You are on page 1of 32

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI HỌC KỲ I ( Năm học 2020 - 2021)

MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

1. Trình bày nội dung khái niệm triết học và nguyên nhân ra đời của triết học ?
❖ Nội Dung Triết Học: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên
cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và
ngôn ngữ. Những câu hỏi như vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu
hoặc giải quyết. Phương pháp triết học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập
luận hợp lý và trình bày có hệ thống.

❖ Nguyên Nhân Ra Đời: Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ
khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy
Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc. Triết học tồn tại ở dạng lý luận, ra đời và phát triển dựa
trên tri thức nhân loại đã đạt tới trình độ tư duy trừu tượng, khái quát thành hệ thống
“lý luận chung nhất về thế giới”.Triết học ra đời dựa trên hai nguồn gốc là Nguồn
gốc nhận thức và Nguồn gốc xã hội.

● Nguồn gốc nhận thức: Triết học chỉ xuất hiện khi loài người đã hình thành một
vốn hiểu biết nhất định và trên cơ sở đó, tư duy con người đã có khả năng rút ra
cái chung trong muôn vàn sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
● Nguồn gốc xã hội: Triết học chỉ ra đời khi loài người đạt trình độ tương đối cao
của sản xuất xã hội, phân công lao động xã hội hình thành, của cải tương đối thừa
dư, tư hữu hóa dữ liệu sản xuất được luật định, giai cấp phân hóa rõ và mạnh, nhà
nước ra đời.

2. Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan, vì sao nói
triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan ?
❖ Thế giới quan: là hệ thống những nguyên tắc, quan điểm, niềm tin, khái niệm, biểu
tượng về toàn bộ thế giới, bao gồm:
● về những sự vật, hiện tượng
● về quy luật chung của thế giới
● về chỉ dẫn phương hướng hoạt động của người, một nhóm người
trong xã hội nói chung đối với thực tại

Thế giới quan là biểu hiện cách nhìn bao quát (bức tranh) đối với thế giới gồm cả thế
giới bên ngoài, con người và mối quan hệ của người – thế giới (tức là mối quan hệ của
người đối với thế giới). Nó quy định thái độ của con người với thế giới và là kim chỉ
nam cho hành động của con người.
❖ Các thành phần cấu tạo thế giới quan: Những thành phần chủ yếu của thế giới
quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng. Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành
thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít
nhiều trong thực tiễn và trở thành niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất
của thế giới quan. Với tính cách là hệ quan điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế
giới quan là phương thức để con người chiếm lĩnh hiện thực, thiếu thế giới quan,
con người không có phương hướng hành động.
❖ Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan: Nói triết học là hạt nhân của thế
giới quan, bởi thứ nhất bản thân triết học chính là thế giới quan. Thứ hai, trong các
thế giới quan khác như thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các
dân tộc, hay các thời đại… triết học bao giờ cũng là thành phần quan trọng, đóng
vai trò là nhân tố cốt lõi. Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn giáo, thế giới quan
kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường…, triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng
và chi phối, dù có thể không tự giác. Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ
quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.

3. Phân tích nội dung Vấn đề cơ bản của triết học ?

Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất.
Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề
khác của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

● Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào
quyết định cái nào? Để giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học, các nhà
triết học đã chia thành hai trường phái lớn là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm. Chủ nghĩa duy vật cho rằng: “vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết
định ý thức của con người”. Chủ nghĩa duy vật gồm ba hình thức
○ Chủ Nghĩa Duy Vật Chất Phát: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì chép
định nghĩa, tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt kê ba
hình thức chứ không có kêu giải thích nhe) kết quả nhận thức của các nhà
triết học duy vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất,
chủ nghĩa duy vật giai đoạn này để lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới
từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu
tiên, là bản nguyên của thế giới.

○ Chủ Nghĩa Duy Vật Siêu Hình: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì chép
định nghĩa, tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt kê ba
hình thức chứ không có kêu giải thích nhe) Thế giới giống như một cỗ
máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập,
tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và
do những nguyên nhân bên ngoài gây ra.

○ Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì
chép định nghĩa, tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt kê
ba hình thức chứ không có kêu giải thích nhe) Vật chất là phạm trù Triết
học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm
giác , được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác.

Chủ nghĩa duy tâm cho rằng: “ Ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái có trước
giới tự nhiên.”. Chủ nghĩa duy tâm gồm hai hình thức:

o Chủ Nghĩa Duy Tâm Khách Quan:(cái khúc định nghĩa này nếu kịp
thì chép định nghĩa, tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ
liệt kê ba hình thức chứ không có kêu giải thích nhe) thừa nhận tính
thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là là thứ tinh thần khách quan có trước
và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này
thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần
tuyệt đối, lý tính thế giới, V.V..
o Chủ Nghĩa Duy Tâm Chủ Quan: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì
chép định nghĩa, tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt
kê ba hình thức chứ không có kêu giải thích nhe) thừa nhận tính thứ
nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của
hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện
tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.

● Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Để
giải quyết cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức thế giới hay không, người
ta chia ra làm ba học thuyết: Thuyết Khả Tri, Thuyết Bất Khả Tri , Hoài Nghi Luận.

o Thuyết khả tri: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì chép định nghĩa,
tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt kê ba hình thức
chứ không có kêu giải thích nhe) học thuyết triết học khẳng định khả
nẳng nhận thức của con người về những bản chất của sự vật. Nói cách
khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người
có được về sự vật về nguyên tắc, là phù hợp với bản thân sự vật. những
người theo thuyết khả tri luận tin tưởng rằng, nhận thức là một quá trình
không ngừng đi sâu khám phá bản chất của sự vật. với quá trình đó, Vât
tự nó sẽ buộc phải biến thành “Vật cho ta”.
o Thuyết bất khả tri: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì chép định
nghĩa, tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt kê ba hình
thức chứ không có kêu giải thích nhe) học thuyết triết học phủ nhận khả
năng nhận thức của con người. Theo thuyết này, con người, về nguyên
tắc không thể hiểu được bản chất của đối tượng, và kết quả nhận thức mà
con người có được chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp và cắt xén đối
tượng. các hình ảnh, tính chất, đặc điểm của đối tượng mà các giác quan
của con người thu nhận được trong quá trình nhận thức, cho dù có tính
xác thực, cũng không cho phép con người đồng nhất với đối tượng. đó
không phải là cái tuyệt đối tin cậy.
o Hoài nghi luận: (cái khúc định nghĩa này nếu kịp thì chép định nghĩa,
tao muốn rõ ràng hơn nên tao ghi ra chứ cô chỉ liệt kê ba hình thức
chứ không có kêu giải thích nhe) ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả
tri, những người theo trào lưu này nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc
trong việc xem xét tri thức đã đạt và cho rằng con người không thể đạt
đến chân lí khách quan. Tuy cực đoan về mặt nhận thức, nhưng Hoài
nghi luận vẫn giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tư
tưởng và uy quyền của Giáo hội Trung cổ thời Phục Hưng. Hoài nghi
luận thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh Thánh và các tín điều tôn
giáo.

4. Nội dung Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
trong lịch sử triết học ?

● Chủ nghĩa duy vật : vật chất là tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ là tính thứ
hai của mọi tồn tại trong thế giới; cũng tức là thừa nhận và minh chứng rằng: suy
đến cùng, bản chất và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội chính
là vật chất.

● Ba hình thức cơ bản: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và
chủ nghĩa duy vật biện chứng
○ Chủ nghĩa duy vật chất phác:

■ Nội Dung: Kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ
đại. Trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy
vật giai đoạn này để lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một
hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu
tiên, là bản nguyên của thế giới.

