéo con
người trật khỏi hành trình mà mỗi cá nhân đang hướng đến. Đặc điểm rõ nét
nhất đó chính là sự cản trở để một người không thể tiến lên trong con đường
nhân đức. Kết quả là con người có nguy cơ mất đi hạnh phúc của chính mình.
Để tránh được những ngụy biện ấy, con người phải quay lại với cái chết. Bởi vì
cái chết là một thực tại nền tảng, nên chính nó có thể đảm bảo sự chính xác cho
những suy tư của con người. Như thế, thái độ thật sự của một nhà khắc kỷ đó là
cố gắng nhất trong mức có thể để nhìn nhận sự việc đang hiện hữu như nó là và
đáp trả lại bằng các nhân đức. Như thế, sẽ không có yếu tố tích cực hay tiêu cực
nhưng chỉ còn là sự vật nó là như nó là. Do đó, trong các quyết định hành động,
giá trị cốt lõi được bảo tồn.
Tuy nhiên, điều này được khá nhiều các nhà chuyên môn, đặc biệt là khía cạnh
tâm lý, phản bác lại khi cho rằng các nhà khắc kỷ là những con người khô cứng
với lý do không chú ý đến cảm xúc.[96] Đây là vấn đề cần phải xem xét lại. Trước
hết, được xét như là đại diện của phái khắc kỷ, Marcus không hề chối bỏ cảm
xúc của bản thân. Ông vẫn xác nhận rằng cảm xúc là một trong những quan
năng của con người. Cảm xúc là cách mà con người phản ứng lại với những
điều xung quanh mình. Tuy nhiên, cảm xúc không đóng vai trò đưa ra quyết định
của một người. Lý do cho việc phân biệt này xuất phát từ chính đặc tính của cảm
xúc. Bởi vì cảm xúc dựa chỉ dựa trên những kinh nghiệm cá nhân nên có thể nói
rằng chúng thiếu đi tính khách quan cần thiết. Không có một nguyên tắc chung
để xác định được sự hình thành của tình cảm. Ngược lại với vấn đề này, lý trí có
được nguyên tắc chung của logic hình thức để từ đó hình thành một định hướng
chung cho các suy tư. Nhưng để lý trí có thể thực hiện được chức năng của
mình, nó cần có chất liệu để suy tư. Và ở đây, cảm xúc đóng vai trò cung cấp
chất liệu cho lý trí để suy tư về chính điều tạo nên cảm xúc đó. Như vậy, không
có việc đánh giá, phân biệt cao thấp các chức năng của lý trí hay cảm xúc. Điều
cần nhấn mạnh ở đây đó là chức năng của lý trí và cảm xúc. Mỗi quan năng đều
có nhiệm vụ riêng của mình và vai trò của lý trí đó là ra đưa ra hành động. Và
như theo cách nhìn của Aurelius, con người không là một con rối bị giật dây bởi
những đam mê của thể xác và tinh thần.[97] Trái lại, con người chủ động trong
những quyết định của mình để có thể sống thật nhất với giá trị mà một con
người phải sống.
Như vậy, cho dù chất liệu có nhiều đi chăng nữa thì không phải bất cứ chất liệu
nào cũng có thể làm tiền đề cho phương trình logic. Tự bản thân các nguyên tắc
logic sẽ chắt lọc các yếu tố ngụy biện để có thể đưa ra một kết luận chính gần
chính xác nhất. Tuy vậy, việc này cũng đồng thời thừa nhận một điều rằng lý trí
bị giới hạn bởi những chất liệu đầu vào. Có thể nói rằng, giới hạn của suy tư
cũng tương đương với giới hạn hiểu biết của con người. Nói cách khác, con
người không thể cùng một lúc tri nhận toàn bộ sự vật như nó là, nhưng chỉ ở
mức độ mà sự vật ấy tỏ lộ ngang qua hiện tượng. Như thế, lý trí của cá nhân
cần phải được tháp nhập trong một lý trí lớn hơn của vũ trụ, một lý trí tự thân
nhận biết mọi sự vật như nó là. Và vì giới hạn của chính mình, lý trí cá nhân chỉ
có thể tiếp cận cách tiệm tiến vào trong lý trí của vũ trụ. Nhưng như thế cũng
đảm bảo được sự hy vọng tháp nhập hoàn toàn của từng cá nhân vào trong vũ
trụ ấy.