■ Thời Gian Ra Đời: Thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.

■ Ưu Điểm: Lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhên, không viện
đến thần linh hay Thượng Đế.

■ Hạn Chế: Những lý giải về thế giới còn mang nặng tính trực quan
nên những kết luận về thế giới về cơ bản còn mang tính ngây thơ,
chất phác.

■ Ví Dụ: Quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit

○ Chủ nghĩa duy vật siêu hình:

■ Nội Dung: Thế giới giống như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi
bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi
thì đó chỉ là sự tăng giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên
nhân bên ngoài gây ra.
■ Thời Gian Ra Đời: duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các
nước Tây Âu (tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật cận đại nước Anh và
Pháp).

■ Ưu Điểm: Góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy
tâm và tôn giáo, nhất là giai đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung
cổ sang thời Phục Hưng ở các nước Tây Âu.

■ Hạn Chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi liên hệ phổ biến
và sự phát triển.

■ Ví dụ: Các quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp
thế kỉ XVIII

○ Chủ nghĩa duy vật biện chứng:

■ Nội Dung: Vật chất là phạm trù Triết học, dùng để chỉ thực tại khách
quan, được đem lại cho con người trong cảm giác , được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác.

■ Thời Gian Ra Đời: Do Mác và Ănghen xây dựng vào những năm 40
của thế kỉ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển.

■ Ưu Điểm: Phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại, là
công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạ
hiện thực ấy

■ Hạn Chế: Chưa có

■ Ví Dụ: Karl Marx, Friedrich Engels , Vladimir Lenin

5. Nội dung Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy tâm
trong lịch sử triết học ?
- Chủ nghĩa duy tâm: Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức, tinh thần là cái có trước và sản
sinh ra giới tự nhiên. Bằng cách đó, chủ nghĩa duy tâm đã thừa nhận sự sáng tạo của một lực lượng
siêu nhiên nào đó đối với toàn bộ thế giới. Vì vậy, tôn giáo thường sử dụng các học thuyết duy tâm
làm cơ sở lý luận, luận chứng cho các quan điểm của mình, tuy có sự khác nhau đáng kể giữa chủ
nghĩa duy tâm triết học với chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, lòng tin là cơ
sở chủ yếu và đóng vai trò chủ đạo đối với vận động. Còn chủ nghĩa duy tâm triết học lại là sản
phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và năng lực mạnh mẽ của tư duy.
Chủ nghĩa duy tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận
sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện
tượng chỉ là phức hợp của những cảm giác.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng coi đó là là thứ
tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này
thường được gọi bằng những cái tên khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới,
V.V..

6. Phân tích Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi luận?

-Thuyết khả tri: học thuyết triết học khẳng định khả nẳng nhận thức của con người về những bản
chất của sự vật. Nói cách khác, cảm giác, biểu tượng, quan niệm và nói chung ý thức mà con người
có được về sự vật về nguyên tắc, là phù hợp với bản thân sự vật. những người theo thuyết khả tri
luận tin tưởng rằng, nhận thức là một quá trình không ngừng đi sâu khám phá bản chất của sự vật.
với quá trình đó, Vât tự nó sẽ buộc phải biến thành “Vật cho ta”.
- Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của
con người. Theo thuyết này, con người, về nguyên tắc không thể hiểu được bản chất của đối tượng,
và kết quả nhận thức mà con người có được chỉ là hình thức bề ngoài, hạn hẹp và cắt xén đối
tượng. các hình ảnh, tính chất, đặc điểm của đối tượng mà các giác quan của con người thu nhận
được trong quá trình nhận thức, cho dù có tính xác thực, cũng không cho phép con người đồng
nhất với đối tượng. đó không phải là cái tuyệt đối tin cậy. thuyết bất khả tri không tuyệt đối phủ
nhận những thực tại siêu nhiên hay thực tại được cảm giác của con người, nhưng vẫn khẳng định ý
thức của con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay vốn có, VÌ mọi thực tại tuyệt đối đều
nằm ngoài kinh nghiệm của con người về thế giới. thuyết bất khả tri cũng không đặt vấn đề về
niềm tin, mà chỉ phủ nhận khả năng vô hạn của nhận thức.
- Hoài nghi luận: ít nhiều liên quan đến thuyết bất khả tri, những người theo trào lưu này nâng sự
hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt và cho rằng con người không thể
đạt đến chân lí khách quan. Tuy cực đoan về mặt nhận thức, nhưng Hoài nghi luận vẫn giữ vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng và uy quyền của Giáo hội Trung cổ thời
Phục Hưng. Hoài nghi luận thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh Thánh và các tín điều tôn giáo.

7. Nội dung Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng ?
Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới. Với tư cách là học thuyết triết học, phép
biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến và những quy luật chung nhất của mọi quá trình
vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó xây dựng các
nguyên tắc phương pháp luận chung cho các quá trình nhận thức và thực tiễn.
- Các hình thức lịch sử của phép biện chứng
Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương
Tây, với ba hình thức cơ bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch
sử triết học):
+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong lịch sử
triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy
Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận”
(học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận” (học
thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương
gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật,
với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”…Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết
học Hy Lạp cổ đại là những quan điểm biện chứng của Heraclit.
+ Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết
học của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu và
phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới – trình độ lý luận sâu sắc và có
tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển. Tuy nhiên, phép biện
chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây dựng trên lập trường duy tâm
(duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của
các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản
thân biện chứng của các quá trình trong giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện
chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao nhất của
phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý trong lịch sử phép biện
chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục những hạn chế trong phép biện chứng
của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho
phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị trên lập trường duy vật mới.

8. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác - Lênin ?
Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản sau đây:
- Điều kiện kinh tế - xã hội
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ
của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh, Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra
được những thành tựu to lớn về nhiều mặt kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo
ra những mâu thuẫn không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trung tâm
của những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai giai cấp: giai
cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội) và giai cấp vô sản (giai cấp công nhân làm
thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những cuộc đấu tranh ngày càng phát triển của giai cấp
công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê
tại các nước Anh, Pháp và Đức. Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần
có một lý luận cách mạng và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng nhu
cầu này. Đồng thời chính thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những điều kiện thực tiễn cho
sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác.
- Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử mà còn là kết quả của
sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức,
kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L. Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu
sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong phép biện chứng của
Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông cũng khắc phục những hạn chế cơ
bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu
hình trong triết học của Phoiơbắc. Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học
mới là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới này các
ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy luật chung nhất của sự phát
triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản
và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những đại biểu lớn của nó
(A. Xmít và Đ. Ricácđô), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa những quan điểm hợp lý khoa học của
những học thuyết này. Đó là: quan điểm duy vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính
trị và học thuyết giá trị về lao động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa
triệt để trong học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các nhà
kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học thuyết về giá trị lao
động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với những đại biểu lớn của
nó là H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen, c. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng
nhân đạo và những sự phê phán hợp lý của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ
nghĩa tư bản. Đồng thời, các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của
họ. Đó là tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó các ông xây dựng nên một lý luận
mói - lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước phát triển mới, đem lại
một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó. Tiêu biểu cho những quan niệm mới
này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự
nhiên; khẳng định tính thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất
yếu khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm mới này
đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan điểm duy vật biện
chứng về giới tự nhiên.