Trường hợp này mang tính cụ thể hơn ở những người bị khiếm khuyết khả năng
tư duy. Đối với trường hợp này, các cá nhân không thể sử dụng lý trí của mình
cách hiệu quả. Như thế, liệu họ có thể tiến đến được hạnh phúc của chính
mình? Để giải quyết vấn đề này, việc trước tiên là xác định lại nền tảng. Và ở
đây, nền tảng ấy là tính xã hội của con người. Một người không thể sử dụng lý
trí của mình để suy tư thì xã hội giúp anh làm điều ấy. Lý trí của vũ trụ được xem
như là nguyên lý chung của toàn thể vũ trụ, nó bao trùm mọi cá nhân. Như thế,
mọi thành phần được thừa hưởng cái tổng thể. Lấy một ví dụ cho vấn đề này.
Biển bao gồm các giọt nước biển. Nhưng tập hợp tất cả các giọt nước biển
không phải là biển. Tuy nhiên, chính các giọt nước biển là biển và biển là chính
các giọt nước biển. Tương tự như vậy, lý trí vũ trụ là một thực tại vượt lên trên
con người nhưng cũng nội tại ở chính con người. Và như thế, ở các cá nhân
không thể vận hành lý trí của mình cách đúng đắn thì sự vận hành lý trí của các
cá nhân khác sẽ giúp người ấy. Điều này không quá xa lạ khi một người từ lúc
mới sinh cho đến tuổi khôn, mọi suy tư của họ đều phải dựa vào người khác.
Chính những suy tư của người khác làm nên sự hiện hữu của họ nhưng không
phải theo cách áp đặt nhưng là sự cùng tháp nhập vào trong một thực tại lớn
hơn của lý trí vũ trụ.[98]
Tuy nhiên, liệu có một tự do tồn tại trong cách nhìn mọi sự được chi phối bởi
quan niệm định mệnh? Điều này cần đến một cách hiểu về sự tự do. Đầu tiên,
có những quy luật của thiên nhiên mà bản thân con người không thể thay đổi
được. Và chắc chắn, con người sẽ thấy mình mất tự do khi chịu sự chi phối của
các quy luật tự nhiên ấy. Tuy nhiên, sự tự do ở đây đó là khả năng đưa ra những
sự lựa chọn cho riêng mình trong những hoàn cảnh định sẵn. Với lý trí, con
người có thể đưa ra những quyết định cách thức mình sẽ sống như thế nào. Bản
thân sự lựa chọn mang trong mình hai yếu tố. Trước hết, đó là đối tượng của sự
lựa chọn. Ở đây, đối tượng của sự lựa chọn đó là một lối sống nhân đức phù
hợp với tự nhiên. Tuy nhiên, điều này đồng thời giả thiết sẽ có những đối tượng
không phù hợp với các nhân đức. Do đó, sự lựa chọn này sẽ dẫn đến yếu tố thứ
hai đó là kết quả của sự lựa chọn. Một người có thể có thể chọn được đời sống
nhân đức để đưa đến hạnh phúc hay là từ chối một lối sống như thế. Như vậy,
cho dù một đời sống nhân đức là một đòi hỏi của sự hiện hữu nhưng con người
có khả năng để từ chối chính hạnh phúc của mình. Đây là trách nhiệm hoàn toàn
mang tính cá nhân. Như thế, không ai có thể nói rằng ‘tôi không hạnh phúc bởi vì
người khác làm cho đời sống của tôi không hạnh phúc.’ Một tự do để con người
có thể lựa chọn là chính mình hay đánh mất mình.