 Nhân tố chủ quan trong sự hình thành triết học Mác


• Ngoài những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì sự ra đời
của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu nhân tố chủ quan của
bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người của các ông. Đã vậy, hai ông lại
cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã
kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành
tựu của khoa học đương đại, tổng kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa
Mác – ngọn cờ lý luận của giai cấp công nhân - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh
vực xã hội.
• Cùng với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương con người
hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân tố quan trọng thúc
đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử
không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân
đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã
được nhân loại tạo ra.
9. Phân tích nội dung Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất theo quan
điểm triết học Mác - Lênin ?
Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất: Lênin cho rằng vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích nội dung quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất:
+ Trước hết vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con người và không phụ thuộc
vào ý thức. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của quan điểm về vật chất.Không phải là khi
con người ý thức được một cái gì đó thì nó là vật chất mà vật chất làcái đã tồn tại một cách khách
quan, như là trước khi các nhà vật lý tìm ra các tia phóng xạthì chúng đã tồn tại rồi,…
+ Thứ hai là con người có thể cảm giác được sự tồn tại khách quan của vật chất. Nếu cáigì đó mà
con người không thể cảm giác được thì nó không phải là vật chất, vật chất nóluôn tồn tại trước ý
thức của con người nhưng con người luôn có thể cảm giác được nó.
+ Thứ ba là ý thức của con người chỉ là sự phản ánh thế giới hiện thực. Những điều kiện vật chất
cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nó quyết định tới việc hình thành lên ý thức của con người

a) Định nghĩa vật chất của Lênin


"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác".
- Theo Lênin, phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất mà cho
đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được” nên không thể định nghĩa vật chất bằng
phương pháp thông thường, đem quy nó về một vật thể, một thuộc tính hoặc vào một phạm trù
rộng lớn hơn được. Vì vậy, Lênin đã sử dụng phương pháp mới để định nghĩa vật chất là đem đối
lập vật chất với ý thức và xác định nó “ là cái mà khi tác động lên giác quan của chúng ta thì gây
nên cảm giác”.
Trước tiên, cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các quan niệm của
khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các dạng vật chất. Vật chất với tư cách
là một phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
- Trong định nghĩa, Lênin đã chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận thì
cái quan trọng nhất để nhận biết nó chính là thuộc tính khách quan. "Vật chất là thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác.. .và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức.
2. Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cái gây nên cảm giác ở con người khi
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên giác quan con người.
3. Cảm giác, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của vật chất. Ý thức con người là sự phản ánh
thực tại khách quan, nghĩa là con người có khả năng nhận thức được thế giới.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bao quát cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường duy vật biện chứng, thừa nhận trong nhận thức luận thì vật chất là tính thứ nhất, và con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã bác
bỏ thuyết không thể biết, khắc phục được tính chất siêu hình, trực quan trong các quan niệm về vật
chất.
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn chống lại các quan điểm duy tâm về vật chất, tạo cơ sở
lý luận để khắc phục quan điểm duy tâm về đời sống xã hội
- Định nghĩa vật chất của Lênin còn có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức
khoa học.

b) Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.


Nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động của vật chất là tự thân vận động; bởi vì tất cả các
dạng vật chất đều là một kết cấu vật chất bao gồm các yếu tố, các mặt, các quá trình liên hệ, tác
động qua lại với nhau. Chính sự tác động đó đã dẫn đến sự biến đổi nói chung, tức là vận động.
Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình về vận động đi tìm nguồn gốc của vận
động ở thần linh hoặc ở chủ thể nhận thức.
Vận động là hình thức tồn tại của vật chất nên các dạng vật chất được nhận thức thông qua sự vận
động của chúng.
Vận động là một thuộc tính cố hữu của vật chất nên nó không do ai sáng tạo ra và cũng không thể
tiêu diệt được. Nguyên lý này được chứng minh bằng định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lư-
ợng.
c) Các hình thức vận động cơ bản của vật chất.
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Ăngghen đã phân loại thành 5
hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học.
- Vận động vật lý.
- Vận động hoá học.
- Vận động sinh học.
- Vận động xã hội.
Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định:
Thứ nhất, giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những trình độ phát triển
của các kết cấu vật chất.
Thứ hai, các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm
trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn.
Thứ ba, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao giờ cũng
được đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại các khoa học,
cho khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Đồng thời còn chống lại một
khuynh hướng sai lầm trong nhận thức là quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động thấp
hơn.
d) Vận động và đứng im.
Theo Ăngghen, "đứng im tương đối của các vật thể... là điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật
chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối, tạm thời, thể
hiện ở các điểm sau:
- Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
- Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi
hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Đứng im là biểu hiện trạng thái vận động trong thăng bằng, ổn định tương đối.
- Vận động cá biệt có xu hướng hình thành sự vật, hiện tượng ổn định nào đó; còn vận động nói
chung thì làm cho tất cả không ngừng biến đổi.

Không gian và thời gian


- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, biểu hiện những thuộc tính như cùng tồn tại
và tách biệt, có kết cấu và quảng tính
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính như: Độ lâu của sự
biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất
- Không gian và thời gian tồn tại trong sự liên hệ thống nhất với nhau và đều là hình thức
cơ bản của vật chất đang vận động. Quan điểm này đối lập với quan điểm duy tâm, siêu hình tách
rời không gian và thời gian với vật chất đang vận động.
Ví dụ: Niutơn coi không gian, thời gian là tuyệt đối, không biến đổi. Không gian như cái
hộp trống rỗng khổng lồ có thể xếp vào, lấy ra các sự vật; thời gian như dải băng được trải ra một
cách đều đặn.
Những phát minh trong toán học và vật lý học đã bác bỏ quan điểm trên. Hình học phi Ơclít
của Lôbasepxki, Riman; thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng minh rằng không gian và thời
gian có sự biến đổi cùng với sự vận động của vật chất. Khi vật thể vận động với tốc độ gần bằng
tốc độ ánh sáng thì kích thước của nó rút ngắn lại, thời gian trôi chậm đi.
Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất sau:
1. Tính khách quan: Vì vật chất là thực tại khách quan nên không gian và thời gian là
những hình thức tồn tại của nó cũng tồn tại khách quan. Điều đó phủ nhận quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm coi không gian, thời gian chỉ là sản phẩm của ý thức con người.
2. Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
3. Tính vĩnh cửu và vô tận

10. Phân tích Nguồn gốc của ý thức ?

I. Nguồn gốc của ý thức


1. Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, các nhà duy vật
biện chứng cho rằng, nguồn gốc tự nhiên của ý thức có hai yếu tố không thể tách rời nhau là bộ óc
con người và thế giới bên ngoài tác động lên óc người.

1.1. Bộ óc người
– Đây là một dạng vật chất sống đặc biệt, có tổ chức cao, trải qua quá trình tiến hóa lâu dài về mặt
sinh vật – xã hội. Ý thức là thuộc tính của riêng dạng vật chất này.

Tức là, chỉ con người mới có ý thức. Không một kết cấu vật chất nào khác, kể cả những con vật
thông minh nhất có năng lực này.

Ý thức phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc người, nên khi óc bị tổn thương thì hoạt động ý
thức không diễn ra bình thường hoặc rối loạn.
– Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có thế giới bên ngoài tác động vào bộ óc, thì
cũng không có ý thức. Do vậy, nguồn gốc tự nhiên cần có yếu tố thứ hai là thế giới bên ngoài.

1.2. Sự tác động của thế giới bên ngoài lên bộ óc người
– Trong tự nhiên, mọi đối tượng vật chất (con khỉ, con voi, cái bàn, mặt nước, cái gương…) đều có
thuộc tính chung, phổ biến là phản ánh. Đó là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.

Nói một cách dễ hiểu, phản ánh chính là sự chép lại, chụp lại, kể lại một cái gì đó. Chép lại lời nói
ra giấy là sự phản ánh. Chụp một bức ảnh cũng là sự phản ánh.