Hơn nữa, việc sử dụng lý trí trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống lại là một cuộc
chiến. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một sự kỷ luật cá nhân to lớn. Điều này không xa lạ
ngay với cả lý thuyết tâm lý học hiện đại. Cụ thể nhất, Maslow trong lý thuyết về
tháp nhu cầu của mình đã không ngần ngại dành vị trí cao nhất cho một cái tôi
siêu vượt.[99] Mà theo ông mô tả, đó không là gì khác hơn một đời sống nhân đức
đầy lòng vị tha. Một bên, con người bị lôi kéo vào các dục vọng. Bên kia, con
người được vẻ đẹp của nhân đức thu hút. Do đó, cái làm nên giá trị của một con
người đó là sự vươn lên. Khi sinh ra, con người chứa đựng trong mình một hạt
giống của sự hoàn thiện chứ không phải là chính sự hoàn thiện. Nếu nói như
Aristotle, con người là tiềm thể hướng đến một sự hiện thể của chính mình. Nói
cách khác, mặc dù lý trí là một yếu tố bẩm sinh nhưng nó phải được trải qua một
quá trình huấn luyện. Marcus Aurelius đưa ra các nguyên tắc như thế cho chính
ông nhưng cũng là nguyên tắc cho những ai muốn thực hành một lối sống khắc
kỷ. Và để hỗ trợ cho một tiến trình đầy khó khăn như thế, qua kinh nghiệm của
mình, Marcus Aurelius đưa ra một đúc kết ngắn gọn trong hai điều: “Thứ nhất,
không bao giờ hành động một cách ngẫu nhiên mà không có qui chiếu rõ ràng
về cùng đích; và thứ hai, hành động của bạn chỉ liên hệ không ngoài điều gì khác
là công ích.”[100]
Con người là một toàn thể
Như thế, lý trí nắm giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong cách hướng dẫn con
người để đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm khi chỉ coi việc đơn
thuần sử dụng lý trí như là con đường duy nhất để dẫn đến hạnh phúc. Ngoài lý
trí, con người còn là một thân xác có xúc cảm và có niềm tin. Nếu loại trừ đi hết
các yếu tố này, con người có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa duy lý một cách cực
đoan. Con người là một tổng thể của xác và hồn. Lý trí không tồn tại một cách
độc lập với thân xác. Trái lại, lý trí cần một thân xác để có thể biểu lộ những suy
tư của nó. Hơn thế nữa, chính những thay đổi thể lý cũng góp phần tác động lên
những suy tư của con người. Và cảm xúc cũng có vai trò tương tự. Như đã trình
bày, cảm xúc được xem như là một yếu tố con người phản ứng với những điều
xảy ra xung quanh mình. Tuy nhiên, cảm xúc không thể chỉ được tách riêng
trong vai trò của mình. Trái lại, đó là một phần làm nên nhân vị. Trong thế giới
hiện đại ngày nay, cảm xúc là một vấn đề đáng lưu tâm khi con người dần trở
nên khô cứng với những suy tư của mình. Không những thế, cảm xúc về điều
thiện lại chính là một động lực thúc đẩy con người đi tìm chân lý. Và cuối cùng,
niềm tin vào một Đấng siêu việt tạo một điểm bám cho con người trong thế giới
đầy biến động. Đó cũng chính là giới hạn của con người. Sự giới hạn về khả
năng tri nhận thế giới. Chính lý trí phải thừa nhận giới hạn của nó và nhận ra nó
chỉ là một phần trong những yếu tính huyền nhiệm làm nên con người. Như thế,
một sự cực đoan để tách biệt lý trí như là thực tại duy nhất dẫn đưa con người
đến hạnh phúc cần phải được loại bỏ. Hạnh phúc phải bao trùm cả nhân vị. Điều
đáng nói ở đây đó chính là một sự hài hòa của các yếu tố: lý trí, cảm xúc, đức tin
và thể lý. Cảm xúc cần có lý trí để tránh trở nên thái quá. Lý trí cần có cảm xúc
để giảm lại sự khô cứng của chính mình. Đức tin làm nền tảng cho con người khi
phải đối diện với những điều vượt quá khả năng của lý trí. Và cuối cùng, lý trí
cần hài lòng với chính thân xác của mình và phát triển nó tốt nhất trong khả năng
có thể. Có thể ví con người như là một chiếc tàu với thân xác là thân tàu, ngọn
hải đăng là đức tin, những cơn gió là cảm xúc và người hoa tiêu là lý trí. Tất cả
đang trong hành trình đêm đen của cuộc đời. Nhưng hạnh phúc lại chính là cuộc
hành trình trong đêm đen ấy vì biết chắc rằng sẽ có một điểm đến xa xa ở phía
trước.