Để có quá trình phản ánh xảy ra, cần có vật tác động và vật nhận tác động.

– Đương nhiên, bộ óc người cũng có thuộc tính phản ánh. Nhưng phản ánh của bộ óc con người có
trình độ cao hơn, phức tạp hơn so với các dạng vật chất khác.

Sau quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên, con người trở thành sản phẩm cao nhất, thì thuộc tính
phản ánh của óc người cũng hoàn mỹ nhất so với mọi đối tượng khác trong tự nhiên.

Do hoàn mỹ nhất như vậy, nên thuộc tính phản ánh của óc người được gọi riêng bằng phạm trù “ý
thức”. Đó là sự phản ánh, sự tác động của thế giới bên ngoài vào bộ óc con người.

2. Nguồn gốc xã hội


Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ.
Điều kiện quyết định, trực tiếp và quan trọng nhất cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn
gốc xã hội. Đó là lao động, tức là thực tiễn xã hội và ngôn ngữ.

Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ
và các cơ quan xã hội. Theo Ph. Ăng-ghen, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích biến đổi bộ
não động vật thành bộ não người, biến tâm lý động vật thành ý thức con người.

2.1. Lao động


– Trong tự nhiên, con vật tồn tại nhờ những vật phẩm có sẵn như trái cây, côn trùng hoặc loài vật
yếu hơn nó… Nhưng đối với con người thì khác.

Con người có khả năng và bắt buộc phải sản xuất ra những sản phẩm mới (bàn, ghế, quần áo, ti vi,
tủ lạnh…), khác với những sản phẩm có sẵn. Tức là, con người phải lao động mới đáp ứng được
nhu cầu cuộc sống của mình.

Chính thông qua lao động, hay còn gọi là hoạt động thực tiễn, nhằm cải tạo thế giới khách quan mà
con người mới có thể phản ánh được, biết được nhiều bí mật về thế giới đó, mới có ý thức về thế
giới này.

– Nhưng ở đây, không phải bỗng nhiên mà thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người để
con người có ý thức. Ý thức có được chủ yếu là do con người chủ động tác động vào thế giới
khách quan để cải tạo, biến đổi nó nhằm tạo ra những sản phẩm mới.
Nhờ chủ động tác động vào thế giới khách quan, con người bắt những đối tượng trong hiện thực
(núi, rừng, sông, mỏ than, sắt, đồng…) phải bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật của mình.
Những bộc lộ này tác động vào bộ óc người để hình thành ý thức của con người.

2.2. Ngôn ngữ


– Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng với
nhau, tức là nhu cầu nói chuyện được với nhau. Chính nhu cầu này đòi hỏi sự ra đời của ngôn ngữ,
trước hết là tiếng nói, sau đó là chữ viết.

Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất
mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện
được.

Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có
ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.

– Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ, con
người mới có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, tức là diễn đạt những khái niệm, phạm trù, để suy
nghĩ, tách mình khỏi sự vật cảm tính.

Cũng nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của con người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.

11. Phân tích Bản chất của ý thức ?

II. Bản chất của ý thức


Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con
người một cách năng động, sáng tạo.

Như vậy, bản chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau đây:

1. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh.
– Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập với cái phản ánh (tức ý
thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan. Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách
rời ý thức với vật chất.

– Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, không có tính vật
chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính.

2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan, nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động, giản đơn, máy móc
của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế nào thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y
nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo.
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới khách quan, con người tác động vào sự vật một cách
có định hướng, chọn lọc, tùy theo nhu cầu của mình (xây nhà, cày ruộng, đào mương, xây cầu…).
Chính vì thế, ý thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về
hiện thực khách quan.

Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú.
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái
không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai một cách tương đối chính xác, hoặc
có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại. Thậm chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại
cảm, thấu thị…

Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của nó là sáng tạo của
sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh.

3. Ý thức là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của 3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể (con người) và đối tượng phản ánh (núi, sông, mưa,…). Sự
trao đổi này mang tính hai chiều, có định hướng, chọn lọc các thông tin cần thiết.

Hai là, con người mô hình hóa (tức là vẽ lại, lắp ghép lại…) đối tượng trong tư duy dưới dạng hình
ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình ý thức sáng tạo lại hiện thực, là sự mã hóa các đối tượng
vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.

Ba là, chủ thể chuyển mô hình từ trong óc ra hiện thực khách quan. Đây là qúa trình hiện thực hóa
tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn để biến quan niệm của mình thành dạng vật chất trong
cuộc sống. Ví dụ như con người sẽ xây cầu qua sông, làm đường xuyên núi… theo mô hình thiết
kế đã có ở bước 2 ở trên.

4. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.


– Chỉ khi con người xuất hiện, tiến hành hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan theo
mục đích của mình, ý thức mới xuất hiện. Như thế, ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên
thuần túy, mà bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử – xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.

– Ý thức bị chi phối không chỉ bởi các quy luật tự nhiên, mà chủ yếu bởi các quy luật xã hội. Ở
những thời đại khác nhau, thậm chí trong cùng một thời đại, ý thức về cùng một sự vật, hiện tượng
có thể khác nhau ở các chủ thể khác nhau.

III. Ý nghĩa rút ra từ nội dung nguồn gốc, bản chất của ý thức
Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất của ý thức, ta có thể rút ra
ý nghĩa phương pháp luận sau:

Xuất phát từ thế giới khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Do ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc người, nên trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, ta phải bắt đầu từ thế giới khách quan. Tức là, trước hết ta phải nghiên cứu, tìm tòi
từ các đối tượng vật chất bên ngoài bộ óc để phục vụ nhu cầu tìm kiếm tri thức và cải tạo các đối
tượng vật chất đó.

Ta cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí. Tức là chống lại thói quen dùng quan điểm, suy nghĩ
thiếu cơ sở của mình để gán cho các đối tượng vật chất.

Cần xóa bỏ thói quan liêu, dùng mong muốn chủ quan của cá nhân mình để áp đặt thành chỉ tiêu
cho cơ quan, tổ chức, dù với động cơ trong sáng.

Phát huy tính tự giác, chủ động của con người


Do ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới khách quan, ta cần phát huy hết sức tính
tự giác, chủ động của con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cần kiên quyết chống lại
tư duy giáo điều, cứng nhắc, lý thuyết suông… về sự vật, hiện tượng.

Ta cần phát huy hết sức trí tuệ, sự nhạy bén của con người trong học tập, lao động. Luôn nỗ lực bài
trừ thói quen thụ động, ỷ lại, bình quân chủ nghĩa.

12. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của mối
quan hệ Vật chất và ý thức ?
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Do tồn tại khách quan nên vật chất là cái có trước và mang tính thứ nhất. Ý thức là sự phản ánh lại
của vật chất nên là cái có sau và mang tính thứ hai. Nếu không có vật chất trong tự nhiên và vật
chất trong xã hội thì sẽ không có ý thức nên ý thức là thuộc tính, là sản phẩm cuẩ vật chất, chịu sự
chi phối, quyết định của vật chất. Bên cạnh đó, ý thức có tính sáng tạo, năng động nhưng những
điều này có cơ sở từ vật chất và tuân theo những quy luật của vật chất.
Vật chất quy định nội dung và hình thức biểu hiệu của ý thức. Điều này có ý nghĩa là ý thức mang
những thông tin về đối tượng vật chất cụ thể. Những thông tin này có thể đúng hoặc sai, đủ hoặc
thiếu, sự biểu hiện khác nhau đều do mức độ tác động của vật chất lên bộ óc con người.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác động trở lại cật chất thông
qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức sau khi sinh ra sẽ không bị vật chất gò bó mà có
thể tác động làm thay đổi vật chất.
Vai trò của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối với khách quan. Qua hoạt
động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo hiện thực khách quan theo nhu cầu phát triển
của con người. Và mức độ tác động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, môi
trường… và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
Ý thức không thể thoát ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức được chứng tỏ qua việc nhận
thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của
con người có thể tác động trở lại vật chất. Việc tác động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày
càng phát triển và ngược lại, nếu nhận tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
Ý nghĩa phương pháp luận
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ các hoạt động
quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những đối tượng đó phải thể hiện
những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào hiện thực
khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch mới có thể thành
công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà không nghiên
cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
– Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ động, phát huy
khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con người phải thường xuyên
rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa vào lười suy
nghĩ, lười lao động.