Kết Luận
Để kết lại, khởi đi từ cái chết như là một thực tại mà con người luôn phải đối diện
trong kiếp làm người của mình, con người được mời gọi để vượt qua sự sợ hãi
đối với cái chết. Thay vào đó, con người cần phải nhận ra được chân tướng thực
sự của cái chết để có thể đón nhận nó như là một phần của sự sống thực sự của
con người. Từ đó, con người khi đối diện với sự kết thúc của mình sẽ tìm cách
để cho chính cuộc đời của mình trở nên ý nghĩa hơn. Đó chính là giá trị của
hạnh phúc trong cuộc đời. Và hạnh phúc ấy không gì khác hơn là việc con người
được làm người. Nó hệ tại ở việc con người có thể sử dụng lý trí của mình để
tìm thấy ý nghĩa trong mọi biến cố của đời. Và nơi ấy, con người tìm ra vị trí của
mình trong tương quan với tha nhân. Chính vì thế, con người trong việc cố gắng
tìm về hạnh phúc của bản thân luôn tìm thấy vai trò của mình trong sứ mạng. Sứ
mạng ấy là một sự kết hợp giữa những khả năng của bản thân và môi trường
sống. Hay nói cách khác, đó chính là định mệnh được lý trí của vũ trụ quan
phòng. Tuy nhiên, con người nhận ra được sự quan phòng ấy nhờ chính vai trò
suy tư của lý trí nội tại nơi bản thân của mỗi người. Như thế, một hạnh phúc đích
thực không phải chỉ là những suy tư về hạnh phúc nhưng còn là việc dấn thân
để sống những suy tư ấy.
Tuy nhiên, lý trí cần đến giáo dục như là bước khởi đầu để bắt đầu thu lượm
được những yếu tố cần thiết cho việc tự hoàn thiện chính bản thân nó. Giáo dục
sẽ hướng dẫn lý trí để tự bản thân lý trí có thể đi tìm những quy luật vận hành
đang chi phối thế giới này. Từ đó, lý trí nhận ra rằng, sự vận động một cách hài
hòa của vũ trụ đem lại ý nghĩa hiện hữu của từng sự vật. Chính vì thế, một lối
sống tự nhiên con người được mời gọi để sống cũng không thể đi trật ra khỏi
quỹ đạo của những quy luật này. Khi đó, lý trí giúp cho con người hiểu về bản
chất thật sự của thế giới này mà không bị những ảo ảnh của giác quan chi phối.
Và cũng chính ngang qua việc suy tư ấy, con người mới có thể xác định được
đâu mới là việc mình phải làm. Tất cả những suy tư này mang đến một sự tự do
và trách nhiệm cho cá nhân trong những quyết định.
Tuy nhiên, một đời sống hạnh phúc không chỉ dừng lại ở những suy tư. Lý trí
dẫn con người đến với lối sống nhân đức như là cách hiện thực hóa hạnh phúc
nơi chính mình. Đối với bản thân trong việc vận dụng tối đa khả năng tư duy,
nhân đức đó là sự khôn ngoan, tiết độ, trung tín. Và trong tương quan giữa
người với người, con người được thúc đẩy sống một lối sống công bằng và bác
ái. Đây là một đòi hỏi của việc tôn trọng phẩm giá của người khác như là những
nhân vị. Và từ đó, con người hướng đến việc chu toàn những nghĩa vụ cao cả
hơn trong tương quan mở rộng của xã hội. Và cuối cùng, việc tôn kính thần linh
mở ra cho con người một viễn tượng về cách thức mà con người sẽ tháp nhập
chính mình vào trong lý trí của vũ trụ. Và chính khi đó, hạnh phúc tồn tại nơi con
người khi nó không phải là một đích đến nào đó quá cao vời nhưng là chính một
đời sống được là chính mình.
Như thế, lý trí đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hướng dẫn con người đi
tìm hạnh phúc của chính mình. Ngang qua lý trí, con người tìm thấy được con
đường để đưa mình đến hạnh phúc. Và hạnh phúc ấy không gì khác hơn là việc
con người được là chính mình trong thế giới. Tuy thế, vai trò của lý trí không thể
tách ra để đứng độc lập nhưng phải được hòa hợp với các yếu tố khác của con
người mới có thể đem lại được một hạnh phúc đích thực. Vì thực ra, con người
là một huyền nhiệm.
Vậy, hạnh phúc không nằm ngoài nhưng nằm trong mỗi cá nhân.
Thư Mục Tham Khảo
Ackeren, Marcel van. A Companion to Marcus Aurelius. Blackwell Companions
to the Ancient World. Chichester, West Sussex, UK ; Malden, MA: Wiley-
Blackwell, 2012.
Aristotle. Nicomachean Ethics. Translated by Terence Irwin. Indianapolis:
Hackett Pub. Co, 1985.
Aristotle. The Politics. Translated by Ernest Barker and R. F. Stalley. Oxford:
Oxford University Press, 1995.
Bénatouïl, Thomas. “How Industrious Can Zeus Be?” In God and Cosmos in
Stoicism. Edited by Ricardo Salles. Oxford: Oxford University Press, 2009.
Brennan, Tad. The Stoic Life : Emotions, Duties, and Fate. Oxford: Clarendon
Press, 2005.
Duignan, Brian. “Eudaimonia.” Encyclopedia Britannica. 2020. Accessed March
17, 2021. https://www.britannica.com/topic/eudaimonia.
Gourinat, Jean-Baptiste. “Ethics.” In A Companion to Marcus Aurelius. Edited by
Marcel van Ackeren. Blackwell Companions to the Ancient World. Chichester,
West Sussex, UK ; Malden, MA: Wiley-Blackwell, 2012.
Hadot, Pierre. The Inner Citadel : The Meditations of Marcus Aurelius.
Cambridge, Mass. ; London: Harvard University Press, 1998.
Hazlitt, Frances Kanes, Henry Hazlitt, Lucius Annaeus Seneca, Epictetus, and
Aurelius Marcus. The Wisdom of the Stoics : Selections from Seneca, Epictetus,
and Marcus Aurelius. Lanham, MD: University Press of America, 1984.
Heidegger, Martin. Being and Time: A Translation of Sein Und Zeit. Translated
by Joan Stambaugh. Suny Series in Contemporary Continental Philosophy.
Albany, NY: State University of New York Press, 1996.
Kant, Immanuel. Phê Phán Lý Tính Thực Hành. Translated by Bùi Văn Nam
Sơn. Hà Nội: Tri Thức, 2007.
Klein, Jacob Samuel. “Nature and Reason in Stoic Ethics.” PhD. Dissertation,
Cornell University, 2010.
Konstan, David. “Epicurus.” The Stanford Encyclopedia of Philosophy.
Metaphysics Research Lab, Stanford University. Summer 2018, 2018. Accessed
March 16, 2021. https://plato.stanford.edu/archives/sum2018/entries/epicurus/.
Marcus, Aurelius. The Meditations of Marcus Aurelius. Translated by A. S. L.
Farquharson. Everyman’s Library. New York: Knopf, 1992.
Maslow, Abraham H. “Theory Z.” In The Farther Reaches of Human Nature. New
York, N.Y., U.S.A.: Arkana, 1993.
McLynn, Frank. Marcus Aurelius : A Life. 1st Da Capo Press ed. Boston, MA: Da
Capo Press, 2009.
Meyer, Susan Sauvé. “Chain of Causes.” In God and Cosmos in Stoicism. Edited
by Ricardo Salles. Oxford: Oxford University Press, 2009.
Minh, Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Hồ Chí. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo.
Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồ Chí Minh, 1997.
Salles, Ricardo. “Chrysippus on Conflagration and the Indestructibility of the
Cosmos.” In God and Cosmos in Stoicism. Edited by Ricardo Salles. Oxford:
Oxford University Press, 2009.
Salles, Ricardo. “Introduction: God and Cosmos in Stoicism.” In God and
Cosmos in Stoicism. Edited by Ricardo Salles. Oxford: Oxford University Press,
2009.
Sedley, David. “Epicureanism.” Routledge Encyclopedia of Philosophy. 2005.
Accessed March 17,
2021. https://www.rep.routledge.com/articles/thematic/epicureanism/.
Stefon, Matt, and Theodorus P. van Baaren. “Providence.” Encyclopedia
Britannica. 2020. Accessed March 17,
2021. https://www.britannica.com/topic/Providence-theology.
[1]
Frank McLynn, Marcus Aurelius : A Life, 1st Da Capo Press ed. (Boston, MA:
Da Capo Press, 2009), 3.
[2]
McLynn, 5.
[3]
Aurelius Marcus, The Meditations of Marcus Aurelius, trans. A. S. L.
Farquharson, Everyman’s Library (New York: Knopf, 1992), x.