13. Khái niệm Biện chứng, phân biệt giữa biện chứng khách quan và biện chứng
chủ quan ?
Khái niệm biện chứng
Biện chứng là sự liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận dụng, phát triển theo quy luật của các sự vật,
hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
- Biện chứng khách quan: là biện chứng của giới tự nhiên, tồn tại khách quan, vốn có của các sự
vật, hiện tượng (vật chất)
- Biện chứng chủ quan: là tư duy biện chứng, phản ánh biện chứng khách quan (ý thức)

14. Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận ?
1. Nội dung nguyên lý
- Khái niệm mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc, tương hỗ, quy
định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố bộ phận, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các
đối tượng với nhau.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Mối liên hệ chủ yếu mới chỉ chú ý đến sự ràng buộc, tác động
lẫn nhau giữa các đối tượng vật chất – hữu hình, trong khi còn thế giới tinh thần ở đó các đối tượng
không là những sự vật hữu hình mà lại vô hình như các hình thức của tư duy (khái niệm, phán
đoán, suy lý). Vì vậy, khi quan điểm về sự liên hệ được mở rộng sang cho cả giữa các đối tượng
tinh thần và giữa chúng vốn thuộc chủ thể với các đối tượng khách quan thì sẽ có quan niệm về
mối liên hệ phổ biến.
- Khái quát nội dung của nguyên lý mối liên hệ phổ biến: Theo quan điểm biện chứng duy vật,
nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát các mối liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm
nhập, chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Cơ sở sụ tồn
tại đa dạng các mối liên hệ đó là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo đó, các sự vật, hiện
tượng phong phú của thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới vật chất duy
nhất.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm toàn diện: Nhận thức, đánh giá một sự vật phải xem xét các mối liên hệ có ảnh hưởng,
tác động đến sự vật đó, tránh phiến diện, chủ quan dẫn đến sai lầm. Quan điểm này yêu cầu, thứ
nhất, nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các
mặt của bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó. Thứ hai, chủ thể phải
rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng tỏng sự thống
nhất hữu cơ nội tại, bởi có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn tại khách
quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng. Ba là, cần
xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả
các mặt của mối liên hệ trung gian, trong không gian,thời gian xác định, tức cả mối liên hệ của đối
tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. Bốn là, quan điểm toàn diện đối
lập với quan điểm phiến diện, chỉ thấy mặt này mà không thấy mặt khác, hay chú ý đến nhiều mặt
nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên dễ rơi vào thuật ngụy biện
và chủ nghĩa triết chung
- Quan điểm lịch sử cụ thể: Xem xét một sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối quan hệ hiện
thực, môi trường, hoàn cảnh vừa trong quá trình lịch sử, vừa ở từng giai đoạn cụ thể của quá trình
để hiểu đúng bản chất của nó. Tránh quan liêu, giáo điều, phi thực tế dẫn đến kết luận sai trái

15. Nội dung nguyên lý sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận ?
1. Nội dung nguyên lý về sự phát triển
- Phát triển: là quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ tháp đến trình
độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn và từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn
- Quan điểm siêu hình: tuyệt đối hóa mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Phát triển ở đây chỉ là sự
tăng lên hoặc giảm đi về mặt lượng, chỉ là sự tuần hoàn, lặp đi, lặp lại mà không có sự thay đổi về
chất, không có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới.
- Quan điểm biện chứng: coi sự phát triển là sự vận động đi lên, là quá trình tiến lên thông qua
bước nhảy, sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế, nó chỉ ra nguồn
gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng.
2. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí phát triển
- Nguyên tắc phát triển: Muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của đối tượng nghiên
cứu cần phải “xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự vận động… trong sự biến đổi của nó”
tránh tư tưởng bảo thủ trì trệ.
- Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: là “xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động… trong
sự tự biến đổi của nó. Tức là, không chỉ dừng lại ở việc không chỉ dừng lại ở chỗ liệt kê những giai
đoạn phát triển lịch sử mà khách thể nhận thức đã trải qua, mà còn đòi hỏi chủ thể nhận thức phải
vạch ra được tính tất yếu và các quy luật chi phối sự thay thế lẫn nhau của các khách thể nhận thức,
đặc biệt là phải tách ra được “cái cơ bản nhất trong chiều hướng phát triển, hay trong các cái dây
xíc phát triển” của khách thể nhận thức.

16. Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về
lượng và ngược lại, ý nghĩa phương pháp luận ?
1. Phân tích nội dung quy luật từ sự thay đổi về chất dẫn đến sự thay đổi về lượng và ngược
lại.
Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển, khi cho thấy sự thay đổi về
chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích lũy những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất
định. Quy luật cũng cho thấy tính chất của sự vận động phát triển khi cho thấy sự thay đổi về
lượng từ từ kết hợp sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng vừa tiến bước tuần
hoàn vừa có những đột phá vượt bật.
- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó là nó chứ không phải là cái khác
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định vốn có của sự vật về mặt số lượng, qui mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
- Độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, độ là giới hạn mà trong đó sự thay
đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ấy. Trong độ, sự vật vẫn còn
là nó chứ chưa biến thành cái khác. Tại điểm giới hạn mà sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi
về chất của sự vật được gọi là điểm nút.
- Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm
thay đổi về chất của sự vật. Quá trình biến đổi về chất của sự vật được gọi là bước nhảy.
- Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên.
- Khái quát nội dung nguyên lí: quan hệ lượng chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về
lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại, chết là mặt tương đối ổn định, lượng là
mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành với
lượng mới. Lượng mới tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Tóm
lại, mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần
dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của nó thông qua
bước nhảu, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sụ thay đổi của lượng.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để có biến
đổi về chất. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ nhưng sự thay đổi về chất do thực
hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là điểm nút, đến độ nên
muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích lũy về lượng. Không được nôn nóng vì sẽ
dẫn đến chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng và cho rằng sự phát triển của sụ vật,
hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục
- Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự vận
động của sự vật, hiện tượng. Không được bảo thù vì sẽ dẫn đến chỗ không dám thực hiện bước
nhảy, coi sự phát triển chỉ là những thay đổi về lượng.
- Thứ ba, sự tác động của quy luật đòi hỏi có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm thực hiện
bước nhảy. Nói cách khác, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp
điệu bước nhảy một cách khác quan mà phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã
chin mùi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép.
- Thứ tư, quy luật này yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất lượng còn phụ thuộc vào
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, phải biết lựa chọn
phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật
của chúng.

17. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập, ý
nghĩa phương pháp luận ?
1. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập đây chính là hạt nhân của phép biện chứng bởi nó
đề cập đến nguyên nhân, động lực của sự vận động và phát triển
- Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt tồn tại trong sự vật có mang những đặc điểm,
tính chất biến đối theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự tồn tại của các mặt đối lập trong sự vật
là khách quan và phổ biến. Bất kỳ sự vật nào cũng có hai hoặc nhiều mặt đối lập; và cứ hai mặt đối
lập có liên hệ, tác động lẫn nhau thì tạo thành một mâu thuẫn biện chứng.
- Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm triết học dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa
thống nhất, vừa đấu tranh, vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Yếu tộ tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính,… có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật hiện
tượng.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là khái niệm để chỉ sự liên hệ giữa các mặt đối lập, thứ nhất,
các mặt đối lập nương tựa lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt thì sẽ không có mặt
kia. Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái
mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn. Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng
nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng
trong một mâu thuẫn
- Khái quát quy luật: Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mẫu thuẫn giữa
các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của
sự vận động và phát triển. Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt những khuynh hướng, lực
lượng,… đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn của chính nó, sự thống nhất đấu tranh của các
mặt đối lập là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động phát triển, làm cho cái cũ mất đi
và cái mới ra đời
2. Ý nghĩa phương pháp luận
- Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng, từ đó giải quyết
mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra
thể thống nhất của các mặt dối lập trong sự vật, hiện tượng. Từ đó, tìm ra hướng giải quyết đúng
cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Thứ hai, phân tích mẫu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình biến đổi quá trình phát sinh,
phát triển của từng loại mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn cụ thể
và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn của nó.
- Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng dấu tranh giữa các mặt dối lập,
không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ
thuộc vào điều kiện đã đủ và chin muồi hay chưa.

18. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định, ý nghĩa phương pháp
luận ?

Vị trí của quy luật


Đây là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biên chứng duy vật, nó phản ảnh về khuynh hướng
chung của sự động phát triển và tiến lên thông qua 1 chu kì phủ dịnh biện chứng thì sư vật hiện
tượng mới sẽ ra đời thay thế cho sự vật hiện tượng cũ nhưng ở trình độ cao hơn cái cũ
Khải niệm phủ đính, phủ định biện chứng
Phủ định là sự thay thế bằng sự vật khác trong quả trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của quả trình
dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sư vật cũ.
Mọi quá trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiến, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua
những sự thay thế, trong đó có sư thay thế chấm đứt sự phát trên, nhưng cũng có sự thay thế tạo ra
điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề
cho qúa trình phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng
Tinh chất của phủ định
Tĩnh khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tương, nó là quá trình đấu tranh, giải
quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời cái mới thay thế cái cũ, nhờ
đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật
Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cái mới hình thành và phát triển tự thân
thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực
Nội dung quy luật Phủ định của phủ định

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân
sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong
bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Su phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái phủ định,
phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái mới nhất hiện sau
cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi phủ định cái bị phủ định,
cái phủ định lai tiếp tục biến đổi và tạo ra chu kỳ phủ định lần thứ hai). Sự phủ định lần thứ hai
được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ
nhất. Nó dường như lập lại cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích
cực hơn.
VD Hạt thóc-Cây mạ-Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (dây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây hoa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà là nhiều hạt)
Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trong nhất của sự phát triển
biên chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tổ tích cực
đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy,
sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú
hon, có cái khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm
khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để
phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát
triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc",
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thi rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện
chứng của sự vật tính kế thừa, tính lắp lại, tínhh tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như
thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự
phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường
"xoáy ốc".
Ý nghĩa của phương pháp luận
Qua trình phủ định mang tính đi lên, vì vây trong hoạt động thực tiến cần phải có bềm tin vào xu
hướng của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước trong sự thay thế đó có sự tác động của các nhân
tố chủ quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính năng động sáng
tạo, phát hiện những cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiến cần phải kể thừa những yếu tố tích
cực. Kế thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo thủ.
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề
phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương
lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã
có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tế đất nước, đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trần
trong cái cũ. Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trưng tiến
bộ của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát trển nền kinh tế thi trường trên cơ sở đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20 năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôm nay, trong hoat động của chúng ta, cả hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật một cách đầy
đủ sâu sắc, năng động sáng tao, phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng
ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lượng và hiệu quả cao.

19. Phân tích nội dung Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn ?
Thực tiễn là gì?
Thực tiến là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần của con
người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những giai đoạn lịch
sử nhất định.

Đặc điểm cơ bản của hoạt động thực tiễn


– Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người:
+ Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nói vậy tức là chỉ có con người mới có
hoạt động thực tiễn.
Con vật không có hoạt động thực tiễn. Chúng chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một
cách thụ động với thế giới bên ngoài.
Ngược lại, con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu
của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và làm chủ thế giới.
+ Con người không thể thỏa mãn với những gì có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tiến hành lao
động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động hiệu quả, con người phải chế tạo
và sử dụng công cụ lao động.
Như thế, bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo ra những vật phẩm
vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người
không thể tồn tại và phát triển được.
Do đó, có thể phát biểu rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là
phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
– Thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử – xã hội:
Thực tiễn luôn là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người mặc dù trình độ và các
hình thức hoạt động thực tiễn có những thay đổi qua các giai đoạn lịch sử. Hoạt động đó chỉ có thể
được tiến hành trong các quan hệ xã hội.
Thực tiễn có quá trình vận động và phát triển của nó. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình
độ chinh phục tự nhiên và làm chủ xã hội của con người.
Như vậy, về mặt nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử – xã hội
Phân loại hoạt động thực tiễn:
Hoạt động thực tiễn gồm những dạng cơ bản sau:
* Hoạt động sản xuất vật chất:
Ví dụ về hoạt động sản xuất vật chất ta có thể thấy ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, như trồng lúa,
trồng khoai, dệt vải, sản xuất giày dép, ô tô, xe máy… Đây là dạng hoạt động thực tiễn nguyên
thủy nhất và cơ bản nhất vì:
– Hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
– Đồng thời, dạng hoạt động này quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, là cơ sở của tất
cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại
của động vật.
* Hoạt động chính trị – xã hội:
Dạng hoạt động này nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, chế độ xã hội.
Ví dụ về hoạt động chính trị – xã hội là:
+ Đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội.
+ Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
+ Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa.
* Hoạt động thực nghiệm khoa học
Dạng hoạt động này ra đời cùng với sự xuất hiện của các ngành khoa học. Trong thời kỳ cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 hiện nay (cách mạng 4.0), hoạt động thực nghiệm khoa học ngày càng
trở nên quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.

20. Vai trò của thực tiễn với nhận thức ?

Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý,
kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.

Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức, khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất
yếu khách quan là phải giải thích thế giới và cải tạo thế giới nên con người tất yếu phải tác động
vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật,
hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại
những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động và
phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành nên các lý thuyết khoa học. Chẳng hạn, xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn của con người cần phải đo đạc diện tích và đong lường sức chứa của những
cái bình, từ sự tính toán thời gian và sự chế tạo cơ khí mà toán học đã ra đời và phát triển. Hoặc sự
xuất hiện học thuyết mác xít ở những năm 40 của thế kỷ XIX cũng bắt nguồn từ hoạt động thực
tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
Ngay cả những thành tựu khoa học mới đây, nhất là khám phá và giải mã bản đồ gien người cũng
ra đời từ chính hoạt động thực tiễn, từ nhu cầu đòi hỏi phải chữa trị những căn bệnh nan y và từ
nhu cầu tìm hiểu, khai thác những tiềm năng bí ẩn của con người... Có thể nói, suy cho cùng không
có một lĩnh vực tri thức nào mà lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc phục vụ,
hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời
cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của minh. Cùng vĩ thế, chủ thể nhận
thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới nếu nó xa rời thực tiễn.

Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà
các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được
củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác
quan của con người trong việc nhận thức thế giới.

Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà còn đóng vai trò là tiêu
chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức. Điều này có nghĩa thực tiễn là
thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời, thực tiễn không ngừng
bổ sung, điều chỉnh, sữa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã từng khẳng định:
"Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn
không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý".

Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định
đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới
để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã cho rằng
"Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức".

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực
tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy
ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại,nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào
chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và
lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không
có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì chỉ là lý luận suông. Ngược
lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất định sẽ biến thành thực
tiễn mù quáng.

21. Trình bày nội dung Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất ?
Sản xuất là một loại hình hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm: sản
xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con nguời. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển
xã hội. Theo Ph.Ăngghen, "Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật là ở
chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người lại sản xuất". Như vậy, sản xuất vật chất là
một trong những loại hoạt động đặc trưng của con người - đó cũng chính là một loại hình hoạt
động thực tiễn với mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại, phát
triển của con người và xã hội. Với nghĩa như vậy, sản xuất vật chất là một loại hoạt động có tính
khách quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.

Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích nhất định và được
tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó chính là phương thức sản xuất.
Vậy, khái niệm phương thức sản xuất dùng để chỉ những cách thức mà con người sử dụng để tiến
hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của nó với những đặc
điểm riêng. Phương thức sản xuất của xã hội nguyên thủy có đặc trưng là cách thức kỷ thuật đánh
bắt tự nhiên ở trình độ hết sức thô sơ, còn phương thức sản xuất trong xã hội hiện đại lại có đặc
trưng ở trình độ kỹ xảo công nghiệp và công nghệ cao.

Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế. Hai phương diện
đó gắn bó chặt chẽ với nhau. Phương diện kỹ thuật của phương thức sản xuất chỉ ra quá trình sản
xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ nảo để làm biến đổi các đối tượng của quá
trình sản xuất. Phương diện kinh tế của phương thức sản xuất chỉ ra quá trình sản xuất được tiến
hành với những cách thức tổ chức kinh tế cao. Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương
thức kỹ thuật chủ yếu của quá trình sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và
khép kín về phương diện kinh tế. Ngược lại, trong các xã hội hiện đại, quá trình sản xuất lại được
tiến hành với phương thức kỹ thuật công nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường với những quy mô
ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc vào nhau giữa
các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội

22. Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản
xuất ?

Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp thành của phương
thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan hệ sản xuất lên quá xa so với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một hiện tượng tương đối phổ biến ở
nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy
ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội thuần nhất bất chấp qui luật khách quan. Về mặt phương
pháp luận, đó là chủ nghĩa duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của
quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà
nước chuyên chính vô sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất”.

Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự chủ quan tuỳ
tiệ, con người không thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản xuất mà mình muốn có.
Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị qui định một cách nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực
lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hoàn
thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất.

+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực lượng sản xuất là
cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn giảm nhẹ lao động nặng nhọc
tạo ra năng suất cao phải luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới.
Lực lượng lao động qui định sự hình thành và biến đổi quan hệ sản xuất ki quan hệ sản xuất không
thích ứng với trình độ, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực
lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.

+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất khi đã
được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành những cơ sở và những
thể chế xã hội và nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lượng sản xuất. Thường lạc hậu so
với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực
lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó qui
định mục đích của sản xuất qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định
phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh
hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn
chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân
công lao động quốc tế.

23. Tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội ?
Khải niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã hội, là các quan
hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ
giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ
bản nhất.
* Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của XH và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của nó. Đây là hình thức biểu hiện của vật chất trong lĩnh vực XH, bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất.
+ Môi trường tự nhiên
+ Điều kiện dân số * Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, những tâm tư, tình
cảm, những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng thú… của XH phản ánh lại tồn tại XH
ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

Các yếu tố cơ bản của tằn tại xã hội


Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, V.V., trong đó phương thức sản xuất vật chất là
yếu tố cơ bản nhất.
Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định cả
nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội có thể được các hình thái ý
thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau theo những cách thức khác nhau. Tuy
nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức này cũng sẽ tác động, ảnh hường ngược trở lại tồn tại xã
hội. Đỏ chính là tính độc lập tương đổi của ý thức xã hội.

24. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội

2.1. Khái niệm ỷ thức xã hội


Cùng với phạm trù tồn tại xã hôi, phạm ưù ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
được vận dụng đề giải quyết vấn đề cơ bàn của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội chính
là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội cùa mình và về hiện thực xung quanh mình.
Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn
hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hinh thái
kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
– Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã hội XH bao gồm 2 cấp độ
cơ bản:

+ Ý thức xã hội thông thường


+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn) Trong hai cấp độ
trên, thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là tâm lý XH và hệ tư tưởng.

+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm những tâm tư tình cảm,
những tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán… của XH phản ánh trực tiếp những điều
kiện sinh hoạt vật chất hàng ngày của XH, đây là bộ phận có tính bền vững và bảo thủ cao.

+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan điểm tư tưởng đã được hệ
thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh những lợi ích cơ bản và địa vị của một giai cấp
nhất định.

– Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm các hình thái ý thức xã hội
khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ,
triết học, khoa học…