[4]
Pierre Hadot, The Inner Citadel : The Meditations of Marcus
Aurelius (Cambridge, Mass. ; London: Harvard University Press, 1998), 73.
[5]
Jean-Baptiste Gourinat, “Ethics,” in A Companion to Marcus Aurelius, ed.
Marcel van Ackeren, Blackwell Companions to the Ancient World (Chichester,
West Sussex, UK ; Malden, MA: Wiley-Blackwell, 2012), 422.
[6]
Có thể nhận thấy điều này ngang qua việc trích dẫn rất nhiều các tác phẩm và
tư tưởng của các trường phái khác nhau của Aurelius.
[7]
Hadot, 30.
[8]
David Konstan, “Epicurus,” The Stanford Encyclopedia of Philosophy,
Metaphysics Research Lab, Stanford University, Summer 2018, 2018, accessed
March 16, 2021, https://plato.stanford.edu/archives/sum2018/entries/epicurus/.
[9]
Martin Heidegger, Being and Time: A Translation of Sein Und Zeit, trans. Joan
Stambaugh, Suny Series in Contemporary Continental Philosophy (Albany, NY:
State University of New York Press, 1996), 242-43.
[10]
Marcus, 25. Ghi chú: bản dịch được thực hiện bởi người viết.
[11]
Tư tưởng này của Aurelius kế thừa từ truyền thống của phái khoái lạc. Cf.
Hadot, 39.
[12]
Marcus, 31.
[13]
Marcus, 10. Đây là một vấn đề gây nhiều bối rối giữa các nhà chú giải Marcus
Aurelius khi lý thuyết này có vẻ xa lạ với lý thuyết truyền thống. Ngoài hồn ra còn
có một cơ quan cao cấp hơn đó chính là lý trí hay tâm trí.
[14]
Marcus, 27.
[15]
Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Hồ Chí Minh, Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo (Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Hồ Chí Minh, 1997), 997n.
[16]
Immanuel Kant, Phê Phán Lý Tính Thực Hành, trans. Bùi Văn Nam Sơn (Hà
Nội: Tri Thức, 2007), 2-3.
[17]
Marcus, 27.
[18]
Marcus, 27.
[19]
Marcus, 13.
[20]
Marcus, 48.
[21]
Frances Kanes Hazlitt et al., The Wisdom of the Stoics : Selections from
Seneca, Epictetus, and Marcus Aurelius (Lanham, MD: University Press of
America, 1984), 34.
[22]
Hadot, 109. Hadot trích lại lời của triết gia Arrian (c.86-c.160) để nói đến yếu tố
phán đoán của một các nhân trước một sự vật.
[23]
Hadot, 102.
[24]
Marcus, 13.
[25]
Hadot, 111. Tư tưởng này xuất phát từ Epictetus.
[26]
Hadot, 107. Marcus, 76.
[27]
Hazlitt et al., 80.
[28]
Marcus, 16.
[29]
Marcus, 13.
[30]
Marcus, 33.
[31]
Marcus, 46.
[32]
Hadot, 110.
[33]
Thuật ngữ được sử dụng là telos
[34]
Eudaimonia
[35]
Brian Duignan, “Eudaimonia,” Encyclopedia Britannica, 2020, accessed March
17, 2021, https://www.britannica.com/topic/eudaimonia. Aristotle, Nicomachean
Ethics, trans. Terence Irwin (Indianapolis: Hackett Pub. Co, 1985), 2. Hazlitt et
al., 2.
[36]
Hazlitt et al., 11.
[37]
Tuy nhiên, theo Seneca, hạnh phúc cũng được xem như là một trạng thái của
tinh thần mà nơi đó sự an tĩnh được xem như là trạng thái hoàn hảo của con
người để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Nói cách khác, đó là trạng
thái con người được tự do sử dụng lý trí của mình để quyết định. Cf. Hazlitt et
al., 12.
[38]
Marcus, 68.
[39]
Marcel van Ackeren, A Companion to Marcus Aurelius, Blackwell Companions
to the Ancient World (Chichester, West Sussex, UK ; Malden, MA: Wiley-
Blackwell, 2012), 421.
[40]
Marcus, 74.