2.2. Kết cầu của ỷ thức xã hội


Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư tưởng xã hội thì quan
trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong tâm lý xã hội có tinh cảm, tâm
trạng, truyền thống, v.v. nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn
phát triển nhất định. Tuy nhiên, sự phản ánh này không phải là sự phàn ánh thụ động, bất động,
trong gương mà là một quá trình biện chứng phức tạp, là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích
cực của con người đối với hiện thực.
Ý thức xã hội mặc dù có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với ý thức cá nhân, cùng phản ánh tồn tại
xã hội, song giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân vẫn có sự khác nhau tương đối vì chúng thuộc
hai trình độ khác nhau.
Ý thức cá nhân chính là thế giới tinh thần của các cá nhân riêng lẻ và cụ thề. Ý thức của các cá
nhân khác nhau được quy định bởi những đặc điểm của cuộc sống riêng, của việc giáo dục và điều
kiện hình thành nhân cách riêng của cá nhân. Dù ít dù nhiều, ý thức của các cá nhân khác nhau đều
phản ánh tồn tại xã hội ở các mức độ khác nhau, song không phải bao giờ nó cũng đại diện cho
quan điểm chung, phổ biến của một cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay của một thời
đại xã hội nhất định nào đó.
về mặt hình thức thì Ý thức xã hội phản ánh tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Sự đa dạng
các hình thái ý thức xã hội là do tính nhiều mặt, nhiều vẻ và đa dạng của đời sống xã hội quy định;
chúng phản ánh xã hội theo những cách thức khác nhau. Tùy thuộc vào góc độ xem xét, người ta
thường chia ý thức xã hội thành ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận, tâm lý xã hội
và hệ tư tưởng xã hội.
Ý thức xã hội thông thường hay ý thức thường ngày là những tri thức, những quan niệm cùa
con người hình thành một cách trực tiếp trong các hoạt động trực tiếp hàng ngày nhưng chưa được
hệ thống hóa, chưa được tổng hợp và khái quát hóa.
Ỷ thức lý luận hay ỷ thức khoa học là những tư tưởng, những quan điểm được tổng hợp, được
hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội dưới dạng các khái niệm, các phạn trù
và các quy luật.
Ý thức xã hội thông thường phản ánh một cách sinh động và trực tiếp các mặt khác nhau của
cuộc sống hằng ngày của con người. Ý thức xã hội thông thường tuy ở trình độ thấp hom ý thức lý
luận nhưng lại phong phú hơn ý thức lý luận. Chính những tri thức kinh nghiệm phong phú của ý
thức thông thường là chất liệu, là cơ sở và tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận.
Ý thức lý luận hay là ý thức khoa học có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách
sâu sắc, chính xác, bao quát và vạch ra được những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang
tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội. Đồng thời, ý thức khoa học có khả năng phản
ánh vượt trước hiện thực.
Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện trong ý thức cá nhân. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tư
tường, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, v.v. của
một người, một tập đoàn người, một bộ phận xã hội hay của toàn :hể xã hội hình thành dưới tác
động trực tiếp của cuộc sống hằng ngày của họ và phản ánh cuộc sống đó.
Tâm lý xã hội cũng phàn ánh một cách trực tiếp và tự phát những điều kiện sinh hoạt hằng
ngày của con người cho nên nó chỉ ghi lại những gì dễ thấy, những gì nằm trên bề mặt của tồn tại
xã hội. Do vậy, khác với ý thức lý luận, tâm lý xã hội chưa đủ khả năng để vạch ra những mối liên
hệ khách quan, bản chất, tất yếu mang tính quy luật của các sự vật và các quá trình xã hội. Mặc dù
vậy, cần coi trọng vai trò của tâm lý xã hội trong việc phát triển ý thức xã hội, nhất là việc sớm
nắm bắt những dư luận xã hội thề hiện trạng thái tâm lý và nhu cầu xã hội đa dạng của nhân dân
trong những hoàn cảnh và điều kiện khác nhau.
Hệ tư tưởng là giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, là sự nhận thức lý luận về tồn tại
xã hội. Hệ tư tưởng có khả năng đi sầu vào bản chất của mọi mối quan hệ xã hội; là kết quả của sự
tồng kết, sự khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội để hình thành nên những quan điểm, những tư
tưởng về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, V.V..
Trong lịch sử nhân loại đã và đang tồn tại cả hệ tư tường khoa học và hệ tư tưởng không khoa
học. Nếu hệ tư tưởng không khoa học phản ánh các quan hệ vật chất một cách hư ảo, sai lầm hoặc
xuyên tạc thì ngược lại, hệ tư tưởng khoa học phản ánh các quan hệ, các quá trình và hiện tượng xã
hội một cách
khách quan, chính xác. Cà hai loại hệ tư tưởng này đếu có ảnh hưởng đối với sự phát triển của
khoa học. Chẳng hạn, hệ tư tưởng không khoa học, nhất là triết học, đã từng kìm hãm sự phát triển
cùa khoa học tự nhiên suốt hàng chục thế kỷ thời Trung cồ ở châu Âu.
Mặc dù tâm lý xã hội và hệ tư tường thuộc hai trình độ khác nhau của ý thức xã hội nhưng
chúng có mối liên hệ qua lại và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc
cản trở sự hình thành và sự tiếp nhận một hệ tư tường nào dó; có thế giảm bớt sự xơ cứng hoặc
công thức cứng nhắc của hệ tư tưởng, thì trái lại, hệ tư tưởng khoa học có thể bồ sung, làm gia tăng
hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp phần thúc đầy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng
tích cực.

25. Nội dung quan điểm Con người và bản chất con người theo triết học Mác -
Lênin.

 Nội dung quan điểm Con người theo triết học ML:

+ Con người là thực thể sinh học - xã hội

Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự
nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh
và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự
nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã
quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con
vật”. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước
uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng không
được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là
cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Khi xem xét
con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh
học và xã hội của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện
kia.

Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của giới tự nhiên.
“Giới tự nhiên...là thân thể vô cơ của con người,... đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn
liền với giới tự nhiên”[2], về phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy
luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các quá trình sinh
học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại
có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính
là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác, về mặt thể
xác, con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo
quần, nhà ở, v.v...[3]. Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên
có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của
con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hòa hợp với giới
tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận
rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững
hiện nay.

Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng nhất
của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát
khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”[4]. Nếu con vật phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của
tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự
nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con
người về mặt sinh học có thể ữở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”,
có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người,
làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết, cần
thiết và chủ yếu quyết định sự hỉnh thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học
lẫn phương diện xã hội.

Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà còn có hàng loạt
các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện
những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con
người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật, Hoạt
động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ cho con người mà còn cho
xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó.
Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có
thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội
mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi
trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một
thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã
hội loài người.

* Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Phoiơbắc đã xem xét con
người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ, xem xét con người chỉ như
là đối tượng cảm tính, trừu tượng, không có hoạt động thực tiễn. Phoiơbắc đã không nhìn thấy
những quan hệ hiện thực, sống động giữa người với người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong
sản xuất. Do vậy, ông đã tuyệt đối hóa tình yêu giữa người với người. Hơn thế nữa, đó cũng không
phải lả tình yêu hiện thực mà là tình yêu đã được ông lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm
của Phoiơbắc và của các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch
sử tư tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con
người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã
hội loài người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của các ông là những con
người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình, làm cho họ
trở thành những con người như đang tồn tại. cần lưu ý rằng con người là sản phẩm cùa lịch sử và
của bản thân con người, nhưng con người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình
thay đổi, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.

* Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử

Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể
của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con người. Con người và
động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của
động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái
hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà chúng
có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải
do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này
bao nhiêu, thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu”[5]. Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân
chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao
động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã
hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đàu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản
chât của con người, nhưng con người không thê sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình,
mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới.
Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để
lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch
sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy.
Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn
là sản phẩm của lịch sử.

Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác định. Đó là toàn bộ
điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp
đến đời sống của con người và xã hội. Đó là những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối
với sự tồn tại và phát triển của con người. Một mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để
tồn tại và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và
sử dụng các nguôn lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình.
Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên,
tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học,
tâm sinh lý khác nhau, về phương diện sinh thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có cấu
trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và thích nghi khá
nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của môi trường. Nó vừa tiếp nhận,
thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng
và biến đổi chính mình.

Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở
thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của môi
trường trong đó có môi trường xã hội. Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người
có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Trong thực chất thì
môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những đặc thù của nó. So với môi trường
tự nhiên môi trường xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến con người, sự tác động của
môi trường tự nhiên đến từng cả nhân con người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá nhân con người
thường xuyên phải có quan hệ với môi trường tự nhiên và tồn tại trong mối quan hệ tác động qua
lại, chi phối và quy định lẫn nhau.

Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học – công nghệ, nhiều loại môi trường
khác đã và đang được phát hiện. Đó là những mọi trường, như môi trường thông tin, kiến thức, môi
trường từ tính, môi trưởng điện, môi trường hấp dẫn, môi trường sinh học, v.v.. Nhưng cần lưu ý
rằng, có những môi trường trong số đó mới được phát hiện và đang được nghiên cứu, nên còn có
nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau, thậm chí đôi lập nhau. Môi trường sinh học, môi trường cận
tâm lý, môi trường tương tác yếu, đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi
trường như vậy. Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những
ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là thuộc về môi trường tự nhiên, hoặc là thuộc về
môi trường xã hội. Tính chất, phạm vỉ, vai trò và tác động của chúng đến con người là khác nhau,
không giống hoàn toàn như môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chúng là nhũng hiện tượng,
quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và
xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.

 Bản chất của con người theo triết học ML:


 Bản chất con ngưòi là tổng hòa các quan hệ xã hội

Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ
với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa
các quan hệ xã hội”[6]. Bản chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con
người hiện thực, cụ thể trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất
của con người, nhung không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mả
lâ sự tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại, không
tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật
chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện
tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh tế, V.V.. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành
lên bản chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản
chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có
thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất
người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chỉ
phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người không còn
thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã
hội”[7]. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.

You might also like