[41]
Aristotle, 29-33. Aristotle, The Politics, trans. Ernest Barker and R. F. Stalley
(Oxford: Oxford University Press, 1995), 11. Ở đây, Aristotle không nhắc nguyên
văn về định nghĩa của con người. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh đến yếu tố của lý
trí như là điều tạo nên sự khác biệt của con người đối với những loài sinh vật
khác. Đối với Aristotle, có 3 loại hồn: sinh hồn – các loài thực vật, giác hồn – các
loài động vật, và linh hồn – con người. Yếu tố lý trí thuộc về linh hồn.
[42]
Marcus, 58.
[43]
Hadot, 36-37. Marcus.
[44]
Marcus, 11.
[45]
Jacob Samuel Klein, “Nature and Reason in Stoic Ethics” (PhD. Dissertation,
Cornell University, 2010), 4.
[46]
Klein, 5.
[47]
Klein, 7-8.
[48]
Phần này sẽ được trình bày kỹ hơn ở phần sau
[49]
Marcus, 34.
[50]
Marcus, 71.
[51]
Marcus, 35.
[52]
Marcus, 88-89.
[53]
Marcus, 66.
[54]
Matt Stefon, and Theodorus P. van Baaren, “Providence,” Encyclopedia
Britannica, 2020, accessed March 17, 2021,
https://www.britannica.com/topic/Providence-theology.
[55]
Hadot, 76.
[56]
Marcus, 66.
[57]
Marcus, 34.
[58]
Marcus, 3.
[59]
Hadot, 79.
[60]
Marcus, 10.
[61]
Marcus, 23.
[62]
Ricardo Salles, “Chrysippus on Conflagration and the Indestructibility of the
Cosmos,” in God and Cosmos in Stoicism, ed. Ricardo Salles (Oxford: Oxford
University Press, 2009), 127.
[63]
Marcus, 97.
[64]
Marcus, 10, 22. Tuy nhiên, ở đây, cách hiểu này được nhiều tác giả xem như
là đi ngược lại với truyền thống của phái khắc kỷ.
[65]
Linh hồn có phần nào mang tính chất như của thân xác.
[66]
Marcus, 12. Kant, 25.
[67]
David Sedley, “Epicureanism,” Routledge Encyclopedia of Philosophy, 2005,
accessed March 17, 2021,
https://www.rep.routledge.com/articles/thematic/epicureanism/.
[68]
Salles, “Introduction: God and Cosmos in Stoicism,” in God and Cosmos in
Stoicism, 1.
[69]
Salles, “Introduction: God and Cosmos in Stoicism,” in God and Cosmos in
Stoicism, 1.
[70]
Salles, “Introduction: God and Cosmos in Stoicism,” in God and Cosmos in
Stoicism, 3.
[71]
Từ ngữ ‘thượng đế’ sẽ được dùng để nói đến một trí tuệ siêu việt của vũ trụ –
lý trí vũ trụ theo cách nhìn của phái Khắc kỷ.
[72]
Thomas Bénatouïl, “How Industrious Can Zeus Be?,” in God and Cosmos in
Stoicism, ed. Ricardo Salles (Oxford: Oxford University Press, 2009), 26.
[73]
Susan Sauvé Meyer, “Chain of Causes,” in God and Cosmos in Stoicism, ed.
Ricardo Salles (Oxford: Oxford University Press, 2009), 71.
[74]
Marcus, 45.
[75]
Ibid.
[76]
Hadot, 84. Hadot trích lại lời của Epictetus trong cuốn Manual, I, 1.
[77]
Marcus, 13.
[78]
Hadot.
[79]
Marcus.
[80]
Marcus, 22.
[81]
Marcus, 44.
[82]
Marcus, 8.
[83]
Ibid.
[84]
Marcus, 76.
[85]
Marcus, 28.
[86]
Marcus, 11.
[87]
Marcus, 19.
[88]
Marcus, 111.
[89]
Marcus, 88, 67.
[90]
Marcus, 10.
[91]
Marcus, 53.
[92]
Marcus, xxii.
[93]
Marcus, 8.
[94]
Marcus, 87.
[95]
Marcus, 85.
[96]
Tad Brennan, The Stoic Life : Emotions, Duties, and Fate (Oxford: Clarendon
Press, 2005), 4.
[97]
Marcus, 113.
[98]
Hazlitt et al., 67.
[99]
Abraham H. Maslow, “Theory Z,” in The Farther Reaches of Human
Nature (New York, N.Y., U.S.A.: Arkana, 1993).
[100]
Marcus, 114.